Nghiên cứu mô hình giáo dục mở tại Việt Nam hướng đến đào tạo thực chất đáp ứng yêu cầu của xã hội
lượt xem 4
download
Bài viết "Nghiên cứu mô hình giáo dục mở tại Việt Nam hướng đến đào tạo thực chất đáp ứng yêu cầu của xã hội" làm rõ những đặc điểm của mô hình giáo dục mở và chỉ ra những mặt đạt được và chưa đạt của mô hình giáo dục mở tại Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp hướng đến đào tạo thực chất đáp ứng yêu cầu của xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nghiên cứu mô hình giáo dục mở tại Việt Nam hướng đến đào tạo thực chất đáp ứng yêu cầu của xã hội
- NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH GIÁO DỤC MỞ TẠI VIỆT NAM HƯỚNG ĐẾN ĐÀO TẠO THỰC CHẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA XÃ HỘI ThS. Nhữ Thị Hồng* 1 Tóm tắt: Trong đời sống kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Chính vì vậy xây dựng nền giáo dục thực chất luôn là vấn đề mà mọi quốc gia quan tâm, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nhận thức được điều này, tại đại hội Đảng toàn quốc khóa X, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX có chỉ ra rằng: “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người”. Tuy nhiên để triển khai nội dụng này vào trong thực tế vẫn còn có những lúng túng vì chưa cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật, thiếu nghiên cứu sâu hơn về giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng. Bài viết sau sẽ làm rõ những đặc điểm của mô hình giáo dục mở và chỉ ra những mặt đạt được và chưa đạt của mô hình giáo dục mở tại Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp hướng đến đào tạo thực chất đáp ứng yêu cầu của xã hội. Từ khóa: Giáo dục mở, mô hình, thực chất, giáo dục - đào tạo. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời gian dài, giáo dục chủ yếu diễn ra ở học đường giữa thầy và trò, đó là một hệ thống giáo dục với vai trò, mục tiêu và trách nhiệm rõ ràng. Hệ thống giáo dục này khá khép kín và có rất ít kết nối với các bộ phận khác trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, nền giáo dục truyền thống khép kín đã bộc lộ nhiều nhược điểm, trì trệ, thiếu dân chủ, thiếu linh hoạt, chưa phát huy được khả năng học tập, sáng tạo của từng cá nhân. Vì vậy giáo dục mở phát triển sẽ đảm bảm cho việc xây dựng, tổ chức các nội dung, hình thức giáo dục của hệ thống được linh hoạt hơn, sáng tạo hơn, tạo ra cầu nối khắc phục tình trạng mất công bằng giáo dục, thúc đẩy xu thế học suất đời cho mọi người, mọi nơi, mọi lúc nhằm tiến tới một xã hội học tập, tận dụng các nguồn lực cho giáo dục và bảo đảm tính hiệu quả, phát triển bền vững của hệ thống. Chính vì vậy có thể hiểu giáo dục mở (GDM) là một thuật ngữ mô tả mô hình/ hệ thống giáo dục được thiết kế để mở rộng sự tiếp cận việc học tập so với giáo dục chính quy (truyền thống, thông thường) bằng nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển nguồn học liệu giáo dục mở (trên nền tảng công nghệ hiện đại) trong mọi môi trường học tập với nhiều hình thức khác nhau. [1] * Học viện Ngân hàng.
- 212 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH GIÁO DỤC MỞ • Mở về mục tiêu giáo dục Mỗi nền giáo dục và thậm chí cơ sở giáo dục, người học và bên liên quan đều theo đuổi các mục tiêu khác nhau trong quá trình tham gia vào các hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, suy cho cùng bản chất mở của một nền giáo dục thường được thể hiện qua các mục tiêu tự thân vốn có của chính hệ thống và cơ sở giáo dục hay phục vụ cho các yêu cầu khách quan của bên ngoài. Độ mở của các cơ sở giáo dục và thậm chí cả hệ thống giáo dục trong việc theo đuổi các mục tiêu của mình tất nhiên cũng không thể giống nhau hoàn toàn. Độ mở của các cơ sở giáo dục trong việc thực hiện các mục tiêu cụ thể của mình lệ thuộc vào việc cơ sở giáo dục này được hình thành bởi một bên thứ ba hay tự sinh ra để thực hiện sứ mệnh đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Đối với cơ sở giáo dục được thành lập bởi bên thứ ba và các cơ quan chủ quản nhất định, độ mở của mục tiêu giáo dục hoàn toàn lệ thuộc vào chủ sở hữu. Các cơ sở giáo dục này thường hoạt động theo các mục tiêu tự có của chính mình hơn là hướng đến đáp ứng các nhu cầu hưởng thụ giáo dục xã hội. Ngược lại các cơ sở giáo dục được hình thành và phát triển trên cơ sở nhu cầu tự thân, ra đời để phục vụ cho đời sống giáo dục của chính xã hội thường có độ mở cao hơn. • Mở về đối tượng giáo dục Thông thường mục tiêu giáo dục của các cơ sở giáo dục thường chỉ phù hợp cho một số đối tượng giáo dục nhất định trong một khoảng thời gian nhất định nào đó vì độ mở của đối tượng giáo dục cũng tùy thuộc vào phương thức sở hữu và mô hình hoạt động của các cơ sở giáo dục. Độ mở về đối tượng giáo dục được chia thành hai loại hình chủ yếu sau: Cơ sở giáo dục chỉ phục vụ cho một số đối tượng giáo dục nhất định nào đó trong xã hội. Hiện tượng này thường xảy ra đối với xã hội có sự phân biệt về giai cấp. Cơ sở giáo dục sẵn sàng phục vụ cho nhu cầu học tập của mọi đối tượng trong xã hội. Một khi con người có nhu cầu học tập thì nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục phải đáp ứng cho bằng được nhu cầu chính đáng của người học bất kể họ là ai. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào khả năng cung cấp dịch vụ của cơ sở giáo dục và khả năng đáp ứng các yêu cầu học thuật tối thiểu của người học. Như vậy có nghĩa là đối với nền giáo dục mở sẽ tạo cơ hội học tập cho mọi người nhiều hơn nhưng điều kiện để tham gia các khóa học tập chất lượng cao cũng ngày một khó khăn hơn.
- Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 213 • Mở về nội dung giáo dục và chương trình đào tạo Nội dung giáo dục và chương trình đào tạo là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng của tất cả mọi khóa học. Chất lượng đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng nội dung giáo dục và chương trình đào tạo. Tuy nhiên độ mở của cả hai yếu tố này lệ thuộc vào mục tiêu giáo dục, đối tượng đào tạo, đồng thời phụ thuộc vào năng lực khoa học công nghệ và trình độ tự do học thuật của các cơ sở giáo dục. Thông thường mỗi chương trình đào tạo có một mục tiêu giáo dục và đối tượng đào tạo cụ thể. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và đối tượng đào tạo đó, các cơ sở giáo dục thiết kế nội dung giáo dục sao cho vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu của mình vừa phù hợp với năng lực và trình độ của đối tượng người học. Chính vì vậy nội dung giáo dục và chương trình đào tạo phải có sự linh động để tối ưu hóa khả năng học tập và tiếp cận tri thức của người học. Khả năng cập nhật và thích ứng với sự biến động của tình hình là một trong những yếu tố cơ bản góp phần làm nên độ mở của nội dung giáo dục cũng như chương trình đào tạo. • Mở về phương pháp giáo dục Trong quá trình đào tạo thì nội dụng giáo dục được coi như nguyên liệu, các phương tiện dạy học được ví như công cụ. Phương pháp giáo dục sẽ đóng vai trò như một cầu nối giữa tất cả các yếu tố nói trên mà điểm bắt đầu chính là mục tiêu giáo dục và điểm kết thúc của nó chính là lượng kiến thức của người học. Chính vì vậy để có thể đào tạo ra người học có tư duy phản biện, có tính sáng tạo và khả năng học tập suốt đời thì phương pháp giáo dục cũng phải phát huy tính chủ động sáng tạo và tự do học thuật. Năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự khám phá, tự giải quyết và tự bảo vệ các vấn đề khoa học của người học chính là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng nhất của các hệ thống giáo dục mở. Tuy nhiên, độ mở của phương pháp giáo dục sẽ bị phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ việc dạy và học của các cơ sở đào tạo. Ví dụ như đối với học sinh thành phố khi nói tới công cụ sản xuất như cuốc, xẻng thì cần phải có đồ dùng trực quan. Ngược lại ở nông thôn thì khi nói tới các phát minh khoa học hay làm các thí nghiệm phức tạp người dạy cần phải sử dụng nhiều phương tiện dạy học tối tân. Ngoài ra độ mở của phương pháp giáo dục còn phụ thuộc vào quá trình đào tạo, năng lực của người dạy lẫn người học, và các bên liên quan đến quá trình giáo dục. • Mở về phương thức tiếp cận và cơ hội giáo dục Trong xã hội hiện đại mặc dù cơ hội được tham gia các khóa học khác nhau của người học được tăng lên rõ rệt nhưng mức độ chuyên môn hóa các hoạt động đào tạo cũng ngày càng cao. Điều đó đòi hỏi người học không chỉ đáp ứng các yêu cầu về mặt chuyên môn, kiến thức mà còn phải cả khả năng tài chính và nhiều điều kiện đi kèm
- 214 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP khác nữa. Chính vì vậy về mặt lý thuyết người học được bình đẳng tiếp cận với các cơ hội giáo dục, tuy nhiên thực tế thì lại không phải vậy. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ người học có nhiều cơ hội tiếp cận các chương trình đào tạo, dịch vụ giáo dục và phát minh khoa học công nghệ trong rất nhiều trường hợp mà không hề thua kém việc tham dự trực tiếp các khóa học, bên cạnh đó còn tiện lợi hơn trên một số phương diện nhất định. [2] 3. MÔ HÌNH GIÁO DỤC MỞ Ở VIỆT NAM 3.1. Các mặt đạt được Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách và ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Theo Ngân hàng Thế giới, tổng chi đầu tư cho giáo dục luôn ở mức xấp xỉ 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tương đương 5% của GDP. Chính vì vậy trong hơn 30 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi, đạt nhiều thành tựu lớn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Cụ thể: Thứ nhất: Về quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phổ thông phát triển. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 1 vào năm 2014, phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. Năm 2017, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Trẻ mầm non 5 tuổi ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được miễn học phí từ năm 2018. Thứ hai: Chất lượng giáo dục: Việt Nam là quốc gia có truyền thống hiếu học từ lâu đời, trong các kỳ thi quốc tế cũng như trong khu vực học sinh, sinh viên Việt Nam luôn được đánh giá cao. Thứ ba: Công tác kiểm định chất lượng giáo dục luôn được chú trọng. Tính đến tháng 7/2020 có 24.984 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và thường xuyên trên cả nước đã được đánh giá ngoài, đạt tỷ lệ 58,70% [3]. Còn đối với cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, trung cấp sư phạm đã có hơn 248 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá. Thứ tư: Có nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn được thực hiện. Thứ năm: Cơ sở hạ tầng cho giáo dục được đầu tư thích đáng. Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương đương với các nước khác trong khu vực. Thứ sáu: Công tác xây dựng xã hội học tập đã có nhiều chuyển biến tịch cực. Mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên tiếp tục được củng cố, phát triển. Bên cạnh các thuận lợi vừa nêu thì nền giáo dục tại Việt Nam cũng gặp phải không ít khó khăn khi áp dụng mô hình giáo dục mở.
- Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 215 3.2. Những mặt còn hạn chế Mặc dù Việt Nam đã có chủ trương đổi mới nền giáo dục theo hướng mở từ rất lâu, cụ thể như tại Viện Đại học Mở Hà Nội và Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh đã triển khai cung cấp các chương trình đào tạo từ xa phù hợp với khái niệm giáo dục mở. Hay các dự án như khóa học Massive Open Online Courses cuả đại học FPT, chương trình tích hợp bài giảng trên Khan Academy của trường ĐH Khoa học tự nhiên TP. Hồ Chí Minh. Đây là một chương trình dạy toán và các môn khoa học miễn phí từ lớp 1 đến đại học (cơ bản) đã được Việt hóa bằng các đoạn phim và bài giảng ngắn nhằm tăng cường khả năng tiếng Anh của sinh viên…. [4], hay mới đây như chương trình giáo dục phổ thông theo thông tư 32/2018/TT-BGDDT. Tuy nhiên cho đến nay, các chương trình này vẫn chưa tận dụng hết các lợi thế của công nghệ thông tin, công nghệ trực tuyến trong việc tổ chức đào tạo. Một số trường, một số chương trình chỉ chạy đua về phát triển số lượng mà chưa quan tâm đến chất lượng đào tạo, đào tạo mở nhưng chỉ là hình thức. Điều này dẫn đến tình trạng học đối phó, hoặc gian lận,… đồng thời chưa triển khai nhiều các phương pháp đánh giá để phù hợp với từng người học, dẫn đến việc đánh giá người học chưa đúng. Bên cạnh đó nhiều chứng chỉ, bằng cấp của hình thức đào tạo từ xa vẫn chưa được xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp, thừa nhận. Các nguyên nhân dẫn đến trình trạng này cụ thể như sau: Thứ nhất: Thiếu lòng tin và nhận thức vào giá trị mà giáo dục mở mang lại cho người học, đặc biệt là tư duy quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Khi chưa nhận rõ được vai trò cũng như lợi ích của giáo dục mở mang lại nên cơ quan quản lý chưa có chính sách thúc đẩy giáo dục mở, ban hành văn bản qui phạm pháp luật làm cơ chế để vận hành chính sách giáo dục mở trên các bình diện cung cấp dịch vụ công cho học tập, thiết lập các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng, cung cấp điều kiện vật chất, hạ tầng công nghệ, hình thành môi trường sinh thái thuận lợi cho người học trong đo lường đánh giá, công nhận kết quả, cơ chế học liên thông… Thứ hai: Hệ thống cung cấp dịch vụ học tập hiện nay gồm có các trường, các trung tâm giáo dục thường xuyên - giáo dục nghề nghiệp, các trung tâm đào tạo ở các doanh nghiệp lớn, các trung tâm giáo dục Elearning. Giáo dục chính qui được thực hiện trong các trường, giáo dục không chính qui thực hiện tại các trung tâm. Sự ra vào của người học giữa hai hệ thống này vẫn còn có rào cản do sự tin tưởng vào chất lượng giáo dục còn hạn chế. Ngoài ra còn hình thức học tập nữa là học tập phi chính qui là hình thức học tập xảy ra một cách ngẫu nhiên, không cấu trúc tại nơi làm việc thông qua trải nghiệm, tương tác với đồng nghiệp hoặc thông qua các hình thức hội nghị, hội thảo… Động cơ học tập phi chính qui khá đang chịu chi phối nhiều yếu tố về văn hóa, môi trường nơi làm việc, nền tảng cơ bản về gia đình, dân tộc, kinh tế,
- 216 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP học vấn cũng như chính sách khuyến khích phát triển tổ chức học tập tại một cơ quan, tổ chức hay tại mỗi doanh nghiệp. Đáng tiếc là hình thức học tập này hầu như không được công nhận ở Việt Nam. Chính vì vậy một số qui định về đầu vào, chương trình đào tạo, tổ chức học tập cần được linh hoạt, mềm dẻo, thiết kế mang tính kế thừa và liên thông. Việc đánh giá kỹ năng người học và công nhận các chuẩn kỹ năng nghề nghiệp cần phải thực hiện thường xuyên tạo động lực cho người học, cũng như những chế độ đãi ngộ của doanh nghiệp hợp lý nếu người học đạt được trình độ kỹ năng cao hơn. Đồng thời cần nâng cao văn hóa học tập ở người lao động và ở mỗi tổ chức. Người biết hơn chia sẻ cho người còn thiếu hụt kiến thức, kỹ năng tạo ra một tập thể học tập. Người chưa biết thì khiêm tốn học hỏi, không giấu dốt, người có trình độ thì không giấu nghề thì rào cản về văn hóa, tuổi tác, thâm niên có thể mờ nhạt đi và tổ chức thực sự là một tổ chức học tập. Thứ ba: Một trong những nguyên nhân mà mô hình giáo dục mở tại Việt Nam vẫn chưa thành công một phần do nhận thức của người học và giáo viên. Người học cũng cần có nền tảng kiến thức cơ bản và có động cơ học tập. Giáo viên, giảng viên cần nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ sư phạm để có thể sử dụng các phương pháp giáo dục hiện đại, phát huy được năng lực tư duy, sáng tạo và học tập suốt đời của người học phù hợp với mục tiêu của chương trình giáo dục mở. Thứ tư: Một hệ thống giáo dục mở với nhiều điểm vào, điểm ra cho người học trong suốt cuộc đời họ không thể không tính đến việc đầu tư tài chính cho người học. Nguồn đầu tư tài chính có thể đến từ Chính phủ, doanh nghiệp, người học và các nhà tài trợ, các đối tác xã hội khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào và với mọi doanh nghiệp đều sẵn sàng chi tiền cho nhân viên được đi học và tạo ra được một tổ chức học tập tại doanh nghiệp. Kinh nghiệm nhiều quốc gia phải qui định buộc doanh nghiệp phải để ra số phần trăm doanh thu để đầu tư vào quĩ đào tạo của doanh nghiệp như Pháp chẳng hạn. Ngoài ra người lao động còn được hưởng các phụ cấp trong thời gian học, miễn học phí v.v… Trong nhiều trường hợp khác thì người học phải tự bỏ tiền chi phí cho học tập nếu đăng ký các khóa học từ xa, học tại các trung tâm ngoại ngữ, các trung tâm bồi dưỡng kỹ năng v.v… Chính vì vậy điều kiện nguồn lực tài chính và hạ tầng công nghệ thông tin thiếu thốn là nhân tố cực kỳ quan trọng để giáo dục mở khó có thể thành hiện thực hóa. 4. KẾT LUẬN Mô hình giáo dục mở dựa trên các nguyên tắc là mở cho người học, mở về địa điểm, mở về chương trình học, mở về phương pháp và mở về ý tưởng. Điều này làm
- Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 217 cho mô hình mở giảm thiểu những rào cản đối với người học như do tuổi tác, địa điểm, thời gian, tình trạng kinh tế… so với các mô hình giáo dục trước đây. Và tất yếu sẽ trở thành xu hướng mô hình giáo dục trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 tại tất cả các quốc qia trong khu vực cũng như trên thế giới. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chính vì vậy, Việt Nam cần sớm có những nghiên cứu sâu hơn về giáo dục mở trong điều kiện của Việt Nam hiện nay và tương lai như sớm ban hành những chính sách cụ thể để thúc đẩy giáo dục mở, ban hành văn bản qui phạm pháp luật làm cơ chế để vận hành chính sách giáo dục mở trên các bình diện cung cấp dịch vụ công cho học tập, thiết lập các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng, cung cấp điều kiện vật chất, hạ tầng công nghệ, hình thành môi trường sinh thái thuận lợi cho người học trong đo lường đánh giá, công nhận kết quả, cơ chế học liên thông… giúp loại bỏ những rào cản về hành chính không góp phần nâng cao chất lượng, không giúp được quá trình học tập linh hoạt mềm dẻo. Đặc biệt chính sách đào tạo kỹ năng tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tuyên truyền về đặc điểm cũng như lợi ích mô hình giáo dục mở mang lại để mọi người có kiến thức cơ bản và niềm tin đối với mô hình giáo dục này. Khi có niềm tin thì việc thực hiện đào tạo theo mô hình này sẽ không còn gặp phải sự phản đối hay đối phó trong từng hành động, giúp việc đào tạo thực chất đáp ứng yêu cầu của xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-thuong-xuyen/Pages/Default.aspx?ItemID=4545. 2 Nguyễn Mậu Hùng, Bản chất của hệ thống giáo dục mở trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Thư viện Đai học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 3 https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/khao-thi-va-kiem-dinh-chat-luong-giao-duc/Pages/Default. aspx?ItemID=7130. 4 https://tuoitre.vn/giao-duc-mo-tai-viet-nam-co-hoi-lon-con-bo-ngo-20181114163953278.htm.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số đặc điểm của mô hình giáo dục Nhật Bản và những gợi ý cho việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam
5 p | 97 | 9
-
Quản lý phát triển mô hình giáo dục kỹ năng sống phòng tránh các tệ nạn xã hội cho học sinh của các trường trung học cơ sở, quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội
6 p | 84 | 8
-
Nghiên cứu mô hình giáo dục STEM và định hướng dạy học ở tiểu học
8 p | 17 | 6
-
Tìm hiểu các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục: Phần 1
74 p | 37 | 5
-
Nghiên cứu về mô hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn phát triển trong trường mầm mon
11 p | 89 | 5
-
Nghiên cứu mô hình giáo dục STEM trong đào tạo giáo viên của trường Đại học Thủ đô Hà Nội
12 p | 30 | 5
-
So sánh mô hình Giáo dục Tiểu học Nhật Bản và Giáo dục Tiểu học Việt Nam
7 p | 30 | 3
-
Một số mô hình giáo dục trực tuyến trên thế giới và đề xuất cho Việt Nam
5 p | 59 | 3
-
Mô hình giáo dục quốc phòng và an sinh viên toàn diện, góp phần khẳng định vị thế của trường Đại học sư phạm TDTT Hà Nội
4 p | 32 | 3
-
Xây dựng mô hình giáo dục với quy mô và chất lượng bảo đảm công bằng xã hội
4 p | 26 | 3
-
Thực trạng ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL của giáo viên vào hoạt động giáo dục ở bậc trung học cơ sở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
9 p | 85 | 3
-
Mô hình giáo dục phổ thông dành cho học sinh điếc tại trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
7 p | 84 | 3
-
Ứng dụng mô hình giáo dục pháp luật thực hành trong đổi mới giáo dục đại học
6 p | 11 | 2
-
Mô hình hệ sinh thái giáo dục số edudigital - Bộ tính năng phục vụ yêu cầu chuyển đổi số giáo dục
6 p | 4 | 2
-
Sự tương tác giữa các yếu tố trong mô hình giáo dục 5.0
5 p | 5 | 2
-
Giới thiệu mô hình giáo dục cho sinh viên sư phạm nghệ thuật học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thông qua tác phẩm nghệ thuật
5 p | 8 | 1
-
Đóng góp của Phật giáo trong việc đảm bảo an sinh xã hội: Nghiên cứu mô hình giáo dục hướng thiện và trợ giúp xã hội tại một số chùa ở Huế
11 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn