intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu thực nghiệm cắt qua da ròng rọc A1 trên xác bằng kim 18G ứng dụng trong điều trị ngón tay bật

Chia sẻ: Ro Ong Kloi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

126
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết trình bày về việc đánh giá hiệu quả, tính an toàn và các biến chứng khi giải phóng ngón tay bật qua da bằng kim 18G. Kết quả nghiên cứu cho thấy, kỹ thuật cắt ròng rọc A1 qua da bằng kim 18G trên xác bước đầu cho thấy là một kỹ thuật hiệu quả và an toàn, tuy nhiên, phẫu thuật viên cần phải được luyện tập thành thạo trước khi áp dụng vào lâm sàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu thực nghiệm cắt qua da ròng rọc A1 trên xác bằng kim 18G ứng dụng trong điều trị ngón tay bật

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CẮT QUA DA RÒNG RỌC A1  <br /> TRÊN XÁC BẰNG KIM 18G ỨNG DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ NGÓN TAY BẬT <br /> Đỗ Phước Hùng*, Nguyễn Trung Hiếu*, Trang Mạnh Khôi**<br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục đích: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn và các biến chứng khi giải phóng ngón tay bật qua da bằng <br /> kim 18G.<br /> Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu cắt qua da ròng rọc A1 bằng kim 18G trên <br /> 25 ngón tay của 3 xác tươi và 5 ngón tay của bàn tay đứt lìa. Sau đó, chúng tôi phẫu tích bàn tay quan sát ròng <br /> rọc A1, A2, các tổn thương gân gấp và bó mạch thần kinh gan ngón tay nếu có.<br /> Kết quả: Trong số 30 ngón tay ngiên cứu, có 87% (26/30) cắt được hoàn toàn ròng rọc A1, 13% (4/30) cắt <br /> không hoàn toàn. Tổn thương gân gấp ở các mức độ khác nhau: từ rách nông trên bề mặt 87% (26/30), rách dọc <br /> nông 10% (3/30), rách dọc sâu 3% (1/30). Tuy nhiên, không có trường hợp nào bị đứt gân gấp nông hay sâu. Có <br /> 1 (3%) trường hợp ở ngón tay 1 bị rách nông bao khớp trước của khớp bàn ngón tay. Không có trường hợp nào <br /> bị tổn thương ròng rọc A2 hay bó mạch thần kinh gan ngón tay. <br /> Kết luận: Kỹ thuật cắt ròng rọc A1 qua da bằng kim 18G trên xác bước đầu cho thấy là một kỹ thuật hiệu <br /> quả và an toàn. Tuy nhiên, phẫu thuật viên cần phải được luyện tập thành thạo trước khi áp dụng vào lâm sàng. <br /> Từ khóa: ngón tay lò xo, viêm hẹp bao gân gấp, cắt ròng rọc qua da. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> PERCUTANEOUS RELEASE OF THE A1 PULLEY WITH 18G NEEDLE: A CADAVER STUDY  <br /> FOR STENOSING TENOSYNOVITIS MANAGEMENT  <br /> Do Phuoc Hung, Nguyen Trung Hieu, Trang Manh Khoi  <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 444 ‐ 448 <br /> Background: Stenosing tenosynovitis of the fingers is one of the most common problems treated by hand <br /> surgeons. When conservative treatments fail surgical release of A1 pulley may be required. Recently, there have <br /> been a number of reports on percutaneous release with a needle but the technique has been controversial. <br /> Purposes: To evaluate the effectiveness, the safety and complications of the technique when performing <br /> on cadaver.<br /> Methods and materials: Case series report. The technique was applied  on  25  fingers  of  cadavers  and  5 <br /> fingers of one severed hand. Then all fingers were dissected to observe A1, A2 pulleys, tendons, MP joints and <br /> digital neurovascular bundles. <br /> Results: 87% (26/30) of fingers were  completely  cut  A1  pulley,  13%  (4/30)  being  incompletely  cut.  The <br /> tendons were injuried with the various extents:scratching 87% (26/30),superficial tear 10% (3/30) and profound <br /> tear 3%(1/30) and no case of rupture. One case of the thumbs was found superficial tear of MPJ capsule. Neither <br /> A2 nor digital neurovascular bunbles were damaged. <br /> Conclusion: Percutaneous  release  of  the  A1  pulley  is  initially  effective  and  safe.  However  the  technique <br /> requires learning curve. <br /> Keywords: trigger finger, stenosing tenosynovitis, percutaneous release.<br /> * Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. <br /> Tác giả liên lạc: PGS.TS. Đỗ Phước Hùng   ĐT: 0909274971 <br /> <br /> 444<br /> <br /> Email: dphungcr@yahoo.com <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Khoa <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br />  Viêm  hẹp  bao  gân  gấp  (stenosing <br /> tenosynovitis)  hay  ngón  tay  cò  súng  (trigger <br /> finger) là một bệnh lí thường gặp ở bàn tay, đặc <br /> biệt ở những người phải làm việc nhiều bằng tay <br /> với những cử động lặp đi lặp lại hay gắng sức. <br /> Giai đoạn đầu bệnh thường gây đau. Bệnh tiến <br /> triển dần đến giới hạn vận động ngón tay vì vậy <br /> ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và lao động <br /> của người bệnh. Việc điều trị tùy thuộc vào giai <br /> đoạn bệnh mà lựa chọn điều trị bảo tồn (mang <br /> nẹp ngón tay, uống NSAID, steroid, tiêm steroid <br /> tại chổ…) hay phẫu thuật (mổ kín hay hở). Cắt <br /> kín  ròng  rọc  A1  qua  da  bằng  kim  18G  giải <br /> phóng  nơi  viêm  hẹp  bao  gân  gấp  được  cho  là <br /> phương  pháp  ít  xâm  lấn  nhất  được  Lorthior <br /> thực hiện lần đầu tiên vào năm 1958. Từ đó, kỹ <br /> thuật này được áp dụng rộng rãi ở nhiều  nước <br /> trên  thế  giới  trong  đó  có  Việt  Nam.  Tuy  nhiên <br /> cho  đến  nay  vẫn  còn  không  ít  tranh  cãi  về  khả <br /> năng cắt đứt hoàn toàn ròng rọc A1 hay không, <br /> cũng  như  biến  chứng  tổn  thương  gân,  mạch <br /> máu,  thần  kinh  cùa  ngón  tay  do  còn  thiếu <br /> những bằng chứng khách quan về mặt giài phẫu <br /> đại thể. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên <br /> cứu này góp phần làm sáng tỏ tính an toàn, hiệu <br /> quả  của  phương  pháp  giải  phóng  ròng  rọc  A1 <br /> qua qua bằng kim 18G. <br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu <br /> Đánh giá hiệu quả, tính an toàn và các biến <br /> chứng khi giải phóng ngón tay bật qua da bằng <br /> kim 18G trên xác tươi. <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Thiết kế nghiên cứu <br /> Nghiên  cứu  mô  tả  tiền  cứu.  Đối  tượng <br /> nghiên cứu: 25 ngón tay của 3 xác tươi được bảo <br /> quản tại Bộ môn Giải Phẫu Học, Đại học Y Dược <br /> <br /> Chấn Thương Chỉnh Hình <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Tp. HCM và 5 ngón tay của 1 bàn tay đứt lìa ở <br /> Bệnh  viện  Nhân  Dân  Gia  Định.  Thời  gian <br /> nghiên cứu: từ tháng 07/2012 đến 07/2013.  <br /> <br /> Tiêu chuẩn chọn mẫu<br /> Xác tươi người trưởng thành có bàn tay còn <br /> nguyên vẹn.  <br /> Tiêu chuẩn loại trừ<br /> Xác tươi có bàn tay biến dạng, sẹo cũ ở bàn ‐ <br /> ngón tay có liên quan tới vùng phẫu tích. <br /> Số liệu được xử lý bằng toán thống kê Stata <br /> 10.0, Microsoft Office Excel 2007 <br /> Nghiên  cứu  được  tiến  hành  qua  các  bước <br /> sau: <br /> Bước  một:  Xác  định  vị  trí  của  ròng  rọc  A1 <br /> các ngón trên bề mặt da gan tay. <br /> Các ngón dài:  Khoảng  cách  từ  nếp  gấp  liên <br /> đốt gần của ngón 2,3,4,5 đến nếp gấp bàn ngón <br /> bằng khoảng cách từ nếp gấp bàn ngón đến bờ <br /> trên của ròng rọc A1, xác định được vị trí bờ trên <br /> của ròng rọc A1 trên bề mặt da gan tay của ngón <br /> 2 đến 5. Bờ dưới của ròng rọc A1 (ngón 2 đến 5) <br /> trên  bề  mặt  da  gan  tay  cách  nếp  gấp  bàn  ngón <br /> tay  lên  trên  khoảng  5mm,  xác  định  được  chiều <br /> dài của ròng rọc A1 (ngón 2 đến 5) trên lòng bàn <br /> tay(3). <br /> Ngón cái: Bờ trên của ròng rọc A1 ngón cái ở <br /> gan tay đối xứng với đỉnh cao nhất phía sau trên <br /> của  chỏm  xương  bàn  1  ở  tư  thế  gấp  khớp  bàn <br /> đốt  ngón  cái  45  độ.  Chiều  dài  của  ròng  rọc  A1 <br /> ngón cái là 5,3mm. (7). <br /> Bước  hai: Dùng cạnh bên của đầu kim 18G <br /> cắt kín qua da hoàn toàn ròng rọc A1 các ngón 1 <br /> đến 5. <br /> Bơm 1cc nước muối sinh lí vào mô mềm mặt <br /> trước ròng rọc để tạo khoảng trống lỏng lẻo cho <br /> kim  hoạt  động  không  bị  cản  trở.  Dựa  vào  các <br /> mốc  đã  đánh  dấu  trên  gan  tay  xác  định  vị  trí <br /> đâm kim ngay phía trên của bờ trên ròng rọc A1, <br /> hướng  kim  vuông  góc  với  gan  tay.  Dùng  đầu <br /> kim”rà”  trên  bề  mặt  ròng  rọc  A1  để  xác  định <br /> ước lượng giới hạn. <br /> Di  chuyển  kim  lên  xuống  hướng  theo  trục <br /> <br /> 445<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> dọc  gân,  dung  cạnh  bên  đầu  kim  cắt  ròng  rọc <br /> A1, hướng cắt đi về phía xa và không vượt qua <br /> nếp gấp bàn ngón tay. <br /> Bước  ba:  Phẫu  tích  bộc  lộ  ròng  rọc  A1,  A2, <br /> gân  gấp  nông,  sâu  và  bó  mạch  thần  kinh  gan <br /> ngón tay. <br /> Rạch da hình zig zag từ nếp liên đốt gần đến <br /> giữa lòng bàn tay theo chiều dọc của gân. <br /> Bộc  lộ  ròng  rọc  A1  xem  có  cắt  hoàn  toàn <br /> không, nếu không hoàn toàn thì phần còn lại là <br /> bao nhiêu. <br /> Bộc lộ ròng rọc A2 xem có bị cắt phạm tới <br /> không. <br /> Bộc  lộ  gân  gấp  nông  và  gân  gấp  sâu  đánh <br /> giá  mức  độ  tổn  thương  gân:  trầy  sướt  bề  mặt, <br /> rách dọc gân hoàn toàn, đứt gân. <br /> Kiểm  tra  sự  toàn  vẹn  của  bao  khớp  bàn <br /> ngón tay. <br /> Bộc lộ bó mạch thần kinh gan ngón bên trụ <br /> và bên quay xem có bị tổn thương không. <br /> <br /> Bước bốn: Tổng hợp và phân tích các số liệu <br /> *  Hiệu  quả:  được  xác  định  thông  qua  tỉ  lệ <br /> ròng  rọc  A1  được  cắt  hoàn  toàn(hiệu  quả,  hiệu <br /> quả một phần (ròng rọc được cắt >75% chiều dài <br /> nhưng  còn  1  phần  chưa  được  cắt),không  hiệu <br /> quả(ròng rọc được cắt ≤75%). <br /> * An toàn: được xác định thông qua tỉ lệ tổn <br /> thương  gân  gấp  và  mức  độ  tổn  thương  gân <br /> gấp(xướt  bề  mặt,  rách  nông  75%<br /> 6 ngón 1<br /> 4<br /> 2<br /> 6 ngón 2<br /> 5<br /> 1<br /> 6 ngón 3<br /> 6<br /> 0<br /> 6 ngón 4<br /> 6<br /> 0<br /> 6 ngón 5<br /> 5<br /> 1<br /> <br /> Ròng<br /> Rọc A2<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> Gân gấp nông, sâu<br /> Rách bao Thần<br /> kinh<br /> Bề mặt Rách dọc Đứt gân khớp<br /> 4<br /> 2<br /> 0<br /> 1<br /> 0<br /> 5<br /> 1<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 6<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 6<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 5<br /> 1<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> Tỉ lệ cắt được hoàn toàn ròng rọc A1 là: 26/30 <br /> = 87%; 13% (4/30) cắt hiệu quả một phần, không <br /> có trường hợp nào cắt không hiệu quả. <br /> Không  có  trường  hợp  nào  bị  cắt  phạm  đến <br /> ròng rọc A2. <br /> Tổn  thương  gân  gấp  ở  các  mức  độ  khác <br /> nhau:  xước  nông  trên  bề  mặt  87%  (26/30),  rách <br /> dọc  nông  10%  (3/30),  3%  rách  dọc  sâu  (1/30%). <br /> Tuy nhiên, không có trường hợp nào bị đứt gân <br /> gấp nông hay sâu. <br /> Có 1 (3,3%) trường hợp ở ngón tay 1 gân bị <br /> rách dọc sâu và rách bề mặt bao khớp trước của <br /> khớp bàn ngón tay (không thông vào bao khớp). <br /> Không có trường hợp nào bị tổn thương bó <br /> mạch thần kinh gan ngón tay. <br /> <br /> 446<br /> <br /> Mạch<br /> máu<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> Khả năng cắt ròng rọc A1 qua da với kim <br /> Pope  và  Wolfe  (1995)  đã  tiến  hành  giải <br /> phóng  qua  da  cho  13  trường  hợp  ngón  tay  bật <br /> bằng kim 19G. Sau đó, tác giả tiến hành mổ hở <br /> để  quan  sát  ròng  rọc  A1  cho  thấy:  có  8  trường <br /> hợp (61,5%) cắt đứt hoàn toàn ròng rọc A1, còn 5 <br /> trường hợp (38,5%) chỉ đứt bán phần. Cũng năm <br /> 1995, Bain báo cáo có 20% trường hợp không cắt <br /> hoàn toàn ròng rọc A1, 12% giải phóng ròng rọc <br /> A1  thất  bại  khi  thực  hiện  nghiên  cứu  trên  xác. <br /> Michael  J.  Dunn  (1999)(2)  cũng  ghi  nhận  chỉ  có <br /> 38%  (10/26)  trường  hợp  cắt  hoàn  toàn  ròng  rọc <br /> A1 bằng kim 19G. Một nghiên cứu khác của tác <br /> giả Slesarenco (2006) (8) ghi nhận: chỉ có 59 ngón <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Khoa <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> (59%)  cắt  được  hoàn  toàn  ròng  rọc  A1,  các <br /> trường hợp còn lại đều cắt không hoàn toàn đặc <br /> biệt  ở  các  ngón  1,  2  và  5.  Trong  nghiên  cứu <br /> chúng tôi, có 26 trường hợp (87%) cắt được hoàn <br /> toàn  ròng  rọc  A1,  4  trường  hợp  (13%)  cắt  hiệu <br /> quả một phần. Như vậy, kỹ thuật cắt kín qua da <br /> bằng kim có hiệu quả trong hầu hết các trường <br /> hợp. Các trường hợp cắt không hoàn toàn chiếm <br /> tỉ  lệ  nhỏ,  phần  ròng  rọc  còn  lại  chiếm  dưới  ¼ <br /> chiều dài ròng rọc. Nếu áp dụng trên lâm sàng tỉ <br /> lệ  hiệu  quả  rất  có  thể  sẽ  tăng  lên  do  có  thể  cắt <br /> thêm  lần  nữa  nếu  vẫn  còn  có  dấu  hiệu  “kẹt” <br /> (dấu bật ngón tay, cảm giác vướng khi gấp duỗi <br /> ngón tay, dấu “khựt” khi đặt tay lên vị trí ròng <br /> rọc trong lúc bệnh nhân gập duỗi các ngón…). <br /> <br /> Vấn đề cắt “quá” làm phạm ròng rọc A2 <br /> Slesarenco (2006)(8): cắt kín qua da 100 ngón <br /> tay bằng kim 18G ghi nhận chỉ có 2 trường hợp <br /> cắt phạm vào ròng rọc A2 1mm (10% chiều dài <br /> ròng rọc). Còn trong nghiên cứu của  Michael  J. <br /> Dunn  (1999)(2)  trên  26  ngón  tay  và  Ron  Hazani <br /> (2008)(5)  trên  45  ngón  tay  thì  không  có  trường <br /> hợp  nào  cắt  phạm  vào  ròng  rọc  A2.  Chúng  tôi <br /> cũng có kết quả tương tự, trong số 30 ngón tay <br /> giải  phóng  ròng  rọc  A1  qua  da  bằng  kim  18G <br /> không có trường hợp nào cắt phạm vào ròng rọc <br /> A2.  Như  vậy,  thực  hiện  kỹ  thuật  dưới  hướng <br /> dẫn  của  các  mốc  giải  phẫu  bề  mặt  gan  tay  nói <br /> trên giúp bảo tồn được ròng rọc A2. <br /> <br /> Mức độ tổn thương gân gấp <br /> Trong  nghiên  cứu  của  Michael  J.  Dunn <br /> (1999)(2) ghi nhận: có 73% (19/26) trường hợp có <br /> tổn thương gân gấp từ mức độ nhẹ  30% <br /> bề  dầy  gân  (2  trường  hợp),  nhưng  không  có <br /> trường  hợp  nào  bị  đứt  gân.  Tương  tự,  nghiên <br /> cứu  của  Slesarenco  (2006)(8)  cũng  cho  thấy  có <br /> 46% trường hợp tổn thương gân với sướt bề mặt <br /> (70%) hay rách sâu (30%)  chứ  không  có  trường <br /> hợp nào đứt gân. Các nghiên cứu khác trên xác <br /> hay  lâm  sàng  qua  đánh  giá  và  theo  dõi  bệnh <br /> nhân cũng cho kết quả tương tự  như: Lorithior <br /> (1958), Eastwood (1992), Oguz Cebesoy (2007)(1), <br /> Han  Koo  Ryu  (2009)(5)…  Trong  nghiên  cứu  của <br /> <br /> Chấn Thương Chỉnh Hình <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> chúng  tôi,  tất  cả  30  trường  hợp  đều  có  tổn <br /> thương gân, trong đó 87% trầy sướt bề mặt, 10% <br /> rách  dọc  nông,  3%  rách  dọc  sâu  và  không  có <br /> trường hợp nào đút gân. Như vậy, với kỹ thuật <br /> cắt  ròng  rọc  A1  qua  da  bằng  kim  18G  thì  tổn <br /> thương  gân  gấp  là  không  thể  tránh  khỏi.  Tuy <br /> nhiên, mức độ tổn thương gân đa số là nhẹ và ít <br /> gây hậu quả nghiêm trọng.  <br /> <br /> Tổn thương khớp bàn ngón tay <br /> Chúng  tôi  có  1  (3,3%)  trường  hợp  cắt  kim <br /> quá  sâu,  để  phạm  vào  bao  khớp  bàn  ngón  tay <br /> của ngón 1. Trường hợp này được thực hiện trên <br /> bàn tay đứt lìa và là lần đầu thực hiện kỹ thuật <br /> nên  chưa  có  cảm  giác  về  độ  sâu  của  kim,  cũng <br /> như  sự  hoàn  thiện  về  mặt  kỹ  thuật.  Ngoài  ra, <br /> việc  thực  hiện  cắt  kín  trên  bàn  tay  đứt  lìa,  các <br /> gân gấp bị mất cố định ở phần nguyên ủy cũng <br /> có  thể  là  nguyên  nhân  làm  giảm  cảm  giác  qua <br /> gân  khi  cắt.  Biến  chứng  này  không  được  ghi <br /> nhận  qua  nghiên  cứu  của  các  tác  giả  khác  khi <br /> thực hiện trên xác tươi. <br /> <br /> Tổn  tương  mạch  máu,  thần  kinh  gan <br /> ngón tay <br /> Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  không  có <br /> trường  hợp  nào  bị  tổn  thương  bó  mạch  thần <br /> kinh  gan  ngón  tay.  Kết  quả  này  cũng  tương  tự <br /> nghiên  cứu  của  các  tác  giả  khác  như:  Pope  và <br /> Wolfe  (1995),  Michael  J.  Dunn  (1999)(2), <br /> Slesarenco  (2006)(8)  và  Ron  Hazani  (2008)(6)… <br /> Như  vậy  kỹ  thuật  cắt  kín  qua  da  ròng  rọc  A1 <br /> bằng kim 18G, nếu được thực hiện dựa trên gân <br /> gấp  và  hướng  dẫn  vị  trí  cắt  nhờ  các  mốc  giải <br /> phẫu trên mặt da gan tay thì có thể tránh được <br /> tổn thương bó mạch thần kinh gan ngón tay. <br /> <br /> Mặt hạn chế của đề tài <br /> Do kỹ thuật tiến hành trên xác nên thiếu các <br /> đối  chiếu  lâm  sàng  của  bệnh  nhân  trong  khi <br /> thực  hiện  kỹ  thuật  như:  dấu  hiệu  cò  súng  còn <br /> hay hết. <br /> Nốt  gân  trong  ngón  tay  cò  súng  có  thể  sờ <br /> thấy  trên  lâm  sàng  cũng  là  1  chỉ  điểm  để  xác <br /> định vị trí của ròng rọc A1. Do nghiên cứu trên <br /> xác không có chỉ điểm này nên có thể làm giảm <br /> <br /> 447<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> tính hiệu quả của phương pháp.   <br /> <br /> 3.<br /> <br /> KẾT LUẬN <br /> Mặc  dù  có  những  hạn  chế  về  cở  mẫu  cũng <br /> như các đối chiếu về lâm sàng, nghiên cứu thực <br /> nghiệm bước đầu cũng cho thấy tỉ lệ giải phóng <br /> được  hoàn  toàn  ròng  rọc  A1  khá  cao  (87%)  mà <br /> không có 1 biến chứng nghiêm trọng nào về mặt <br /> giải phẫu. Do đó, kỹ thuật cắt ròng rọc A1 qua <br /> da bằng kim 18G trên xác bước đầu cho thấy là <br /> một  kỹ  thuật  hiệu  quả  và  an  toàn.  Tuy  nhiên, <br /> phẫu thuật viên cần phải được luyện tập thành <br /> thạo trước khi áp dụng vào lâm sàng. <br /> <br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO  <br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Cebesoy O, Kose KC, Baltaci ET, Isik M (2007), “Percutaneous <br /> release of the trigger thumb: is it safe, cheap and effective?”, <br /> International Orthopaedics (SICOT), Vol.31(3), pp.345‐349. <br /> Dunn  MJ,  Pess  GM  (1999),“Percutaneous  Trigger  Finger <br /> Release:A Comparison of a New Push Knife and a 19‐Gauge <br /> Needle  in  a  Cadaveric  Model”,  The  Journal  of  Hand  Surgery, <br /> Vol 24A(4), pp. 860‐865. <br /> <br /> Fiorini  HJ,  Santos  JB,  Hirakawa  CK,  Sato  ES,  Faloppa  F, <br /> Albertoni  WM  (2011),  “Anatomical  Study  of  the  A1  Pulley: <br /> Length and Location by Means of Cutaneous Landmarks on <br /> the Palmar Surface”, JHS, Vol. 36A pp. 464‐468. <br /> Habbu  R,  Putnam  MD  (2012),  “Percutaneous  release  of  the <br /> A1 pulley: a cadaver study”, J Hand Surg Am, Vol. 37(11), pp. <br /> 2273‐2277. <br /> Han  KR  (2009),  “Clinical  experience  of  the  percutaneous <br /> release  for  trigger  fingers”,  Korean  J  Anesthesiol,  Vol.  56(1), <br /> pp.60‐65. <br /> Hazani R, et al (2008), “Assessment of the Distal Extent of the <br /> A1  Pulley  Release:  A  New  Technique”,  Journal  of  plastic <br /> surgery, Vol. 8, pp.423‐427. <br /> Jongjirasiri Y (2009), “Length and Landmark of A1 Pulley in <br /> Hand:  An  Anatomical  Study”,  J  Med  Assoc  Thai,  Vol. <br /> 92(1),pp.41‐46. <br /> Slesarenko  Y  A  (2006),  “Percutaneous  release  of  A1 <br /> pulley”,  Techniques  in  Hand  and  Upper  Extremity  Surgery, <br /> Vol. 10(1), pp.54‐56. <br /> <br />  <br /> Ngày nhận bài báo:    <br /> <br />  <br /> <br /> 24/10/2013 <br /> <br /> Ngày phản biện nhận xét bài báo:   24/10/2013 <br /> Ngày bài báo được đăng:  <br /> <br /> 05/01/2014 <br /> <br />  <br />  <br /> <br /> 448<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Khoa <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0