intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn

Chia sẻ: Ngũ Nguyệt Thiên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

47
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này làm sáng tỏ các vấn đề cấp dưỡng cho con cái khi cha mẹ ly hôn, qua đó đồng thời chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện nay. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn

  1. NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CHO CON KHI CHA MẸ LY HÔN Trần Thị Thanh, Đinh Minh Uy, Trần Mỹ Phiến* Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh GVHD: ThS. Lê Thị Minh Thư TÓM TẮT Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn là một trong những nghĩa vụ bắt buộc thực hiện và pháp luật ưu tiên sự tự nguyện thoả thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng dựa trên khả năng của các bên khi ly hôn. Cấp dưỡng là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước ta hiện nay, là vấn đề này ngày càng được quan tâm. Việc cấp dưỡng nhằm đảm bảo cho người được cấp dưỡng được hưởng sự quan tâm, chăm sóc về vật chất và tinh thần, có đủ điều kiện tồn tại và phát triển. Sau nhiều lần sửa đổi, Luật hôn nhân và gia đình 2014 với quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn ngày càng hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, những bất cập là không thể tránh khỏi. Bài viết sẽ làm sáng tỏ các vấn đề cấp dưỡng cho con cái khi cha mẹ ly hôn, qua đó đồng thời chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện nay. Từ khóa: Ly hôn, nghĩa vụ cấp dưỡng, người cấp dưỡng, người được cấp dưỡng. 1KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CHO CON KHI CHA MẸ LY HÔN Trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, vấn đề cấp dưỡng chỉ được đặt ra đối với vợ và chồng khi họ ly hôn. Cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của mỗi người nên không thể chuyển giao cho người khác. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó mà không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác. Trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chế định cấp dưỡng được quy định tương đối hoàn thiện. Theo quy định tại Khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: ‚Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.‛ Như vậy, quan hệ cấp dưỡng mang tính không thể chuyển giao và tính không thể thay thế của nghĩa vụ cấp dưỡng. Khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định. Nghĩa vụ cấp dưỡng‚Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác‛ . 1641
  2. Từ quy định cho thấy quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn với nhân thân của mỗi người trong quan hệ cấp dưỡng [1.Tr.46]. Điều đó thể hiện ở chỗ: người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Đây là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của các bên trong quan hệ cấp dưỡng (bên có nghĩa vụ cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng), vì vậy nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ không được chuyển giao cho người khác mà phải do chính người có nghĩa vụ thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực hiện cho người có quyền được cấp dưỡng. Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định ‚Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ chồng theo quy định của Luật này‛ tại khoản 1 Điều 50, Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã bổ sung thêm chủ thể của quan hệ cấp dưỡng đó là cô, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột tại khoản 1 Điều 107. Do yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể, nên nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán giá trị tài sản đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người cấp dưỡng hoàn lại số tiền tương ứng. Mặt khác, không phải lúc nào nghĩa vụ cấp dưỡng cũng đặt ra chỉ trong trường hợp với điều kiện nhất định thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Vì vậy quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù ngang giá. Chế định cấp dưỡng trong Luật hôn nhân và gia đình đã góp phần quan trọng về việc củng cố bền vững mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Việc cấp dưỡng mang tính chất tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, đây là một hoạt động được khuyến không chỉ riêng các thành viên trong gia đình mà còn cả toàn xã hội. Nghĩa vụ cấp dưỡng thể hiện giá trị tốt đẹp về tình cảm gắn bó, đoàn kết, yêu thương nhau, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, góp phần ổn định đời sống và xã hội. Chế định cấp dưỡng lại càng cần thiết hơn trong trường hợp cha mẹ ly hôn, con cái sẽ là người bị ảnh hưởng và thiệt thòi về mặt tâm lý. Việc đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng nhằm tạo điều kiện cho con cái có cuộc sống bình thường và có thể phát triển như bao đứa trẻ khác. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau ly hôn được xác định trên cơ sở quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng đảm bảo cho bên khó khăn, túng thiếu có thể ổn định cuộc sống sau khi ly hôn. 2 NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CHO CON SAU KHI CHA MẸ LY HÔN Đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì: ‚Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con‛. Như vậy, sau khi ly hôn nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con sẽ phát sinh khi cha, mẹ là người không trực tiếp nuôi con. Đối với người được cấp dưỡng: Theo quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: ‚Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con‛. Trong trường hợp cha, mẹ sau khi ly hôn và không sống chung cùng con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thuộc các đối tượng gồm: Con 1642
  3. chưa thành niên và con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Thông thường khi con cái không sống chung với cha mẹ thì nghĩa vụ nuôi dưỡng trở thành nghĩa vụ cấp dưỡng. Nghĩa là nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra đối cha/mẹ – người không trực tiếp nuôi dạy đứa trẻ [2]. Có hai trường hợp để xác định ai là người có quyền nuôi dạy đứa trẻ, ai là người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng: Trường hợp 1: Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng theo Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình Hai bên tự thỏa thuận hoặc Tòa án chỉ định người trực tiếp nuôi con dựa trên các căn cứ sau: – Các bên không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được. – Đảm bảo quyền và lợi ích của đứa trẻ kể cả về vật chất và tinh thần. Trường hợp 2: Người trực tiếp nuôi con đồng thời cũng có nghĩa vụ cấp dưỡng: Điều 110. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con ‚Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con‛. Tòa án xem xét việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người trực tiếp nuôi con dựa trên: – Mức độ vi phạm. Những vi phạm này phải chưa đạt đến mức độ nghiêm trọng để có thể yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi. – Có yêu cầu Tòa án yêu cầu bên trực tiếp nuôi con từ bên không trực tiếp nuôi con thực hiện cam kết thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con một khoản tối thiểu để đảm bảo nh cầu thiết yếu và cơ bản của con. Điều này nhằm đảm bảo việc nuôi con của bên trực tiếp nuôi con có trách nhiệm hơn, tránh trường hợp bỏ bê, không quan tâm con cái do thù ghét chồng/vợ trước hoặc lấy lý do đời sống khó khăn để yêu cầu mức cấp dưỡng cao hơn. Phương thức cấp dưỡng được xác định ưu tiên qua sự thỏa thuận giữa các bên bằng văn bản hoặc bằng miệng và được ghi nhận trong bản án của Tòa án. Nếu không tự thỏa thuận được sẽ do Tòa án quyết định theo quy định tại Điều 117 Luật HN&GĐ 2014 thì có hai phương thức cấp dưỡng: – Cấp dưỡng theo định kỳ: Đến kỳ cấp dưỡng cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì các bên có thể thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng hoặc tạm ngừng cấp dưỡng. Nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. – Cấp dưỡng một lần: Phương thức cấp dưỡng một lần thuận tiện và có lợi cho trẻ hơn so với phương thức cấp dưỡng định kỳ, tránh tình trạng trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng và trẻ và người trực tiếp nuôi con được hưởng phần hoa lợi, lợi tức phát sinh từ khoản tiền cấp dưỡng 1643
  4. đó. Tuy nhiên do số tiền cấp dưỡng theo phương thức này có giá trị tương đối lớn nên chỉ phù hợp khi người cấp dưỡng có điều kiện kinh tế. Tương tự như cách xác định phương thức cấp dưỡng, mức cấp dưỡng ưu tiên do các bên tự thỏa thuận bằng văn bản hoặc bằng miệng và được ghi nhận trong bản án của Tòa án. Nếu không tự thỏa thuận được sẽ do Tòa án quyết định theo quy định Điều 116 Luật HN&GĐ 2014 về mức cấp dưỡng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng: 1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều người đã chấp nhận mức cấp dưỡng thấp hơn những nhu cầu thiết yêu của con trên thực tế, thậm chí là không yêu cầu cấp dưỡng với mong muốn có được quyền nuôi con. Điều này đồng thời vi phạm nghiêm trọng Luật HN&GĐ cũng như gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ. Theo số liệu báo cáo từ ngành Tòa án, trong gần 2 năm (từ tháng 1/2016 đến cuối tháng 8/2017), các Tòa án trong tỉnh đã thụ lý giải quyết tổng cộng 3.884 vụ ly hôn. Trong đó, các huyện, thị xã, thành phố giải quyết ly hôn 3.745 vụ. Tỷ lệ ly hôn tập trung nhiều ở các khu đô thị ,thành phố lớn, ở nông thôn thì tỷ lệ này cũng không phải là ít. So sánh với tổng thụ lý các loại vụ án chung là 8.009 vụ, thì riêng án ly hôn đã chiếm tỷ lệ gần 50%. Năm 2019, các vụ án hôn nhân và gia đình mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm trên cả nước là 256.793 vụ, trong đó ly hôn do mâu thuẫn gia đình chiếm tới 84,2% tổng số các vụ án ly hôn mà Tòa án đã giải quyết. Theo công trình nghiên cứu xã hội học của TS Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM), tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam là 31,4%. 60% số vụ ly hôn này thuộc về các gia đình trẻ, tuổi vợ chồng chỉ từ 21 đến 30, trong đó 70% số vụ ly hôn khi kết hôn 1-7 năm và hầu hết đã có con [3]. Tại Thành phố Hồ Chí Minh theo Báo điện tử VTV News thống kê thì hiện nay cứ trung bình 2,7 cặp kết hôn thì sẽ có 1 cặp ly hôn trong đó độ tuổi ly hôn dưới 35 tuổi chiếm tỷ lệ 30% và có xu hướng tăng qua từng năm [4]. Năm 2018, số vụ ly hôn ở Thành phố Hồ Chí Minh là 1940 vụ và những vụ có yêu cầu cấp dưỡng chỉ chiếm 1%. Hầu hết các vụ việc ly hôn thì các đương sự đều tự thỏa thuận với nhau về vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Trong thực tiễn không phải mọi trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng đều nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình. Khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng không nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình, quyền lợi của người được cấp dưỡng sẽ không được bảo đảm. Chính vì thế, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng, người được cấp dưỡng được pháp luật trao cho quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ cấp dưỡng của mình đồng thời áp dụng các biện pháp chế tài đối với những người trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. 1644
  5. 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CHO CON SAU KHI CHA MẸ LY HÔN Dù trong trường hợp nào miễn là khi một bên được Tòa xác định có nghĩa vụ nuôi con thì bên còn lại nhất thiết phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bên trực tiếp nuôi con. Quy định của pháp luật cũng như quyết định của Tòa cần hạn chế tối thiểu việc cha mẹ tự thỏa thuận với nhau khi một bên giành được quyền nuôi con thì bên còn lại không cần thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì việc cấp dưỡng là quyền cũng là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, không có lý do gì người cha, người mẹ được quyền từ chối việc cấp dưỡng cho con cái. Mặc khác, việc để cho một bên tự nuôi con mà không có sự trợ cấp của bên kia, trong thực tế đôi khi không khả thi. Bởi lẽ khi ly hôn, thì nhiều trường hợp người cha, mẹ đang trực tiếp nuôi con phải tự mình lao động để nuôi bản thân hoặc cả gia đình và con của họ, như vậy đứa con có thực sự được đảm bảo có sự chăm sóc tốt nhất hay không. Lúc này sự góp sức của người còn lại là thực sự cần thiết dù là ít hay nhiều. Vì vậy Tòa án nhất thiết phải quan tâm đến nghĩa vụ cấp dưỡng của bên không trực tiếp nuôi con đối với bên nuôi con trong trường hợp có sự thỏa thuận như đã đề cập trên. Khi vợ, chồng xác định không thể sống chung và đi đến quyết định ly hôn thì họ cũng cần xác định ai nuôi con. Trái với việc giành quyền nuôi con trên thực tế cũng xảy ra tình huống cha, mẹ đùn đẩy trách nhiệm nuôi con cho nhau. Ai cũng cho rằng mình có lý do để không thể nuôi con trực tiếp được, hoặc cũng chính từ việc đùn đẩy đó để họ có thể dễ dàng trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc thông qua việc cấp dưỡng sau này đối với con. Có nhiều cha mẹ vì để thuận lợi cho cuộc sống sau khi kết hôn đã đi đến thỏa thuận để cho một người khác nuôi con của mình. Trong trường hợp này cần có quy định của luật yêu cầu người cha người mẹ đó phải chứng minh được người thứ ba nuôi con đó có đủ điều kiện để nuôi con hay không như về tuổi, năng lực hành vi dân sự, khả năng tài chính…và bản thân những cha, mẹ cũng phải có cam kết với Tòa án sẽ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con. Nếu không thực hiện được như vậy thì Tòa có quyền bắt buộc một bên phải nuôi dưỡng và bên còn lại phải cấp dưỡng cho con. Quy định tại Điều 109 Luật Hôn nhân gia đình 2014 có phần chưa rõ ràng, cụ thể tại cụm từ ‚thì những người này thỏa thuận với nhau‛, sự quy định như vậy có phần chưa cụ thể làm cho người đọc có phần khó hiểu. Vì ‚những người này‛ là những người có nghĩa vụ cấp dưỡng hay là giữa những có nghĩa vụ cấp dưỡng với người được cấp dưỡng. Từ ngữ được sử dụng như vậy, đối với người tìm hiểu luật thì có thể là hiểu nhưng không phải ai cũng có thể hiểu đúng ý của nhà làm luật. Vì vậy cụm từ ‚những người này‛ cần được thay thế bằng một cụm từ khác thể hiện đúng chủ thể mà nhà làm luật muốn đề cập ở đây là ai. Đối với Điều 115 Luật Hôn nhân & Gia đình: Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn cơ quan nhà nước cần có văn bản dưới luật hướng dẫn điều này. Bởi lẽ không phải trong mọi trường hợp khi ly hôn mà một bên vợ chồng gặp khó khăn, túng thiếu mà có lý do chính đáng thì điều được quyền yêu cầu bên kia cấp dưỡng cho mình. Có thể người vợ hoặc chồng đó sau khi ly hôn không kết hôn với người khác mà chỉ chung sống như vợ chồng với một người nào đó, tuy nhiên người vợ hoặc chồng này vẫn được người kia thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong trường hợp này là bất hợp lý, vì vậy cần có văn bản hướng dẫn quy định rằng nếu người còn lại chứng minh người 1645
  6. vợ hoặc chồng của họ mặc dù không kết hôn với người khác nhưng đã chung sống với một người khác thì mình không còn nghĩa vụ phải cấp dưỡng nữa. Có quy định như vậy mới thỏa đáng và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Về mức cấp dưỡng: Để khắc phục bất cập về mức cấp dưỡng, pháp luật nên quy định mức cấp dưỡng tính trên phần trăm thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc lấy mức tiền lương tối thiểu làm định khung để quy định mức cấp dưỡng (kể cả trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không phải người làm công ăn lương). Để đến khi có sự thay đổi về mức lương thì căn cứ vào đó cơ quan thi hành án áp dụng vào từng thời điểm thi hành án thì mới có thể bảo đảm quyền lợi cho người được cấp dưỡng và tránh thiệt thòi cho người trực tiếp nuôi con. Thi hành án dân sự đối với nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Mở rộng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hoặc cưỡng chế thi hành đối với các trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng như vì để tránh nghĩa vụ cấp dưỡng mà người đó đã tẩu tán tài sản bằng cách giả vờ chuyển nhượng hoặc tặng cho lại một người khác nữa. Nếu bên được cấp dưỡng có bằng chứng chứng minh người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tùy hậu quả gây ra mà có thể là bị xử lý hành chính hay hình sự, có như vậy mới thực sự buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình. Cần phải sát sao hơn nữa trong công tác của cơ quan thi hành án. Đẩy mạnh việc thực thi áp dụng pháp luật trên thực tế đối với nghĩa vụ cấp dưỡng, ai không thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ của mình thì cần có biện pháp xử lý thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] ThS. Ngô Thị Vân Anh, 2018, Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16(368), tr.46. [2] Quyết định số 138/2015/ DS – GĐT là một ví dụ điển hình: người vợ đã yêu cầu chồng ‚hoàn trả chi phí nuôi con trong thời gian ly thân‛ (20 tháng). [3] Trung tâm tin tức VTV24, 2017, Báo động tình trạng ly hôn ở các gia đình trẻ, xem tại link:https://vtv.vn/chuyen-dong-24h/bao-dong-tinh-trang-ly-hon-o-cac-gia-dinh-tre 20170801190658797.htm [4] Tuấn Anh, 2019, Hoảng hốt tỷ lệ vợ chồng ly hôn ở Việt Nam, xem tại link: https://kienthuc.net.vn/xa-hoi/hoang-hot-ty-le-vo-chong-ly-hon-o-viet-nam-1234606.html 1646
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2