MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trên con đường đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá -

hiện đại hoá đất nước để theo kịp và hội nhập kinh tế với các nước trên thế

giới. Điều này đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực dồi dào đủ năng lực trí tuệ,

xã hội phải có những con người có trình độ học vấn, hiểu biết mọi lĩnh vực.

Đào tạo ra những con người có sức khỏe, có trình độ cao về khoa học kĩ thuật

và công nghệ đáp ứng được yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ của ngành giáo

dục. Vì thế nghị quyết TW2 khóa VIII năm 1996 và các nghị quyết, văn kiện

của Đảng trong các kì đại hội đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là nhân tố

quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục và đào

tạo là đầu tư cho phát triển” do đó mục tiêu của giáo dục và đào tạo ở nước ta

đã xác định là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,

tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất

và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều 2-

luật giáo dục 2012]. Vì vậy việc nâng cao sức khỏe thể chất cho thanh niên sẽ

góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của xã hội.

“Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần

và xã hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh hoặc tật nguyền”

(WHO). Như vậy, một cơ thể khỏe mạnh trước hết phải có thể chất tốt, sức

khỏe về mặt thể chất phản ánh một phần thực trạng sức khỏe nói chung và đặc

biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động và thẩm mỹ của con người. Do

đó vấn đề phát triển thể chất ở lứa tuổi học sinh, sinh viên là một trong những

vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người

của mỗi quốc gia.

“Giáo dục thể chất là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục

nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua

các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn

diện cho học sinh, sinh viên” [Điều 20, Mục 2 - Luật Thể dục, thể thao 2006].

Để đạt được những mục tiêu này, vai trò cũng như chất lượng của giáo viên

giáo dục thể chất trong nhà trường là một yếu tố hết sức quan trọng, nhiệm vụ

của giáo viên giảng dạy môn Giáo dục thể chất là hướng dẫn học sinh tham

gia các bài tập thể dục nhằm nâng cao sức khỏe đồng thời phát hiện, đào tạo

các vận động viên năng khiếu.

Từ sau năm 1975 đến nay đã có một số tác giả tiến hành nghiên cứu trên

đối tượng sinh viên chuyên ngành Thể dục thể thao. Tuy nhiên những nghiên cứu

dọc về hình thái - thể lực của sinh viên sư phạm Thể dục thể thao giai đoạn từ 18

đến 21 tuổi chưa nhiều.

Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài

“Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 trường Đại học sư

phạm TDTT Hà Nội từ năm 2010-2013” nhằm đạt các mục tiêu sau:

- Xác định thực trạng một số chỉ số hình thái - thể lực và chức năng

sinh lý của sinh viên K43 Trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội

từ năm 2010-2013.

- Đánh giá mức độ phát triển thể chất của sinh viên K43 trường Đại học

sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội sau bốn năm học tập.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI - THỂ LỰC, CHỨC NĂNG SINH

LÍ CƠ THỂ NGƯỜI

1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới

Hình thái và thể lực là những đặc điểm sinh học quan trọng, phản ánh

một phần thực trạng sức khỏe và đặc biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao

động của con người. Vì vậy, đã từ lâu hình thái - thể lực được các nhà y học,

hình thái học quan tâm nghiên cứu.

Quyển sách đầu tiên viết về sự tăng trưởng chiều cao ở người

(Wachstum der Menschen in die Lange) của A.Stoeller được xuất bản ở

Magdeburg (Đức) vào năm 1729. Tuy nhiên, trong cuốn sách này chưa có các

số liệu đo đạc cụ thể. Nghiên cứu về sự tăng trưởng ở người thực sự được

trình bày trong luận án tiến sĩ của Christian Friedrich Jumpert ở Halle (Đức)

năm 1754, trong đó trình bày các số liệu đo đạc về cân nặng, chiều cao đứng

và các chỉ tiêu sinh học khác của một loạt bé trai, bé gái và thanh niên từ 1-25

tuổi tại các trại mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số nơi khác trên nước Đức.

Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang đầu tiên về tăng trưởng ở trẻ

em [dẫn theo 30].

Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao đứng được thực hiện bởi

Philibert Guénneau de Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến

năm 1777. Trong 18 năm liên tục, cậu bé được đo 2 lần mỗi năm, cách nhau 6

tháng. Đây là một trong số những nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho

đến nay và được trích dẫn trong các nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế

kỷ XIX [dẫn theo 17].

Người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại là nhà nhân trắc học

người Đức Rudolf Martin. Vào năm 1919, Rudolf Martin đã đề xuất các

phương pháp và dụng cụ đo đạc kích thước cơ thể người một cách hệ thống

qua hai tác phẩm “Giáo trình về nhân học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ thể và

xử lí thống kê” [dẫn theo 22]. Từ đó đến nay Nhân trắc học đã trở thành một

môn khoa học độc lập và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh

vực khác nhau như:tìm hiều các đặc trưng hình thái, chủng tộc của các cộng

đồng người (trong nhân chủng học), xác định những biến đổi hình thái cơ thể,

bệnh lý (trong y học), thiết kế công nghiệp (trong ecgonomi).

Năm 1925, R. Martin đưa ra phương pháp đánh giá mới về thể lực. Ông

lập bảng chuẩn nhiều đặc điểm hình thái cơ thể, đối với mỗi đặc điểm lại chia

làm nhiều loại. Phương pháp này sau đó được Stephenco bổ sung, ông coi

chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực là ba đặc điểm biến đổi độc lập trong

khi thực tế chỉ có chiều cao đứng là biến đổi độc lập còn cân nặng và vòng

ngực thì biến đổi phụ thuộc vào chiều cao đứng [dẫn theo 12].

Trong những năm 60 của thế kỉ XX,trong chương trình nghiên cứu sinh

học thế giới do UNESSCO chủ trì, nhân trắc học được đặc biệt chú ý và các

dụng cụ đo đạc nhân trắc học đã được chuẩn hóa và sản xuất ở nhiều nước.

Năm 1961, Nold và Volsuski nghiên cứu ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đến

sự tăng trưởng chiều cao ở trẻ em. Cũng trong thời gian này, Graef và Cone

đã thống kê nhiều số liệu chứng minh rằng tình trạng dinh dưỡng và bệnh tật

ảnh hưởng rõ rệt đến sự gia tăng các kích thước và chỉ số cơ thể, đặc biệt là

chiều cao và cân nặng. Năm 1962, Baskirov đã xuất bản cuốn “Học thuyết về

sự phát triển thể lực con người” trong đó tác giả nêu một số quy luật phát

triển cơ thể dưới ảnh hưởng của những điều kiện sống khác nhau [dẫn theo

44].

Năm 1964, F.Vandervael một thầy thuốc người Bỉ đã viết cuốn sách

giáo khoa“Nhân trắc học”và đưa ra những nhận xét toàn diện về các quy luật

phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và xây dựng các thang

phân loại thể lực theo các chỉ số đánh giá thể lực với các đặc trưng thống kê

trung bình cộng ( ) và độ lệch chuẩn (SD) [dẫn theo 29].

Cũng giống như chiều cao, cân nặng, vòng ngực là chỉ tiêu thường

được sử dụng trong các nghiên cứu cơ bản về hình thái người. Vòng ngực

được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỷ XIX, đến cuối thế kỉ XIXvòng

ngực trở thành một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thể lực sau chiều cao, cân

nặng.

Việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ tiêu như cân nặng,

chiều cao đứng hay vòng ngực đều không cho kết quả mong muốn. Vì vậy,

người ta đã hợp nhất nhiều số đo vào một chỉ số chung để đánh giá thể lực.

Ban đầu là những chỉ số dùng 2 kích thước (cân nặng và chiều cao) như chỉ số

Broca, chỉ số Quetelet, chỉ số Kaup, Rohrer và Livi, v.v. sau đó là những chỉ

số được hợp nhất từ 3 kích thước trở lên như chỉ số Pignet, chỉ số Vervaek,

chỉ số Pimo, v.v. Nhìn chung, một chỉ số được xác định từ nhiều thông số

khác nhau thì chỉ số đó càng chính xác nhưng việc đo đạc và tính toán càng

cồng kềnh và phức tạp.

Trong thế kỉ XIX, các công trình nghiên cứu về nhân trắc học còn hạn

chế về số lượng, kích thước chưa thống nhất, phương pháp đo lường và các

tính toán thống kê còn đơn giản.

Trong vòng 50 năm trở lại đây, một số nước trên thế giới đã có nhiều

côngtrình nghiên cứu về nhân trắc học như: Đức, Pháp, Mĩ, Liên Xô, Nhật,

Rumani... Các công trình này đề cập nhiều tới sự tăng trưởng các kích thước

cơ thể và sự phát triển cơ thể của học sinh ở các lứa tuổi. Các nhà khoa học

nhận thấy trong thời gian gần đây, có sự gia tăng về các số đo cơ thể của

thanh thiếu niên. Đặc biệt tại các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật

các nhà khoa học đã xác định được một cách đầy đủ, hoàn thiện các chỉ số thể

lực để đánh giá thực trạng và mức tăng trưởng thể lực của dân tộc qua những

giai đoạn khác nhau [53, 56].

Một chỉ tiêu khác được nhiều nhà khoa học quan tâm là huyết áp động

mạch. Huyết áp động mạch được nghiên cứu từ thế kỉ XIX do nhiều tác giả

tiến hành. Huyết áp được Korotkov xác định bằng phương pháp đo gián tiếp,

phương pháp này hiện nay vẫn được dùng rất phổ biến. Kết quả nghiên cứu

của nhiều tác giả cho thấy, huyết áp của nam và nữ từ 5 tuổi trở nên đã có sự

khác biệt rõ, trong đó huyết áp của nam thường cao hơn của nữ và còn chịu

ảnh hưởng nhiều của môi trường sống [54, 55].

1.1.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam

Hình thái - thể lực con người Việt Nam được nghiên cứu lần đầu năm

1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em. Vào những năm 30 của thế kỉ XX tại

Viện Viễn Đông Bác Cổ, sau đó là trường Đại học Y khoa Đông Dương (1936-

1944) đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về vấn đề này [dẫn theo 41].

Ở Việt Nam, từ lâu một số tác giả như Đỗ Xuân Hợp (1943), Trần Nhật

Úc (1959), Ngô Thế Phương (1960), Nguyễn Quang Quyền (1960-1975) đã

có những nghiên cứu có giá trị về thể lực người Việt Nam trưởng thành. Đặc

biệt, từ sau năm 1975 đã có nhiều công trình nghiên cứu về tầm vóc - thể lực

người Việt Nam trên các nhóm đối tượng như sinh viên, nông dân, công

nhân…với những phương pháp chuẩn xác đã đưa ra các kết quả đáng tin cậy

và có sức thuyết phục phần nào cho thấy sự thay đổi về hình thái, thể lực của

người Việt Nam theo thời gian [dẫn theo 22].

Sau hai Hội nghị về hằng số sinh học năm 1967 và 1972, một tập thể

các tác giả do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên đã biên soạn cuốn

“Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975). Trong công trình này, các tác giả

đã tập hợp đầy đủ nhất về các chỉ tiêu nhân trắc ở trẻ em và người trưởng

thành. Đây là công trình nghiên cứu thể hiện những chỉ số hình thái, thể lực

điển hình của người Việt Nam ở mọi lứa tuổi [43].

Năm 1986, cuốn “Atlat Nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi

lao động” là công trình nghiên cứu trên người trưởng thành do Giáo sư Võ

Hưng làm chủ biên được xuất bản. Đây là công trình nghiên cứu được tiến hành

từ năm 1981 đến 1984 trên 13.233 người (6.493 nữ và 6.730 nam) ở 15 tỉnh trên

cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Năm nhóm tuổi được nghiên cứu là 17-19, 20-29,

30-39, 40-49 và 50-55 tuổi. Kết quả của công trình này được xem như là mẫu

chuẩn thứ hai sau “Hằng số sinh học, 1975”, tuy nhiên đây là công trình ứng

dụng vào ergonomie (thiết kế dụng cụ và nơi làm việc) nên đối tượng nghiên cứu

đa số là công nhân, tập trung chủ yếu là ở nhóm tuổi 30-39 do đó đối tượng ít

nhiều có sự chọn lọc, chưa mang tính đại diện [47].

Năm 1987, trong luận án phó tiến sĩ sinh học “Góp phần nghiên cứu

các đặc điểm hình thái thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành”, Trịnh Hữu

Vách đã nêu lên một số kết luận đáng chú ý trong quá trình nghiên cứu trên

4.510 người Việt và so sánh với 428 người Chill (Lâm Đồng) và người

Mường (Thanh Hóa), trong đó tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng thiếu

dinh dưỡng về cả chất lượng lẫn số lượng trong thời gian dài đã ảnh hưởng tới

tầm vóc, thể lực của người Việt Nam và hạn chế quy luật gia tăng theo thời

gian [45].

Năm 1979, Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Tuyết Lan và Cs đã tiến hành

nghiên cứu thể lực của 767 sinh viên (476 nam và 300 nữ) có độ tuổi từ 18-26

của hai trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh là Trường Đại học Y Dược

và Đại học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức. Kết quả cho thấy, có sự khác biệt về

một số chỉ số thể lực giữa sinh viên miền Nam so với “Hằng số sinh học,

1975”. Các số liệu cũng cho thấy có sự tăng trưởng vượt trội vào giai đoạn 18

lên 19 tuổi (từ năm thứ nhất lên năm thứ hai đại học) của một số chỉ số thể lực

[23].

Năm 1980-1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp tiến hành nghiên cứu dọc trên

101 học sinh phổ thông ở Hà Nội từ 6-17 tuổi với 31 chỉ tiêu sinh học và đưa

ra nhận xét: chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi

ở nam, cân nặng phát triển mạnh nhất ở nữ lúc 13 tuổi và ở nam lúc 14 tuổi,

có sự gia tăng về chiều cao và cân nặng ở lứa tuổi học sinh. Quy luật phát

triển các đoạn chi phù hợp quy luật phát triển chiều cao, học sinh thành phố

có chiều cao lớn hơn so với học sinh vùng nông thôn [12].

Năm 1991, Đào Huy Khuê nghiên cứu cắt ngang gần 50 chỉ tiêu nhân

trắc và mô tả của 1.478 học sinh phổ thông 6 – 17 tuổi ở thị xã Hà Đông, bao

gồm các đặc điểm hình thái, bề dày lớp mỡ dưới da và đặc điểm phát dục. Tác

giả nhận thấy: hầu hết các chỉ tiêu hình thái tăng dần theo tuổi nhưng nhịp độ

tăng trưởng không đồng đều. Từ 6-9 tuổi các kích thước cơ thể của nam và

của nữ không có sự khác biệt rõ rệt. Từ 10-15 tuổi kích thước của nữ thường

vượt nam và đến 16-17 tuổi các kích thước của nam lại vượt lên trước nữ.

Ông cũng rút ra nhận xét, có sự gia tăng về chiều cao của người Việt Nam so

với các thập kỉ trước [24].

Năm 1995, Nguyễn Yên và cộng sự đã nghiên cứu trên 2.033 người

thuộc các lứa tuổi 1-5 và 18-55 tuổi của 3 nhóm dân tộc Việt, Mường, Dao ở

tỉnh Hà Tây. Tác giả kết luận tầm vóc, thể lực của người Việt tốt nhất, sau đến

người Mường và cuối cùng là người Dao [dẫn theo 30].

Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Thế Hùng (1996) khi nghiên cứu, so sánh

thể lực của 495 sinh viên Đại học Y Hải Phòng (264 nam và 231 nữ) trong ba

năm, từ 1992-1994 đã kết luận: Thể lực của sinh viên Đại học Y Hải Phòng

trong các năm 1992-1994 có cải thiện so với thể lực người Việt Nam trưởng

thành trong “Hằng số sinh học, 1975”, thể lực của nam sinh viên phát triển

mạnh hơn nữ sinh viên cùng lứa tuổi [19].

Cũng theo Nguyễn Hữu Chỉnh,sinh viên lớp tuổi 18-25 ở khu vực Kiến

An, thành phố Hải Phòng vẫn có sự tăng trưởng. Song khác biệt về các chỉ số

sinh học giữa các lớp tuổi không có ý nghĩa thống kê [8].

Trong hai năm 1998 và 1999, Vũ Thị Thanh Bình và Cs đã nghiên cứu

các chỉ tiêu hình thái, thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 trường

Cao đẳng sư phạm thể dục TW1 và kết luận: sinh viên trường Cao đẳng sư

phạm thể dục TW1 có thể lực tốt hơn sinh viên các trường đại học khác và

thuộc loại tốt so với thanh niên Việt Nam nói chung. Những khác biệt này là

do đặc trưng về thể lực của sinh viên năng khiếu Thể dục thể thao và tác động

của việc rèn luyện thể chất ở cường độ cao [2, 3].

Năm 2003, Mai Văn Hưng nghiên cứu trên sinh viên một số trường đại

học phía Bắc Việt Nam cho thấy, vẫn có sự tăng trưởng về hình thái và một số

chỉtiêu sinh lý ở độ tuổi 18-25. Chiều cao đứng của nam đạt giá trị cao nhất là

năm 23 tuổi và nữ là năm 21 tuổi, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội II có

chiều cao và trọng lượng trung bình lớn nhất, tiếp đó là sinh viên Đại học Sư

phạm Hà Nội I và thấp nhất là sinh viên Đại học Hồng Đức.Tác giả giải thích

sự khác biệt này là do điều kiện kinh tế - xã hội. Điểm đáng chú ý là các chỉ

tiêu về chức năng của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp của sinh viên ở 3 trường

không có sự khác biệt [22].

Năm 2001, dự án điều tra, đánh giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ

thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam do Ủy ban khoa học Thể

dục thể thao chủ trì đã tiến hành điều tra giai đoạn I với 13 kích thước hình

thái và chỉ số thể lực được nghiên cứu trên 47.846 người Việt Nam từ 6-20

tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong đó có 8.400 sinh viên có độ tuổi từ

18-20 thuộc 17 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. Kết quả

điều tra cho thấy, chiều cao trung bình của nam, nữ 20 tuổi tại thời điểm năm

2001 đã tăng lần lượt là 6,14 cm và 4,88 cm so với số liệu về chiều cao trong

“Hằng số sinh học, 1975”. Cân nặng trung bình cũng tăng lần lượt là 8,19 kg

và 3,02 kg. Trên cơ sở kết quả điều tra, Ủy ban Thể dục thể thao đã đề ra hệ

thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ phát triển thể chất cho mọi đối tượng nhân

dân theo tuổi và giới tính. Hệ thống tiêu chuẩn này có giá trị sử dụng trong

vòng 10 năm [48].

Sau khi hoàn thành giai đoạn I, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban TDTT

đã có quyết định số 1532/2002/QĐ-UBTDTT, ngày 27 tháng 9 năm 2002

giao cho Viện Khoa học TDTT tiếp tục triển khai giai đoạn II “Điều tra, đánh

giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của

người Việt Nam từ 21-60 tuổi”. Điều tra giai đoạn II thực hiện trên 31.125

người từ 21-60 tuổi trong đó tập trung vào giai đoạn 21-40 tuổi. Dựa trên kết

quả điều tra, dự án đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá thể chất cho

người Việt Nam từ 21 đến 60 tuổi đồng thời lựa chọn được những chỉ tiêu cơ

bản để xây dựng tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho tất cả các nhóm đối tượng

[49].

Năm 2003, trong khuôn khổ đề tài “Phân tích thực trạng hình thái, thể

lực của nam thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ

1987-2003”, Trần Thị Trung Chiến, Lê Quang Bách và Cs đã tiến hành

nghiên cứu tầm vóc, thể lực của 334.728 thanh niên từ 17-27 tuổi trong đó

nghiên cứu hồi cứu là 314.289 người và nghiên cứu cắt ngang là 20.439

người. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầm vóc, thể lực của thanh niên trong

nghiên cứu đã tăng lên một cách rõ rệt qua từng thời kì, tuy nhiên chỉ số BMI

không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi và giữa các giai đoạn [44].

Năm 2003, Bộ Y tế đã công bố cuốn sách “Các giá trị sinh học người

Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX” [1]. Các vấn đề về tầm vóc,

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Trường An (2009),“Giá trị của vòng cánh tay và vòng đùi trong

đánh giá suy dinh dưỡng của thanh niên 18-25 tuổi”, Tạp chí khoa học,

Đại học Huế, (55), Tr. 15-26.

2. Vũ Thị Thanh Bình, Đào Ngọc Dũng (1998), “Nghiên cứu các chỉ tiêu

hình thái thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 Trường Cao đẳng

sư phạm thể dục TWI”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất,

sức khỏe trong trường học các cấp, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội, Tr.115-

117.

3. Vũ Thị Thanh Bình, Đào Ngọc Dũng, Phạm Khắc Học (1999), “Tiếp tục

nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái và sinh lý của sinh viên Trường Cao đẳng

Sư phạm thể dục TWI”, Thông báo khoa học Trường Cao đẳng sư phạm

thể dục TWI (99), Hà Tây, Tr.55-63.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định số 53/2008/QĐ BGDĐT ngày

18/9/2008, Quy định về đánh giá và phân loại thể lực học sinh, sinh viên

5. Bộ Y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập

niên 90 thế kỷ XX, Nxb Y học, Hà Nội.

6. Bộ Y tế (2010), Tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010, Nxb Y học, Hà Nội.

7. Nguyễn Hữu Chỉnh (1998), “Một số chỉ số nhân trắc cư dân huyện An

Hải, thành phố Hải Phòng”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, T1,

Nxb Y học, Hà Nội, Tr.24-31.

8. Nguyễn Hữu Chỉnh (1998), “Một số nhận xét về các chỉ số thể lực và hình

thái của sinh viên khu vưc Kiến An, Hải Phòng”, Tuyển tập nghiên cứu

khoa học Giáo dục Thể chất, sức khỏe trong trường học các cấp, Nxb

TDTT Hà Nội, Tr.192-199.

9. Nguyễn Đình Chung (2007) “Nghiên cứu một số chỉ tiêu hình thái của

sinh viên trường Đại học Thể dục thể thao I”, Tạp chí khoa học thể thao,

(2), Tr. 19-28.

10. Trần Thị Hạnh Dung, Quách Văn Tỉnh (2010), Giải phẫu học Thể dục thể

thao, Nxb TDTT, Hà Nội.

11. Đại học Y Hà Nội (2000), Báo cáo toàn văn dự án Điều tra cơ bản một số

chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình thường ở thập kỉ 90, Nxb Y học, Hà

Nội.

12. Thẩm Thị Hoàng Điệp (1992), Đặc điểm hình thái và thể lực học sinh một

số trường phổ thông cơ sở Hà Nội. Luận án PTS khoa học y dược, Trường

Đại học Y khoa Hà Nội, 1992.

13. Thẩm Thị Hoàng Điệp, Nguyễn Quang Quyền, Vũ Huy Khôi và cs

(1996), “Một số nhận xét về phát triển chiều cao, vòng đầu, vòng ngực của

người Việt Nam từ 1-55 tuổi”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ

tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, Tr.68-71.

14. Phạm Thị Minh Đức (1998), “Huyết áp động mạch”, Chuyên đề sinh lý

học T1, Nxb Y học, Hà Nội, Tr.51-60.

15. Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy, Nguyễn Hùng Cường, Ngô Sách Thọ

(2006), “Đặc điểm các chỉ số chức năng tâm - sinh lý của sinh viên năm

thứ 3 Trường Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT

năm 2006, Nxb TDTT I, Hà Nội, Tr.415-421.

16. Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy, Nguyễn Hùng Cường (2007), “Đặc

điểm các chỉ số chức năng tâm - sinh lý của sinh viên năm thứ 4 Trường

Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2006, Nxb

TDTT I, Hà Nội, Tr.357-365.

17. Nguyễn Đức Hinh (2010), “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người

sống ở Hà Nội năm 2010”, Nxb Đại học Y Hà Nội.

18. Nông Thị Hồng (2005), Y học thể dục thể thao, Nxb Đại học Sư phạm Hà

Nội.

19. Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Hữu Chỉnh (1996), So sánh thể lực của sinh

viên Đại học Y Hải Phòng vào và ra trường trong ba năm (1992-1994). Kết

quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y

học, Hà Nội, Tr.86-90.

20. Lê Hữu Hưng (2006), “Nghiên cứu diễn biến chức năng tim mạch của

sinh viên khóa 39 Trường Đại học TDTT I sau 3 năm tập luyện”, Tuyển

tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2006, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.467-

472.

21. Lê Hữu Hưng (2007), “Nghiên cứu diễn biến chức năng tim mạch của

sinh viên khóa 39 Trường Đại học TDTT I sau 4 năm tập luyện”, Tuyển

tập nghiên cứu khoa học TDTT năm 2007, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.382-

389.

22. Mai Văn Hưng (2003), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và năng lực trí

tuệ của sinh viên một số Trường đại học phía bắc Việt Nam, Luận án Tiến

sĩ sinh học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Thị Tuyết Lan, Trần Liên Minh (1979),

“Một số đặc điểm về thể lực của sinh viên học tại thành phố Hồ Chí Minh,

1979”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt

Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1996, Tr.93-96.

24. Đào Huy Khuê (1991), Đặc điểm về kích thước hình thái, về sự tăng

trưởng và phát triển cơ thể của học sinh phổ thông 6 -17 tuổi thị xã Hà

Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Luận án PTS Sinh học, Trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội.

25. Tạ Thuý Lan, Trần Thị Loan (2010), Giải phẫu sinh lý, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

26. Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (2011), Sinh lí học trẻ em, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

27. Trần Thị Loan (2002), “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của

học sinh từ 6-17 tuổi tại quận Cầu Giấy - Hà Nội”, Luận án Tiến sĩ Sinh

học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

28. Đào Mai Luyến (2001), “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của người

Êđê và người Kinh định cư ở Đăklắk”, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện

Quân y Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Mậu (1995), Một số nhận xét về thể lực và tình trạng dinh

dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở 2 xã tỉnh Thái Bình, Luận văn tốt nghiệp

Bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.

30. Trần Thị Minh (2010), “Đặc điểm hình thái, thể lực và dậy thì của học

sinh 9-17 tuổi dân tộc Kinh và Thái ở tỉnh Điện Biên“, Luận văn Thạc sĩ

Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.

31. Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương, Ngô Thị Kim và cs (1998), “Các chỉ

tiêu nhân trắc hình thái thể lực người Miền Bắc Việt Nam trưởng thành

trong thập niên 90”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học T1, Nxb Y

học, Hà Nội, Tr.1-15.

32. Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Quỳnh Thơ, Tô Như Khuê (2002), “Nghiên

cứu đặc điểm mạch, huyết áp và điện tim của vận động viên ở một số môn

thể thao gắng sức”, Tạp chí Sinh lý học, 6 (2), Tr.51-56.

33. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013), “Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và

nặng lực trí tuệ của học sinh miền núi từ 11 đến 17 tuổi tỉnh Vĩnh Phúc và

Phú Thọ”, Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

34. Vũ Thị Nho (1999), “Những đặc điểm phát triển tâm lý tuổi học sinh đầu

tuổi thanh niên”, Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà Nội, Tr.116-122.

35. Vũ Thị Nho (1999), “Những đặc điểm phát triển tâm lý cơ bản của thanh

niên sinh viên (từ 19 đến 25 tuổi)”, Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà

Nội, Tr.137-149.

36. Đào Ngọc Phong (2002), “Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu y học”,

Nxb Y học, Hà Nội.

37. Phạm Tuấn Phượng (1994), Đo đạc thể hình, Nxb TDTT, Hà Nội.

38. Nguyễn Quang Quyền, Nhân trắc học và sự ứng dụng nghiên cứu trên

người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, 1974.

39. Nguyễn Xuân Sinh (1999), Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học

thể dục thể thao, Nxb TDTT, Hà Nội.

40. Phạm Thị Thiệu (2005), Sinh lý học Thể dục thể thao, Nxb TDTT, Hà

Nội.

41. Nguyễn Thị Thoa (2011), “Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của

sinh viên một số chuyên ngành Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội”,

Luận văn Thạc sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

42. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 641/TTg ngày 28/04/2011,

Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011

– 2030.

43. Nguyễn Tấn Gi Trọng, Vũ Triệu An, Trần Thị Ân (1975), Hằng số sinh

học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội.

44. UBDSGĐ&TE (2003), “Phân tích thực trạng hình thái, thể lực của nam

thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ 1987-

2003”. Nxb Học Viện Quân Y.

45. Trịnh Hữu Vách (1987), Góp phần nghiên cứu các đặc điểm hình thái

thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành, Luận án PTS Sinh học, Đại học

Tổng hợp Hà Nội.

46. Giang Thị Khánh Vân (2006), “Đánh giá sự phát triển thể lực của sinh

viên Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân - Hà Nội”, Tuyển tập nghiên cứu

khoa học TDTT năm 2006, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr.300-308.

47. Viện nghiên cứu Bảo hộ lao động (1986), Atlat nhân trắc học người Việt

Nam trong lứa tuổi lao động, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

48. Viện Khoa học TDTT (2003), Thực trạng thể chất người Việt Nam từ 6

đến 20 tuổi (thời điểm 2001), Nxb TDTT, Hà Nội.

49. Viện Khoa học TDTT (2005), Điều tra đánh giá thực trạng thể chất và

xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam, giai

đoạn II, từ 21 đến 60 tuổi, Nxb TDTT, Hà Nội.

50. Trần Sinh Vương (2005), “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể lực,

dinh dưỡng người Việt trưởng thành ở một số tỉnh đồng bẳng Bắc Bộ”,

Luận án Tiến Sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

51. Nguyễn Kim Xuân,“Bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu về hình thái, thể

lực của sinh viên trường Đại học TDTT I”, Tuyển tập nghiên cứu khoa

học TDTT năm 2004, Nxb TDTT, Hà Nội, Tr. 103-109.

52. Nguyễn Văn Yên (2000), Sinh học người, Nxb ĐHQG Hà Nội.

TIẾNG ANH

53. Bickman. E, Henriksson G.K (1988), Skeletal muscle characteristic on

children 9-15 yearls old: force, relaxation rate contraction time, Clinical

physiology, England, pp. 521-527.

54. Mc Donald, D.A (1974), Blood flow in arteries. 2nd Edition, Vol 2.

Williams & Wilkins, Bantimore.

55. Rodkiewicz, C.M (1983), Arteries and arterial blood flow. Springer -

Verlag, New York.

56. Wilmorre T.H, Behnke A.R (1969), Anthropometric estimation of body

density and lean body weight in young men, J.appl physiol, pp. 25-27.