intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghề trồng trọt và chăn nuôi truyền thống của người Hàn

Chia sẻ: Roong Kloi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

81
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết trình bày về đời sống sinh hoạt của người Hàn trong lĩnh vực trồng trọt, trong lĩnh vực chăn nuôi, tìm hiểu nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của Hàn Quốc để đi sâu phân tích một cách chi tiết về nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của dân tộc Hàn và đối sánh nền kinh tế này với dân tộc Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghề trồng trọt và chăn nuôi truyền thống của người Hàn

NGHỀ TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI<br /> TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI HÀN<br /> Đăng ngày: 1-10-2014, 04:19 | Danh mục: Bài viết Tạp chí » Năm 2009 » So 9<br /> Một trong những điểm chung nổi bật dễ nhận thấy trong lĩnh vực văn hóa đảm bảo đời sống giữa<br /> hai dân tộc Hàn và Việt chính là điểm xuất phát từ nền kinh tế “dĩ nông vi bản”. Trong quá trình<br /> tìm hiểu nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của hai dân tộc, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh<br /> những điểm tương đồng, có cả những điểm dị biệt liên quan tới lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi.<br /> Cho nên, để giới thiệu về ngành nông nghiệp truyền thống của hai dân tộc Hàn và Việt, chúng tôi<br /> bước đầu đã đặt nó trong sự đối sánh giữa hai dân tộc để tìm ra những điểm giống và khác nhau<br /> trong lĩnh vực nói trên, với hy vọng qua đó sẽ góp phần tăng cường mối quan hệ hiểu biết lẫn<br /> nhau giữa hai dân tộc và thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước Việt<br /> Nam và Hàn Quốc.<br /> So với các lĩnh vực khác, cho tới nay, nền kinh tế nông nghiệp truyền thống ở người Hàn vẫn<br /> chưa thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của giới nghiên cứu Việt Nam. Điểm qua một số công<br /> trình bài viết đã công bố như Nguyễn Bá Thành (1996), “Tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn<br /> Quốc”; Nguyễn Long Châu (2000), “Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc”; Mai Ngọc Chừ (2002), “Vài<br /> nét về sự tương đồng các yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam – Hàn Quốc” trong Những vấn<br /> đề Văn hóa, Xã hội và Ngôn ngữ Hàn Quốc,… cho tới nay, vẫn chưa có một nhà nghiên cứu nào<br /> đi sâu phân tích một cách chi tiết về nền kinh tế nông nghiệp truyền thống của dân tộc Hàn và<br /> đối sánh nền kinh tế này với dân tộc Việt. Song, các công trình nghiên cứu trên chính là nguồn<br /> tài liệu tham khảo quý báu để chúng tôi thực hiện vấn đề nêu trên.<br /> 1. Trong lĩnh vực trồng trọt<br /> Ở Hàn Quốc, vào thời kỳ nước Triều Tiên cổ, với việc sử dụng đồ sắt đã tạo ra vô số thay đổi<br /> trong đời sống sinh hoạt của người Hàn. Trước tiên, trong lĩnh vực nông nghiệp đã có sự phát<br /> triển một cách rõ rệt.<br /> Điều này được khẳng định từ sự xuất hiện về các nông cụ như lưỡi cày và lưỡi hái. Hầu hết, các<br /> cánh đồng đã được chuẩn bị trồng cấy bằng các nông cụ như cái cày gỗ cầm tay và cái bừa sắt.<br /> Theo phương thức này, sản lượng lương thực gia tăng đáng kể so với đồ đồng. Cho đến thời kỳ<br /> thành lập của những vương quốc liên minh Puyõ, Koguryo và Chin, nông nghiệp là nguồn cung<br /> cấp lương thực chính yếu của người Hàn. Điều này được thể hiện qua sự việc các đời vua Puyõ<br /> phải chịu trách nhiệm về mùa màng thất bát, hậu quả xảy ra là họ có thể phải thoái vị, hoặc bị<br /> giết. Cũng trong thời kỳ này, việc trồng lúa nước ở các thung lũng đã trở nên phổ biến ở các nhà<br /> nước Shamhan (Tam Hàn) và người ta tin rằng, các hồ chứa nước dẫn thủy nhập điền cũng được<br /> xây dựng trong thời gian này. Ngoài việc trồng lúa, người Hàn còn trồng các loại ngũ cốc ở đồng<br /> khô.<br /> Tương ứng với giai đoạn này của Hàn Quốc, ở Việt Nam vào thời đại Hùng Vương nghề trồng<br /> lúa nước cũng đã từng bước trở thành một nghề chính và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,<br /> <br /> tạo ra nền “văn minh lúa nước”, hay “nền văn minh sông Hồng”. Với những nông cụ bằng sắt,<br /> ngành nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển thêm một bước. Khi đã thuần dưỡng được cây<br /> lúa và đưa nghề trồng lúa lên vị trí trội hơn trồng rau củ cũng là lúc cư dân Việt chuyển sang một<br /> hệ sinh thái chuyên biệt mang tính nhân văn trên cái nền của hệ sinh thái phổ quát và nghề trồng<br /> vườn. Do đó, khắp nơi trên đất Việt hình thành một phức thể canh tác: ruộng/rẫy, ruộng/nương,<br /> ruộng/vườn,… trong nghề trồng lúa. Từ cuộc cách mạng đá mới đến những phát minh ra hợp<br /> kim đồng thau chính là bước nhảy vọt về kỹ thuật nhằm đáp ứng những nhu cầu nông nghiệp.<br /> Việc dùng trâu, bò để kéo cày, bừa đất đã nâng cao được hiệu quả làm đất, do vậy cũng đã loại<br /> trừ dần phương pháp “hỏa canh”.<br /> Người Việt đã biết dùng phân để tăng thêm độ phì nhiêu của đất, nên nông nghiệp lúa nước cũng<br /> có điều kiện để chuyển hướng sang thâm canh tăng vụ. Người Việt đã biết trồng lúa hai mùa.<br /> Lúa hai mùa được gọi là “lúa Giao Chỉ”. Việc trồng lúa hai mùa trong thời kỳ này đã khẳng định<br /> người Việt là một trong những dân tộc trồng lúa hai mùa sớm nhất. Theo kết quả nghiên cứu về<br /> nguồn gốc cây lúa dựa trên các vỏ trấu được bảo lưu trong đồ gốm, Giáo sư Nhật Bản Watabe<br /> Tadayo kết luận rằng, ở Đông Nam Á tiền sử có hai trung tâm lúa là Vân Nam (Trung Quốc) và<br /> Assam (Ấn Độ), sau đó nó được di chuyển theo hai hướng và dần dần thích nghi với môi trường<br /> xuống đồng bằng vùng ngập nước ta mới có cây lúa nước với phương thức gieo mạ rồi cấy; lên<br /> vùng khô có cây lúa cạn với phương thức gieo thẳng. Lúa là một loại cây trồng ưa nước, do đó<br /> hình thức trồng lúa nước có thể có trước, còn việc đưa cây lúa cạn lên vùng cao là có sau. Bởi vì,<br /> để thuần dưỡng cây lúa nước trở thành cây lúa cạn phải mất một thời gian thuần hóa lâu dài.<br /> Người ta cho rằng, có ba loại lúa: Indica, Joponica và Javanica và được phân bố như sau: Indica<br /> có mặt ở hầu khắp các vùng trồng lúa, có tuổi xưa nhất, Japonica chủ yếu ở Bắc và Đông Á, còn<br /> Javanica và các biến thể của nó có quan hệ chặt chẽ về mặt sinh học với các giống lúa nương, là<br /> chủng trẻ nhất có vai trò quan trọng ở vùng hải đảo, kể cả Madagasca. Quá trình hội tụ văn hóa<br /> được đẩy mạnh mở đầu rất sớm cho sự hình thành các dân tộc, các quốc gia trên cơ tầng một xã<br /> hội truyền thống kiểu tổ chức mường của người Thái, mà cơ sở là các gia đình hạt nhân được tập<br /> hợp lại thành những tế bào làng, bản do một đẳng cấp quân sự cầm đầu nhà nước, tạo thành bộ<br /> máy chính trị, vận hành trong một phương thức sản xuất mà C.Mác đã gọi là “phương thức sản<br /> xuất Châu Á”[[1]].<br /> Từ những điều đã dẫn ở trên, chúng tôi đưa ra những điểm tương đồng và khác biệt dưới đây<br /> trong ngành trồng trọt ở hai dân tộc Hàn và Việt.<br /> Điểm chung dễ nhận thấy trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống Hàn, Việt chính là nông<br /> nghiệp trồng lúa. Trồng lúa đóng vai trò chủ đạo trong kết cấu kinh tế của người Hàn và người<br /> Việt. Nông nghiệp trồng lúa nước phát triển đòi hỏi thực hiện công tác thủy lợi, đắp đê phòng<br /> lụt, chống hạn. Nếu như người Hàn có hệ thống các hồ chứa nước phục vụ cho sản xuất nông<br /> nghiệp, ở người Việt cũng có hệ thống thủy lợi như kênh, mương,… phục vụ cho việc tưới và<br /> tiêu nước. Bởi vì, việc trồng lúa nước đối với người Việt và người Hàn có tầm quan trọng số<br /> một, song họ lại phải thường xuyên đối phó với hai tình trạng thiếu và thừa nước. Vì vậy, những<br /> biện pháp thủy lợi như be bờ, đắp đập, khơi mương, tát nước, tạo hồ chứa nước,… đã ra đời. Dù<br /> các hình thức thủy lợi của hai dân tộc Việt và Hàn có đa dạng đến đâu, “mẫu số chung” vẫn là<br /> dựa trên nguyên tắc dùng nước mưa trên mặt sông, suối, ao hồ. Việc dùng nước tưới từ sông,<br /> suối, ao hồ, kênh của người Hàn và người Việt hoàn toàn khác với hình thức tưới nước ngầm lấy<br /> từ dưới giếng lên của người Hán để phục vụ cho nông nghiệp khô vùng Trung Nguyên.<br /> <br /> Điểm tương đồng có thể nhận thấy trong nông nghiệp truyền thống Hàn và Việt là đều gắn với<br /> nền kinh tế tiểu nông, mà gia đình là chủ thể. Các gia đình riêng lẻ đảm đương việc sản xuất và<br /> tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở lao động gia đình hơn là chế độ nông nghiệp, nông trang như chế độ<br /> nông nô, hay đồn điền quy mô lớn ở phương Tây. Họ sinh hoạt ở làng xóm với quy mô tương tự<br /> nhau và tự túc toàn bộ nhu yếu phẩm sinh hoạt thường ngày.<br /> Bên cạnh đó, người Việt và người Hàn luôn sống trong sự lệ thuộc vào tự nhiên, nên trước thiên<br /> nhiên bao la và sức mạnh huyền bí, con người nhỏ bé run sợ, thần thánh hóa các lực lượng siêu<br /> nhiên, chỉ biết cầu khẩn nhờ trời, nói theo kiểu người Việt: “Ơn trời mưa nắng phải thì”, “Người<br /> ta đi cấy lấy công. Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời, trông đất, trông mây. Trông<br /> mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm. Trời yên biển lặng mới<br /> yên tấm lòng”. Ở người Hàn, với bằng chứng về tầm quan trọng của nông nghiệp là các lễ hội<br /> nhằm cầu xin mùa màng phong nhiêu sau khi gieo mạ vào tháng Năm và lễ mừng được mùa diễn<br /> ra vào tháng Mười. Ngoài ra, trong khâu trồng lúa nước của người Hàn và người Việt đều giống<br /> nhau ở những công đoạn như gieo mạ, nhổ mạ, cấy và làm cỏ lúa,…<br /> Còn một điều trùng hợp nữa trong nông nghiệp Hàn Quốc và Việt Nam là ngoài trồng lúa và hệ<br /> thống cây trồng phụ, cư dân Việt và Hàn còn phát hiện một hệ thống cây dược liệu rất phong phú<br /> và quý giá để phòng bệnh và chữa bệnh. Hàng ngàn năm trôi qua, con người ở hai nước thuộc<br /> “nền văn minh thảo mộc” đã tìm ra một kho tàng cây thuốc, những bài thuốc gia truyền, cách chế<br /> biến, phương pháp điều trị phù hợp với con người và tự nhiên ở hai nước Việt Nam và Hàn<br /> Quốc. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc cây sâm được trồng tại khu vực Kaesõng nhằm mục đích xuất<br /> khẩu. Ở người Việt cũng có rất nhiều cây thuốc quý có giá trị như tam thất. Ngoài ra người Việt<br /> và người Hàn đều trồng cây thuốc lá và trồng bông để dệt vải. Tại Hàn Quốc, cây thuốc lá được<br /> trồng vào khoảng thế kỷ XVII, sau đó cũng được gieo trồng rộng khắp và được xuất khẩu sang<br /> Trung Quốc. Theo người Hàn, lợi nhuận từ cây thuốc lá nhiều hơn từ lúa gạo, vì thế người Hàn<br /> đã giành một phần đất đai màu mỡ nhất dành để trồng cây thuốc lá. Đối với người Hàn và người<br /> Việt, việc trồng bông không chỉ để dùng trong gia đình, mà còn dùng để xuất khẩu.<br /> Bên cạnh những điểm giống nhau trong lĩnh vực trồng trọt của người Việt và người Hàn vẫn có<br /> những điểm khác nhau - ngay từ thời Bắc thuộc, ở những vùng thấp, do chưa có máy móc để cày<br /> ruộng, người Việt đã biết dùng sức kéo của trâu bò thay cho sức kéo của con người, với phương<br /> thức: “con trâu đi trước cái cày đi sau”. Nhờ việc sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông<br /> nghiệp đã kéo theo diện tích trồng trọt được mở rộng dần. Ở Việt Nam, các vua nhà Lý rất quan<br /> tâm đến việc bảo vệ trâu, bò. Dưới thời Lý, tội trộm cắp trâu, bò bị trừng trị rất nặng. Tháng Hai<br /> năm 1117, vua định rõ lệnh cấm giết trộm trâu. Hoàng Thái hậu nói: “gần đây ở kinh thành,<br /> hương ấp có nhiều người trốn tránh, lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trăm họ cùng quẫn,<br /> mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây ta đã từng nói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh<br /> cấm. Nay giết trâu lại càng nhiều hơn trước. Bấy giờ vua xuống chiếu, kẻ nào mổ trộm trâu thì<br /> phạt 80 trượng, đồ làm tang thất phụ và bồi thường trâu, láng giềng mà không tố cáo, phạt 80<br /> trượng”[[2]]. Lúc này, các công trình thủy lợi cũng có điều kiện mở mang. Dọc các con sông lớn<br /> như sông Hồng, sông Mã đã có đê phòng lụt. Nhiều kênh ngòi mương máng được đào thêm, hay<br /> nạo vét hàng năm. Giao Châu kí có ghi chép việc huyện Phong Khê (trung tâm Cổ Loa) có đê<br /> phòng lụt. Hậu Hán thư có ghi lại sự việc “sửa sang kênh ngòi”[[3]]. Những biện pháp kỹ thuật<br /> nói trên được đưa vào sản xuất nông nghiệp góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất trong<br /> nông nghiệp. Ở Giao Chỉ, mỗi năm lúa được trồng hai vụ chiêm và vụ mùa. Theo một số tài liệu<br /> <br /> cũ thì “lúa mỗi năm được trồng hai lần về mùa hè và mùa đông sản xuất từ Giao Chỉ”. Năm<br /> 1248, vua Trần Thái Tông đặt cơ quan Hà đê có phó/chánh sứ phụ trách việc sửa, đắp đê ở các<br /> lộ, phủ. Vua còn xuống chiếu đắp đê Quai Vạc. Nhà nước còn chi phí một khoản tiền lớn vào<br /> việc đắp đê, nếu vào ruộng của nông dân thì sẽ được bù tiền. Việc đắp đê là một công việc quan<br /> trọng trong việc thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp. Thời Trần, cùng với việc đắp đê ở bãi biển<br /> đã hình thành hàng loạt điền trang. Khi có lũ lụt, cần hộ đê thì cả học sinh Quốc Tử Giám và con<br /> đại thần, quý tộc cũng phải đi hộ đê. Có năm nước sông lên to, vua Trần Minh Tông đích thân đi<br /> hộ đê. Việc xây dựng các công trình thủy nông cũng được nhà Trần đặc biệt chú ý. Ở những<br /> vùng Thanh Hóa, Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy nông. Năm 1231, vua Thái Tông sai<br /> hoạn quan Nguyễn Bang Cốc đào kênh từ Thanh Hóa đến Diễn Châu (Nghệ An), sau được<br /> phong làm phụ quốc Thái úy. Năm 1248, vua Nhân Tông lại cho đào sông Mã[[4]]. Tương ứng<br /> với giai đoạn này ở Việt Nam, tại Hàn Quốc dưới thời Silla (Tân La), thời Cao Ly, với việc tạo<br /> ra chiếc lưỡi cày từ thời các vương quốc liên minh là một bước đột phá trong lao động, nhưng<br /> đến giai đoạn này người Hàn vẫn chỉ sử dụng sức kéo của con người, mà không không sử dụng<br /> sức kéo của trâu bò. Ngoài ra, do đặc thù là một nước có nhiều hòn đảo, nên người Hàn không<br /> đắp đê ngăn lũ như người Việt, mà họ chỉ xây dựng các hồ chứa nước để dẫn thủy nhập điền.<br /> Một khác biệt lớn trong nông nghiệp của Việt Nam và Hàn Quốc – cho đến thời kỳ xã hội lưỡng<br /> ban, người nông dân Hàn mới biết đến kỹ thuật gieo mạ và cấy lúa. Cho đến thế kỷ XVII, kỹ<br /> thuật nông nghiệp Hàn Quốc mới có những tiến bộ đáng kể. Lúc này, người Hàn mới biết gieo<br /> lúa giống trên những luống mạ trước khi được cấy ra một thửa ruộng nhỏ. Kế đó, khi lúa đạt tới<br /> một mức độ thích hợp nào đó, người ta nhổ lên rồi cấy lại trong ruộng lúa. Như vậy, cũng một<br /> thửa đất có thể được sử dụng cùng lúc cho vụ lúa mạch mùa đông. Về kỹ thuật này cho phép<br /> gieo mạ trên một lô đất nhất định trong khi các lô khác đang chờ mùa lúa mạch mùa đông chín<br /> tới. Hệ thống mùa gối vụ như vậy cần nguồn cung cấp nước đầy đủ, do đó những hồ nước phục<br /> vụ tưới tiêu được xây dựng nhiều hơn. Cuối thế kỷ XVII, người ta đã thống kê được khoảng<br /> 6.000 hồ chứa nước, đánh dấu sự gia tăng sản lượng nông nghiệp đáng kể. Trong khi đó, người<br /> nông dân Việt đã biết đến kỹ thuật trồng lúa ngay từ thời Hùng Vương. Kết quả khai quật của<br /> các nhà khảo cổ học đã cho thấy một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước ở Việt Nam khá<br /> phát triển dưới thời văn hóa Đông Sơn. Ở di tích làng Vạc, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy<br /> những hạt thóc nằm trong nồi gốm, vỏ trấu. Ở làng Cả cũng có vết tích vỏ trấu. Nhiều công cụ<br /> gặt hái lúa tìm thấy trong các di tích văn hóa Đông Sơn như liềm, dao gặt, nhíp bằng đồng.<br /> Nhiều nhà khảo cổ học còn căn cứ vào cảnh người giã gạo bằng chày tay được khắc họa trên mặt<br /> trống đồng để chứng minh cho nghề trồng lúa nước lúc bấy giờ.<br /> Ngoài ra còn phải kể đến một sự khác biệt lớn trong việc tìm ra giống lúa nước của người Hàn và<br /> người Việt, đó là cây lúa nước của người Hàn không phải do chủ nhân người Hàn tìm thấy, mà<br /> do quá trình tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc trong vùng Đông Á. Mặt khác, theo các nhà<br /> nghiên cứu con đường truyền lúa nước vào Hàn Quốc lại bao gồm hai nhánh: một nhánh từ biển<br /> Nhật Bản truyền lên, một nhánh từ Thái Bình Dương truyền sang vào khoảng thế kỷ IV trước<br /> công nguyên[[5]]. Với Việt Nam, tuy không nằm trong khu vực xuất phát đầu tiên của giống lúa<br /> Oryza satival, mà theo quan niệm hiện nay là các vùng rộng lớn từ Bắc Ấn Độ đến Tây Nam<br /> Trung Quốc, nhưng ít nhất Việt Nam cũng thuộc vào khu vực thuần dưỡng và phổ biến cây lúa<br /> trồng thuộc loại Oryza japoni, hay Oryza sinica. Ở Việt Nam, nền nông nghiệp trồng lúa có mặt<br /> từ xa xưa, mà những dữ kiện khảo cổ học biết được cho tới nay cho thấy là từ thời hậu kỳ đá<br /> mới. Đó là chưa kể những dự đoán của các nhà nghiên cứu thời kỳ xuất hiện lúa trồng còn lùi xa<br /> <br /> hơn tới các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, cách ngày nay gần mười nghìn năm [[6]]. Như vậy, ở<br /> Hàn Quốc cây lúa nước xuất hiện muộn hơn so với ở Việt Nam. Điều này có thể khẳng định, chủ<br /> nhân của người Hàn đã tiếp nhận giống lúa của cư dân Đông Á, trong đó có cư dân Việt cổ.<br /> Điểm khác biệt trong trồng trọt của người Việt và người Hàn – người Việt ngoài trồng lúa tẻ còn<br /> trồng lúa nếp. Dựa vào các kết quả nghiên cứu của ngành khảo cổ học, nền nông nghiệp trồng<br /> lúa đã sớm xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến từ cư dân tiền Đông Sơn. Cư dân lúc bấy giờ<br /> trồng nhiều loại lúa tẻ và lúa nếp. Người Đông Sơn rất thích ăn gạo nếp, sử dụng nhiều trong các<br /> ngày lễ hội, trong nghi lễ thờ cúng. Một số truyện cổ tích như chuyện “bánh chưng, bánh dày”,<br /> các dấu tích văn hóa như nhiều chiếc chõ gốm để đồ xôi ở văn hóa Đông Sơn đã cho thấy điều<br /> đó. Ở Hàn Quốc, trong các tài liệu nói về ngành trồng trọt của Hàn Quốc chúng tôi không thấy<br /> đề cập đến việc người Hàn trồng cây lúa nếp.<br /> Một điểm khác biệt nữa trong kỹ thuật trồng trọt của người Việt và Hàn đó là cho đến thế kỷ<br /> XVII, kỹ thuật trồng lúa khô của người Hàn mới được chú trọng phát triển. Còn đối với người<br /> Việt, nhất là cư dân sống ở các vùng trung du miền núi, kỹ thuật trồng lúa khô đã được đưa vào<br /> nông nghiệp ngay từ thời Bắc thuộc. Bên cạnh đó, nhờ sự hiểu biết về thời tiết hai mùa khô, mưa<br /> và với nhu cầu tăng vụ, người Việt đã đưa cây lúa lên cao, vào bãi, lên nương và nhờ mưa để<br /> cung cấp đủ độ ẩm cho cây sinh trưởng.<br /> Điểm khác biệt lớn nữa trong khâu trồng trọt của người Việt và người Hàn là cư dân Việt được<br /> coi là những cư dân bầu bí và rau củ. Việc trồng rau, củ của người Việt nhằm đáp ứng yêu cầu có<br /> thức ăn bột và rau quả bổ trợ cho cuộc sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên. Bởi vì, người phương<br /> Đông, trong đó có người Việt luôn coi mình là “nhân sinh tiểu vũ trụ”. Vì vậy, ở những vùng<br /> duyên hải Việt Nam, cư dân Việt nơi đây vẫn coi khoai lang với cá là bữa ăn truyền thống của<br /> họ. Cây khoai lang trở thành lương thực chính, có năng suất cao, vì khoai lang rất phù hợp với<br /> đất pha cát:<br /> “Trăng rằm đã tỏ lại tròn<br /> Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi”<br /> (Ca dao Việt Nam)<br /> Ngoài khoai lang, người Việt còn trồng các loại khoai môn, khoai sọ, môn riềng, môn nước, bầu<br /> bí… Trong khi đó, người Hàn không phải là cư dân nông nghiệp trồng bầu bí, mà là cư dân trồng<br /> các loại rau như cải củ, hành tây,…<br /> Bên cạnh những đặc điểm khác nêu trên, ở người Hàn và người Việt còn có một điểm khác biệt<br /> nữa trong nông nghiệp: vào những tháng mùa màng cày cấy, gặt hái, Nhà nước đình hoãn mọi<br /> công dịch để tập trung sức lao động vào sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, vào năm 1435, triều<br /> đình ra lệnh cho các quan địa phương “hễ công việc gì có hại đến nghề nông thì không được kinh<br /> động sức dân”.<br /> Khi nói đến ngành trồng trọt của người Việt và người Hàn, không thể không nhắc đến chế độ<br /> ruộng đất. Ruộng đất ở Việt Nam và Hàn Quốc đều gồm hai bộ phận chủ yếu: ruộng đất thuộc sở<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2