ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ---------------------
NGUYỄN VĂN KHANH
NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHẾ, KHẢO SÁT CẤU TRÚC, HOẠT TÍNH QUANG XÚC TÁC CỦA BỘT TITAN ĐIOXIT KÍCH THƯỚC NANO ĐƯỢC BIẾN TÍNH NEOĐIM Chuyên ngành: HÓA VÔ CƠ
Mã số: 604425
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ SỸ LƯƠNG
Hà nội, năm 2011
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ---------------------
NGUYỄN VĂN KHANH
NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHẾ, KHẢO SÁT CẤU TRÚC, HOẠT TÍNH QUANG XÚC TÁC CỦA BỘT TITAN ĐIOXIT KÍCH THƯỚC NANO ĐƯỢC BIẾN TÍNH NEOĐIM LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà nội, năm 201
2
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Mục Lục
Nội dung Trang
1 MỞĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN 3
3 1.1. Giới thiệu chung về vật liệu TiO2 kích thước nano
3 1.1.1. Đặc điểm cấu trúc và tính chất vật lý của TiO2 kích thước nano
5 1.1.2. Một số tính chất quan trọng của vật liệu TiO2 kích thước nano
9 1.1.3. Các ứng dụng của TiO2 kích thước nano mét
12 1.2. Giới thiệu chung về vật liệu TiO2 kích thước nano biến tính
12 1.2.1. Phân loại quang xúc tác trên cơ sở TiO2 kích thước nano
12 1.2.2. Sự biến tính của vật liệu TiO2 kích thước nano mét
14 1.2.3. Vật liệu TiO2 nano biến tính bằng neođim
15 1.2.4 Các phương pháp điều chế bột TiO2 kích thước nanomet
Chương 2: THỰC NGHIỆM 19
2.1. Mục tiêu và các nội dung nghiên cứu của luận văn 19
2.1.1. Mục tiêu của luận văn 19
2.1.2. Các nội dung nghiên cứu của luận văn 19
2.2. Phương pháp nghiên cứu 19
2.3. Hoá chất, dụng cụ và thiết bị 20
2.3.1. Hóa chất 20
2.3.2. Dụng cụ và thiết bị 20
2.3.3. Pha mẫu 20
21
22 2.4. Điều chế bột TiO2 biến tính Nd3+ bằng phương pháp sol-gel 2.5. Điều chế bột TiO2 biến tính Nd3+ bằng phương pháp thủy phân
2.6. Phương pháp khảo sát khả năng phân hủy quang xanh metylen
24 trong dung dịch nước của bột TiO2 biến tính
2.7. Các phương pháp hóa lý dùng để nghiên cứu cấu trúc và đặc tính của
1
26 bột Nd-TiO2 biến tính
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
2.7.1.Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) 26
2.7.2. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM) 28
2.7.3. Phương pháp phân tích nhiệt 28
2.7.4. Phương pháp phổ tán xạ năng lượng tia X (EDX) 29
2.7.5. Phương pháp BET 30
31 Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
31 3.1. Điều chế Nd-TiO2 bằng phương pháp sol-gel
3.1.1. Khảo sát quá trình phân hủy nhiệt của gel khô bằng phương
31 pháp phân tích nhiệt
3.1.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian làm già gel 32
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ sấy 34
3.1.4. Ảnh hưởng nhiệt độ nung 37
40 3.1.5. Ảnh hưởng tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol)
46 3.2. Điều chế Nd-TiO2 bằng phương pháp thủy phân
46
3.2.1. Khảo sát quá trình phân hủy nhiệt của mẫu TiO2 và Nd-TiO2 3.2.2. Ảnh hưởng của lượng urê 47
3.2.3. Ảnh hưởng của thời gian thủy phân 49
3.2.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung 52
55 3.2.5. Ảnh hưởng tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol)
63 Kết luận
64 TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
71 PHỤ LỤC
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BẢNG BIỂU
I. Danh mục các hình Trang
3 Hình 1.1. Cấu trúc tinh thể các dạng thù hình của TiO2
3 Hình 1.2. Hình khối bát diện của TiO2
Hình1.3. Cơ chế của quá trình quang xúc tác của vật liệu TiO2 khi
được chiếu sáng 6
Hình 1.4. Các góc tiếp xúc của chất lỏng và bề mặt thấm ướt 8
Hình 1.5. Nguyên tắc của sự phân chia nước sử dụng chất quang
11 xúc tác TiO2
Hình 2.1. sơ đồ mô tả quá trình thực nghiệm điều chế bột TiO2
biến tính neođim bằng phương pháp sol-gel 21
Hình 2.2. sơ đồ mô tả quá trình thực nghiệm điều chế bột TiO2
biến tính Nd bằng phương pháp thủy phân 23
Hình 2.3. Quang phổ của đèn Compact Goldstar 24
Hình 2.4. Đường chuẩn dung dịch xanh metylen 25
Hình 2.5. Sự phản xạ trên bề mặt tinh thể 26
Hình 2.6. Nhiễu xạ kế tia X D8- Advance 5005 (CHLB Đức). 27
Hình 2.7. Nguyên lý hoạt động và kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) 28
31 Hình 3.1. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 không biến tính
Hình 3.2. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 biến tính với tỷ
31 lệ Nd/TiO2 là 0,025% (mol/mol)
Hình 3.3. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 theo thời gian làm
già gel 32
Hình 3.4. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và
thời gian làm già gel 34
Hình 3.5. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 theo có nhiệt độ
sấy gel khác nhau 35
3
Hình 3.6. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
nhiệt độ sấy gel 37
Hình 3.7. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 với nhiệt độ nung
khác nhau 38
Hình 3.8. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và
nhiệt độ nung 39
Hình 3.9. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ pha tạp
khác nhau. 40
Hình 3.10. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và
42 tỷ lệ Nd/TiO2
43 Hình 3.11. Phổ EDX mẫu TiO2 không biến tính
43 Hình 3.12. Phổ EDX mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ % Nd/TiO2 = 0,025%
44 Hình 3.13. Ảnh TEM của mẫu TiO2 không biến tính
Hình 3.14. Ảnh TEM của mẫu TiO2 có biến tính Nd ở tỷ lệ
44 0,025% (mol/mol)
Hình 3.15. Quy trình thực nghiệm điều chế điều chế bột TiO2
biến tính Neođim bằng phương pháp sol-gel 45
46 Hình 3.16. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 không biến tính
Hình 3.17. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 biến tính với tỷ
46 lệ Nd/TiO2 là 0,025% (mol/mol)
Hình 3.18. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 với lượng urê
khác nhau 47
Hình 3.19. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và
lượng urê 49
Hình 3.20. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có thời gian thủy
phân khác nhau 50
Hình 3.21. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và 52
thời gian thủy phân
Hình 3.22. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung
4
khác nhau 53
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.23. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và
nhiệt độ nung 55
Hình 3.24. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 với các tỷ lệ
56 Nd/TiO2 khác nhau
Hình 3.25. Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy
58 quang và tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol)
Hình 3.26. Phổ EDX của mẫu không biến tính 58
Hình 3.27. Phổ EDX của mẫu biến tính với tỷ lệ Nd/TiO2 là
0,025% (mol/mol) 58
Hình 3.28. Ảnh TEM của mẫu không biến tính 59
Hình 3.29. Ảnh TEM của mẫu biến tính với tỷ lệ Nd/TiO2 là
59 0,025% (mol/mol)
60 Hình 3.30. Giản đồ BET của mẫu TiO2 không biến tính
60 Hình 3.31. Giản đồ BET của mẫu Nd-TiO2
Hình 3.32. Quy trình thực nghiệm điều chế điều chế bột TiO2
biến tính Neođim bằng phương pháp thủy phân 61
II. Danh mục các bảng biểu
Bảng 1.1. Một số tính chất vật lý của tinh thể rutile và anatase 4
Bảng 2.1. Nồng độ xanh metylen và độ hấp thụ 25
Bảng 3.1. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
33 mẫu Nd-TiO2 theo thời gian làm già gel khác nhau
Bảng 3.2. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
33 các mẫu Nd-TiO2 theo thời gian làm già gel khác nhau.
Bảng 3.3. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
35 mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ sấy gel khác nhau
Bảng 3.4. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
36 các mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ sấy gel khác nhau.
Bảng 3.5. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
5
38 mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bảng 3.6. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
39 các mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau
Bảng 3.7. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
41 mẫu Nd-TiO2 tỷ lệ pha tạp khác nhau
Bảng 3.8. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
42 các mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau
Bảng 3.9. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
48 mẫu Nd-TiO2 với lượng urê khác nhau
Bảng 3.10. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
48 các mẫu Nd-TiO2 có lượng urê khác nhau
Bảng 3.11. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
50 mẫu Nd-TiO2 có thời gian thủy phân khác nhau
Bảng 3.12 Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
51 các mẫu Nd-TiO2 có thời gian thủy phân khác nhau
Bảng 3.13. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
54 mẫu Nd-TiO2 theo nhiệt độ nung
Bảng 3.14. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
54 các mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau
Bảng 3.15. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các
56 mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ Nd/TiO2 khác nhau
Bảng 3.16. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của
6
57 các mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ Nd/TiO2 khác nhau
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ABS: Độ hấp thụ
BET: Phương pháp xác định diện tích bề mặt riêng
DTA: Phương pháp nhiệt vi sai
EDX: Phổ tán xạ năng lượng tia X
Nd-TiO2: Titan đioxit biến tính neođim
TEM: Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua
TGA: Phương pháp nhiệt trọng lượng
UV-Vis: Phương pháp phổ khuếch tán phản xạ
XM : Xanh metylen
XRD: Phương pháp nhiễu xạ tia X
Ti(OBu)4: Tetra-n-butyl orthotitanate
7
TiOSO4: Titanium(IV) oxysulfate hydrate
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
MỞ ĐẦU
Mặt trời cung cấp cho bề mặt trái đất một lượng năng lượng khổng lồ vào khoảng 3.1024 J/năm. Việc nghiên cứu chuyển hóa có hiệu quả nguồn năng lượng
này thành các dạng hữu dụng khác phục vụ đời sống con người là một trong những
thách thức đối với sự phát triển nghiên cứu khoa học và công nghệ trong tương lai.
Một trong những hướng nghiên cứu đó là sử dụng các chất bán dẫn có khả năng
quang xúc tác để chuyển hóa năng lượng ánh sáng mặt trời thành năng lượng điện
hoặc hóa học.
Titan đioxit (TiO2) là chất xúc tác bán dẫn. Gần một thế kỷ trở lại đây, bột
TiO2 với kích thước cỡ µm đã được điều chế ở quy mô công nghiệp và được ứng
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau: làm chất độn trong cao su, nhựa,
giấy, sợi vải, làm chất màu cho sơn, men đồ gốm, sứ… [24, 29, 32, 47]. Gần đây,
các vật liệu dạng bột, dạng sợi, dạng màng TiO2 tinh thể kích thước nm ở các dạng
thù hình rutile, anatase hoặc hỗn hợp giữa rutile, anatase và brookite đã được nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm do khả năng ứng dụng của chúng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau: làm chất xúc tác điều chế nhiều hợp chất hữu cơ
[32], làm xúc tác quang hoá trong xử lý môi trường, chế sơn tự làm sạch, làm vật
liệu chuyển hoá năng lượng trong pin mặt trời, sử dụng trong dược phẩm[17, 18, 21,
34]. Các ứng dụng mới của vật liệu TiO2 kích thước nm chủ yếu dựa vào tính chất
bán dẫn của nó. Với hoạt tính quang xúc tác cao, cấu trúc bền và không độc, vật liệu
TiO2 được cho là một trong những vật liệu triển vọng nhất để giải quyết rất nhiều
vấn đề ô nhiễm môi trường. TiO2 đồng thời cũng được hy vọng sẽ mang đến những
lợi ích to lớn trong vấn đề khủng hoảng năng lượng qua sử dụng năng lượng mặt
trời dựa trên tính quang điện và thiết bị phân tách nước.
Tuy nhiên, do dải trống của titan đioxit khá lớn (3.25eV đối với anatase và
3.05 eV đối với rutile) nên chỉ ánh sáng tử ngoại gần với bước sóng < 380nm mới
8
có thể kích thích được điện tử từ vùng hoá trị lên vùng dẫn và gây ra hiện tượng
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
quang xúc tác. Điều này hạn chế khả năng quang xúc tác của TiO2, thu hẹp phạm vi
ứng dụng của loại vật liệu này [47].
Một xu hướng đang được các nhà nghiên cứu rất quan tâm là tìm cách thu hẹp
dải trống của titan đioxit, sao cho có thể tận dụng được ánh sáng mặt trời cho các mục
đích quang xúc tác với titan đioxit. Để thực hiện được mục đích này, nhiều ion kim
loại và không kim loại đã đựơc sử dụng để biến tính (modify) hoặc kích hoạt (doping)
các dạng thù hình của titan đioxit. Quá trình biến tính có thể thực hiện với biến tính
cấu trúc, với các phương pháp được sử dụng là sol-gel, thuỷ nhiệt, đồng kết tủa,...
hoặc biến tính bề mặt với các phương pháp tẩm, cộng kết, cộng kết thuỷ nhiệt, ...
Trên thế giới, số công trình nghiên cứu về lĩnh vực điều chế vật liệu titan
đioxit biến tính đang ngày càng tăng, chứng tỏ sự quan tâm ngày càng nhiều của các
nhà nghiên cứu và ứng dụng của loại vật liệu này trong các lĩnh vực xúc tác, xử lí
môi trường, chế sơn tự làm sạch, làm vật liệu chuyển hoá năng lượng mặt trời đang
ngày càng được mở rộng. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu điều chế bột TiO2 biến tính
bằng các ion khác nhau từ các muối vô cơ của titan hoặc các titan ancoxit và ứng
dụng loại vật liệu này cũng đã được tiến hành ở một số cơ sở nghiên cứu. Tuy nhiên
lĩnh vực nghiên cứu này vẫn mới chỉ là bước đầu.
Titan đioxit được biến tính bằng các ion kim loại đặc biệt là các kim loại
chuyển tiếp hiện nay đang được các nhà khoa học trên thế giới tập trung nghiên cứu
vì nó cho thấy có sự tăng cường đáng kể hoạt động quang xúc tác của TiO2 về vùng
ánh sáng nhìn thấy và độ bền của titan đioxit được biến tính.
Trên thế giới hiện nay có một số công trình nghiên cứu về titan đioxit được biến tính
bằng neođim cho kết quả cho thấy năng lượng vùng cấm giảm [44], hoạt tính quang xúc tác
tăng lên đáng kể [24,53], Tuy nhiên, đa phần các công trình chỉ khảo sát khả năng quang xúc
tác của TiO2 trong vùng ánh sáng tử ngoại, chi tiết cho các quá trình điều chế cũng như ảnh
hưởng của phương pháp điều chế và tiền chất chưa được khảo sát một cách cụ thể do đó
trong công trình này chúng tôi góp phần làm rõ một số vấn đề vừa nêu.
Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất đề tài “nghiên cứu điều chế, khảo sát cấu trúc, hoạt
9
tính quang xúc tác của bột titatan đioxit kích thước nano được biến tính neođim”
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về vật liệu TiO2 kích thước nano mét
1.1.1. Đặc điểm cấu trúc và tính chất vật lý của TiO2 kích thước nano mét [2,6]
Tinh thể titan đioxit lại có 3 dạng thù hình khác nhau: anatase, rutile và
brookite, ngoài ra còn 2 dạng chỉ tồn tại dưới điều kiện áp suất cao đó là đơn tà
baddeleyite và dạng trực thoi, thường chỉ được tìm thấy gần các miệng núi lửa.
Trong đó, rutile là dạng thù hình phổ biến nhất và bền vững nhất, cả anatase và
brookite đều chuyển sang rutile khi nung ở nhiệt độ cao.
Dạng anatase Dạng rutile Dạng brookite
Hình 1.1. Cấu trúc tinh thể các dạng thù hình của TiO2
Cấu trúc mạng lưới tinh thể của rutile, anatase và brookite đều được xây
dựng từ các đa diện phối trí tám mặt (octahedra) TiO6 nối với nhau qua cạnh hoặc qua đỉnh oxi chung. Mỗi ion Ti4+ được bao quanh bởi tám mặt tạo bởi sáu ion O2-.
10
Hình 1.2. Hình khối bát diện của TiO2
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Các mạng lưới tinh thể của rutile, anatase và brookite khác nhau bởi sự biến
dạng của mỗi hình tám mặt và cách gắn kết giữa các octahedra. Hình tám mặt trong
rutile là không đồng đều do đó có sự biến dạng orthorhombic (hệ trực thoi) yếu. Các
octahedra của anatase bị biến dạng mạnh hơn, vì vậy mức đối xứng của hệ là thấp
hơn hệ trực thoi. Khoảng cách Ti – Ti trong anatase lớn hơn trong rutile nhưng
khoảng cách Ti - O trong anatase lại ngắn hơn so với rutile. Trong cả ba dạng tinh
thể thù hình của TiO2 các octahedra được nối với nhau qua đỉnh hoặc qua cạnh
(Hình 1.1 và hình 1.2). Một số các thông số vật lý của TiO2 như đã chỉ ra ở bảng 1.1:
Bảng 1.1. Một số tính chất vật lý của tinh thể rutile và anatase
Các thông số Rutile Anatase
Cấu trúc tinh thể Tứ diện Tứ diện
a = b (Å) 4,58 3,78 Thông số mạng c (Å) 2,95 9,49
Khối lượng riêng (g/ cm3) 4,25 3,895
Chiết suất 2,754 2,54
Độ rộng vùng cấm (eV) 3,05 3,25
Ở nhiệt độ cao chuyển Nhiệt độ nóng chảy 1830 1850OC thành rutile
Hầu hết các tài liệu tham khảo đều chỉ ra rằng quá trình thuỷ phân các muối vô
cơ đều tạo ra tiền chất titan đioxit dạng vô định hình hoặc dạng cấu trúc anatase hay
rutile.
Quá trình chuyển dạng thù hình của TiO2 vô định hình - anatase - rutile bị
ảnh hưởng rõ rệt bởi các điều kiện tổng hợp và các tạp chất, quá trình chuyển pha từ
dạng vô định hình hoặc cấu trúc anatase sang cấu trúc rutile xảy ra ở nhiệt độ trên 4500C. Ví dụ: với các axit metatitanic sạch, không có tạp chất, thì nhiệt độ chuyển
11
pha từ anatase thành rutile sẽ nằm trong khoảng 6107300C. Với axit metatitanic
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
thu được khi thuỷ phân các muối clorua và nitrat của titan thì quá trình chuyển thành rutile dễ dàng hơn nhiều (ở gần 5000C). Trong khi đó, với axit metatitanic đã
được điều chế bằng cách thuỷ phân các muối sunfat thì nhiệt độ chuyển pha sẽ cao
2- nằm dưới dạng hấp phụ[20,40].
hơn, nằm trong khoảng 8509000C. Điều này có thể là do có sự liên quan đến sự có
2- nhiệt độ chuyển anatase thành rutile cũng bị tăng cao khi có mặt
mặt của các ion sunfat SO4
Ngoài ion SO4
một lượng nhỏ tạp chất SiO2, cũng như khi có mặt HCl trong khí quyển bao quanh. Theo
tác giả công trình [8] thì năng lượng hoạt hoá của quá trình chuyển anatase thành
rutile phụ thuộc vào kích thước hạt của anatase, nếu kích thước hạt càng bé thì năng
lượng hoạt hoá cần thiết để chuyển anatase thành rutile càng nhỏ.
Theo các tác giả công trình [5] thì sự có mặt của pha brookite có ảnh hưởng đến
sự chuyển pha anatase thành rutile: Khi tăng nhiệt độ nung thì tốc độ chuyển pha
brookite sang rutile xảy ra nhanh hơn tốc độ chuyển pha anatase sang rutile nên tạo ra
nhiều mầm tinh thể rutile hơn, đặc biệt với các mẫu TiO2 chứa càng nhiều pha brookite
thì sự chuyển pha anatase sang rutile xảy ra càng nhanh, quá trình chuyển pha xảy ra hoàn toàn ở 9000C.
1.1.2. Một số tính chất quan trọng của vật liệu TiO2 kích thước nano mét
Titan đioxit dạng khối là một chất tương đối bền với các tác nhân hóa học,
tính chất này cũng thể hiện đầy đủ ở titan đioxit kích thước nano. Titan đioxit nói
chung không phản ứng với nước, không phản ứng với dung dịch axit loãng, dung
dịch ammoniac, tan ít trong dung dịch kiềm loãng nhưng lại tan khá tốt trong borac
và phốt phát nóng chảy. TiO2 còn thể hiện tính oxi hóa trong các phản ứng với
những chất khử mạnh ở nhiệt độ cao. [13]
Với kích thước hạt rất nhỏ, diện tích bề mặt riêng lớn, titan đioxit lại thể hiện
nhiều tính chất rất đặc biệt hơn hẳn TiO2 dạng khối, nhờ đó nó được ứng dụng một
cách rộng rãi trong công nghệ, sản xuất và đời sống. Trong đó, hai tính chất hoạt
tính quang xúc tác và đặc tính siêu thấm ướt của vật liệu TiO2 kích thước nano là
12
đáng chú ý nhất.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
1.1.2.1. Hoạt tính quang xúc tác của vật liệu TiO2 kích thước nano mét [32, 47]
Năm 1930, khái niệm xúc tác quang ra đời. Trong hoá học nó dùng để nói
đến những phản ứng xảy ra dưới tác dụng đồng thời của chất xúc tác và ánh sáng,
hay nói cách khác, ánh sáng chính là nhân tố kích hoạt chất xúc tác, giúp cho phản
ứng xảy ra.
Nguyên lý cơ bản về quá trình quang xúc tác trên các chất bán dẫn là khi
được kích thích bởi ánh sáng có năng lượng lớn hay bằng độ rộng vùng cấm của
chất bán dẫn (thường là tia tử ngoại do độ rộng vùng cấm của nó khá lớn ~3.2eV) sẽ tạo ra cặp electron - lỗ trống (e, h+) ở vùng dẫn và vùng hóa trị. Những cặp electron
– lỗ trống này sẽ di chuyển ra bề mặt để thực hiện phản ứng oxi hóa- khử. Các lỗ
trống có thể tham gia trực tiếp vào phản ứng oxi hóa các chất độc hại, hoặc có thể
tham gia vào giai đoạn trung gian tạo thành các gốc tự do hoạt động như
( ). Tương tự như thế các electron sẽ tham gia vào các quá trình khử tạo ,
thành các gốc tự do. Các gốc tự do sẽ tiếp tục oxi hóa các chất hữu cơ bị hấp phụ
trên bề mặt chất xúc tác thành sản phẩm cuối cùng không độc hại là CO2 và HO2.
Cơ chế xảy ra như sau:
Hình 1.3. Cơ chế của quá trình quang xúc tác của vật liệu TiO2 khi được chiếu
13
sáng
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
(1.14)
(1.15)
(1.16)
(1.17) TiO2 + hv TiO2 (h+ + e-) TiO2 (h+) + H2O OH + H+ + TiO2 TiO2 (h+) + OH- OH + TiO2 TiO2 (h+) + R R + TiO2
(1.18) TiO2 (e-) + O2 + TiO2
(1.19) TiO2 (e-) + H2O2 OH- + OH + TiO2
+ H+ (1.20)
(1.21) O2 + H2O2
(1.22) H2O2 + O2 O2 + OH- + OH
Từ các phương trình (1.15) - (1.17) ở trên ta thấy rằng điện tử chuyển từ chất
hấp phụ sang TiO2. Từ phương trình (1.18) ta thấy phân tử O2 có mặt trong môi
trường sẽ nhận điện tử để trở thành . Từ các phương trình trên cho thấy quá
trình oxi hoá phân huỷ chủ yếu phụ thuộc vào nồng độ của gốc hấp phụ trên
bề mặt TiO2 (phương trình 1.15) và lượng oxi hoà tan (phương trình 1.18).
Sự bổ sung thêm vào sẽ làm tăng hiệu quả phản ứng (phương trình
1.19) và gốc sinh ra cũng tham gia vào phản ứng (phương trình 1.20 và 1.22).
và
).
Các gốc sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh (chủ yếu là
và Hợp chất hữu cơ sẽ bị hấp phụ trên bề mặt TiO2 và bị oxi hoá bởi
. Sản phẩm cuối cùng của phản ứng quang hoá là
Trong quá trình xúc tác quang, hiệu suất phản ứng có thể bị giảm bởi sự tái
kết hợp của các electron và lỗ trống [37]: e- + h+ → (SC) + E (1.23)
Trong đó (SC) là tâm bán dẫn trung hoà và E là năng lượng được giải phóng
ra dưới dạng bức xạ điện từ (hv’ ≤ hv) hoặc nhiệt.
Và hiệu suất lượng tử của quá trình quang xúc tác được tính bằng:
14
(1.24)
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Trong đó : kc : tốc độ vận chuyển electron
kk : tốc độ tái kết hợp của các electron và lỗ trống
Như vậy để tăng hiệu suất phản ứng quang xúc tác, có 2 cách: thứ nhất tăng
tốc độ vận chuyển điện tích và thứ hai là giảm tốc độ tái kết hợp của các electron và
lỗ trống. Để thực hiện phương án 2: giảm tốc độ tái kết hợp, “bẫy điện tích” được
sử dụng để thúc đẩy sự bẫy điện tử và lỗ trống trên bề mặt, tăng thời gian tồn tại của
electron và lỗ trống trong chất bán dẫn. Điều này dẫn tới việc làm tăng hiệu quả của
quá trình chuyển điện tích tới chất phản ứng. Bẫy điện tích có thể được tạo ra bằng
cách biến tính bề mặt chất bán dẫn như đưa thêm ion kim loại, chất biến tính vào
hoặc sự tổ hợp với các chất bán dẫn khác dẫn tới sự giảm tốc độ tái kết hợp điện tử -
lỗ trống và kết quả là tăng hiệu suất lượng tử của quá trình quang xúc tác.
Đó cũng chính là mục đích của việc đưa các nguyên tố kim loại hay các
nguyên tố phi kim vào trong cấu trúc của TiO2 và tạo ra các khuyết tật của mạng
tinh thể.
Kích thước hạt và cấu trúc TiO2 ảnh hưởng nhiều đến khả năng xúc tác
quang hoá. Bột TiO2 có kích thước càng nhỏ thì hoạt tính xúc tác càng cao. Hầu hết
các tài liệu đều chỉ ra rằng TiO2 dạng bột kích thước nano mét có cấu trúc anatase
có hoạt tính xúc tác cao nhất [10].
1.1.2.2. Tính chất siêu thấm nước của vật liệu TiO2. [32]
Trong các vật liệu mà chúng ta vẫn đang sử dụng hàng ngày, bề mặt của
chúng thường có tính kị nước ở một mức độ nào đó, đặc trưng bởi góc thấm ướt:
15
Bề mặt thấm ướt chất lỏng, góc thấm ướt < 900 Không thấm ướt hay kỵ lỏng, góc thấm ướt > 900
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 1.4. Các góc tiếp xúc của chất lỏng và bề mặt thấm ướt
Với mặt kính, gạch men, hay các vật liệu vô cơ khác, góc thấm ướt thường là từ 200 – 300. Các vật liệu hữu cơ như nhựa plastic, meca góc thấm ướt thường dao động trong khoảng 700 -900. Và tất cả các loại vật liệu mà ta biết, gần như không có loại vật liệu nào cho góc thấm ướt nhỏ hơn 100 ngoại trừ các vật liệu đã được hoạt
hóa bề mặt bằng các chất hoạt động bề mặt như xà phòng.
Tuy nhiên vật liệu TiO2 lại có một tính chất đặc biệt. Khi chúng ta tạo ra
một màng mỏng TiO2 ở pha anatase với kích cỡ nano mét trên một lớp đế SiO2, phủ trên một tấm kính, các hạt nước tồn tại trên bề mặt với góc thấm ướt chừng 200- 400. Nếu chúng ta chiếu ánh sáng tử ngoại lên bề mặt của tấm kính thì các giọt nước
bắt đầu trải rộng ra, góc thấm ướt giảm dần. Đến một mức nào đó góc thấm ướt gần
như bằng 0 độ, nước trải ra trên bề mặt thành một màng mỏng. Chúng ta gọi hiện
tượng này của TiO2 là hiện tượng siêu thấm ướt.
Góc thấm ướt rất nhỏ của nước trên bề mặt TiO2 tồn tại trong khoảng một tới
hai ngày nếu không được chiếu ánh sáng tử ngoại. Sau đó góc thấm ướt tăng dần và
bề mặt trở lại như cũ với góc thấm ướt chừng vài chục độ. Tính chất siêu thấm ướt
sẽ lại phục hồi nếu như bề mặt lại được chiếu sáng bằng tia tử ngoại.
1.1.3. Các ứng dụng của TiO2 kích thước nano mét
1.1.3.1. Các ứng dụng dựa trên tính quang xúc tác
Trong vòng hơn 10 năm qua sự xúc tác quang hoá đã ngày càng trở nên hấp
dẫn đối với ngành công nghiệp phát triển công nghệ cho lọc nước và không khí.
Ngoài ra, TiO2 còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: dùng làm
chất xúc tác dị thể, chất xúc tác quang hoá, tạo ra hyđro và điện năng trong pin mặt
trời, được sử dụng như là một cảm biến khí, chất phủ chống sự ăn mòn, dùng làm
chất nhuộm trắng (như trong sơn và các sản phẩm mỹ phẩm), chất phủ quang, ứng
dụng trong gốm sứ và trong các thiết bị điện... [32, 47].
Gần đây, hoạt động nghiên cứu ứng dụng nhất trên TiO2 là ứng dụng của nó
cho sự phân huỷ các phân tử hữu cơ khi có mặt ánh sáng. TiO2 là chất bán dẫn và
16
cặp electron-lỗ trống được tạo thành sau quá trình chiếu sáng với ánh sáng mặt trời,
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
các chất mang tích điện tạo thành có thể di chuyển đến bề mặt, ở đó chúng phản
ứng với nước và oxi đã bị hấp phụ để tạo nên các hình thái gốc. Chúng tấn công bất
kỳ phân tử hữu cơ hấp phụ nào và cuối cùng có thể dẫn đến sự phân huỷ hoàn toàn
thành CO2 và H2O. Các ứng dụng của quá trình này là để làm sạch nước bẩn, để diệt
khuẩn và khử mùi (ví dụ như trong phòng mổ ở bệnh viện), làm chất phủ tự làm
sạch trên kính chắn gió của ôtô, làm lớp phủ bảo vệ cẩm thạch ( để bảo quản các
tượng Hy Lạp cổ khỏi sự phá huỷ của môi trường). Đặc biệt, TiO2 còn cho thấy khả
năng làm chậm hoặc dừng lại sự phát triển của những tế bào ung thư. [47]
1.1.3.2. Ứng dụng quang điện
Zukalova và cộng sự đã tìm ra rằng trật tự các màng mỏng tinh thể nano
TiO2 mao quản trung bình biểu diễn sự tăng cường hiệu quả chuyển hoá năng lượng
mặt trời khoảng 50% so với màng truyền thống có cùng chiều dày làm từ tinh thể
nano anatase được định hướng ngẫu nhiên [47].
Adachi và cộng sự đã tìm ra pin năng lượng mặt trời nhạy hoá thuốc nhuộm
với các điện cực làm bằng các đơn tinh thể ống nano TiO2 không trật tự (đường
kính 10 nm, chiều dài 30 - 300 nm) cho hiệu suất 4,88%, nhiều hơn hai lần mật độ
dòng đoản mạch so với các điện cực màn mỏng hạt nano TiO2 Deguessa P25 có
chiều dày tương tự [47]. Ohsaki và cộng sự đã tìm ra rằng hiệu suất của pin năng
lượng mặt trời cao hơn việc sử dụng điện cực làm bằng ống nano TiO2 từ việc so
sánh sự tăng mật độ electron trong điện cực ống nano và điện cực P25.
Grimes và cộng sự đã chế tạo các mảng ống nano trật tự cao (đường kính mao
quản 46 nm, chiều dày thành ống 17 nm, chiều dài 360 nm) phát triển thẳng góc với một
đế thuỷ tinh pha tạp F lên SnO2 bằng sự oxi hoá anot. Sau khi kết tinh bằng sự ủ oxi và
xử lý với TiCl4, mảng ống nano được tích hợp lên một cấu trúc DSC sử dụng hệ Ru - thuốc nhuộm có giá trị thương mại (N79). Pin hoạt động với dòng quang 7,87 mA/cm2
với hiệu suất dòng quang 2,9%, dùng điện cực dày 360 nm. Họ đã tìm ra rằng trật tự sắp
xếp cao của mảng ống có thời gian sống điện tử tốt hơn và cung cấp các đường mòn
17
tuyệt vời cho các electron thấm qua trong phép so sánh với hệ thống hạt phân tán nano.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
1.1.3.3. Phân tách nước dựa trên hiện tượng quang xúc tác
Một lực lượng lớn công trình chỉ tập trung cho việc nghiên cứu các tính chất
và ứng dụng của TiO2 dưới điều kiện chiếu sáng kể từ khi phát hiện ra khả năng
quang xúc tác phân tách nước của điện cực TiO2 năm 1972 (Fujishima và Honda).
Quá trình quang xúc tác phân tách nước thành H2 và O2 sử dụng vật liệu nano TiO2
tiếp tục là một mơ ước của con nguồn về các nguồn năng lượng sạch.
Hình 1.5 biểu diễn nguyên tắc của
sự phân tách nước sử dụng chất
quang xúc tác TiO2 [44]. Khi TiO2
hấp thụ ánh sáng năng lượng lớn
hơn năng lượng vùng cấm, electron
và lỗ trống được tạo thành tương
ứng trong vùng dẫn và vùng hoá trị.
Hình 1.5. Nguyên tắc của sự phân chia nước
Sự phát quang electron và lỗ trống
sử dụng chất quang xúc tác TiO2
là nguyên nhân các phản ứng oxi
hoá khử. Các phân tử nước bị khử bởi các electron tạo thành H2 và bị oxi hoá bởi lỗ
trống tạo thành O2, dẫn đến toàn bộ nước bị phân tách. Chiều rộng của vùng cấm,
thế của vùng dẫn và vùng hoá trị là rất quan trọng. Những tác nhân khác như: sự
phân chia điện tích, độ linh động, thời gian sống của electron và lỗ trống phát quang
cũng ảnh hưởng đến tính chất quang xúc tác của TiO2. Các tác nhân ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tính kết khối của vật liệu như mức độ kết tinh. Trạng thái bề mặt,
nhóm hoá học bề mặt, vùng bề mặt và vị trí kích hoạt phản ứng cũng rất quan trọng.
Sayama và Arakawa đã tìm ra việc thêm muối cacbonat vào huyền phù TiO2
pha tạp Pt sẽ dẫn đến hiệu quả phân tách nước cao. Các ion cacbonat ảnh hưởng đến
cả hạt Pt và bề mặt TiO2. Pt được phủ lên một số hợp chất titan hydroxit và tốc độ
phản ứng nghịch trên Pt bị chặn có hiệu quả khi có mặt ion cacbonat. Các cấu tử
cacbonat hỗ trợ quá trình giải hấp O2 từ bề mặt TiO2. Khan và Akikusa đã tìm ra
18
điện cực màn n -TiO2 tinh thể nano không bị phủ là không bền trong phản ứng phân
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
chia nước dưới điều kiện chiếu sáng và độ bền của chúng có thể được cải thiện một
cách đáng kể khi được phủ Mn2O3.
Ngoài những ứng dụng cơ bản ở trên thì TiO2 dạng ống nano còn có khả
năng tích trữ hidro rất tốt nên được ứng dụng như là một senser và nhiều ứng dụng
quan trọng khác. Nhiều công trình công bố cho thấy khả năng tích trữ hidro lớn khi
vật liệu TiO2 được biến tính bằng một số kim loại và phi kim.
1.2. Giới thiệu chung về vật liệu TiO2 kích thước nano biến tính
1.2.1. Phân loại quang xúc tác trên cơ sở TiO2 kích thước nano mét
Hiện nay, theo nhiều tài liệu tham khảo có thể phân loại vật liệu quang xúc
tác trên cơ sở TiO2 thành 4 loại như sau: TiO2 tinh khiết, TiO2 biến tính bằng các ion
kim loại, TiO2 được biến tính bằng các nguyên tố không kim loại, TiO2 được biến
tính đồng thời bởi các ion của các nguyên tố kim loại và không kim loại [47].
Những năm gần đây, TiO2 biến tính bằng các ion kim loại – đặc biệt là cảu
ion kim loại chuyển tiếp- và các nguyên tố không kim loại đang được các nhà
nghiên cứu quan tâm nhiều. Việc biến tính TiO2 bằng các ion kim loại, đặc biệt là
các ion kim loại chuyển tiếp d và f cho thấy tăng cường đáng kể hoạt động quang
xúc tác của TiO2 về vùng ánh sáng nhìn thấy.
1.2.2. Sự biến tính của vật liệu TiO2 kích thước nano mét
Sự cảm ứng quang học của bất kỳ vật liệu nào được xác định rõ bởi cấu trúc
điện tử của chúng. Các tính chất điện của vật liệu có liên quan mật thiết đến các
thành phần hóa học của nó (bản chất hóa học của các liên kết giữa các nguyên tử
hoặc các ion), sự sắp xếp nguyên tử và chiều hướng biến đổi tính chất vật lý của nó
(sự bao bọc của các hạt mang điện tích) đối với các vật liệu kích thước nano mét.
Thành phần hóa học của TiO2 có thể được thay đổi bởi sự doping. Đặc biệt, hợp
phần kim loại (titan) hoặc phi kim (oxy) trong TiO2 có thể được thay thế nhằm thay
đổi các tính chất quang học của vật liệu. Sẽ là lý tưởng nếu sự biến tính không làm
thay đổi cấu trúc tinh thể của chất xúc tác quang hóa "chất chủ" mà lại tạo ra sự
thay đổi có lợi trong cấu trúc điện tích của chúng. Do tính "biến dạng mạng lưới"
19
vốn có của vật liệu nano, sự thay đổi cấu trúc của vật liệu nano TiO2 do sự có mặt của
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
các tiểu phân khác trong phân tử thì lớn hơn so với TiO2 khối, vì thế kích thước nhỏ bé
của các hạt nano có lợi cho sự biến tính của TiO2 [24].
Rất nhiều ứng dụng của các vật liệu nano TiO2 liên quan mật thiết đến các tính
chất quang học của nó. Tuy nhiên, khả năng ứng dụng các vật liệu nano TiO2 đôi khi bị
cản trở bởi bề rộng dải trống của nó. Dải trống của TiO2 tinh khiết nằm trong vùng tử
ngoại ( độ rộng vùng cấm là 3,05 eV cho pha rutile và 3,25 eV cho pha anatase), dải này
chỉ chiếm một vùng nhỏ trong toàn bộ dải năng lượng ánh sáng từ mặt trời (< 4%) [47].
Vì vậy, một trong những mục tiêu để cải thiện hoạt tính quang học của vật
liệu nano TiO2 là chuyển dịch dải trống từ vùng tử ngoại về vùng ánh sáng nhìn
thấy. Có nhiều phương pháp để thực hiện mục tiêu này. Thứ nhất, chúng ta có thể
kích hoạt vật liệu nano TiO2 với những nguyên tố mà chúng có khả năng thu hẹp
dải trống, do đó thay đổi tính chất quang học của vật liệu nano TiO2. Thứ hai, chúng
ta có thể hoạt hóa TiO2 bởi các chất vô cơ hoặc hữu cơ có màu, cách này cũng có
thể cải thiện tính chất quang học của nó trong vùng ánh sáng nhìn thấy. Thứ ba,
electron trong dải dẫn của nano TiO2 có thể cặp đôi dao động cộng hưởng với các
electron trong dải dẫn trên bề mặt của các hạt nano kim loại như trong các vật liệu
nano compozit kim loại - TiO2. Thêm vào đó, sự biến tính bề mặt các hạt nano TiO2
bởi các chất bán dẫn khác có thể làm thay đổi khả năng chuyển điện tích của TiO2
với môi trường xung quanh, nhờ đó nâng cao ứng dụng của các thiết bị sử dụng vật
liệu này.
Tuy nhiên, một xu hướng đang được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều là
tìm cách thu hẹp bớt giá trị năng lượng vùng cấm của TiO2 bằng cách đưa các ion
kim loại và không kim loại vào trong mạng lưới TiO2. Chẳng hạn như: Choi và các
cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu về các hạt nano TiO2 đã được kích hoạt với 21
ion kim loại bằng phương pháp sol - gel một cách có hệ thống và đã tìm ra sự có
mặt của các chất thêm ion kim loại ảnh hưởng đáng kể đến hoạt tính quang hóa, các
tốc độ tái kết hợp của chất mang điện tích, và các tốc độ chuyển electron ở mặt phân
cách [47]; Nagaveni và các cộng sự [27] đã điều chế các hạt nano TiO2 dạng anatase
20
được pha tạp bởi ion W, V, Ce, Zr, Fe bằng phương pháp đốt cháy dung dịch và
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
thấy rằng sự tạo thành dung dịch rắn bị giới hạn bởi một khoảng hẹp của nồng độ
các chất thêm dạng ion, Ghasemi và cộng sự đã triển khai điều chế TiO2 được kích
hoạt bởi các ion kim loại chuyển tiếp Cr, Mn, Fe, Co, Ni, Cu, Zn bằng phương pháp
sol-gel và kết quả cho thấy sản phẩm thu được có khả năng phân hủy axit Blue 92
trong vùng ánh sáng khả kiến [37]; Jina Choi và cộng sự đã tổng hợp TiO2 pha tạp
với đơn 13 cation kim loại chuyển tiếp khác nhau bằng phương pháp sol-gel và
khảo sát ảnh hưởng của chúng trong việc phân hủy dung dịch xanh metylen, oxi hóa I-, phân hủy phenol và kết quả thu được cho thấy, tất cả các mẫu TiO2 được pha tạp
đều có khả năng quang xúc tác trong vùng ánh sáng khả kiến tốt hơn so với mẫu
TiO2 không pha tạp [43]. Theo báo cáo của Chen [47] thì TiO2 được pha tạp các
nguyên tố phi kim như C, N, S, P, Cl, I cũng cho khả năng quang xúc tác trong
vùng ánh sáng khả kiến khá tốt.
1.2.3. Vật liệu TiO2 nano biến tính bằng neođim
Những năm gần đây, rất nhiều nghiên cứu cho thấy TiO2 được pha tạp bởi
các nguyên tố hiếm mà đặc biệt là neođim có thể làm tăng diện tích bề mặt riêng,
tăng dung lượng hấp phụ và tăng khả năng phân hủy các hợp chất hữu cơ độc hại
trong nước. Các tác giả [24] đã nghiên cứu điều chế titan đioxit được biến tính bằng Nd3+ theo phương pháp sol-gel. Kết quả thực nghiệm cho thấy, sự có mặt của Nd3+
làm ức chế quá trình chuyển pha từ anatase sang rutile, bột TiO2 thu được có kích
thước hạt khoảng 1020 nm và hoạt tính quang xúc tác thể hiện qua hiệu suất quang
phân tách nước tăng 3,5 lần so với TiO2 không biến tính trong vùng ánh sáng tử ngoại. Các tác giả [53] đã nghiên cứu điều chế sol TiO2 biến tính Nd3+ bằng phương
pháp đồng kết tủa – peptit hóa và đánh giá hoạt tính quang xúc tác của nó thông qua
phản ứng quang phân huỷ phenol và các dẫn xuất của phenol, kết quả cho thấy hoạt
tính quang xúc tác khá cao trong vùng ánh sáng nhìn thấy. Trong công trình [45] các tác giả đã xác định năng lượng vùng cấm của TiO2 biến tính Nd3+ theo phương
pháp lắng đọng pha hơi hóa học. Năng lượng vùng cấm được xác định bằng phương
21
pháp phổ hấp thụ UV-VIS, kết quả cho thấy năng lượng vùng cấm tối đa giảm được 0,55 eV với tỷ lệ biến tính Nd3+/ TiO2 là 1,5%.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Những kết quả trên cho thấy, việc biến tính TiO2 nano bằng Nd3+ có thể làm
tăng đáng kể hoạt tính quang xúc tác của TiO2 về vùng ánh sáng nhìn thấy. Tuy
nhiên, đa phần các công trình chỉ khảo sát khả năng quang xúc tác của TiO2 trong
vùng ánh sáng tử ngoại, chi tiết cho các quá trình điều chế cũng như ảnh hưởng của
phương pháp điều chế và tiền chất chưa được khảo sát một cách cụ thể, ảnh hưởng
tỷ lệ thành phần pha, mức độ ổn định cấu trúc ít được đề cập đến. Trong công trình
này chúng tôi góp phần làm rõ một số vấn đề vừa nêu.
1.2.4 Các phương pháp điều chế bột TiO2 kích thước nanomet
Hiện nay, để điều chế vật liệu kích thước nano nói chung hoặc vât liệu TiO2
kích thước nano nói riêng người ta có thể thực hiện theo hai phương thức khác
nhau. Phương thức thứ nhất đi từ trên xuống dưới top-down) nghĩa là chia nhỏ các
hạt có kích thước lớn cuối cùng thu được các hạt có kích thước nano. Phương thức
thứ hai đi từ dưới lên (bottom-up) nghĩa là lắp gép các nguyên tử, phân tử để thu
được các hạt có kích thước lớn hơn cỡ nano.
Phương thức thứ nhất thường được thực hiện bằng các máy nghiền hoặc bằng
các phương pháp vật lý do đó có nhiều nhược điểm là đòi hỏi phải có các thiết bị hiện
đại, tiêu tốn nhiều năng lượng, kích thước hạt không đồng đều, năng xuất thấp.
Phương thức thứ hai được thực hiện bằng các phương pháp hóa học do đó
quá trình thực hiện đơn giản, không đòi hỏi các thiết bị hiện đại, các hạt thu được có
kích thước hạt đồng đều hơn và giá thành rẻ. Các phương pháp hóa học thường
được dùng để điều chế vật liệu nano như: Phương pháp Sol-gel, phương pháp thủy
phân, phương pháp thủy nhiệt…
1.2.4.1. Phương pháp sol-gel
Phương pháp sol - gel đã được sử dụng trong các quy trình nhằm tổng hợp
nhiều loại gốm khác nhau. Đối với quy trình sử dụng phương pháp sol - gel, dạng
keo huyền phù, hoặc dạng sol, được hình thành từ sự thủy phân và các phản ứng
polyme hóa các chất đầu. Chúng ta thường sử dụng các chất đầu như các muối kim
22
loại vô cơ hoặc các hợp chất hữu cơ thí dụ như dạng alkoxide kim loại.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Sau khi quá trình polyme hóa xảy ra và dung môi mất bớt đi sẽ dẫn đến sự
tạo thành pha gel rắn từ dạng sol lỏng. Dạng màng mỏng có thể thu được bằng cách
phủ lên bề mặt chất nền hoặc nhúng. Dạng gel ướt có thể được tạo thành bằng cách
tạo khuân cho dạng sol, và dạng gel ướt có thể được xử lý sấy khô và nung để kết
khối thành dạng gốm kỹ thuật cần tổng hợp. Ngoài ra dạng dây gốm kỹ thuật còn
có thể được kéo sợi từ dạng sol trong điều kiện thích hợp. Dạng bột siêu mịn hay
các loại gốm đặc biệt có thể thu được từ kết tủa nếu sử dụng phương pháp phun
nhiệt phân, công nghệ xử lý hạt nhũ tương trong dung dịch. Dưới các điều kiện
chọn lọc, các vật liệu nano tùy mục đích sử dụng có thể được tổng hợp.
Nguồn titan sử dụng phổ biến cho phương pháp sol-gel là Ti(O-E)4, Ti(i-
OP)4 và Ti(n-OBu)4 . Phương pháp sol gel đã được sử dụng rộng rãi đối với các ôxit
nhiều thành phần trong đó hỗn hợp cuối cùng phải là một pha đồng nhất ở cấp độ
phân tử.
Ưu điểm của phương pháp này là có thể điều khiển kích thước hạt dễ dàng,
các hạt tạo ra đồng đều, có thể tạo ra sản phẩm đa dạng về chủng loại và giá thành
tương đối thấp.
Quy trình chung của phương pháp sol – gel dùng để điều chế Nd/TiO2
[17,24] cũng như các dạng vật liệu nano khác thực hiện theo sơ đồ sau:
Gel
Già hóa Gel hóa Sol Xerogel
Sấy
Thiêu kết
Nghiền mịn
Bột mịn
Tiền chất
Gel khô
Vật liệu
1.2.4.2. Phương pháp thuỷ phân
Phương pháp thủy phân là phương pháp phổ biến đã được biết đến từ lâu và
23
ngày nay nó vẫn được sử dụng rất nhiều trong các cơ sở sản xuất và nghiên cứu,
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
trong nhiều ngành khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là trong công nghệ sản xuất
các vật liệu mới và tiên tiến, vật liệu kích thước nano mét.
Phương pháp thủy phân thường sử dụng các muối vô cơ của titan làm tiền
chất. Trong số các muối vô cơ của titan được sử dụng để điều chế titan oxit dạng
anatase thì TiOSO4 được sử dụng nhiều nhất và cho kết quả rất tốt.
Quá trình thủy phân xảy ra theo phản ứng sau:
TiOSO4 + 3H2O Ti(OH)4 + H2SO4
Sau đó, Ti(OH)4 ngưng tụ loại nước để tạo ra kết tủa TiO2.nH2O. Kết tủa sau
đó được lọc, rửa, sấy, nung ở nhiệt độ thích hợp để thu được sản phẩm TiO2 kích
thước nano. Kết quả thu được từ phương pháp này rất tốt, các hạt TiO2 có kích
thước nhỏ từ 10 đến 30 nm, hoạt tính quang xúc tác cao.
Chất lượng sản phẩm TiO2 và hiệu suất quá trình điều chế chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố như nồng độ các chất ban đầu, nhiệt độ thủy phân, sự có mặt của
các chất điện ly, thời gian thuỷ phân, nhiệt độ nung ...
1.2.4.3. Phương pháp thủy nhiệt
Phương pháp thủy nhiệt đã được biết đến từ lâu và ngày nay nó vẫn chiếm
một vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là
trong công nghệ sản xuất các vật liệu kích thước nano mét. Thủy nhiệt là những
phản ứng hóa học xảy ra với sự có mặt của một dung môi thích hợp (thường là
nước) ở trên nhiệt độ phòng, áp suất cao (trên 1atm) trong một hệ thống kín. Vì quá
trình thủy nhiệt được thực hiện trong buồng kín nên liên quan chặt chẽ tới mối quan
hệ giữa nhiệt độ và áp suất.
Tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt thường được chúng ta kiểm soát
trong bình thép kín tạo áp suất, thiết bị này được gọi là autoclave, nó có thể gồm lớp
Teflon chịu nhiệt độ cao và chịu được điều kiện môi trường axit và kiềm mạnh, có
thể điều chỉnh nhiệt độ cùng hoặc không cùng với áp suất và phản ứng xảy ra trong
dung dịch nước. Nhiệt độ có thể được đưa lên cao hơn nhiệt độ sôi của nước, trong
phạm vi áp suất hơi bão hòa. Nhiệt độ và lượng dung dịch hỗn hợp đưa vào
24
autoclave sẽ tác động trực tiếp đến áp suất xảy ra trong quá trình thủy nhiệt. Phương
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
pháp này đã được sử dụng rộng rãi để tổng hợp các sản phẩm trong công nghiệp
gốm sứ với các hạt mịn kích thước nhỏ.
Trong phương pháp thủy nhiệt, nước thực hiện hai chức năng:
+ Môi trường truyền áp suất, vì nó có thể ở trạng thái lỏng hoặc hơi, tồn tại
chủ yếu ở dạng phân tử H2O phân cực.
+ Làm dung môi hòa tan một phần chất phản ứng dưới áp suất cao, do đó
phản ứng được thực hiện trong pha lỏng hay có sự tham gia của một phần pha lỏng
25
hoặc pha hơi.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Chương 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Mục tiêu và các nội dung nghiên cứu của luận văn
2.1.1. Mục tiêu của luận văn
Nghiên cứu điều chế, khảo sát cấu trúc, hoạt tính quang xúc tác của bột titan
điôxit kích thước nano được biến tính neođim.
2.1.2. Các nội dung nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu trên chúng tôi tiến hành một số nội dung nghiên cứu quan
trọng như sau:
- Nghiên cứu, khảo sát, các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc, hoạt tính quang
xúc tác bột Nd-TiO2 bằng phương pháp sol-gel như: ảnh hưởng của thời gian làm
già gel, ảnh hưởng của nhiệt độ sấy, ảnh hưởng của tỷ lệ khối lượng Nd/TiO2, ảnh
hưởng của nhiệt độ nung.
- Nghiên cứu, khảo sát, các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc, hoạt tính quang
xúc tác bột Nd-TiO2 bằng phương pháp thủy phân như: ảnh hưởng của lượng Urê,
ảnh hưởng của thời gian thủy phân, ảnh hưởng của tỷ lệ khối lượng Nd/TiO2, ảnh
hưởng của nhiệt độ nung.
- Sử dụng một số phương pháp hóa lý hiện đại để nghiên cứu cấu trúc, đặc
tính của sản phẩm bột Nd-TiO2 như: phương pháp phân tích nhiệt, phương pháp
nhiễu xạ tia X (XRD), phương pháp hấp thụ quang UV-VIS, phương pháp tán xạ
diện tử EXD, phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tổng hợp vật liệu TiO2 biến tính neođim, các
phương pháp được sử dụng, đó là:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: sưu tầm, phân tích, tổng hợp các tài liệu
liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
- Phương pháp thực nghiệm: sử dụng các phương pháp sol-gel, thủy phân,
thủy nhiệt để điều chế vật liệu TiO2 biến tính Neođim. Khảo sát các yếu tố ảnh
26
hưởng đến quá trình điều chế như: nhiệt độ, thời gian, môi trường, nồng độ…
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
- Kiểm tra hoạt tính quang xúc tác của TiO2 biến tính neođim dưới tác dụng
kích thích của ánh sáng nhìn thấy trên phản ứng quang phân hủy xanh metylen
trong dung dịch nước
- Sử dụng các phương pháp hóa lý hiện đại để nghiên cứu cấu trúc và đặc
tính bột Nd-TiO2.
2.3. Hoá chất, dụng cụ và thiết bị
2.3.1. Hóa chất
Các hóa chất sử dụng cho việc tiến hành thực nghiệm bao gồm:
* Ti(OBu)4 99,9% (Merck). * Urê (CO (NH2)2) (Merck).
* Etanol tuyệt đối (Merck). * TiOSO4 99,9% (Sygma)
* Xanh metylen (Trung Quốc). * HNO3 65% (Merck).
* Nước cất hai lần. * H2SO4 98% (Merck)
* Nd(NO3)3.6H2O (Sygma).
2.3.2. Dụng cụ và thiết bị
* Cốc thủy tinh các loại * Máy khuấy từ (Trung Quốc)
* Pipet 0,1ml; 0,5ml; 1ml; 5ml, 10ml,. * Máy ly tâm (Trung Quốc)
* Buret 50ml (Trung quốc). * Tủ sấy chân không SheLab 1425-2 (Mỹ)
* Bình tia nước cất. * Cân phân tích Precisa (Thụy Sỹ)
* Ống li tâm V=15ml * Lò nung Nabertherm (Đức) .
* Chén nung. * Bình Thủy nhiệt.
* Đũa thủy tinh. * Cối Mã não
2.3.3. Pha mẫu.
Pha dung dịch Nd(NO3)3 0,245 M
Nd(NO3)3 được pha thành dung dịch có nồng độ 0,245 M (tương ứng với tỷ
lệ Nd/TiO2 bằng 1% mol) như sau: Cân chính xác 1,9148 g Nd(NO3)3.6H2O trên cân phân tích (± 10-4 g), chuyển định lượng vào bình định mức 25ml, thêm nước cất
27
đến 2/3 thể tích của bình, lắc đều cho tan, dung dịch được điều chỉnh để pH đạt giá
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
trị ~ 4 bằng dung dịch HNO3, sau đó định mức bằng nước cất đến vạch. Dung dịch
này được sử dụng để pha chế các dung dịch khác có nồng độ Nd(NO3)3 khác nhau
tương ứng với tỷ lệ Nd/TiO2 đã xác định.
Pha dung dịch xanh metylen
Cân chính xác 0,2g xanh metylen rồi cho vào bình định mức 2 lít ta thu được
dung dịch gốc. Lấy 200 ml dung dịch gốc cho vào bình định mức 2 lít ta thu được 2lít
dung dịch xanh mêtylen có nồng độ 10mg/lít. Dung dịch này được dùng để thực hiện
Thêm
quá trình phân hủy quang với chất xúc tác là bột Nd -TiO2. 2.4. Điều chế bột TiO2 biến tính Nd3+ bằng phương pháp sol-gel Ti(OBu)4
C2H5OH
Thêm
Khuấy
Thêm
C2H5OH
Nd(NO3)3 nồng độ CM
b ml HNO3
Nhỏ từ từ B vào A
Khuấy
Làm già
Ở nhiệt độ phòng
Dung dịch A Dung dịch B Thủy phân ở nhiệt độ phòng
Sấy
toC
gel thu được Dung dịch sol trong suốt
Nung
Gel khô
28
Bột TiO2 biến tính neođim kích thước nano
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 2.1. sơ đồ mô tả quá trình thực nghiệm điều chế bột TiO2 biến tính neođim bằng phương pháp sol-gel
Bột TiO2 biến tính neođim được điều chế bằng phương pháp sol-gel theo quy
trình sau đây:
a) Chuẩn bị dung dịch A:
Đầu tiên Ti(OBu)4 được hòa tan trong ethanol, khuấy trộn đều máy khuấy từ,
sau đó cho tiếp HNO3 65% vào và tiếp tục khuấy.
b) Chuẩn bị dung dịch B: Hút C2H5OH cho vào cốc, sau đó cho tiếp Nd3+ CM vào, ta thu được dung dịch B
(dung dịch Nd(NO3)3 được xem như là lượng nước trong quá trình sol-gel).
Dung dịch B được cho từng giọt rất chậm vào dung dịch A. Hỗn hợp được
thủy phân ở nhiệt độ phòng trong điều kiện khuấy mạnh, và thu được các sol trong
suốt.
Gel được điều chế bởi sự làm già của sol ở nhiệt độ phòng. Sau đó gel được
sấy khô để loại bỏ các dung môi. Cuối cùng gel được nung ở nhiệt độ và thời gian
thích hợp ta thu được sản phẩm bột TiO2.
Mẫu TiO2 không biến tính được điều chế giống như quy trình nêu trên nhưng
dung dịch Nd(NO3)3 được thay bằng nước cất.
Sản phẩm sau khi điều chế được thử quang xúc tác để xác định hiệu suất
phân hủy xanh metylen và bằng các phương pháp phân tích hiện đại để xác định cấu
trúc, thành phần pha, kích thước hạt trung bình, diện tích bề mặt riêng,… 2.5. Điều chế bột TiO2 biến tính Nd3+ bằng phương pháp thủy phân
Đầu tiên, hòa tan TiOSO4 vào nước cất nóng đã được axit hóa bằng axit
H2SO4 đạt nồng độ, để nguội, cho tiếp urê vào dung dịch TiOSO4 thu được và khuấy
đều. Dung dịch được pha loãng bằng nước cất hai lần. Sau đó, dung dịch Nd(NO3)3
được cho từ từ vào dung dịch trên ứng với tỉ lệ mol Nd/TiO2 xác định, kết hợp khuấy liên tục. Cuối cùng, dung dịch thu được được tiến hành thủy phân ở toC trong
một khoảng thời gian xác định.
Sơ đồ mô tả quá trình điều chế bột TiO2 biến tính bởi neođim bằng phương
29
pháp thủy phân được thể hiện ở hình 2.2.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hòa tan
TiOSO4
Cho từ từ
Cho Nd3+ CM và H2O
urê (NH)2CO H2O axít hóa
Khuấy đều
Khuấy trộn mạnh
Thủy phân ở nhệt độ 1000C
Dung dịch trong suốt
Lọc rửa kết tủa
Dung dịch và kết tủa
Sấy khô
Kết tủa
Nung
Bột TiO2 biến tính Neođim kích thước nano Kết tủa khô
Hình 2.2. sơ đồ mô tả quá trình thực nghiệm điều chế bột TiO2 biến tính Nd bằng phương pháp thủy phân
Huyền phù được rửa vài lần bằng nước cất và sau đó là ethanol cho đến khi 2- trong nước rửa bằng dung dịch BaCl2 0,2 M. Bột không phát hiện thấy ion SO4 Nd/TiO2 được sấy khô ở 110oC trong 24 giờ rồi đem nung ở nhiệt độ xác định trong
thời gian 4h ta thu được sản phẩm. Mẫu TiO2 không biến tính được điều chế tương
30
tự và dung dịch Nd(NO3)3 được thay bằng nước cất hai lần.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
2.6. Phương pháp khảo sát khả năng phân hủy quang xanh metylen trong
dung dịch nước của bột TiO2 biến tính. + Cân 0,15g bột TiO2 điều chế được cho vào cốc chứa 200ml dung dịch xanh metylen
0,01g/lít đã pha. Khuấy hỗn hợp 30 phút trong bóng tối để đạt đến cân bằng hấp phụ.
+ Sau đó chiếu sáng bằng đèn compact Goldstar công suất 40W (hình 2.3)
với ba vùng bước sóng đặc trưng là 436, 545 và 610 nm và khuấy trộn liên tục trong
một thời gian xác đinh.
Hình 2.3. Quang phổ của đèn Compact Goldstar
+ Dung dịch xanh metylen sau khi phân hủy được li tâm để loại hết bột TiO2
biến tính. Tiến hành đo mật độ quang để xác định nồng độ xanh metylen sau khi
phân hủy trên máy Spectrophotometer 1650PC SHIMADZU.
Hiệu suất khử quang xúc tác đối với xanh metylen H(%) được xác định theo
công thức:
% (2.2)
Trong đó: H (%) là hiệu suất khử quang xúc tác đối với xanh metylen, C0 và C là
nồng độ xanh metylen trước và sau khi bị phân hủy, (g/l).
Xây dựng đường chuẩn của dung dịch xanh metylen được thực hiện với các
nồng độ 0,05; 0,50; 1,0; 2,0; 3,0; 4,0; 5,0; 6,0; 7,0; 8,0; 9,0; 10,0 ppm với bức sóng
31
hấp thụ cực đại tại 663 nm. Giá trị mật độ quang được đưa ra ở bảng sau:
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bảng 2.1. Nồng độ xanh metylen và độ hấp thụ (Abs)
Nồng độ (ppm) 0.05 0.50 1.0 2.0 3.0 4.0
Độ hấp thụ 0.022 0.130 0.210 0.366 0.611 0.832
(Abs)
Nồng độ (ppm) 5.0 6.0 7.0 8.0 9.0 10.0
Độ hấp thụ 0.942 1.190 1.352 1.531 1.802 1.985
(Abs)
Từ bảng số liệu trên, ta xây dựng được đường chuẩn biểu diễn mối quan hệ
giữa độ hấp thụ biến thiên với nồng độ (đường hồi quy tuyến tính) cho dung dịch
xanh metylen trong khoảng nồng độ trên.
Hình 2.4. Đường chuẩn của dung dich xanh metylen.
Phương trình đường chuẩn : y = 0,1952x + 0,0109 với R2 = 0,9973
Từ đường chuẩn cho chúng ta thấy nồng độ của xanh metylen trong khoảng từ
0.05 đến 10.0 ppm tỷ lệ tuyến tính với độ hấp thụ và tuân theo định luật Lambert – beer.
Vậy trong khoảng nồng độ này, ta có thể dùng độ hấp thụ quang thay cho
nồng độ:
Do (2.3)
32
Hiệu suất phân hủy quang được xác định theo công thức:
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
(2.4)
Trong đó:
+ A0: Độ hấp thụ quang của xanh metylen trước khi bị phân hủy quang
+ A: độ hấp thụ quang mẫu XM sau khi bị phân hủy quang
2.7. Các phương pháp hóa lý dùng để nghiên cứu cấu trúc và đặc tính của bột Nd-
TiO2 biến tính
2.7.1.Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) [9,10]
Phương pháp nhiễu xạ tia X cung cấp trực tiếp những thông tin về cấu trúc
tinh thể, thành phần pha và kích thước trung bình của các hạt sơ cấp TiO2.
Nguyên lý chung của phương pháp nhiễu xạ tia X là dựa vào vị trí và cường
độ các vạch nhiễu xạ trên giản đồ ghi được của mẫu để xác định thành phần pha,
các thông số mạng lưới tinh thể, khoảng cách giữa các mặt phản xạ trong tinh thể.
Xét hai mặt phẳng song song I và II có khoảng cách d (Hình 2.5). Chiếu chùm tia
Rơngen tạo với các mặt phẳng trên một góc θ. Để các tia phản xạ có thể giao thoa
thì hiệu quang trình của hai tia 11’ và 22’ phải bằng số nguyên lần bước sóng .
AB + AC = n hay . Đó là phương trình Bragg.
Hình 2.5. Sự phản xạ trên bề mặt tinh thể
Dựa vào giá trị bán chiều rộng của peak (đỉnh) đặc trưng trên giản đồ nhiễu
xạ người ta có thể tính được kích thước trung bình của các hạt tinh thể (hạt sơ cấp)
33
theo công thức Scherrer. Đối với vật liệu TiO2, trên giản đồ nhiễu xạ tia X xuất hiện
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
peak đặc trưng của pha anatase và rutile lần lượt ở góc Bragg là 12,680 và 13,730.
Từ giản đồ nhiễu xạ tia X, người ta có thể tính được kích thước trung bình của các
hạt TiO2 theo công thức Scherrer:
(2.5)
Trong đó : là kích thước hạt trung bình (nm). là bước sóng bức xạ K
của anot Cu, bằng 0.154056 nm, là độ rộng (FWHM) của pick tại nửa độ cao của
pick cực đại (radian), là góc nhiễu xạ Bragg ứng với peak cực đại (độ).
Từ giản đồ nhiễu xạ tia X ta cũng có thể tính được thành phần của các pha
anatase và rutile trong mẫu TiO2 theo phương trình (1.15) [19]:
(2.6) ; XR = 1-
Trong đó: XR là hàm lượng rutile (%). là hàm lượng anatase (%). IA là
cường độ nhiễu xạ của anatase ứng với mặt phản xạ (101). IR là cường độ nhiễu xạ
của rutile ứng với mặt phản xạ (110).
Hình 2.6. Nhiễu xạ kế tia X D8- Advance 5005 (CHLB Đức).
Trong luận văn này, giản đồ XRD của các mẫu được ghi trên nhiễu xạ kế tia
34
X D8- Advance 5005 (Hình 2.5), với tia K của anot Cu có = 0,154056 nm, nhiệt độ ghi 25oC, góc 2: 1070 độ, tốc độ quét 0,030 độ/s.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
2.7.2. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Hiển vi điện tử truyền qua (Transsmision Electronic Microscopy) là phương
pháp hiển vi điện tử đầu tiên được phát triển với thiết kế mô phỏng phương pháp
hiển vi quang học truyền qua. Phương pháp này sử dụng một chùm điện tử thay thế
chùm sáng chiếu xuyên qua mẫu và thu được những thông tin về cấu trúc và thành
phần của nó giống như cách sử dụng hiển vi quang học.
Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua có ưu thế hơn phương pháp SEM ở
chỗ nó có độ phóng đại lớn hơn nhiều lần.
Hình 2.7. Nguyên lý hoạt động và kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Trong luận văn này, các ảnh TEM của sản phẩm được chụp trên kính hiển vi
điện tử truyền qua JEM1010 – (JEOL) tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương với hệ
số phóng đại M = x50 - x600.000, độ phân giải =3A0, điện áp gia tốc U=40-100kV
để khảo sát hình dạng, kích thước và sự phân bố của các hạt sản phẩm.
2.7.3. Phương pháp phân tích nhiệt
Phân tích nhiệt là nhóm các kỹ thuật nghiên cứu quan hệ giữa tính chất và
nhiệt độ của mẫu. Mục đích của phương pháp phân tích nhiệt là dựa vào hiệu ứng
nhiệt để có thể nghiên cứu những quá trình phát sinh khi đun nóng hoặc làm nguội
35
chất.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Trên giản đồ phân tích nhiệt thông thường người ta quan tâm tới 2 đường
cong quan trọng là DTA và TGA. Đường DTA cho biết sự xuất hiện của các hiệu
ứng nhiệt, đường TGA cho biết biến thiên khối lượng mẫu trong quá trình gia nhiệt.
Mỗi quá trình biến đổi hóa học như các phản ứng pha rắn, sự phân hủy mẫu hay các
biến đổi vật lý như sự chuyển pha đều có một hiệu ứng nhiệt tương ứng. Nhờ đường
DTA chúng ta có thể biết được khi nào có hiệu ứng thu nhiệt (cực tiểu trên đường
cong) và hiệu ứng tỏa nhiệt (cực đại trên đường cong). Các quá trình trên có thể
kèm theo sự thay đổi khối lượng của mẫu nghiên cứu, ví dụ quá trình thăng hoa bay
hơi hay các phản ứng phân hủy, hoặc không đi kèm với sự thay đổi khối lượng của
mẫu như quá trình chuyển pha, tạo mạng tinh thể từ dạng vô định hình… Vì vậy,
kết hợp các dữ liệu thu được từ 2 đường TGA và DTA ta có thể biết được các tính
chất nhiệt của mẫu. Dựa vào việc tính toán các hiệu ứng mất khối lượng và các hiệu
ứng nhiệt tương ứng mà ta có thể dự đoán được các giai đoạn cơ bản xảy ra trong
quá trình phân hủy nhiệt của mẫu [14].
Trong luận văn này, các giản đồ phân tích nhiệt được ghi trên thiết bị Labsys TMA 1400 (SETARAM – Pháp), tốc độ quét 10oC/phút từ nhiệt độ phòng đến 900oC.
2.7.4. Phương pháp phổ tán xạ năng lượng tia X (EDX)
Nguyên lý làm việc của EDX chủ yếu được thực hiện trong các kính hiển vi
điện tử trong đó, ảnh vi cấu trúc vật rắn được ghi lại thông qua việ sử dụng chùm tia
điện tử có năng lượng cao tương ứng với vật rắn. Khi chùm điện tử có năng lượng
lớn được chiếu vào vật rắn, nó sẽ đâm xuyên sâu vào nguyên tử. Tương tác này dẫn
đến việc tạo ra các tia X có bước sóng đặc trưng tỷ lệ với nguyên tử số của nguyên
tử theo định luật Moselay.
Có nghĩa là, tần số tia X phát ra đặc trưng với nguyên tử của mỗi chất có
trong vật rắn. Viêc ghi nhận phổ tia X phát ra từ vật rắn sẽ cho thông tin về nguyên
36
tố hóa học trong mẫu đồng thời cho các thông tin về tỷ phần các nguyên tố nay.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Phổ tia X phát ra sẽ có tần số (năng lượng photon tia X) trải trong một vùng
rộng và được phân tích nhờ phổ kế tán sắc năng lượng do đó ghi nhận thông tin về
thành phần, khối lượng các nguyên tố có trong mẫu.
Trong bản luận văn này các mẫu được ghi phổ EDX trên dòng máy JEOl
JED - 2300 Analysis Station tại Viện khoa học Vật liệu - Viện khoa học và Công
nghệ Việt Nam với giới hạn năng lượng từ 0 - 20 keV.
2.7.5. Phương pháp BET
Phương pháp BET thường được ứng dụng để xác định diện tích bề mặt của
chất xúc tác rắn và so sánh các mẫu chất xúc tác trước và sau phản ứng. Giá trị diện
tích bề mặt xác định theo phương pháp BET thường chính xác hơn phương pháp
xác định bề mặt riêng đơn lớp của Langmuir.
Phương trình BET có dạng:
Trong đó : P: Áp suất tại điểm khảo sát
Po: Áp suất hóa lỏng của chất hấp phụ ở nhiệt độ thực nghiệm
Vm: Thể tích khí hấp phụ trên toàn bộ bề mặt chất rắn một lớp đơn
phân tử, ml/g.
C: Hằng số BET
Xây dựng giản đồ P/V(Po – P) phụ thuộc vào P/Po và sẽ nhận được một
đường thẳng. Độ nghiêng (tgα) và tung độ của đoạn thẳng OA cho phép xác định
thể tích của lớp phủ đơn lớp (lớp đơn phân tử) Vm và hằng số C. Diện tích bề mặt riêng SBET(m2.g-1) được tính theo phương trình SBET = VmNωo.
Trong luận văn này, diện tích bề mặt BET được xác định từ đường đẳng
37
nhiệt hấp phụ-giải hấp nitơ tại 77 K trên thiết bị Micromeritics (Mỹ).
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều chế Nd-TiO2 bằng phương pháp sol-gel
3.1.1. Khảo sát quá trình phân hủy nhiệt của gel khô bằng phương pháp phân tích nhiệt
Để đánh giá sơ bộ quá trình biến đổi xảy ra trong mẫu khi nung nóng đối với
hai mẫu gel khô TiO2 không biến tính và Nd-TiO2 chúng tôi tiến hành ghi giản đồ
phân tích nhiệt. Hai mẫu gel khô được điều chế theo quy trình như đã trình bày ở
2.1. Mẫu Nd-TiO2 được điều chế ứng với tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol) là 0,025%, mẫu TiO2 được điều chế tương tự nhưng thể tích dung dịch Nd3+ được thay bằng nước cất hai lần. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 và Nd-TiO2 như được đưa
ra ở hình 3.1 và 3.2.
Hình 3.2. Giản đồ phân tích nhiệt của Hình 3.1. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 biến tính với tỷ lệ Nd/TiO2 mẫu TiO2 không biến tính là 0,025% (mol/mol)
Hai pic thu nhiệt ở 75,26oC (mẫu TiO2) và 71,20oC (mẫu Nd-TiO2) được cho
38
là quá trình mất nước và N2 hấp phụ trên bề mặt TiO2. Các pic tỏa nhiệt ở nhiệt độ khoảng 150oC chính là quá trình đốt cháy dung môi còn lại trong mẫu và các gốc hữu cơ butoxit. Các pic tỏa nhiệt ở các khoảng nhiệt độ từ 250 - 400oC được gán
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
cho quá trình chuyển pha từ amophot sang anatase. Nhìn chung cả hai mẫu TiO2 và Nd-TiO2 tương đối ổn định ở nhiệt độ > 600oC. Theo một số nghiên cứu cho thấy nhiệt độ bắt đầu chuyển pha từ anatase sang rutile > 650oC và sản phẩm là hỗn hợp
của hai pha anatase và rutile ở tỷ lệ thích hợp thì có hoạt tính quang xúc tác cao nên các mẫu nghiên cứu tiếp theo chúng tôi tiến hành nung ở nhiệt độ 7000C.
3.1.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian làm già gel
Quy trình thực nghiệm như ở mục 2.1, với các điều kiện cố định: tỷ lệ Nd/TiO2 = 0,025%, sấy ở 90oC, nung ở 700oC trong 4 giờ. Các mẫu được làm già
gel với các thời gian khác nhau từ 1, 2, 3, 4 và 5 ngày được kí hiệu tương ứng là
ST1, ST2, ST3, ST4 và ST5.
Các mẫu Nd-TiO2 sau khi điều chế được tiến hành ghi nhiễu xạ tia X. Giản
đồ XRD và các thông số vật lí của các mẫu theo thời gian làm già gel khác nhau
được chỉ ra ở hình 3.3 và bảng 3.1.
Từ kết quả thu được chúng tôi nhận thấy, khi kéo dài thời gian làm già gel thì
kích thước hạt tăng. Nguyên nhân có thể là do thời gian làm già gel càng kéo dài thì
mức độ kết tụ giữa các hạt càng lớn nên kích thước hạt tăng.
Hình 3.3. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 theo thời gian làm già gel
Bảng 3.1. cho thấy khi thời gian làm già gel 1 - 2 ngày thì thành phần pha
39
anatase tăng. Nếu kéo dài thời gian làm già gel > 2 ngày thì thành phần anatase
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
giảm. Nguyên nhân là kích thước hạt càng lớn thì quá trình chuyển pha anatase sang
rutile càng mạnh nên thành phần pha anatase giảm.
Bảng 3.1. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-TiO2 theo thời gian làm già gel khác nhau
% Các pha Tỷ lệ Mẫu (nm) A/R Anatase Rutile
ST1 32,23 21 79 0,27/1
ST2 34,40 59 41 1,44/1
ST3 40,25 35 65 0,54/1
ST4 39,45 14 86 0,16/1
ST5 41,70 12 88 0,14/1
Hoạt tính quang xúc tác của các mẫu theo thời gian làm già gel khác nhau
được đánh giá qua khả năng phân hủy dung dịch xanh metylen. Tiến hành đo mật
độ quang để xác định nồng độ Xanh metylen trước và sau khi phân hủy trên máy
Spectrophotometer 1650PC SHIMADZU. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân
hủy được đưa ra ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các mẫu
Nd-TiO2 theo thời gian làm già gel khác nhau.
H(%) Mẫu A A0
80.83 ST1 1,985 0.380
90.20 ST2 1,985 0.194
86.60 ST3 1,985 0.266
81.30 ST4 1,985 0.371
40
70.70 ST5 1,985 0.582
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Từ bảng 3.2 và hình 3.4 nhận thấy, khi tăng dần thời gian làm già gel từ 1 - 2
ngày thì hiệu suất phân hủy quang tăng. Nếu tiếp tục kéo dài thời gian làm già gel
thì hiệu suất phân hủy quang giảm (nguyên nhân là do kích thước hạt tăng). Theo
[16, 23] nếu TiO2 có tỷ lệ pha anatase/rutile thích hợp (thường là ~7/3) thì sẽ nâng
cao hoạt tính quang xúc tác. Mẫu ứng với thời gian làm già gel 2 ngày có tỷ lệ
anatase/rutile ~6/4 nên hiệu suất phân hủy quang là cực đại. Vậy chúng tôi chọn
thời gian làm già gel là 2 ngày để tiến hành các thí nghiệm sau.
Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa hiệu suất phân hủy quang của các mẫu
Nd-TiO2 và thời gian làm già gel được chỉ ra ở hình 3.3.
Hình 3.4. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và thời gian làm già gel
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ sấy
Để khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ sấy gel đến cấu trúc và hoạt tính quang
xúc tác của các mẫu bột Nd-TiO2, chúng tôi tiến hành sấy mẫu ở các nhiệt độ khác nhau: 60, 70, 80, 90 và 1000C, các mẫu được kí hiệu tương ứng là ST60, ST70,
ST80, ST90 và ST100. Các điều khác được giữ cố định: tỷ lệ Nd/TiO2 = 0,025%, các mẫu được làm già gel 2 ngày, nung ở 700oC trong 4 giờ.
Để đánh giá kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
41
TiO2 sau khi điều chế chúng tôi tiến hành ghi nhiễu xạ tia X. Giản đồ XRD của các
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
mẫu được chỉ ra ở hình 3.4. Các giá trị kích thước hạt trung bình và thành phần pha
được đưa ra ở bảng 3.2.
Bảng 3.3. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 có nhiệt độ sấy gel khác nhau
% Các pha Tỷ lệ Mẫu (nm) A/R Anatase Rutile
46,21 ST60 6 94 0,06/1
42,37 ST70 19 81 0,23/1
34,87 ST80 44 56 0,79/1
36,60 ST90 62 38 1,63/1
34,40 ST100 58 42 1,38/1
Từ kết quả thu được chúng tôi nhận thấy, khi nâng nhiệt độ sấy gel từ 60 đến 900C thì kích thước hạt giảm. Nguyên nhân có thể là do khi nhiệt độ sấy tăng thì
tốc độ thủy phân xảy ra nhanh và mức độ kết tụ giữa các hạt bé nên kích thước hạt giảm. Ngược lại, khi tăng nhiệt độ sấy lớn hơn 900C thì tốc độ thủy phân xảy ra quá
nhanh và mức độ kết tụ giữa các hạt lớn nên kích thước hạt tăng.
42
Hình 3.5. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 theo có nhiệt độ sấy gel khác nhau
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bảng 3.3. và hình 3.5. còn cho thấy, khi nhiệt độ sấy gel tăng từ 60 đến 900C
thì ban đầu thành phần pha anatase tăng. Sau đó, nếu tiếp tục tăng nhiệt độ sấy thì
thành phần anatase giảm. Điều này có thể được giải thích rằng: khi tăng nhiệt độ sấy từ 60 đến 900C thì kích thước hạt giảm dẫn đến hạn chế quá trình chuyển pha anatase sang rutile nên thành phần pha anatase tăng. Khi nhiệt độ > 900C kích thước
hạt tăng dẫn đến thúc đẩy quá trình chuyển pha từ anatase sang rutile nên thành
phần pha anatase giảm.
Giá trị mật độ quang của dung dịch xanh metylen trước và sau khi phân hủy,
hiệu suất phân hủy quang được trình bày trong bảng 3.4.
Bảng 3.4. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các mẫu
Nd-TiO2 có nhiệt độ sấy gel khác nhau.
Mẫu A H(%) A0
1,985 ST60 0,603 69.62
1,985 ST70 0,380 80.85
1,985 ST80 0,283 85.74
1,985 ST90 0,173 91.30
1,985 ST100 0,485 75.57
Từ bảng số liệu 3.4 ta nhận thấy, khi tăng dần nhiệt độ sấy gel từ 60 đến 900C thì hiệu suất phân hủy quang tăng và đạt giá trị cực đại ứng với mẫu có nhiệt độ sấy là 900C. Nếu tiếp tục tăng nhiệt độ sấy thì hiệu suất phân hủy giảm. Điều này
cùng phù hợp với quy luật biến đổi kích thước hạt như đã trình bày bên trên. Có
nghĩa rằng bột Nd- TiO2 có kích thước hạt bé, diện tích bề mặt riêng lớn thì hiệu
suất quang phân hủy quang tăng. Ngoài ra, theo nhiều tài liệu cho thấy TiO2 có tỷ lệ
pha antase/rutile thích hợp thì có thể làm tăng đáng kể hoạt tính quang xúc tác [16, 23] (thường tỷ lệ thành phần pha anatase/rutile ~ 70/30). Mẫu sấy ở nhiệt độ 900C
43
có tỷ lệ thành phần pha anatase/rutile ~ 70/30 nên có hiệu suất lớn nhất.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Từ bảng số liệu trên ta có đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa giữa hiệu suất
phân hủy quang với nhiệt độ sấy được đưa ra ở hình 3.6.
Hình 3.6. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và nhiệt độ sấy gel Từ những kết quả thu được ta thấy nhiệt độ sấy gel tối ưu là 900C do đó các
thí nghiệm sau ta chọn nhiệt độ sấy là 900C.
3.1.4. Ảnh hưởng nhiệt độ nung
Để khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ nung của các mẫu Nd – TiO2 đến cấu
trúc và hoạt tính quang xúc tác chúng tôi tiến hành nung các mẫu ở các nhiệt độ khác nhau: 550, 600, 650, 700, 750 và 8000C trong thời gian 4h, các mẫu được kí
hiệu tương ứng là ST550, ST650, ST700, ST750 và ST800. Các yếu tố khác được
cố định giống nhau giữa các mẫu là: tỷ lệ Nd/TiO2 = 0,025%, thời gian làm già gel 2 ngày, nhiệt độ sấy gel ở 900C.
Để xác định được cấu trúc, kích thước hạt trung bình, thành phần pha của bột
Nd-TiO2 sau khi điều chế chúng tôi tiến hành chụp XRD. Giản đồ XRD của các
mẫu được đưa ra ở hình 3.7.
Dựa vào giản đồ XRD ta thấy các mẫu đều kết tinh tốt, ở nhiệt độ 550 và 6000C chỉ xuất hiện pha anatase, khi tiếp tục tăng nhiệt độ thì pha rutile sẽ tăng dần.
44
Điều này cho chúng ta thấy nhiệt độ chuyển pha rutile cao hơn so với pha anatase.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.7. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 với nhiệt độ nung khác nhau
Từ giản đồ XRD ta có thể tính được các giá trị kích thước hạt trung bình và
thành phần pha. Kết quả về kích thước hạt trung bình và thành phần pha được đưa ra
trên bảng 3.5.
Bảng 3.5. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau
% Các pha Tỷ lệ Mẫu (nm) A/R Anatase Rutile
21,13 ST550 100 0 -
26,40 ST600 100 0 -
30,58 ST650 95 5 19/1
35,47 ST700 65 35 1,86/1
36,93 ST750 62 38 1,63/1
48,72 ST800 6 94 0,06/1
Từ các số liệu bảng đưa ra ở bảng 3.5. chúng tôi nhận thấy, khi nâng nhiệt độ
nung thì kích thước hạt tăng. Điều này là hoàn toàn phù hợp vì khi nhiệt độ nung
45
tăng thì mức độ kết khối giữa các hạt lớn làm kích thước hạt tăng.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Kết quả từ bảng 3.5. còn cho ta thấy khi tăng nhiệt độ nung thì thành phần
pha anatase giảm. Nguyên nhân là pha antase bền về mặt nhiệt động ở nhiệt độ thấp
còn pha rutile bền nhiệt động ở nhiệt độ cao hơn do đó khi tăng nhiệt độ nung thì
quá trình chuyển pha từ antase sang rutile tăng lên. Ngoài ra khi tăng nhiệt độ nung
làm cho kích thước hạt tăng, đây cũng là nguyên nhân làm tăng quá trình chuyển
pha từ pha anatase sang pha rutile.
Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy của các mẫu có nhiệt độ nung
khác nhau được đưa ra ở bảng 3.6.
Bảng 3.6. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các mẫu
Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau.
Mẫu A H(%) A0
ST550 1,985 0,725 63.45
1,985 0,580 70.78 ST600
ST650 1,985 0,377 81,00
ST700 1,985 0,128 93.57
ST750 1,985 0,266 88.60
ST800 1,985 0,520 73.80
Từ bảng số liệu 3.6. ta xây dựng đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa hiệu suất
46
phân hủy quang và nhiệt độ nung khác nhau được chỉ ra ở hình 3.8.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.8. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và nhiệt độ
nung
Các số liệu từ bảng 3.6 và hình 3.8 cho chúng ta thấy, khi tăng dần nhiệt độ nung từ 550 – 7000C thì hiệu suất phân hủy quang tăng và đạt giá trị lớn nhất ở 7000C. Điều này được giải thích là do khi tăng dần nhiệt độ nung thì mức độ ổn
định về mặt cấu trúc tăng nên hiệu xuất quang phân hủy tăng. Đặc biệt ở nhiệt độ 7000C thì tỷ lệ thành phần pha anatase/rutile thích hợp (~ 7/3) [16, 23] nên hiệu suất
phân hủy quang là cực đại. Nếu tiếp tục tăng nhiệt độ nung thì hiệu suất phân hủy
quang giảm nguyên nhân được cho là kích thước hạt tăng, diện tích bề mặt riêng và
nhóm hydroxyl trên bề mặt giảm. Mặt khác khi nhiệt độ nung tăng, làm cho hàm
lượng pha rutile tăng đẫn đến sự tái kết hợp giữa eletron và lỗ trống quang sinh tăng
nên hiệu suất quang phân hủy giảm. Vậy ở các thí nghiệm tiếp theo được tiến hành nung ở 7000C.
3.1.5. Ảnh hưởng tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol)
Để khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ Nd/TiO2 đến cấu trúc và hoạt tính quang xúc
tác các mẫu được điều chế với các tỷ lệ Nd/TiO2 thay đổi lần lượt là 0, 0,00625,
0,01250, 0,02500, 0,03750, 0,05000% (mol/mol) và các mẫu được kí hiệu tương ứng
là SNd0, SNd1, SNd2, SNd3, SNd4 và SNd5. Các điều kiện cố định: các mẫu được làm già gel 2 ngày, sấy gel ở nhiệt độ 900C, nung ở nhiệt độ 7000C trong 4 giờ.
47
Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có nồng độ khác nhau được chỉ ra ở hình 3.9
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.9. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ pha tạp khác nhau.
Dựa vào giản đồ XRD các thông số như: thành phần pha, kích thước hạt
trung bình của các mẫu được đưa ra ở bảng 3.7.
Bảng 3.7. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 tỷ lệ pha tạp khác nhau.
% Các pha Tỷ lệ Mẫu (nm) A/R Anatase Rutile
SNd0 48,71 - 100 -
SNd1 48,71 6 94 0,06/1
SNd2 41,90 31 69 0,45/1
SNd3 36,93 63 37 1,70/1
SNd4 35,97 87 13 6,69/1
SNd5 34,26 94 6 15,67/1
Từ những số liệu của bảng 3.7. chúng tôi nhận thấy, khi tăng nồng độ Nd3+
thì kích thước hạt giảm. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu [24, 53]. Theo [24] Nd3+ có tác dụng ức chế quá trình phát triển hạt do hình thành liên kết
48
Ti - O - Nd do vậy kích thước hạt giảm.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bảng 3.7. còn cho ta thấy, đối với mẫu TiO2 không biến tính là 100% pha rutile, còn các mẫu TiO2 biến tính Nd3+ có thành phần pha rutile < 100% ở nhiệt độ nung 7000C và khi tăng tỷ lệ Nd/TiO2 thì thành phần pha rutile càng giảm nên có thể cho rằng Nd3+ đã ức chế quá trình chuyển pha. Sự ức chế này được cho là do hình
thành liên kết Ti - O - Nd dẫn đến sự tương tác giữa các nguyên tử Ti thay đổi [24].
Hoạt tính quang xúc tác được đánh giá qua khả năng phân hủy dung dịch
xanh metylen. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy được đưa ra ở bảng 3.8.
Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa hiệu suất phân hủy quang của các mẫu Nd-TiO2
và các mẫu có tỷ lệ Nd/TiO2 khác nhau được chỉ ra ở hình 3.10.
Bảng 3.8. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các mẫu
Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau.
A H(%) Mẫu A0
1,985 1,081 45.56 SNd0
1,985 0,681 65.70 SNd1
1,985 0,332 83.27 SNd2
1,985 0,091 95.43 SNd3
1,985 0,323 83.70 SNd4
1,985 0,516 74,00 SNd5
Từ các giá trị đã cho ở bảng 3.8. ta vẽ được đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa
49
hiệu suất phân hủy với tỷ lệ % về số mol của Nd/TiO2
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.10. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và tỷ lệ
Nd/TiO2
Dựa vào bảng 3.8 và hình 3.10 cho chúng ta thấy, khi tăng dần tỷ lệ Nd/TiO2
từ 0 đến 0,025% (mol/mol) thì hiệu suất phân hủy quang tăng và đạt giá trị lớn nhất
tại tỷ lệ 0,025%. Nếu tiếp tục tăng tỷ lệ Nd/TiO2 lớn hơn 0,025% thì hiệu xuất phân hủy quang giảm. Nguyên nhân là do khi tăng nồng độ Nd3+ thì kích thước hạt giảm nên hiệu suất phân hủy quang tăng. Tuy nhiên, khi nồng độ Nd3+ quá lớn thì mức độ
tái kết hợp giữa electron và lỗ trống quang sinh tăng nên hiệu suất phân hủy quang
giảm. Ngoài ra cũng giống như các mẫu ở các điều kiện tối ưu như trên, mẫu Nd-
TiO2 ứng với tỷ lệ % Nd/TiO2 = 0,025% có thành phần pha anatase/rutile ~ 7/3 nên
hiệu suất quang phân hủy đạt giá trị cực đại. Vậy tỷ lệ % Nd/TiO2 tối ưu là 0,025%.
Để xác định sự có mặt của Nd có trong mẫu pha tạp chúng tôi tiến hành ghi
phổ EDX của các mẫu TiO2 không biến tính và mẫu TiO2 có biến tính Nd (tỷ lệ Nd/TiO2 = 0,025% (mol/mol) và nung ở nhiệt độ là 7000C trong 4 giờ. Kết quả
50
được đưa ra ở hình 3.11. và 3.12.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Từ giản đồ EDX ở hình 3.12. ta thấy xuất hiện các pic đặc trưng cho nguyên
Nd, điều này chứng tỏ rằng Nd đã có sự hiện diện trong mẫu TiO2 biến tính.
Hình 3.12. Phổ EDX mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ % Nd/TiO2 = 0,025%
Hình 3.11. Phổ EDX mẫu TiO2 không biến tính Để đánh giá hình thái và kích thước hạt của mẫu TiO2 không biến tính và
mẫu Nd - TiO2 với tỷ lệ % Nd/TiO2 = 0,025% chúng tôi tiến hành chụp ảnh TEM.
Ảnh TEM của các mẫu TiO2 được chỉ ra ở hình 3.13. và 3.14.
Từ hình 3.13. và 3.14 cho thấy, mẫu Nd-TiO2 có kích thước hạt (khoảng 30
– 40 nm), phân bố đồng đều, sắc nét, và ít bị kết tụ hơn so với mẫu TiO2 không biến
tính (khoảng 45 – 50 nm). Kết quả này cũng khá phù hợp với việc xác định kích
51
thước hạt trung bình bằng phương pháp chụp XRD.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.13. Ảnh TEM của mẫu TiO2 không biến tính Hình 3.14. Ảnh TEM của mẫu TiO2 có biến tính Nd ở tỷ lệ 0,025% (mol/mol)
Tóm lại, đã xác định được các điều kiện tối ưu cho quá trình điều chế bột
Nd-TiO2 bằng phương pháp sol-gel như sau: thời gian làm già gel là 2 ngày, sấy gel ở nhiệt độ 900C trong 24h, tỷ lệ % của Nd/TiO2 = 0,025% (mol/mol), nhiệt độ nung thích hợp là 7000C trong 4 giờ.
Quy trình điều chế bột TiO2 biến tính neođim được điều chế bằng phương
pháp sol-gel theo quy trình sau đây:
a) Chuẩn bị dung dịch A:
Đầu tiên 3,1 ml Ti(OBu)4 được hòa tan trong 8,3 ml ethanol, khuấy trộn đều
trong 10 phút trên máy khuấy từ, sau đó cho tiếp từ từ 0,07 ml HNO3 65% vào và
tiếp tục khuấy trong 30 phút.
b) Chuẩn bị dung dịch B:
Hút 4,2 ml C2H5OH cho vào cốc, sau đó cho tiếp 0,4 ml Nd3+ CM vào, ta thu được
dung dịch B (0,4 ml Nd(NO3)3 được xem như là lượng nước trong quá trình sol-gel).
Dung dịch B được cho từng giọt rất chậm vào dung dịch A. Hỗn hợp được
thủy phân ở nhiệt độ phòng trong 40 phút trong điều kiện khuấy mạnh, và thu được
các gel trong suốt.
Gel được điều chế bởi sự làm già của sol trong 48 giờ ở nhiệt độ phòng. Sau đó gel được sấy khô ở 900C trong 24h để loại bỏ các dung môi. Cuối cùng gel được nung ở nhiệt độ 7000C và trong thời gian 4 giờ ta thu được sản phẩm bột Nd-TiO2.
Thêm
3,1 ml Ti(OBu)4
Thêm
4,2 ml C2H5OH
Thêm
Khuấy 10 phút
8,3 ml C2H5OH
0,4 ml Nd(NO3)3 nồng độ CM 0,07 ml HNO3
Nhỏ từ từ B vào A 52
Khuấy 30 phút
Thủy phân 40phút ở nhiệt độ phòng
Dung dịch A Dung dịch B
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.15. Quy trình thực nghiệm điều chế điều chế bột TiO2 biến tính Neođim
bằng phương pháp sol-gel
Mẫu TiO2 không biến tính được điều chế giống như quy trình nêu trên nhưng
0,4 ml Nd(NO3)3 được thay bằng 0,4 ml nước.
Với quy trình những điều kiện thích hợp như trên, bột Nd-TiO2 điều chế
được có kích thước hạt khá bé (khoảng 30 ÷ 40nm), phân bố tương đối đồng đều và
khả năng quang xúc tác cao hơn gấp 2,10 lần so với mẫu TiO2 không biến tính trong
vùng ánh sáng khả kiến.
3.2. Điều chế Nd-TiO2 bằng phương pháp thủy phân
3.2.1. Khảo sát quá trình phân hủy nhiệt của mẫu TiO2 và Nd-TiO2
Để xác định nhiệt độ nung thích hợp đối bột TiO2 khô thu được trong quá trình
53
điều chế bột TiO2 biến tính Nd kích thước nano, hai mẫu bột TiO2 khô không biến
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
tính và Nd-TiO2 chúng tôi tiến hành ghi giản đồ phân tích nhiệt. Hai mẫu bột khô
được điều chế theo quy trình như đã trình bày ở 2.2. Mẫu Nd-TiO2 được điều chế ứng
với tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol) là 0,025%, mẫu TiO2 không biến tính được điều chế tương tự nhưng thể tích dung dịch Nd3+ được thay bằng nước cất hai lần. Giản đồ
phân tích nhiệt của mẫu TiO2 và Nd-TiO2 như được đưa ra ở hình 3.15. và 3.16.
Hình 3.17. Giản đồ phân tích nhiệt Hình 3.16. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu TiO2 biến tính với tỷ lệ của mẫu TiO2 không biến tính Nd/TiO2 là 0,025% (mol/mol)
Hai pic thu nhiệt ở 53,830C (mẫu TiO2) và 56,490C (mẫu Nd-TiO2) được cho
là quá trình mất nước và N2 hấp phụ trên bề mặt TiO2. Các pic tỏa nhiệt ở nhiệt độ 231,860C (mẫu TiO2) và 226,660C (mẫu Nd-TiO2) được gán cho quá trình chuyển
pha từ amophos sang anatase. Nhìn chung cả hai mẫu TiO2 và Nd-TiO2 tương đối ổn định ở nhiệt độ > 600oC nên các mẫu nghiên cứu tiếp theo chúng tôi tiến hành nung ở nhiệt độ 7500C.
3.2.2. Ảnh hưởng của lượng urê
Để khảo sát ảnh hưởng của lượng urê các mẫu có lượng urê thay đổi là 6, 8,
10, 12 và 14g và được kí hiệu tương ứng là TPNdU6, TPNdU8, TPNdU10,
TPNdU12, và TPNdU14. Với các điều kiện cố định: thời gian thủy phân 3 giờ, tỷ lệ
54
Nd/TiO2 = 0,025%, nung ở nhiệt độ 750 trong 4 giờ.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bột Nd-TiO2 sau khi điều chế được tiến hành chụp XRD để xác định cấu trúc,
thành phần pha và kích thước hạt trung bình. Giản đồ XRD của các mẫu được đưa ra
ở hình 3.18.
Hình 3.18. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 với lượng urê khác nhau
Từ các phổ XRD ta xác định được giá trị kích thước hạt trung bình, thành
phần pha của các mẫu được thể hiện qua bảng 3.9.
Bảng 3.9. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 với lượng urê khác nhau
Mẫu (nm) Dạng pha
55
TPNdU6 31,09 Anatase
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
TPNdU8 30,97 Anatase
TPNdU10 30,85 Anatase
TPNdU12 27,95 Anatase
TPNdU14 29,93 Anatase
Từ bảng 3.9. chúng tôi nhận thấy, tất cả các mẫu chỉ xuất hiện đơn pha
anatase, khi tăng dần lượng urê thì kích thước hạt giảm. Nguyên nhân là do urê
ngoài tác dụng làm tăng pH của dung dịch, xúc tiến quá trình thủy phân, urê (có
nhóm - NH2) còn đóng vai trò như một chất hoạt động bề mặt. Nên khi tăng dần
hàm lượng urê thì kích thước hạt giảm. Tuy nhiên khi lượng urê quá lớn, pH của
dung dịch tăng cao, tốc độ quá trình thủy phân xảy ra nhanh, sự kết tụ của các hạt
lớn nên kích thước hạt tăng.
Bảng 3.10. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các
mẫu Nd-TiO2 có lượng urê khác nhau.
Mẫu A H(%) A0
TPNdU6 1,986 0,291 85.32
TPNdU8 1,986 0,185 90.67
TPNdU10 1,986 0,034 98.29
TPNdU12 1,986 0,075 96.21
TPNdU14 1,986 0,211 89.40
Đánh giá hoạt tính quang xúc tác của các mẫu Nd/TiO2 có lượng urê khác
nhau thông qua khả năng phân hủy dung dịch xanh metylen trong điều kiện chiếu
sáng bằng đèn compac với thời gian chiếu sáng là 1,5 giờ . Giá trị mật độ quang và
hiệu suất phân hủy quang được đưa ra ở bảng 3.10.
Từ bảng 3.10. ta dựng đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa hiệu suất phân hủy
56
quang của các mẫu Nd-TiO2 có lượng urê khác nhau được chỉ ra ở hình 3.19.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.19. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và lượng
urê
Thông qua bảng 3.10 và hình 3.19 ta thấy khi tăng lượng urê từ 6 đến 10g thì
hiệu suất phân hủy quang tăng và đạt cực đại với lượng urê là 10g. Điều này được
giải thích khi tăng lượng urê làm cho kích thước hạt, khả năng hoạt động bề mặt của
bột Nd-TiO2 tốt do đó làm tăng hoạt tính quang xúc tác. Tuy nhiên khi lượng urê
tăng quá cao thì hiệu suất phân hủy quang lại giảm do kích thước hạt tăng. Với
lượng urê tối ưu là 10g sẽ được lấy để cho các thí nghiệm sau.
3.2.3. Ảnh hưởng của thời gian thủy phân
Để xác định ảnh hưởng của thời gian thủy phân đến cấu trúc, hoạt tính quang
xúc tác của bột Nd - TiO2 Ta tiến hành điều chế mẫu có thời gian thủy phân thay đổi
là: 1, 2, 3, 4 và 5 giờ, các mẫu được ký hiệu lần lượt: TPNdT1, TPNdT2, TPNdT3,
TPNdT4, TPNdT5. Các yếu tố được khống chế cố định như: lượng urê cho vào là 10g, tỷ lệ Nd/TiO2 là 0,025% (mol/mol) và nung ở nhiệt độ 7500C trong 4h.
Các mẫu sau khi điều chế được chup XRD. Phổ XRD của các mẫu được đưa
57
ra ở hình 3.20
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.20. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có thời gian thủy phân khác nhau Bằng phương pháp chụp nhiễu xạ tia X ta có thể xác định được cấu trúc, kích
thước hạt trung bình, thành phần pha của các mẫu có thời gian thủy phân khác nhau.
Kết quả được đưa ra ở bảng 3.11.
Bảng 3.11. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 có thời gian thủy phân khác nhau
Mẫu (nm) Dạng pha
TPNdT1 Anatase 30,96
TPNdT2 Anatase 28,15
TPNdT3 Anatase 28,25
TPNdT4 Anatase 28,36
TPNdT5 Anatase 31,10
Nhìn vào hình 3.20. ta nhận thấy các mẫu có mức độ kết tinh cao và đồng
đều giữa các mẫu, bảng 3.11. cho thấy các mẫu Nd – TiO2 chỉ tồn tại đơn pha
58
antase. Khi kéo dài thời gian thủy phân từ 1 đến 3 giờ thì kích thước hạt có xu
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
hướng giảm. Nếu tiếp tục kéo dài thời gian thủy phân thì kích thước hạt tăng do thời
gian thủy phân càng kéo dài thì quá trình kết tụ của các hạt càng lớn.
Đánh giá hoạt tính quang xúc tác của bột Nd-TiO2 qua khả năng phân hủy
dung dịch xanh metylen trong điều kiện chiếu sáng bằng đèn compac có công suất
40W với thời gian chiếu sáng là 1,5 giờ kết hợp với khuấy trộn liên tục. Kết quả
hiệu xuất phân hủy quang được đưa ra bảng 3.12.
Bảng 3.12. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các
mẫu
Nd-TiO2 có thời gian thủy phân khác nhau.
Mẫu A H(%) A0
TPNdT1 1,986 0,264 86.70
TPNdT2 1,986 0,168 91.52
TPNdT3 1,986 0,048 97.58
TPNdT4 1,986 0,085 95.71
TPNdT5 1,986 0,310 84.40
Thông qua bảng 3.12. và hình 3.21. ta thấy: với thời gian thủy phân từ 1 đến
3 giờ thì hoạt tính quang xúc tác tăng và đạt cực đại ứng với thời gian thủy phân là
3 giờ. Điều này được giải thích là khi thời gian thủy phân tăng từ 1 đến 3 giờ kích
thước hạt có xu hướng giảm và sự ổn định cấu trúc tăng nên hoạt tính quang xúc tác
tăng. Tuy nhiên khi thời gian thủy phân càng kéo dài thì mức độ kết tụ giữa các hạt
lớn nên hiệu suất quang phân hủy giảm. Do vậy các thí nghiệm sau sẽ chọn thời
gian thủy phân là 3 giờ.
Dựa vào các số liệu phân hủy xanh metylen đã cho ở bảng 3.11 ta dựng được
đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và thời gian thủy phân
59
như hình 3.21.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.21. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và thời gian thủy phân
3.2.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung
Nhiệt độ nung có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kích thước hạt, thành
phần pha, diện tích bề mặt và cấu trúc tinh thể. Những yếu tố này quyết định đến
hoạt tính quang xúc tác của TiO2, quá trình thủy phân thường tạo ra các hạt tinh thể
chưa thực sự ổn định về mặt cấu trúc nên các sản phẩm thủy phân thường xử lý ở
nhiệt độ thích hợp. Để xác định nhiệt độ nung thích hợp cho quá trình thủy phân
chúng tôi tiến hành nung các mẫu sản phẩm ở các nhiệt độ thay đổi: 600, 650, 700, 750, 800, 850, và 9000C với thời gian nung 4 giờ, các mẫu được ký hiệu lần lượt
tương ứng là: TPNd600, TPNd650, TPNd700, TPNd750, TPNd800 TPNd850, và
TPNd900. Các yếu tố khác đều cố định như nhau với lượng urê cho vào là 10g, tỷ lệ Nd/TiO2 là 0,025% (mol/mol) và thủy phân ở 1000C trong 3 giờ.
Các mẫu sau khi tiến hành xử lý nhiệt được tiến hành ghi phổ nhiễu xạ tia X.
Tương tự như các mẫu khảo sát nhiệt độ nung trong phương pháp sol-gel, từ các
giản đồ XRD và bảng số liệu nhận thấy khi tăng dần nhiệt độ nung thì nhìn chung
kích thước hạt tăng. Tuy nhiên nhiệt độ bắt đầu chuyển pha anatase sang rutile của mẫu Nd-TiO2 (9000C) được điều chế bằng phương pháp thủy phân cao hơn rất
60
nhiều so với mẫu Nd-TiO2 được điều chế bằng phương pháp sol-gel ( nhiệt độ bắt đầu chuyển pha anatase sang rutile khoảng 6500C).
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.22. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác
nhau
SO4
Điều này các tác giả trong công trình [20] cho rằng, sự hiện diện của ion 2- có mặt trong dung dịch thủy phân đã kìm hãm quá trình chuyển pha từ anatase 2- có tác dụng làm sang rutile. Các tác giả [40] còn cho rằng sự hiện diện của SO4
giảm đáng kể kích thước hạt và tăng diện tích bề mặt riêng. Thật vậy, mẫu Nd-TiO2 điều chế bằng phương pháp sol gel được nung ở 7500C có kích thước hạt trung bình
là 35,93 nm lớn hơn với mẫu Nd-TiO2 điều chế theo phương pháp thủy phân có
kích thước là 30,96 nm
Từ các giản đồ XRD này ta xác định được kích thước hạt trung bình và thành
61
phần pha. Giá trị kích thước hạt trung bình và thành phần pha được đưa ra ở bảng 3.13.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bảng 3.13. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 theo nhiệt độ nung
Mẫu (nm) Dạng pha
TPNd110 4,54 Anatase
TPNd600 19,17 Anatase
TPNd650 22,74 Anatase
TPNd700 28,65 Anatase
TPNd750 30,96 Anatase
TPNd800 31,21 Anatase
TPNd850 40,26 Anatse
TPNd900 46,81 A, R
Hoạt tính quang xúc tác của các mẫu Nd/TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau
được đánh giá qua khả năng phân hủy dung dịch xanh metylen. Kết quả đo mật độ
quang và hiệu suất phân hủy được đưa ra ở bảng 3.14.
Bảng 3.14. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các
mẫu Nd-TiO2 có nhiệt độ nung khác nhau.
Mẫu A H(%) A0
TPNd600 0,672 66.16 1,986
TPNd650 0,284 85.68 1,986
TPNd700 0,173 91.30 1,986
TPNd750 0,022 98.89 1,986
TPNd800 0,110 94.45 1,986
TPNd850 0,344 82.68 1,986
62
TPNd900 0,622 68.69 1,986
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc giữa hiệu suất phân hủy quang được chỉ ra ở
hình 3.23.
Hình 3.23. Đồ thị mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang và nhiệt độ nung
Dựa vào đồ thị 3.23.và kết quả thể hiện trên bảng 3.14. khi tăng dần nhiệt độ nung từ 600 – 7500C thì hiệu suất phân hủy quang tăng và đạt giá trị lớn nhất ở 7500C. Điều này được giải thích là do khi tăng dần nhiệt độ nung thì mức độ ổn
định về mặt cấu trúc tăng nên hiệu xuất quang phân hủy tăng. Nếu tiếp tục tăng
nhiệt độ nung thì hiệu suất phân hủy quang giảm nguyên nhân được cho là khi tăng
nhiệt độ nung thì kích thước hạt tăng, diện tích bề mặt riêng và nhóm hydroxyl trên
bề mặt giảm, ngoài ra khi nhiệt độ nung tăng dẫn đến sự tái kết hợp giữa eletron và
lỗ trống quang sinh tăng nên hiệu suất quang phân hủy giảm.
3.2.5. Ảnh hưởng tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol)
Để xác tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol) thích hợp chúng tiến hành thay đổi các tỷ
lệ lần lượt ở các giá trị: 0; 0,00625; 0,0125; 0,025; 0,0375 và 0,05% (mol/mol). Các
điều kiện cố định là: lượng urê đưa vào 10g, thời gian thủy phân 3 giờ, nhiệt độ nung 7500C trong 4h. Các mẫu lần lượt được ký hiệu là: TPNd0, TPNd1, TPNd2,
TPNd3, TPNd4, TPNd5.
63
Kết quả phổ XRD của các mẫu được thể hiện ở hình 3.24.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.24. Giản đồ XRD của các mẫu Nd-TiO2 với các tỷ lệ Nd/TiO2 khác nhau
Dựa vào phổ XRD ta tính được kích thước hạt trung bình và xác định được
thành phần pha của các mẫu. kết quả thể hiện qua bảng 3.15.
Bảng 3.15. Kích thước hạt trung bình và thành phần pha của các mẫu Nd-
TiO2 có tỷ lệ Nd/TiO2 khác nhau
(nm) Dạng pha Mẫu
TPNd0 Anatase 32,73
TPNd1 Anatase 31,82
TPNd2 Anatase 31,57
TPNd3 Anatase 31,21
TPNd4 Anatase 27,48
64
TPNd5 Anatase 29,60
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Nhìn vào hình 3.24. và bảng 3.15. ta thấy các mẫu có mức độ kết tinh cao và
đồng đều và chỉ xuất hiện đơn pha anatase. Khi tăng tỷ lệ Nd/TiO2 kích thước hạt giảm. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu [23]. Theo [23] Nd3+ có tác dụng ức chế quá
trình phát triển hạt do hình thành liên kết Ti - O - Nd do vậy kích thước hạt giảm
Khảo sát hoạt tính quang xúc tác của bột Nd-TiO2 thông qua đánh giá mức
độ phân hủy xanh metylen trong nước. Giá trị mật độ, hiệu suất phân hủy quang
được trình bày trong bảng 3.16.
Bảng 3.16. Giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy quang của các
mẫu Nd-TiO2 có tỷ lệ Nd/TiO2 khác nhau.
Mẫu A H(%) A0
1,986 0,507 74.45 TPNd0
1,986 0,288 85.49 TPNd1
1,986 0,172 91.35 TPNd2
1,986 0,030 98.48 TPNd3
1,986 TPNd4 0,111 94.42
1,986 TPNd5 0,227 88.55
Từ bảng giá trị mật độ quang và hiệu suất phân hủy ta dựng được đồ thị biểu
diễn sự phụ thuộc giữa giữa hiệu suất phân hủy quang với tỷ lệ % Nd/TiO2 được
đưa ra ở hình 3.53.
Dựa vào bảng 3.16. và hình 3.25 cho chúng ta thấy, khi tăng dần tỷ lệ
Nd/TiO2 từ 0 đến 0,025% (mol/mol) thì hiệu suất phân hủy quang tăng và đạt giá trị
lớn nhất là 98,48% tại tỷ lệ Nd/TiO2 0,025%. Nguyên nhân là khi tăng dần hàm lượng Nd3+ thì kích thước hạt trung bình giảm và tỷ lệ % Nd/TiO2 dần chuyển đến
giá trị thích hợp. Khi tăng tỷ lệ % Nd/TiO2 quá cao tuy kích thước hạt có giảm
nhưng hiệu xuất phân hủy lại giảm. Điều này được cho là khi lượng chất pha tạp
65
vào lớn sẽ dẫn đến hiện tượng tái kết hợp giữa eletron và lỗ trống quang sinh trên bề
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
mặt hoặc trong lòng chất bán dẫn quang xúc tác dẫn đến làm giảm khả năng quang
xúc tác. 3. Vậy đã xác định được tỷ lệ Nd/TiO2 0,025% là điểm tối ưu.
Hình 3.25. Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa hiệu suất phân hủy quang
và tỷ lệ % Nd/TiO2 (mol/mol)
Để xác định sự có mặt của Nd có trong mẫu pha tạp chúng tôi tiến hành ghi
phổ EDX của các mẫu TiO2 không biến tính và mẫu TiO2 có biến tính Nd (tỷ lệ Nd/TiO2 = 0,025% (mol/mol) và nung ở nhiệt độ là 7500C trong 4 giờ. Kết quả được đưa ra ở hình 3.24. và 3.25.
Từ giản đồ EDX ở hình 3.25. ta thấy xuất hiện các pic đặc trưng cho nguyên Nd,
66
điều này chứng tỏ rằng Nd đã có sự hiện diện trong mẫu TiO2 biến tính.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.26. Phổ EDX của mẫu không biến Hình 3.27. Phổ EDX của mẫu biến tính
tính với tỷ lệ Nd/TiO2 là 0,025% (mol/mol)
Để quan sát hình thái các hạt tinh thể TiO2 và xác định kích thước hạt của
mẫu TiO2 và Nd-TiO2 với tỷ lệ số mol Nd/TiO2 = 0,025% chúng tôi tiến hành chụp
ảnh TEM cho các mẫu. Ảnh TEM được chỉ ra ở hình 3.26. và 3.27.
Từ hình 3.26. và 3.27 cho thấy, kích thước hạt TiO2 của mẫu biến khá bé
(khoảng 30 ÷ 32 nm) so với mẫu không biến tính (35 ÷ 40 nm). Kết quả này cũng
khá phù hợp với việc xác định kích thước hạt trung bình bằng phương pháp chụp
XRD. Tuy nhiên ảnh TEM của mẫu có biến tính cho ta thấy các hạt sắc nét, ít bị kết
tụ và phân bố đồng đều hơn so với mẫu không biến tính.
Hình 3.28. Ảnh TEM của mẫu không Hình 3.29. Ảnh TEM của mẫu biến
67
biến tính tính với tỷ lệ Nd/TiO2 là 0,025%
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
(mol/mol)
Phương pháp BET thường được dùng để xác định diện tích bề mặt riêng của
vật liệu có diện tích bề mặt riêng lớn. Những vật liệu này thường được tiến hành điều chế và xử lý nhiệt ở nhiệt độ thấp (thường < 5000C). Tuy nhiên, bột Nd-TiO2 2- của chúng tôi được điều chế bằng phương pháp thủy phân có mặt urê và ion SO4
(làm giảm kích thước hạt và tăng diện tích bề mặt riêng) nên mặc dù sản phẩm được tiến hành nung ở nhiệt độ 7500C mà vẫn cho diện tích bề mặt riêng tương đối lớn.
Đường hấp phụ - giải hấp đẳng nhiệt nitơ của mẫu TiO2 không biến tính và mẫu
TiO2 biến tính Nd ở tỷ lệ % Nd/TiO2 = 0,025% được đưa ra ở hình 3.28. và 3.29. ta thấy với mẫu TiO2 không biến tính có thể tích hấp phụ khoảng 40 đến 45 cm3/g và mẫu Nd-TiO2 có thể tích hấp phụ khoảng 55 đến 60 cm3/g. Diện tích bề mặt BET của mẫu TiO2 không biến tính là 14,7m2/g nhỏ hơn diện tích bề mặt BET của mẫu Nd-TiO2 là 18,2 m2/g. Điều này cho thấy việc đưa Nd3+ vào mạng lưới TiO2 làm
tăng diện tích bề mặt riêng của vật liệu TiO2.
Hình 3.30. Giản đồ BET của mẫu Hình 3.31. Giản đồ BET của mẫu
TiO2 không biến tính Nd-TiO2
Đã tìm được các điều kiện tối ưu cho quá trình điều chế bột Nd-TiO2 bằng là 0,025% (mol/mol), lượng urê
68
phương pháp thủy phân như sau: Tỷ lệ % Nd/TiO2 là 10g, thời gian thủy phân là 3h, nung mẫu ở nhiệt độ 7500C trong 4h.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bột TiO2 biến tính Neođim được điều chế bằng phương pháp thủy phân theo
quy trình sau đây:
Đầu tiên, hòa tan 4,0 gam TiOSO4 vào 50 ml nước cất nóng đã được axit hóa bằng
axit H2SO4 đạt nồng độ 0,018 M, để nguội, cho tiếp 10 gam urê vào dung dịch
TiOSO4 thu được và khuấy đều trong khoảng 5 phút. Dung dịch được pha loãng
bằng nước cất hai lần đến 220 ml. Sau đó, dung dịch Nd(NO3)3 được cho từ từ vào
dung dịch trên ứng với tỉ lệ mol Nd/TiO2 = 0,025%, khuấy liên tục khoảng 10 phút. Cuối cùng, dung dịch thu được được tiến hành thủy phân ở 100oC trong 3 giờ sau
đó lọc lấy kết tủa. Kết tủa được rửa vài lần bằng nước cất và sau đó là ethanol cho 2- trong nước rửa bằng dung dịch BaCl2 0,2 M. đến khi không phát hiện thấy ion SO4 Bột Nd/TiO2 màu trắng thu được được sấy khô ở 110oC trong 24 giờ rồi đem nung ở nhiệt độ 7500C trong thời gian 4 giờ ta thu được sản phẩm.
Mẫu TiO2 không biến tính được điều chế tương tự và dung dịch Nd(NO3)3
được thay bằng nước cất hai lần.
Sơ đồ quy trình điều chế bột TiO2 biến tính bởi Neođim bằng phương pháp
thủy phân được thể hiện ở hình 3.
Hòa tan
4 g TiOSO4
Cho từ từ
Cho 0,4 ml Nd3+ CM và 170 ml H2O
50 ml H2O axít hóa 10 g urê (NH)2CO
Khuấy đều 5 phút
Khuấy trộn mạnh
Thủy phân 3h ở nhệt độ 1000C
Dung dịch trong suốt
Lọc rửa kết tủa
69
Dung dịch và kết tủa
Kết tủa
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Hình 3.32. Quy trình thực nghiệm điều chế điều chế bột TiO2 biến tính Neođim
bằng phương pháp thủy phân
Với các điều kiện thích hợp như trên, bột Nd-TiO2 điều chế được có kích
thước hạt khá bé (khoảng 30 ÷ 35nm), phân bố tương đối đồng đều và khả năng
quang xúc tác cao hơn gấp 1,3 lần so với mẫu TiO2 không biến tính trong vùng ánh
70
sáng khả kiến.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Kết luận
Hai phương pháp sol-gel và phương pháp thủy phân đều tỏ ra có hiệu quả
dùng để điều chế bột Nd-TiO2 kích thước nano. Bột Nd-TiO2 tạo ra có kích thước
nhỏ, diện tích bề mặt tương đối lớn và hoạt tính quang xúc tác tốt.
Đã xác định được các điều kiện tối ưu cho quá trình điều chế bột Nd-TiO2
bằng phương pháp sol-gel với các tiền chất Ti(OBu)4, Nd(NO3)3, C2H5OH, HNO3
như sau: tỷ lệ % của Nd/TiO2 = 0,025% (mol/mol), thời gian làm già gel là 2 ngày, sấy gel ở nhiệt độ 900C trong 24h, nhiệt độ nung thích hợp là 7000C trong 4 giờ.
Với những điều kiện thích hợp như trên, bột Nd-TiO2 điều chế được có kích thước
hạt khá bé (khoảng 30 ÷ 40nm), phân bố tương đối đồng đều và khả năng quang xúc
tác cao hơn gấp 2,10 lần so với mẫu TiO2 không biến tính trong vùng ánh sáng khả
kiến.
Điều kiện tối ưu cho quá trình điều chế bột Nd-TiO2 bằng phương pháp thủy phân với các chất đầu TiOSO4, (NH2)2CO, H2SO4, Nd(NO3)3 tại 1000C là tỷ lệ % là 0,025% (mol/mol), lượng urê là 10g, thời gian thủy phân là 3h, nung Nd/TiO2 mẫu ở nhiệt độ 7500C trong 4h. Với những điều kiện như trên, bột Nd-TiO2 điều
chế được có kích thước hạt khá bé (khoảng 30 ÷ 35nm), phân bố tương đối đồng
đều và khả năng quang xúc tác cao hơn gấp 1,3 lần so với mẫu TiO2 không biến tính
71
trong vùng ánh sáng khả kiến.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
Bột Nd-TiO2 điều chế theo phương pháp sol-gel có nhiệt độ chuyển pha thấp hơn so với phương pháp thủy phân. Với phương pháp sol-gel nung ở nhiệt độ 6500C bắt đầu xuất hiện pha rutile, phương pháp thủy phân nung ở nhiệt độ 9000C mới bắt
đầu xuất hiện pha rutile.
Phương pháp thủy phân tỏ ra có hiệu quả cao hơn so với phương pháp sol-
gel để điều chế vật liệu quang xúc tác Nd-TiO2, với quy trình điều chế đơn giản và
dễ điều chỉnh các thông số trong quá trình điều chế. Bột Nd-TiO2 có kích thước nhỏ
hơn, hoạt tính quang cao hơn thể hiện qua thời gian phân hủy xanh mêtylen là 1,5h
với hiệu suất phân hủy đạt 98,48% so với thời gian 3h của phương pháp sol-gel là
95,43%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1]. Đặng Thanh Lê, Mai Đăng Khoa, Ngô sỹ Lương (2008), “Khảo sát hoạt tính
xúc tác quang của bột TiO2 kích thước nano mét đối với quá trình khử màu
thuốc nhuộm'’, Tạp chí hóa học, T.46 (2A), Tr.139-143.
[2]. Ngô Sỹ Lương (2005), “Ảnh hưởng của các yếu tố trong quá trình điều chế đến ” , Tạp chí Khoa học. Khoa học tự kích thước hạt và cấu trúc tinh thể của TiO2
nhiên và công nghệ. ĐHQG HN, T.XXI, N.2, tr. 16-22.
[3]. Ngô Sỹ Lương (2006), “Khảo sát quá trình điều chế titan đioxit dạng bột kích
thước nano bằng phương pháp thuỷ phân titan tetraclorua”, Tạp chí Khoa học.
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. ĐHQG HN. T. XXII, (3C), tr. 113-118.
[4]. Ngô Sỹ Lương (2006)‚ “Khảo sát quá trình điều chế titan đioxit dạng bột kích thước
nano bằng phương pháp thuỷ phân tetra n-butyl octotitanat trong dung môi hỗn hợp
etanol-nước”, Tạp chí Phân tích Hoá, Lý và Sinh học. T. 11, (3B). tr. 52-56.
[5]. Ngô Sỹ Lương, Đặng Thanh Lê (2008), “Điều chế bột anatase kích thước nano
mét bằng cách thuỷ phân titan isopropoxit trong dung môi cloroform- nước”,
72
Tạp chí hóa học. T.46 (2A), tr.177-181.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
[6]. Ngô Sỹ Lương, Đặng Thanh Lê (2008), “Ảnh hưởng của thành phần và nhiệt
độ dung dịch, nhiệt động nung đến kích thước hạt và cấu trúc tinh thể của TiO2
điều chế bằng phương pháp thủy phân TiCl4”, Tạp chí hóa học. T.46 (2A),
tr.169-177
[7]. Ngô Sỹ Lương, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hưng (2009), “Nghiên cứu
quy trình điều chế titan đioxit kích thước nanomet từ tinh quặng inmenit Hà
Tĩnh bằng phương pháp axit sunfuric. 1. Khảo sát quy trình nghiền và phân
hủy tinh quặng inmenit Hà Tĩnh bằng phương pháp axit sunfuric quy mô
phòng thí nghiệm”, Tạp chí hóa học. T.47 (2A), tr.145-149
[8]. Ngô Sỹ Lương, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hưng, Thân Văn Liên, Trần
Minh Ngọc (2009), “Nghiên cứu quy trình điều chế titan đioxit kích thước
nanomet từ tinh quặng inmenit Hà Tĩnh bằng phương pháp axit sunfuric. 3.
Khảo sát quá trình thủy phân đồng thể dung dịch titanyt sunfat có mặt ure để
điều chế titan đioxit kích thước nanomet”, Tạp chí hóa học. T.47 (2A), tr.150-
154.
[9]. Ngô Sỹ Lương, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Tiến, Lê Thị Thanh Liễu (2009), “Ảnh
hưởng của polyetylen glycol đến quá trình điều chế bột TiO2 kích thước nano mét bằng
phương pháp thủy phân titanyl sunfat trong dung dịch nước”|, Tạp chí Phân tích Hóa - Lý -
Sinh học - Tập 14. (I). tr. 3-7.
[10]. Nguyễn Hoàng Nghị (2002), “Lý thuyết nhiễu xạ tia X’’, Nhà xuất bản giáo dục Hà nội.
[12]. Nguyễn Xuân Nguyên, Phạm Hồng Hải (2002), “Khử amoni trong nước và
nước thải bằng phương pháp quang hóa với xúc tác TiO2”, Tạp chí Khoa học
và công nghệ, T.40(3), tr. 20-29.
[13]. Nguyễn Xuân Nguyên, Lê Thị Hoài Nam (2004), “Nghiên cứu xử lý nước rác
Nam Sơn bằng màng xúc tác TiO2 và năng lượng mặt trời”, Tạp chí Hóa học
và ứng dụng T.4(5), tr.21-24.
[14]. Hoàng Nhâm (2005), Hóa vô cơ tập III, NXB GD, Hà Nội.
73
Tiếng Anh
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
[15] Ammar Houas, Hinda Lachheb, Mohamed Ksibi, Elimame Elaloui, Chantal
Guillard, Jean-Marie Herrmann. (2001), “Photocatalytic degradation pathway
of methylene blue in water”, Applied Catalysis B, 31, pp.145-157.
[16] A.M. Luísa, M.C. Nevesb, M.H. Mendonca, O.C. Monteiro (2011). “Influence
of calcination parameters on the TiO2 photocatalytic properties” Materials
Chemistry and Physics, 125, pp.20–25.
[17] Andrew Burn, G.Hayes,W.Li, J.Hirvonen, J.Derek Demaree, S.Ismat Shah
(2004), “Neodymium ion dopant effects on the phase transformation in sol-gel
derived titania nanostructures”, Materials Science and Engineering B,111
pp.150-155.
[18]. Cláudia Gomes Silva, Joaquim Luís Faria (2009), “Effect of key operational
parameters on the photocatalytic oxidation of phenol by nanocrystalline sol -
gel TiO2 under UV irradiation”, Materials Chemistry and Physics, 305,
pp.147–154.
[19]. Dapeng Xu, Lajun Feng, Ali Lei. (2008), “Preparation of TiO2 nanopowders doped with Y3+ by plasma spray and characterizations”, Materials Letters, 62,
pp.3297-3300.
[20]. Damien Dambournet, Ilias Belharouak, and Khalil Amine. (2010) “Tailored
Preparation Methods of TiO2 Anatase, Rutile, Brookite” Mechanism of
Formation and Electrochemical Properties. Chem. Mater. 22, pp. 1173–1179.
[21]. Jae-Kyung Oh, Jin-Kyu Lee, Sung Justin Kim, Kyung-Won Par (2009), “Synthesis
of phase- and shape-controlled TiO2 nanoparticles via hydrothermal process”,
Journal of Industrial and Engineering Chemistry, 15, pp.270–274.
[22]. Jinhuan Li, Xia Yang, Xiaodan Yu, Leilei Xu, Wanli kang, Wenhua Yang,
Hongfeng Gao, Zhonghe Liu, Yihang Guo. (2009), “ Rare earth oxide-doped
titania nanocmposites with enhanced photocatalytic activity towards the
degradation of partially hydrolysis polyacrylamide”, Applied Surface Science,
74
255, pp.3731-3738.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
[23]. Jing Zhang, Qian Xu, Meijun Li, Zhaochi Feng, and Can Li (2009) “UV
Raman Spectroscopic Study on TiO2. II. Effect of Nanoparticle Size on the
Outer/Inner Phase Transformations”. J. Phys. Chem. C, 113, pp. 1698–1704.
[24]. Huang Cuiying, You Wansheng, Dang Liqin, Lei Zhibin, Sun Zhengang, Zhang Lancui1 “Effect of Nd3+ Doping on Photocatalytic Activity of TiO2
Nanoparticles for Water Decomposition to Hydrogen”, Chinese Journal of
catalysis, 27(3), pp.141-147.
[25]. K.M. Parada, Nruparaj sahu. (2008), “ Visible light induced photocatalytic
activity of rare earth titania nanocomposites”, Journal of Molecular Catalysis
A Chemiscal, 287, pp.151-158.
[26]. King Lun Yeung, Wai Kin Leung, Nan Yao, Shengli Cao (2009), “Reactivity
and antimicrobial properties of nanostructured titanium dioxide” Catalysis
Today, 143, pp.218 - 224.
[27]. K. Nagaveni, M. S. Hegde, and Giridhar Madras. (2004), “Structure and Photocatalytic Activity of Ti1-xMxO2±δ(M: W, V, Ce, Zr, Fe, and Cu) Synthesized by Solution Combustion Method”, J. Phys. Chem. B, 108, pp.20204-20212.
[28]. Ling Xu, Chao-Qun Tang, Jun Qian, Zong-Bin Huang.(2010), “Theoretical
and experimental study on the electronic structure and optical absorption
properties of P-doped TiO2”, Applied Surface Science, 256, pp.2668–2671.
[29].Marius Stamate, Gabriel Larar. (2007), “Application of titanium dioxide
photocatalysis to create self-cleaning materials”, Romantan technical science
academy, Volume 3 pp.280-285
[30]. Neren O kte A.,O zge Yılmaz. (2008), “Photodecolorization of methyl orange by yttrium incorporated TiO2 supported ZSM-5”, Applied Catalysis B: Environmental, 85, pp.92-102.
[31]. Nobuaki Shimizu, Chiaki Ogino, Mahmoud Farshbaf Dadjour, Tomojuki Murata.
(2007), “ Sonocatalytic degradation of methylene blue with TiO2 pellits in water”,
75
Ultrasonics Sonochemistry, 14, pp.184-190.
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
[32]. O. Carp, C.L.Huisman, A.Reller.(2004), “Photoinduced reactivity of titanium
dioxide”, Progress in Solid State Chemistry, 32, pp.33-177.
[33]. P.Du, A.Bueno-López, M.Verbaas, A.R.Almeida, M.Makkee, J.A.Moulijn, G.Mul.
(2008), “The effect of surface OH-population on the photocatalytic activity of rare
earth-doped P25-TiO2 in methylene blue degradation”, Journal of Catalysis, 260,
pp.75 – 80.
[34]. Ruey-An Doong, Tien-Chin Hsieh, Chin-Pao Huang. (2010),“Photoassisted
reduction of metal ions and organic dye by titanium dioxide nanoparticles in
aqueous solution under anoxic conditions”, Science of the Total Environment, 408,
pp.3334–3341.
[35]. Reaseaenen Lea, Nakasuji Tadao (2003), Titanium dioxide photocatalyst and
a method of preparation and uses of the same, Internation Puplication, WO
03/048048 A1.
[36]. Saepurahman, M.A. Abdullah, F.K. Chong. (2009), “Preparation an
characterization of tungsten-loaded titanium dioxide photocatalyst for enhanced
dye degradation”, Journal of Hazardous Materials, 176, Issue: 1-3, pp.451 –
458.
[37]. S. Ghasemia, S. Rahimnejada, S. Rahman Setayesha, S. Rohanib, M.R. Gholamia.
(2009), “Transition metal ions effect on the properties and photocatalytic activity of
nanocrystalline TiO2 prepared in an ionic liquid”, Journal of Hazardous Materials,
172, pp.1573–1578.
[38]. Sea-Fue Wang, Yung-Fu Hsu, Ruey-Long Lee, Yi-Shiang Lee. (2004),
“Microstructural evolution and phase development of Nd and Y doped TiO2 films
prepared by RF magnetron sputtering”, Applied Surface Science, 229, pp.140-147.
[39]. Song Mianxin, Bian Liang, Zhou Tiangliang, Zhao Xiaoyong. (2008), “Surface ζ
potential and photocalytic activity of rare earth - doped TiO2”, Journal of rare earths, 26,
pp.693-699.
[40]. S. N. Aisyiyah Jenie, Dona S. Kusuma, Anis Kristiani, Joddy A. Laksmono,
76
Silvester Tursiloadi. “Preparation and characterization of sulfated titania
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
catalysts for the isomerisation of citronellal” International Journal of Basic &
Applied Sciences IJBAS-IJENS. 10(6), pp.05-10.
[41]. Václav Stengl, Snejana Bakardjieva, Nataliya Murafa. (2007), “Preparation
and photocatalytic activity of rare earth doped TiO2 nanoparticles”, Materials
Chemistry and Physics 114(1), pp. 217-226.
[42]. W. Kallel S. Bouattour, L.F. Vieira Ferreira, A.M. Botelho do Rego. (2009), “Synthesis, XPS and luminescence (investigations) of Li+ and/or Y3+doped
nanosized titanium oxide”, Materials Chemistry and Physics, 114, pp. 304–308.
[43]. Wenjie Zhanga, KuanlingWang, Shenglong Zhu, Ying Li, FuhuiWang, Hongbo
He. (2009), “Yttrium-doped TiO2 films prepared by means of DC reactive
magnetron Sputtering”, Chemical Engineering Journal, 155, pp.83-87.
[44]. Wonyong Choi, Andreas Termin, Michael R. Hoffmann. (1994), “The role of metal
ion dopans in Quantum-Size TiO2: correlation between photoreactivity and charge
carrier recombination dynamics”, J. Phys. Chem, 98 (51), pp.13669-13679.
[45]. W. Li, Y. Wang, H. Lin, S. Ismat Shaha, C. P. Huang, D. J. Doren, Sergey A.
Rykov, J. G. Chen and M. A. Barteau “Band gap tailoring of Nd3+ - doped
TiO2 nanoparticles”, Applied physics letters, 83(20), 17, pp.130-137.
[46]. W. Li, A. I. Frenkel, J. C. Woicik, C. Ni, S. Ismat Shah “Dopant location identification in Nd3+ doped TiO2 nanoparticles”, Physical Review B, 72, pp.1553-1558.
[47]. Xiaobo Chen and Samuel S. Mao. (2007), “Titanium Dioxide Nanomaterials:
Synthesis, Properties, Modifications, and Applications”, Chem. Rev, 107 , pp. 2891 –
2959.
[48]. Xiaoli Yan, Jing He, David G Evans, Xue Duan, Yuxiang Zru. (2005), “Preparation,
characterization and photocalytic activity of Si-doped and rare earth-doped TiO2 from
mesoporous precursors”, Applied Catalysis B Environmental, 55, pp.243-252.
[49]. Xuejun Quan, Qinghua Zhao, Huaiqin Tan , Xuemei Sang , Fuping Wang, Ya Dai,
77
“Comparative study of lanthanide oxide doped titanium dioxide photocatalysts
Nguyễn Văn Khanh Luận văn thạc sĩ khoa học
prepared by coprecipitation and sol–gel process”, Materials Chemistry and
Physics, 114(1), 15, pp.90-98.
[50]. Xianluo Hu, Guisheng Li, and Jimmy C. Yu. (2009), “Design, Fabrication,
and Modification of nanostructured semiconductor materials for environmental
and energy applications”, Langmuir Chemical Society. 36(5), pp.3031-3039.
Preparation of oriented SiO3
[51]. Xiangying Xu, Dehong Yin, Shufeng Wu, Jinqu Wang, Jinming Lu, (2010), “ 2- doped TiO2 film and degradation of methylene blue under visible light irradiation”, Ceramics International, 36, pp.443 - 450.
[52]. Yi Wan, Dun Zhang, Yi Wang, Peng Qi, Jiajia Wu, Baorong Hou .(2010),
“Vancomycin-functionalised Ag@TiO2 phototoxicity for bacteria”, Journal of
Hazardous Materials, 186(1), pp. 306-312.
[53]. Yibing Xie*, Chunwei Yuan (2004), “Photocatalysis of neodymium ion
modified TiO2 sol under visible light irradiation” Applied Surface, 22, pp. 17-24.
[54]. Y ouj Li, Mingyuan Ma, Shuguo Sun, Xia ohong Wang, Wenbin Yan, Yuzhu
Ouyang. (2008), “Preparation and photocatalytic activity of TiO2 - carbon surface
composites by supercritical pretreatment and sol-gel process”, Catalysis
78
Communications, 9, pp.1583-1587.