intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu giải thích pháp luật kinh nghiệm từ Cộng hòa Pháp

Chia sẻ: Manoban Lisa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

41
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giải thích pháp luật ở Việt Nam là một vấn đề cần nghiên cứu thấu đáo bởi bất kì hệ thống pháp luật của quốc gia nào cũng phải cần có sự giải thích pháp luật. Bài viết nghiên cứu thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay cũng như đưa ra các kiến nghị cho cơ chế giải thích pháp luật từ bài học kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu giải thích pháp luật kinh nghiệm từ Cộng hòa Pháp

  1. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” NGHIÊN CỨU GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT KINH NGHIỆM TỪ CỘNG HÒA PHÁP STUDY ON LEGAL INTERPRETATION EXPERIENCE FROM FRENCH REPUBLIC PGS.TS. Phan Nhật Thanh1 Tóm tắt – Giải thích pháp luật ở Việt Nam là một vấn đề cần nghiên cứu thấu đáo bởi bất kì hệ thống pháp luật của quốc gia nào cũng phải cần có sự giải thích pháp luật. Giải thích pháp luật phát sinh như một nhu cầu tất yếu bởi ngôn ngữ sử dụng trong văn bản pháp luật mang tính chuyên biệt cao và có thể tạo ra cách hiểu không thống nhất giữa chủ thể áp dụng, chủ thể bị áp dụng và các chủ thể khác. Bên cạnh đó, tình trạng có quá nhiều văn bản với nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy phạm hay nội dung trong các văn bản. Hiện nay, thuật ngữ giải thích pháp luật cũng chưa được hiểu một cách thống nhất. Giải thích pháp luật là giải thích các quy phạm trong các nguồn luật (tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật) hay giải thích pháp luật là giải thích văn bản pháp luật? Bài viết nghiên cứu thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay cũng như đưa ra các kiến nghị cho cơ chế giải thích pháp luật từ bài học kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp. Từ khóa: giải thích pháp luật, văn bản pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật. 1. KHÁI QUÁT VỀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Có thể khẳng định rằng không có một hệ thống pháp luật của một quốc gia nào mà không cần đến sự giải thích. Điều này xuất phát từ ba nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất, ngôn ngữ pháp lí sử dụng trong văn bản là ngôn ngữ mang tính chuyên biệt cao. Thứ hai, việc hiểu và áp dụng pháp luật không phải lúc nào cũng có tính thống nhất giữa các chủ thể khác nhau. Thứ ba, có quá nhiều văn bản pháp luật cùng song hành tồn tại dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy phạm hay nội dung trong các văn bản. Ngoài ra, cũng cần lưu ý thuật ngữ sử dụng là giải thích pháp luật hay giải thích văn bản pháp luật hay giải thích luật. Nếu chúng ta sử dụng thuật ngữ pháp 1 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Email: pnthanh@hcmulaw.edu.vn 435
  2. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” luật trong giải thích pháp luật thì cách tiếp cận có thể là giải thích ngữ nghĩa chưa rõ của các quy phạm (hoặc quy tắc) trong các nguồn luật tập quán, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, do chủ yếu áp dụng hình thức văn bản quy phạm pháp luật nên cách tiếp cận của các học giả Việt Nam đa phần hướng về giải thích văn bản quy phạm pháp luật [1]. Tuy cách tiếp cận là vậy nhưng nhìn từ góc độ pháp lí, có thể nói rằng Việt Nam chưa có cơ chế giải thích pháp luật. Chương XIV Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) chỉ sử dụng thuật ngữ “Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh” và chỉ được quy định trong bốn điều (từ Điều 158 đến Điều 161). Để hiểu được một cách chính xác thuật ngữ giải thích pháp luật, thiết nghĩ cần phải đi từ thuật ngữ pháp luật trong giải thích pháp luật. Khái niệm pháp luật cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào từng trường phái hay quan điểm nhận thức về pháp luật [2]. Có hai quan điểm phổ biến từ trước đến nay khi nói đến nguồn gốc pháp luật, đó là quan điểm về pháp luật tự nhiên (natural law) và quan điểm về pháp luật thực định (positive law) [3]. Lí thuyết về pháp luật tự nhiên xuất phát từ tính nhị nguyên của pháp luật, tức ngoài hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành còn có luật cao hơn, mang đặc trưng cho bản chất tự nhiên của con người. Luật tự nhiên có nguồn gốc từ sự hợp lí hoặc từ tôn giáo và mang tính bắt buộc trong xã hội loài người. Nói cách khác, pháp luật tự nhiên xác định những điều kiện và nguyên lí của sự thật hiển nhiên trong hành vi xử sự của con người [4]. Đó chính là ý chí của Thượng đế muốn tạo ra một xã hội ổn định và trật tự [5]. Ngược lại với lí thuyết pháp luật tự nhiên là pháp luật thực định. Theo đó, pháp luật là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ khi có nhà nước. Pháp luật do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Pháp luật là sự thể hiện quyền lực nhà nước [6]. Việc tiếp cận khái niệm pháp luật khác nhau dẫn đến sự nhận thức khác nhau về giải thích pháp luật. Quan điểm 1 (Law interpretation): Thuật ngữ pháp luật theo quan điểm này là pháp luật nói chung. Dù chưa xác định một cách cụ thể nhưng có thể hiểu rằng giải thích pháp luật là giải thích ngữ nghĩa chưa rõ của các quy phạm (hoặc quy tắc) trong các nguồn luật tập quán, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Quan điểm này có từ thời cổ đại. Platon – một trong ba nhà hiền triết nổi tiếng nhất cổ đại Hi Lạp (cùng với Aristotle, Socrates) – cho rằng giải thích pháp luật là nhằm làm rõ tinh thần của pháp luật (hơn là nghĩa đen của từ ngữ). Khác với các nước theo hệ thống dân luật, các nước theo hệ thống thông luật không chỉ giải thích văn bản mà còn giải thích án lệ (và có thể cả luật tập quán) [7]. Theo Montesquieu dẫn theo Murray [8], thẩm quyền giải thích pháp luật là thẩm quyền của thẩm phán nhằm làm rõ ngữ nghĩa hay tinh thần của pháp luật. Tuy nhiên, đối với Voltaire, mục đích 436
  3. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” của giải thích pháp luật là nhằm giới hạn sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật [8]. Quan điểm 2 (Interpretation of legal documents): Thuật ngữ pháp luật theo quan điểm này thiên về văn bản quy phạm pháp luật. Giải thích pháp luật là giải thích văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả văn bản luật và văn bản dưới luật. Theo đó, giải thích pháp luật là một ‘hoạt động mang tính hợp lí’ (rational activity) nhằm xác định ngữ nghĩa cho một văn bản pháp lí [9]. Về cơ bản, các nước theo hệ thống dân luật chủ yếu giải thích văn bản quy phạm pháp luật. Giải thích pháp luật là việc giải thích các văn bản quy phạm pháp luật nhằm làm rõ tinh thần, nội dung, phạm vi, ý nghĩa và mục đích các quy định của pháp luật để giúp mọi người hiểu, thực thi các quy định của pháp luật một cách chính xác, thống nhất [10]. Việc giải thích này chỉ do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện nhằm làm cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất [11]. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao xác định giải thích pháp luật thống nhất. Kelsen cho rằng cần phải dựa vào học thuyết về cấu trúc thứ bậc của hệ thống pháp luật. Ông cho rằng hệ thống pháp luật không phải là một hệ thống các quy phạm cùng thứ hạng mà có phân cao thấp khác nhau. Chuẩn mực của quy phạm cấp cao sẽ xác định tính đúng đắn cho quy phạm cấp thấp [12]. Tuy nhiên, ngay cả như vậy, Kelsen cũng chưa đề cập đến vấn đề các quy phạm pháp luật đồng cấp nhưng nội dung khác nhau thì sẽ giải thích ra sao. Quan điểm 3 (Statutory interpretation): Thuật ngữ pháp luật theo quan điểm này là văn bản luật. Giải thích pháp luật là giải thích văn bản quy phạm do Nghị viện hay Quốc hội ban hành. Việc giải thích này được hiểu là “những gì mà luật nói” (to say what the law is), đặc biệt là Hiến pháp [13]. Giáo sư Stephen A. Edwards đã liên tục ba lần nhắc lại một chữ “Read the statute” (đọc luật) và cho rằng thẩm phán chính là người giải thích các nguyên lí cơ bản trong một đạo luật bởi đó chính là công việc của họ và họ giải thích dựa vào nội dung mà văn bản đó thể hiện [14]. Như vậy, giải thích pháp luật cũng có thể hiểu là một cách thức để khám phá những ý tưởng mà nhà làm luật cố gắng chuyển tải cho người đọc [15]. Quan điểm 4 (legal interpretation): Giải thích pháp luật là giải thích các văn bản có tính pháp lí. Thuật ngữ văn bản mang tính chất pháp lí ở đây rất rộng. Văn bản là đối tượng giải thích có thể là pháp luật hoặc các quy phạm khác (như hiến pháp, luật, án lệ, hoặc tập quán) hoặc những cam kết đơn phương, những thỏa thuận song phương (như trong hợp đồng hoặc di chúc). Văn bản trong trường hợp này có thể là văn bản viết hay thỏa thuận bằng lời nói (như di chúc miệng hoặc hợp đồng ngụ ý trên thực 437
  4. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” tế) [16]. Như vậy, với cách hiểu này, bất kì hành vi nào tạo ra một tính chất pháp lí thì đều có thể giải thích. Theo Aharon Barak, việc giải thích xuất phát từ mâu thuẫn trong nội tại của một văn bản hoặc giải thích sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khác nhau về cùng một bình diện quy phạm (hai đạo luật, hai hợp đồng, hai di chúc), hoặc trên các bình diện quy phạm khác nhau (hiến pháp và quy chế, quy chế và hợp đồng, hợp đồng và di chúc). Việc giải thích này mang lại ý nghĩa cho văn bản nhưng không giải quyết được mâu thuẫn giữa các văn bản mà tùy thuộc vào giá trị của sự giải thích theo quy định của các hệ thống pháp luật nhất định. Như vậy, giải thích pháp luật không đồng nghĩa với việc giải quyết mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật. Nói cách khác, quy tắc giải thích pháp luật khác với quy tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các văn bản (như nguyên tắc hợp hiến, nguyên tắc bổ sung, sửa đổi văn bản, nguyên tắc loại bỏ văn bản khi mâu thuẫn) [16]. Quan điểm 5: Giải thích pháp luật chỉ giải thích văn bản do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành: Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Giải thích pháp luật theo quan điểm này chính là định nghĩa quy định tại Khoản 3, Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Theo quy định này, giải thích là làm rõ tinh thần, nội dung các điều khoản để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, quy định giải thích chỉ được giới hạn ở những văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Chủ thể giải thích cũng được xác định rõ là Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 2. GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nếu xác định thuật ngữ pháp luật theo nghĩa chung nhất của từ (theo hệ thống cấu trúc) hay pháp luật là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (nghĩa hệ thống văn bản) thì có thể khẳng định Việt Nam không xác định cơ sở giải thích pháp luật theo nghĩa chung này vì như đã nói, quy định tại Khoản 3, Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) chỉ nói đến việc giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh. 2.1. Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh hình thành quy phạm pháp luật Khoản 2, Điều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định: ‘Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh’. Trên cơ sở hiến định này, Điều 49 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2020) và Khoản 3, Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: ‘giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến pháp, luật, pháp lệnh để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật’. Ngoài ra, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ 438
  5. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” sung năm 2020) cũng cụ thể hóa nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục việc giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong bốn điều luật (từ Điều 158 đến Điều 161). Tính đến nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ có năm lần giải thích luật và chưa có lần nào giải thích Hiến pháp hay pháp lệnh. Đó là (1) Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBNVQH10 ngày 20/08/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991; (2) Nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 28/01/2005 giải thích Điểm c, Khoản 2, Điều 241 của Luật Thương mại 1997; (3) Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/04/2005 về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lí nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991; (4) Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 về giao dịch dân sự nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991 có người định cư ở nước ngoài tham gia và; (5) Nghị quyết số 1053/2006/NQ-UBTVQH11ngày 10/11/2006 về việc giải thích Khoản 6, Điều 19 Luật Kiểm toán nhà nước. 2.2. Giải thích không mang tính quy phạm Tác giả gọi là giải thích không mang tính quy phạm bởi lẽ thẩm quyền giải thích này không có cơ sở hiến định hay luật định và kết quả của việc giải thích không trở thành quy phạm pháp luật. Trên thực tế, hầu hết các chủ thể áp dụng pháp luật đều ít nhiều phải giải thích pháp luật [17], thường có các trường hợp sau: Giải thích thông qua quá trình áp dụng pháp luật, bao gồm các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả phải kể đến giải thích thông qua việc ban hành Nghị quyết hay án lệ của Tòa án nhân dân tối cao. Vấn đề cần bàn ở đây là nếu Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết với tính chất là văn bản quy phạm để giải thích một quy phạm hay một vấn đề pháp lí mà luật quy định chưa rõ thì có xem là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung không? Căn cứ vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với tên gọi là Nghị quyết nhằm hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử. Tuy nhiên, nếu xét về cơ sở hiến định thì Tòa án nhân dân tối cao lẫn Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không có thẩm quyền giải thích luật [18]. Theo Khoản 1, Điều 2 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lự chọn, công bố và áp dụng án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, án lệ có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lí và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lí, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể. Cũng theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lí tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Tuy nhiên, trong 439
  6. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” trường hợp vụ việc có tình huống pháp lí tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lí do trong bản án, quyết định của Tòa án [19]. Như vậy, hiểu đúng theo tinh thần của Nghị quyết này thì án lệ cũng mang tính quy phạm (bắt buộc). Ngoài ra, trong thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao còn giải thích việc áp dụng luật thông qua hình thức công văn [20]. Giải thích thông qua nghiên cứu của các học giả, đây là hình thức thông qua các bài bình luận về nội dung, ý nghĩa của các bản Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh sau khi được ban hành [21]. 3. KINH NGHIỆM GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TỪ CỘNG HÒA PHÁP Nguồn gốc của luật dân sự có thể bắt nguồn từ luật La Mã, vốn là luật chung cho sự phát triển của hai khu vực pháp luật dân sự nổi tiếng là Pháp và Đức. Luật La Mã trong những năm đầu của Cộng hòa La Mã được hình thành bởi các quan tòa. Ngoài việc ban hành các sắc lệnh (edicts) quy định nguyên tắc chung áp dụng pháp luật trong những trường hợp cụ thể, các quan tòa về sau còn giải thích các sắc lệnh này cho các bên tham gia tố tụng hoặc thậm chí cho chính các thẩm phán [22]. Có thể nói Luật La Mã đã mở đường cho truyền thống luật dân sự về pháp điển hóa các tập quán và các nguyên tắc thuộc thẩm quyền của một cơ quan nhằm giải thích pháp luật cho thẩm phán, luật sư và cả người học [23]. Nền tảng cơ bản của luật nước Pháp là luật thành văn. Luật và các đạo luật là nền tảng cho các văn bản quy phạm khác. Do đó, việc giải thích pháp luật ở Pháp là giải thích văn bản luật (không phải văn bản quy phạm pháp luật nói chung). Theo Claire M. Germain, giải thích luật ở Pháp không có tiêu chí và phương pháp cụ thể mà mang tính linh hoạt [24]. Thẩm quyền giải thích pháp luật ở Pháp thuộc về các thẩm phán. Đây vừa là thẩm quyền và cũng là trách nhiệm của thẩm phán bởi lẽ nếu thẩm phán dựa vào lí do là luật không đầy đủ, mơ hồ hay không có luật quy định mà không đưa ra phán quyết thì điều đó có nghĩa thẩm phán đã từ chối thực thi công lí và có thể bị truy tố [25]. Theo Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1791, nếu trong quá trình giải thích luật mà có sự khác biệt giữa các tòa án thì vấn đề sẽ được chuyển lên cơ quan lập pháp. Tuy nhiên, quy trình này bị chấm dứt năm 1837 vì có thể có những lí do chính trị mà làm cho sự giải thích không còn đúng theo bản chất của vấn đề. Ngoài ra, Nghị viện cũng có thể ban hành luật giải thích nhưng tòa án rất khó để áp dụng hồi tố. Do đó, trên thực tế thì các luật giải thích như thế không đóng vai trò quan trọng lắm. Theo Claire M. Germain, giải thích luật ở Pháp không có tiêu chí và phương pháp cụ thể mà mang tính linh hoạt. Phương pháp chính là bình luận giải thích (exegetic) và giải thích căn cứ vào mục đích (telelogical – mục đích luận). Đối với việc bình luận giải thích, thẩm phán sẽ dựa vào lịch sử lập pháp còn phương pháp dựa vào mục đích thì thẩm phán sẽ dựa vào mục tiêu xã hội khi ban hành luật [24]. 440
  7. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Từ khi Bộ luật Dân sự Napoleon (1804) được ban hành, việc giải thích pháp luật theo phương pháp bình luận giải thích (exegetic) rất được xem trọng. Các thẩm phán thường lập luận dựa trên tính tương tự (áp dụng tương tự) của các vụ việc trước đó để áp dụng cho các trường hợp đang xem xét mà không có luật điều chỉnh. Thông thường các thẩm phán sẽ sử dụng phương pháp quy nạp, trên cơ sở nguyên lí đã được thiết lập bởi các nhà lập pháp, để hình thành nguyên tắc chung và sau đó giải thích và áp dụng cho những trường hợp có cùng điều kiện hoàn cảnh [26]. Cũng lưu ý là khi thẩm phán bình luận và giải thích thì thẩm phán phải tôn trọng ý kiến và quan điểm của các nhà lập pháp. Khi luật đã rõ thì thẩm phán chỉ áp dụng, khi luật còn mơ hồ thì thẩm phán giải thích dựa vào ý định của nhà lập pháp. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cách giải thích trên của tòa án thiên về giải thích nghĩa đen của từ mà không chú ý nhiều đến điều kiện hoàn cảnh xã hội khi ban hành luật và điều kiện hoàn cảnh xã hội khi áp dụng luật. Điều này dẫn đến tình trạng làm cho luật không công bằng và không mang giá trị thực tiễn. Do đó, từ sau thế kỉ 19, rất nhiều quan điểm cho rằng nên để thẩm phán trở thành người làm luật. Quan điểm này có ảnh hưởng rất lớn và sau đó thì Đức, Thụy Sĩ và nhiều nước theo hệ thống dân luật đã theo trao quyền cho thẩm phán làm luật, tuy nhiên trong đó không có Pháp [24]. Phương pháp tiến hóa lịch sử là một loại phương pháp giải thích căn cứ vào mục đích (telelogical) và cũng còn được gọi là phương pháp làm mềm văn bản. Thẩm phán khi áp dụng văn bản đã nhận thấy rằng ý chí của nhà lập pháp khi ban hành văn bản quy phạm không còn phù hợp hay không còn giá trị với những thay đổi của xã hội. Căn cứ vào nhu cầu xã hội, thẩm phán được phép điều chỉnh văn bản cho phù hợp với tư tưởng lập pháp hiện đại. Ngày nay, các thẩm phán thường căn cứ vào tính hợp lí, lẽ công bằng, đạo đức và nhu cầu xã hội để giải thích luật. Vì lẽ đó, có nhiều thẩm phán đã mạnh dạn giải thích luật ngược lại với quy định ban đầu [24]. Như vậy, có thể tóm tắt giải thích luật ở Pháp như sau: - Khi quy định đã rõ ràng thì nó sẽ được áp dụng và không giải thích, trừ trường hợp phát sinh một hệ quả vô lí. - Khi một quy định không rõ ràng hoặc tối nghĩa, tòa án sẽ nghiên cứu ý chí của nhà lập pháp, tức là tòa án phải kiểm tra, xem xét những bình luận về quy định đó. Việc giải thích phải đặt trong tổng thể các quy phạm. - Nếu vẫn không xác định được ý chí cụ thể và rõ ràng của nhà lập pháp, tòa án sẽ nghiên cứu về tư duy lập pháp. Do đó, nhiều người còn gọi là phương pháp giải thích mang tính lịch sử. Tuy nhiên, tòa án cũng không bị ràng buộc bởi tư duy này. - Khi quy phạm không quy định giải pháp trực tiếp cho vụ việc tranh chấp, thẩm phán sẽ thiết kế nguyên tắc. Các quyết định tư pháp của Cộng hòa Pháp thường viện dẫn cơ sở pháp lí là các quy phạm trong văn bản quy phạm pháp luật. Tuy 441
  8. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” nhiên, thỉnh thoảng tòa án cũng dựa vào nguyên tắc chung của pháp luật. - Nếu lịch sử lập pháp bị nhầm lẫn, hoặc luật quá lỗi thời, thẩm phán sẽ áp dụng phương pháp giải thích căn cứ vào mục đích (teleological interpretation method). Ngoại trừ tòa địa phương, phương pháp này được hầu hết các tòa áp dụng như Tòa án tối cao, Tòa phúc thẩm [24]. 4. KIẾN NGHỊ CƠ CHẾ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT CHO VIỆT NAM Giải thích pháp luật chắc chắn là một vấn đề cần nghiên cứu thêm bởi đây là vấn đề không mới nhưng chưa bao giờ cũ. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, việc giải thích pháp luật ở Việt Nam cần chú trọng những nội dung sau Thứ nhất, xác định đối tượng giải thích. Theo đó, cần xác định rõ là giải thích pháp luật với ngữ nghĩa cụ thể là giải thích văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản luật hay giải thích các văn bản mang tính pháp lí. Thứ hai, xác định thẩm quyền giải thích pháp luật. Tác giả cho rằng vấn đề này cần dựa trên cơ sở nhận thức về pháp quyền và chức năng của hệ thống cơ quan nhà nước. Nhìn từ góc độ pháp quyền – quyền lực tối thượng của pháp luật thì các chủ thể đều phải tôn trọng và tuân theo pháp luật. Vấn đề ở chỗ là nếu pháp luật không rõ thì cần phải làm rõ. Tuy nhiên, chủ thể có thẩm quyền làm rõ là chủ thể nào? Hiện nay, hệ thống các cơ quan nhà nước đã được xác định cơ bản: cơ quan lập pháp (làm luật), cơ quan hành pháp (thực thi pháp luật) và cơ quan tư pháp (bảo vệ pháp luật). Ở đây có sự khác biệt về chức năng của tòa án giữa các hệ thống pháp luật. Nếu nhìn từ thông luật, tòa án có ba chức năng: (1) xét xử; (2) giải thích pháp luật (nếu luật chưa rõ); (3) làm luật (án lệ). Nếu nhìn từ dân luật, tòa án chủ yếu thực hiện chức năng áp dụng pháp luật thông quan hoạt động xét xử. Như vậy, giải thích pháp luật là một hoạt động thuộc về lập pháp, hành pháp hay tư pháp? Trả lời câu hỏi này cũng gắn với việc xác định thẩm quyền giải thích pháp luật. Thứ ba, cơ chế giải thích pháp luật Trong cơ chế giải thích luật, trước tiên nên tạo ra cơ sở pháp lí cho việc giải thích (tốt nhất là quy định trong hiến pháp). Sau đó, cân nhắc quy định chi tiết trong Luật về giải thích luật hay tích hợp cùng với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, cũng cần làm rõ điều kiện và cách thức, quy trình giải thích pháp luật. Thứ tư, giá trị pháp lí của kết quả giải thích pháp luật Cần xác định kết quả giải thích có hình thành quy định mang tính quy phạm hay không hay chỉ là việc áp dụng trong một ngành, một vụ việc cụ thể. Nhìn chung, giải thích pháp luật vẫn cần có nhiều nghiên cứu cụ thể và chuyên sâu hơn, làm sao việc giải thích này ngoài việc tạo điều kiện cho các chủ thể áp dụng pháp luật được 442
  9. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” thuận lợi, việc áp dụng pháp luật được thống nhất thì cũng cần phải bảo đảm nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm tính công bằng và minh bạch. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Cửu Việt. Giải thích pháp luật, một số vấn đề về lí luận và thực tiễn. NXB Hồng Đức; 2009, tr. 152. [2] Jean-Guy Belley. Law as Terra Incognita: Constructing Legal Pluralism. Canadian Journal of Law and Society. 1997;12(2):p. 20. [3] Phan Nhật Thanh. Bàn về nguồn gốc pháp luật. Tạp chí Khoa học Pháp lí. 2016 ;số 3. [4] John Finnis. Natural Law and Natural Rights. Oxford University Press;2011:p. 18. [5] Josehp Story. Natural Law. Journal of Christian Jurisprudence. 1988;p. 31. [6] Phipille Nonet. What is Positive Law?. The Yale Law Journal. 1990 – 1991;vol 100:p.670. [7] Phan Nhật Thanh. Tập quán pháp với các góc nhìn khác nhau trên thế giới. Tạp chí Khoa học Pháp lí. 2011;số 5. [8] Justice John L. Murray, President of the Supreme Court and Chief Justice of Ireland. Methods of Interpretation -– Comparative Law Method. Actes du colloque pour le cinquantième anniversaire des Traités de Rome, p. 39. [9] Williams G. L.. Language and Law. 61 Law Q. Rev. 1945;71:392. Retrieved from http://assets.press.princeton.edu/chapters/s7991.pdf. [10] Hoàng Văn Tú. Giải thích pháp luật – Một số vấn đề cơ bản và thực tiễn tại Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2008;số 11. [11] Phạm Thị Duyên Thảo. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992: nên trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2012;số 8. [12] Stanley L. Paulson. Kelsen on Legal Interpretation. 10 Legal Stud. 1990;136:p.143. [13] Pierre Schlag. Authorizing Interpretation. 30 Conn. L.Rev.1998:p.1086. [14] William Baude - Stephen E. Sachs. The Law of Interpretation. Harvard Law review. 2017;vol 130:p.1082. [15] Stephen A. Edwards. Interpretation of Legal Documents. 20 Jurimetrics J. 1979;174:p.190. 443
  10. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” [16] Aharon Barak (Translated from the Hebrew by Sari Bashi). Purposive Interpretation in Law. Princeton University Press 2005 (cited in Hawkins, Legal Interpretation); p.3. [17] Phạm Tuấn Khải. Giải thích pháp luật – cách nhìn của hành pháp. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2008;số 4. [18] Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP giải thích về thuật ngữ “chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” được quy định trong Luật Tố tụng dân sự năm 2015. [19] Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, điều 8. [20] Cao Vũ Minh. Công văn và những nhầm lẫn với quyết định quản lí nhà nước. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 2013;số 5. [21] Trần Ngọc Đường. Thực trạng và nhu cầu giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2016;số 14. [22] Charles Sumner Lobingier. The Evolution of The Roman Law: From Before The Twelve Tables To The Corpus Juris 110 (2d ed. 1923), trích trong Rodrigo Sadi, Legal Education and the Civil Law System, 62 N.Y. L. Sch. L. REV. 165; 2017:p.167. [23] Rodrigo Sadi. Legal Education and the Civil Law System, 62 N.Y. L. Sch. L. REV. 165; 2017:p.167. [24] Claire M. Germain. Approaches to Statutory Interpretation and Legislative History in France. 13 Duke J. Comp. – Int’l L.; 2003: p195. [25] Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam. Bộ luật Dân sự Pháp. 1984. [26] Mazeaud H., Mazaud J. Frantois Chabas. Lecons de Droit Civil, T. 1 (12th ed. 2000) 81 (trích từ Claire M. Germain, Approaches to Statutory Interpretation and Legislative History in France, 13 Duke J. Comp. – Int’l L. 195 (2003), tr. 198. 444
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2