intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu rối loạn lipid máu trên bệnh nhân tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

27
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày so sánh trị số trung bình của cholesterol, triglycerid, LDL-C, HDL-C ở nhóm bệnh và nhóm chứng; Phân tích mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ, các chỉ số lipid máu với tai biến mạch máu não.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu rối loạn lipid máu trên bệnh nhân tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên

  1. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 NGHIÊN CỨU RỐI LOẠN LIPID MÁU TRÊN BỆNH NHÂN TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN Bùi Thị Thu Hương, Nguyễn Tiến Dũng Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên TÓM TẮT: Đặt vấn đề: Mối liên quan giữa lipid huyết thanh và nhồi máu não là vấn đề được nhiều nghiên cứu đề cập đến, tuy nhiên những khẳng định về mối liên quan này cho đến nay vẫn chưa sáng tỏ. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm Mục tiêu: 1/So sánh trị số trung bình của cholesterol, triglycerid, LDL-C, HDL-C ở nhóm bệnh và nhóm chứng. 2/Phân tích mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ, các chỉ số lipid máu với tai biến mạch máu não. Phương pháp: mô tả cắt ngang. Kết quả: Trị số trung bình của cholesterol máu ở nhóm chứng là 4,22 mmol/l và ở nhóm nhồi máu não là: 5,13 mmol/l. Trị số trung bình của triglycerid máu ở nhóm chứng là 1,48  0,1mmol/l và ở nhóm nhồi máu não là 2,25 mmol/l. Trị số trung bình của LDL cholesterol ở nhóm chứng là 2,1  1,1mmol/l và ở nhóm nhồi máu não là 2,6 mmol/l. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trị số trung bình của cholesterol, triglycerid, LDL-C giữa nhóm nhồi máu não và nhóm chứng (p< 0,05). Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, tăng đường huyết là các yếu tố nguy cơ độc lập gây nhồi máu não. Người rối loạn lipid máu có nguy cơ TBMN gấp 8,3 lần so với người có các chỉ số lipid máu bình thường. Sự tăng cholesterol, triglycerid; LDL-C và sự giảm HDL-C đều liên quan một cách có ý nghĩa thống kê với nhồi máu não. Kết luận: Có liên quan giữa rối loạn lipid huyết thanh (tăng cholesterol, triglycerid và LDL-C huyết thanh) và tai biến mạch não. Cần thực hiện bộ xét nghiệm lipid máu như một xét nghiệm thường quy ở bệnh nhân trên 50 tuổi có nguy cơ nhồi máu não nhằm mục đích phát hiện sớm các rối loạn lipid và và kiểm soát các trị số lipid máu để dự phòng nhồi máu não. Từ khóa: Rối loạn lipid máu, nhồi máu não, tai biến mạch máu não STUDY ON BLOOD LIPID DISORDERS IN PATIENTS WITH CEREBROVASCULAR ACCIDENT (CVA) TREATED IN THAI NGUYEN CENTRAL GENERAL HOSPITAL Bui Thu Huong, Nguyen Tien Dung Thai Nguyen University of Medical and Pharmacy SUMMARY BACKGROUND : The relationship between serum lipids and ischemic stroke was studied but it remains controversial. Objective. To compare mean values of cholesterol, triglyceride, LDL-C, HDL-C in 2 groups : a case group and a control group and to analyze association between risk factors, serum lipid values with CVA. Method. A cross-sectional descriptive study was used in the study. Results. A mean value of cholesterol in a control was 4.22 mmol/l and in a case group was 5.13 mmol/l. A mean value of triglyceride in a control was 1.48  0.1mmol/l and in a case group was 2.25 mmol/l. A mean value of LDL cholesterol in a control was 2.1  1.1mmol/l and in a case group was 2.6 mmol/l . The difference was statistically significant between values of cholesterol, triglyceride, LDL-C, HDL-C in 2 groups (p
  2. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 had risk of CVA 8.3 times higher than people with normal blood lipid indices. The increase in cholesterol, triglycerides, LDL-C and HDL-C were associated with a statistically significant cerebral infarction. Conclusion: There is association between serum lipid disorders (cholesterol, triglycerides and LDL-C serum) and cerebral vascular accident. It is necessary to carry out the blood lipid test as a routine test in patients aged 50 who are at risk for cerebral infarction to early detect lipid disorders and to control blood lipids for the prevention of cerebral infarction Keywords: Dyslipidemia, cerebral infarction, CVA I ĐẶT VẤN ĐỀ : Trong những năm gần đây, cùng với ung thư và bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não(TBMN) đang là một vấn đề thời sự cấp bách của y học. TBMN có hai loại: nhồi máu não (do tắc mạch) hoặc chảy máu não (do vỡ mạch). Các triệu chứng thần kinh trung ương khu trú biểu hiện nhanh, ngay tức thì khi tổn thương mạch máu não xảy ra, nên tai biến mạch máu não còn được gọi là đột quỵ. Có nhiều yếu tố nguy cơ (YTNC) đối với TBMN đã được nghiên cứu: cao huyết áp, tiểu đường, tăng homosystein máu và nhất là tình trạng rối loạn lipid huyết thanh. Người nghiện rượu, béo phì, hút thuốc lá, thường trong trạng thái căng thẳng cũng dễ mắc bệnh nguy hiểm này [1]. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chứng minh tình trạng rối loạn lipid máu là nguyên nhân hàng đầu gây vữa xơ động mạch, đặc biệt là mạch vành [10]. Mối liên quan giữa lipid huyết thanh và bệnh mạch não do thiếu máu cục bộ hay còn gọi là nhồi máu não (NMN) thì chưa hẳn rõ. Vai trò của nồng độ cao cholesterol huyết thanh xem như là một YTNC đối với TBMMN vẫn chưa được chứng minh một cách thuyết phục cho tới thời điểm hiện nay. Có nhiều nghiên cứu về những YTNC liên quan đến lipid trong bệnh mạch não đã đi đến nhiều kết luận khác nhau, một số nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa nồng độ cao của cholesterol với NMN, một số nghiên cứu khác thì cho kết luận ngược lại [4]. Để làm sáng tỏ mối liên quan giữa rối loạn lipid máu với TBMN, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm: 1. So sánh trị số trung bình của cholesterol, triglycerid, LDL-C, HDL-C ở nhóm bệnh và nhóm chứng. 2. Phân tích mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ, các chỉ số lipid máu với tai biến mạch máu não. II ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP : 1. Đối tượng nghiên cứu: Công thức tính cỡ mẫu: = 120,19 α = mức ý nghĩa (α = 0,05). P = tỷ lệ ước lượng (P = 0,029). d = sai số tối đa cho phép là 3%, vậy d = 0,03. n = cỡ mẫu cần thiết là 120 bệnh nhân. Vì vậy, chúng tôi chọn vào nghiên cứu 166 người chia làm 2 nhóm: 4
  3. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 - Nhóm bệnh: Gồm 116 người bị tai biến mạch máu não thể nhồi máu não được được lựa chọn theo tiêu chuẩn chọn bệnh và không vi phạm các tiêu chuẩn loại trừ. - Nhóm chứng: gồm 50 người (giới và độ tuổi tương đương với nhóm bệnh) được chọn một cách ngẫu nhiên trong các đối tượng đến kiểm tra sức khỏe tại bệnh viện. 2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu: - Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên. - Từ tháng 01/2012 đến tháng 11/2012. 3. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 4. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu: - Chẩn đoán bệnh tai biến mạch máu não thể nhồi máu não: +Tiêu chuẩn xác định bệnh: *Lâm sàng: Dựa vào định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới 1990 “ TBMMN là sự xảy ra đột ngột các thiếu sót chức năng thần kinh, thường là khu trú hơn là lan toả, tồn tại quá 24 giờ hoặc gây tử vong trong 24 giờ. Các khám xét loại trừ nguyên nhân chấn thương “. *Cận lâm sàng: dựa vào kết quả chụp não cắt lớp vi tính phát hiện vùng giảm tỷ trọng trong nhu mô não. +Tiêu chuẩn loại trừ: TBMMN thoáng qua, chấn thương sọ não, động kinh. - Đo huyết áp : Huyết áp đo vào buổi sáng thức dậy, tư thế ngồi, đo 3 lần cách nhau 15 phút bằng máy đo huyết áp thủy ngân. Phân loại tăng huyết áp theo JNC 7 (2003). - Kỹ thuật định lượng: + Định lượng glucose, đánh giá biến đổi nồng độ glucose máu theo tiêu chuẩn của WHO (2008). + Các chỉ số lipid máu được định lượng trên máy xét nghiệm sinh hoá tự động . Xét nghiệm Phương pháp định lượng Trị số bình thường Cholesterol So màu dùng enzym (cholesterol enzymatic color) < 5,2 mmol / L Triglycerid So màu dùng enzym(TG enzymatic color) < 2,3 mmol / L HDL – So màu dùng enzym > 0,9 mmol / L cholesterol LDL – Tính trị số bằng công thức Friedewall < 3,12 mmol / L cholesterol (LDL = CT – ( HDL + TG / 2,2 ) - Đánh gía theo kết qủa của Hội Châu Á Thái Bình Dương về xơ vữa động mạch và bệnh lý mạch máu (4.1998). - Mức nguy cơ cao của một số chỉ số sinh xơ vữa: LDL / HDL >3,5; CT / HDL > 5. - Tiêu chuẩn rối loạn lipid máu: có ít nhất một trong các bất thường: tăng CT, tăng TG, tăng LDL-C, giảm HDL-C. - Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học sử dụng phần mềm SPSS 16.0. 5
  4. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 III. KẾT QUẢ Đặc điểm của nhóm nghiên cứu Bảng 1: Phân bố tuổi và giới của nhóm bệnh và nhóm chứng. Nhóm bệnh Nhóm chứng Nhóm tuổi Nam Nữ Cộng Nam Nữ Cộng 7 4 35 - 50 6 1 3 1 (6%) (8%) 59 25 51 - 70 37 22 17 8 (50,9%) (50%) 50 21 71 - 90 32 18 13 8 (43,1%) (42%) 75 41 116 33 17 50 Tổng (64,7%) (35,3%) (100%) (66%) (34%) (100%) Tuổi trung bình 67,1 + 10,1 65,8 + 11,2 Nhận xét: - Phân bố nhóm tuổi và giới nhóm chứng tương ứng với nhóm bệnh. Điều này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). - Tuổi trung bình nhóm bệnh 67,1 + 10,1 tuổi tương đương với tuổi trung bình nhóm chứng 65,8 + 11,2 tuổi. - Phân bố bệnh chiếm tỷ cao nhất vào lứa tuổi từ 51 – 70 (50,9%), chiếm tỷ lệ thấp nhất là lứa tuổi từ 35-50 (6%). Tỷ lệ bệnh gặp ở nam giới cũng chiếm chủ yếu (64,7%) so với nữ giới (35,3%). Các yếu tố nguy cơ nhồi máu não Tỷ lệ 70 % 68,1 60,3 60 50 40 Nhóm bệnh 30 24 24,1 22 Nhóm chứng 20 14,7 16 10 12 8,6 10 0 1 2 3 4 5 Các yếu tố nguy cơ Biểu đồ 2: Tỉ lệ các yếu tố nguy cơ TBMN Nhận xét: Tỷ lệ tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu của nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng. Sự khác có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 6
  5. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 Bảng 2. Mô hình hồi quy logic đa biến cho các yếu tố nguy cơ với TBMN Biến số Tỷ suất chênh Khoảng tin cậy (Tham khảo với nhóm chứng) (95% CI) Tăng huyết áp 7,6*** 3,1 – 18,7 Tăng đường huyết 4,3* 1,3 – 13,7 Hút thuốc lá 0,7 0,2 – 2,5 Uống rượu 2,3 0,8 – 6,9 RL lipid máu 8,3*** 3,4 – 20,3 * p < 0,05 ; ** p < 0,01; *** p < 0,001 Nhận xét: Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và tăng đường huyết là các yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến TBMN. Trong đó người có rối loạn lipid máu có nguy cơ TBMN gấp 8,3 lần so với người có các chỉ số lipid máu bình thường. Các chỉ số lipid trong nhóm bệnh và nhóm chứng Bảng 3. So sánh trị số trung bình các chỉ số ở nhóm nhồi máu não và nhóm chứng Các chỉ số lipid Nhóm bệnh Nhóm chứng p (n=116) (n=50) CHOLES 5,13 ± 1,1 4,22 ± 0,9 < 0,05 TG 2,25 ± 0,9 1,48 ± 0,1 < 0,05 HDL-C 1,4 ± 0,45 1,38 ± 0,6 > 0 05 LDL-C 2,6 ± 1,2 2,1 ± 1,1 < 0,05 LDL / HDL 2,3 ± 0,16 2,0 ± 0,28 > 0,05 CT / HDL 4,26 ± 0,2 3,67 ± 0,33 > 0,05 Nhận xét: - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) về trị số trung bình của cholesterol, TG, LDL-C giữa nhóm nhồi máu não và nhóm chứng. - Giá trị trung bình nồng độ HDL-C không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm (p > 0,05). - Giá trị trung bình các chỉ số sinh xơ vữa CT/HDL và LDL/HDL không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm (p > 0,05). Liên quan giữa rối loạn lipid máu và nhồi máu não Bảng 4. Phân bố sự rối loạn của các chỉ số lipid huyết thanh ở nhóm bệnh Các thông số lipid Số bệnh nhân ( n = 116 ) Tỷ lệ ( % ) Cholesterol > 5,2 mmol / L 69 59,5 Triglycerid > 2,3 mmol / L 54 46,6 HDL- C < 0,9 mmol / L 25 21,6 LDL- C > 3,12 mmol / L 51 43,9 Rối loạn tối thiểu 1 chỉ số 79 68,1 trong các chỉ số nêu trên Nhận xét: Bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa lipid chiếm tỷ lệ (68,1%), tỷ lệ này tương đồng với một số nghiên cứu trong và ngoài nước. Bảng 5. Liên quan giữa các chỉ số lipid máu và nhồi máu não. Các chỉ số lipid máu Nhóm bệnh Nhómchứng OR, (95% CI), P Cholesterol > 5,2 mmol/l 69 10 5,87 ; (2,52 – 13,96); < 0,05 Triglycerid > 2,3 mmol/l 54 8 4,57; (1,86 – 11,6); < 0,05 HDL-C < 0,9 mmol/l 25 6 2,01; (0,72 – 5,94); > 0 05 LDL-C > 3,12 mmol/l 51 8 4,12; (1,67 – 10,46); < 0 05 7
  6. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 Nhận xét: Người có trị số cholesterol máu cao (> 5,2 mmol/l) có nguy cơ nhồi máu gấp 5,87 lần so với người có cholesterol bình thường (OR = 5,78; 95%CI: 1,28 – 5,40; p = 0,0001). Điều này chỉ ra được có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) về sự tăng cholesterol máu và nhồi máu não. Người có trị số TG máu cao (> 2,3 mmol/l) có nguy cơ nhồi máu 4,6 lần so với người có TG bình thường ; (1,86 – 11,6); < 0,05(OR = 4,57; 95% CI: 1,86 – 11,6; p = 0,0001). Điều này chỉ ra được có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) về sự tăng TG máu và nhồi máu não. Người có trị số LDL-C máu cao (> 3,12 mmol/l) có nguy cơ nhồi máu 4,12 lần so với người có LDL-C bình thường (OR = 4,12; 95% CI: 1,67 – 10,46, p =). Liên quan này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Người có trị số HDL-C máu thấp (< 0,9 mmol/l) có nguy cơ nhồi máu 2,01 lần so với người có HDL-C bình thường (OR = 2,01; KTC 95%: 0,72 – 5,94; p = 0,). Điều này chỉ ra không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) về sự giảm HDL-C và nhồi máu não. IV. BÀN LUẬN Đặc điểm của nhóm nghiên cứu: Đặc điểm về tuổi và giới: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa nhóm bệnh và nhóm chứng (p < 0,05). Tuổi trung bình nhóm 67,1 + 10,1 bệnh là, tuổi trung bình của nhóm chứng là 65,8 + 11,2 (p > 0,05). Tỷ lệ mắc bệnh nhồi máu não trong nghiên cứu của chúng tôi xảy ra ở lứa tuổi trên 50 (74 %) nhiều hơn lứa tuổi dưới 50 tuổi. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trong nước và trên thế giới. Tuổi càng cao càng làm gia tăng tỷ lệ mới mắc tai biến mạch máu não. Giới nam hay gặp hơn giới nữ trong tai biến mạch máu não [1].. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đăng, Nguyễn Mạnh Phúc và Hoàng Đức Kiệt cho thấy tỷ lệ nhồi máu não ở tuổi trên 50 là 49,3% [3]. Theo Trương Quang Bình, ở tuổi 40 bắt đầu có sự rối loạn lipid, lipoprotein máu. Sự rối loạn này lên đến đỉnh cao ở lứa tuổi 50 – 59. Giải thích hiện tượng này, nhiều tác giả cho rằng yếu tố tuổi kèm tăng huyết áp, rối loạn lipid máu sẽ làm tăng hiện tượng xơ vữa ở lớp áo giữa của mạch và làm tăng nguy cơ nhồi máu não. Trong nghiên cứu này tỷ lệ giữa nam và nữ ở nhóm bệnh và nhóm chứng không khác biệt. Trong nhóm bệnh nhân nhồi máu não, tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn nữ. Nam chiếm tỷ lệ 64,7% (75/116 trường hợp), gấp 1,8 lần so với nữ 35,3% (41/116 trường hợp). Nghiên cứu của Hà Thị Anh trên 123 trường hợp nhồi máu não cho thấy tỷ lệ nam gấp 1,6 lần so với nữ. Nghiên cứu của Nguyễn Năng Tấn trên 120 bệnh nhân nhồi máu não cho thấy tỷ lệ nam/nữ là 2,6 lần. Nghiên cứu của tác giả Pháp Zuber và Mass (1993) tỷ lệ nam/nữ là 2,1. Kết quả tỷ lệ nam và nữ theo nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước. Các yếu tố nguy cơ Liên quan giữa tăng huyết áp và nhồi máu não Trong nghiên cứu này, cao huyết áp chiếm tỷ lệ 60% (70/116), là yếu tố độc lập làm tăng nguy cơ dẫn đến tai biến mạch máu não gấp 7,6 lần (OR= 7,6; 95% CI: 3,1 – 18,7; p
  7. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 Theo Lê Quang Cường (2002), tiền sử tăng huyết áp làm tăng tỷ lệ tai biến mạch máu não lên 4,46 lần. Theo You (Melbourne), tăng huyết áp làm tăng gấp 6,8 lần bệnh nhồi máu não. Nhiều nghiên cứu còn cho thấy, tăng huyết áp kết hợp với rối loạn lipid máu (tăng cholesterol) càng làm tăng tỷ lệ nhồi máu não. Liên quan giữa tăng đường huyết và nhồi máu não Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ tăng đường huyết của nhóm bệnh là 24,1% (28/116 trường hợp), phù hợp với nghiên cứu của Lê Văn Thính và cộng sự (24%) [7]. Tăng đường huyết là yếu tố nguy cơ độc lập dẫn đến TBMN (OR= 4,3; 95% CI:1,3 – 13,7; p< 0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Hà Thị Anh: có sự liên quan giữa đái tháo đường và nhồi máu não [1]. Theo nghiên cứu của Framingham (1979) cho thấy đái tháo đường làm tăng gấp hai đến ba lần nguy cơ xơ vữa động mạch. Nhiều tác giả cho rằng khi đường máu tăng cao sẽ tác động lên mạch máu làm thúc đẩy nhanh quá trình xơ vữa mạch nói chung và mạch não nói riêng. Liên quan giữa hút thuốc lá, uống rượu với nhồi máu não Hút thuốc lá chiếm tỷ lệ 8,6% và nghiện rượu cũng chiếm 14,7%. Tuy nhiên sự liên quan giữa nghiện rượu và nhồi máu não chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lê Văn Thính và cộng sự trên 125 bệnh nhân nhồi máu não tuổi từ 16 đến 50 [7] . Nghiên cứu của Howard S. Kirshner cho thấy liên quan giữa uống rượu và tai biến mạch máu não được quyết định bởi mức độ sử dụng rượu: nhóm người nghiện rượu nặng (dùng > 60g/ngày) có nguy cơ tai biến mạch não trong khi đó nhóm người sử dụng rượu mức độ vừa (< 24 g/ngày) thì nguy cơ tai biến mạch não ít hơn hẳn [9]. Thuốc lá cũng gây ảnh hưởng tới các thể khác nhau của tai biến mạch máu não. Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ nhồi máu não lên 1,9 lần, tỷ lệ này là 2,6 ở người trẻ hút thuốc lá. Nghiên cứu Framingham, Wolf và cộng sự quan sát thấy người nghiện thuốc lá nặng (hút trên 40 điếu/ngày) nguy cơ TBMN cao gấp 2 lần so với người nghiện nhẹ (hút dưới 10 điếu/ngày), nguy cơ TBMN giảm có ý nghĩa sau khi dừng thuốc lá 5 năm [7].. Về rối loạn lipid máu và nhồi máu não Rối loạn lipid máu chiếm tỷ lệ cao 68,1% (79/116 bệnh nhân) (OR = 8,3, CI 95%: 3,4 – 20,3 , p < 0,05). Điều này chỉ ra có mối liên quan chặt chẽ có ý nghĩa thống kê giữa rối loạn lipid máu và nhồi máu não. Rối loạn lipid máu là yếu tố nguy cơ cao, độc lập gây nhồi máu não. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Bùi Thị Huyền và cộng sự (2011): Tỷ lệ rối loạn chuyển hoá chiếm tỷ lệ cao ở bệnh nhân nhồi máu não. Trong đó rối loạn chuyển hoá lipid chiếm tỷ lệ cao hơn rối loạn chuyển hoá glucose. Tirschwell và cs. (2004): Tiến hành nghiên cứu bệnh chứng để đánh giá liên quan giữa nồng độ CT và HDL với nguy cơ TBMMN. Kết quả cho thấy nồng độ CT tăng và HDL thấp trong nhóm bệnh so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu cũng đã đưa ra một kết luận quan trọng là nồng độ cholesterol thấp liên quan với tăng nguy cơ xuất huyết não [11]. Theo BC. Bansal, AK. Sood và CB. Basan, tỷ lệ bệnh nhân tai biến mạch máu não có rối loạn lipid máu khá cao (60%) [12]. - Liên quan giữa cholesterol và nhồi máu não Trị số trung bình của cholesterol ở nhóm chứng: 4,22 ± 0,9 mmol/l; trị số trung bình của cholesterol ở nhóm nhồi máu não: 5,13 ± 1,1 mmol/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
  8. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi còn cho thấy người có nồng độ cholesterol máu cao có nguy cơ nhồi máu não 2,6 lần so với người có nồng độ cholesterol máu bình thường (OR = 5,87 ; 95% CI: 2,52 – 13,96; p = 0,000003). Điều này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) và phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước. Nồng độ cholesterol máu càng cao thì ảnh hưởng càng lớn đến bệnh lý mạch máu. Theo Qizilbash, nồng độ cholesterol máu trên 5,7mmol/l sẽ làm tăng tỷ lệ nhồi máu não lên từ 1,31 đến 2,57 lần. Nhiều nghiên cứu đã xác nhận nguy cơ bị nhồi máu não gia tăng với mức cholesterol cao trong khi nguy cơ xuất huyết não gia tăng với mức cholesterol thấp. Theo Nguyễn Năng Tấn, nhóm có nồng độ cholesterol cao lớn hơn hay bằng 5,2mmol/l, tỷ lệ tai biến mạch máu não chiếm 34,2%, trong đó tỷ lệ nhồi máu não là 60,7%. Sự liên quan giữa sự tăng TG và nhồi máu não Trị số trung bình của triglycerid ở nhóm chứng: 1,48 ± 0,1mmol/l; trị số trung bình của triglycerid ở nhóm nhồi máu não: 2,25 ± 0,9mmol/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
  9. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 thấy có sự khác biệt về trị số trung bình của HDL-C giữa nhóm nhồi máu não và nhóm chứng (p>0,05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Lê Thanh Hải trên 35 bệnh nhân nhồi máu não. Giảm HDL-C làm giảm 2 lần nguy cơ nhồi máu não, tuy nhiên chúng tôi chưa thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu này. Theo Nguyễn Năng Tấn, sự giảm HDL-C làm gia tăng nguy cơ đột quị. Mức HDL-C thấp có liên quan đến độ xơ vữa động mạch cảnh và liên quan đến diễn tiến sự dày lớp áo giữa và lớp áo trong của động mạch cảnh [8].. Tỷ lệ giảm HDL-C trong nghiên cứu này là 21,6% phù hợp với nghiên cứu của Ngọ Xuân Thành (2000), tỷ lệ giảm HDL-C là 21,5% trên nhóm bệnh tai biến mạch máu não [6]. V. KẾT LUẬN Qua định lượng một số thông số lipid trên bệnh nhân nhồi máu não điều trị tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên. Chúng tôi đi đến một số kết luận sau: 1. Giá trị trung bình của nồng độ cholesterol, triglyceride, LDL-C nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tăng nồng độ cholesterol, triglycerid và LDL-C máu làm tăng nguy cơ tai biến mạch não. 2. Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và đái tháo đường là các yếu tố nguy cơ độc lập với TBMN. Trong đó người có rối loạn lipid máu có nguy cơ TBMN gấp 8,3 lần so với người có các chỉ số lipid máu bình thường. - Kiến nghị Cần thực hiện bộ xét nghiệm lipid máu như một xét nghiệm thường quy ở bệnh nhân trên 50 tuổi có nguy cơ nhồi máu não nhằm mục đích phát hiện sớm các rối loạn lipid và và kiểm soát các trị số lipid máu để dự phòng huyết khối nói chung và nhồi máu não nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Hà Thị Anh (2010), Rối loạn lipid máu trên bệnh nhân tai biến mạch máu não,Y Học TP. Hồ Chí Minh, 14 (2) : 220 – 227. 2. Phạm Tử Dương (2008), Bài giảng “Rối loạn lipid máu và bệnh vữa xơ động mạch”. 3. Nguyễn Văn Đăng (2007), “Đại cương về tai biến mạch máu não, những kiến thức cơ bản trong thực hành”, Tai biến mạch máu não, hướng dẫn chẩn đoán và xử trí, Nhà xuất bản y học, tr 19-28. 4. Lê Thanh Hải và cộng sự, “Nghiên cứu sự thay đổi nồng độ lipid huyết thanh ở nệnh nhân nhồi máu não”, www.ykhoa.net. 5. Bùi Thị Huyền và cộng sự (2011), “Nghiên cứu rối loạn chuyển hoá lipid và glucose máu ở bệnh nhân nhồi máu não giai đoạn cấp”, Tạp chí y học thực hành, 794+795, tr 251-253. 6. Ngọ Xuân Thành. Nghiên cứu rối loạn lipid máu ở bệnh nhân tai biến mạch máu não tại Bệnh viện trung ương Huế. Luận văn Thạc sĩ y học 2000. Huế. 7. Lê Văn Thính và cộng sự, “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân nhồi máu não ở bệnh nhân dưới 50 tuổi”, caohocykhoa.files.wordpress.com/2012/de-tai-nckh-4.pdf. 8. Nguyễn Năng Tấn (2003), “Nghiên cứu mối liên quan giữa tăng huyết áp với các thể của tai biến mạch máu não”, Luận văn Thạc sĩ y học: 69-72. 9. Howard S.Kirshner (2009), Differentiating ischemic stroke subtypes: Risk factors and secondary prevention, Journal of the Neurological Siences, 279, 1-8. 10. Woodward, Federica Barzi, Valery Feigin, DongFeng Gu, Rache Huxley, Koshi Nakamura, Anushka Patel, Suzanne Ho and Konrad Jamrozik for the Asia Pacific Cohort Studies collaboration (2007), Associations between high-density lipoprotein cholesterol 11
  10. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên Bản tin Y Dược học miền núi, số 2 năm 2013 and both stroke and Coronary heart disease in the Asia Pacific region, European Heart Journal, 28, 2653-2660. 11.Tirschwell D.L., Smith N.L. et al. Association of cholesterol with stroke risk varies in stroke subtypes and patient subgroups. Neurology, November 23, 2004; 63(10): 1868 - 1875 12. Bansal BC., Sood AK., Bansal CB. (1998), "Familial hyperlipidemia in stroke in the young", Stroke, 17: 1142 – 1145. (Research on serum lipid concentration of patients with ischaemic stroke ) 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0