TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018<br />
<br />
NGHIÊN CỨU TÍNH ĂN VÀ PHỔ THỨC ĂN CÁ BỐNG CÁT<br />
Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975<br />
STUDY ON FEEDING HABIT AND FEED SPECTRUM OF<br />
GOLDEN TANK GOBY Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975<br />
Nguyễn Minh Tuấn1 , Trần Đắc Định2<br />
<br />
Tóm tắt – Cá bống cát Glossogobius aureus<br />
Akihito & Meguro, 1975 (G. aureus) là loài cá<br />
có thịt thơm ngon được nhiều người ưa thích và<br />
có giá trị kinh tế. Nghiên cứu tính ăn và phổ thức<br />
ăn của cá bống cát được thực hiện từ tháng 01<br />
đến tháng 12 năm 2013 tại vùng ven biển tỉnh<br />
Bến Tre. Kết quả nghiên cứu cho thấy cá bống<br />
cát thuộc nhóm cá miệng trên, miệng rộng, lưỡi<br />
phát triển, phần tự do của lưỡi dài, phần cuối<br />
lưỡi xẻ thùy và chia làm đôi, răng lớn, nhọn, răng<br />
hầu phát triển, lược mang có dạng núm hoặc gai<br />
nhọn, thực quản và ruột ngắn, thành dạ dày và<br />
thành ruột dày. Cá bống cát có tỉ lệ chiều dài<br />
ruột/chiều dài cơ thể (RLG) < 1, thức ăn chủ<br />
yếu là cá (46,3%) và giáp xác (40,5%). Kết quả<br />
nghiên cứu đặc điểm hình thái cơ quan tiêu hóa<br />
và phổ thức ăn cho thấy cá bống cát là cá dữ ăn<br />
động vật.<br />
Từ khóa: Cá bống cát, Glossogobius aureus,<br />
phổ thức ăn, tính ăn.<br />
<br />
was less than 1. The results also indicated that<br />
G. Aureus are fed mainly on small fish (46.3%)<br />
and crustaceans (40.5%). The result showed that<br />
G. aureus is the carnivorous species<br />
Keywords: Golden tank goby, Glossogobius<br />
aureus, feed spectrum, feeding habit.<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Cá bống cát Glossogobius aureus Akihito &<br />
Meguro, 1975 thuộc giống Glossogobius, họ cá<br />
bống trắng (Gobiidae), bộ cá vược (Perciformes)<br />
[1]; phân bố vùng Tây Thái Bình Dương, Nam<br />
Phi, Châu Á và Châu Đại Dương: Nhật Bản đến<br />
Úc; sông Mekong và sông Chao Phraya [1], [2].<br />
Loài này sống được ở cả 3 môi trường ngọt, lợ<br />
và mặn. Cá bống cát có chiều dài thân đến 26,9<br />
cm (chiều dài chuẩn) [2]. Cá có chiều dài thành<br />
thục đầu tiên là 13,02 cm (chiều dài chuẩn) [3].<br />
Cá bống cát G. aureus có thịt ngon, giá trị kinh<br />
tế cao [4]. Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận<br />
được 3 loài cá bống cát thuộc giống Glossogobius<br />
là Glossogobius aureus, Glossogobius giuris và<br />
Glossogobius sparsipappllus [2]. Về hình thái, ba<br />
loài này rất giống nhau. Đặc điểm để phân biệt ba<br />
loài này là các hàng nốt cảm giác của cá trên má<br />
và nắp mang (Hình 1) [2], [5], [6]. Tuy nhiên, các<br />
nghiên cứu về đặc điểm dinh dưỡng, sinh trưởng<br />
và sinh sản của cá bống cát đa số tập trung cho<br />
loài G. giuris, còn loài G. aureus ở vùng bãi bồi<br />
ven biển vùng ĐBSCL nói chung và ở Bến Tre<br />
nói riêng cho đến nay vẫn còn hạn chế. Do đó,<br />
việc xác định được tính ăn và phổ thức ăn của cá<br />
bống cát G. aureus sẽ làm cơ sở cho sự phát triển<br />
nghề nuôi và bảo vệ nguồn lợi của loài cá này.<br />
Với lí do trên, đề tài “Nghiên cứu tính ăn và<br />
phổ thức ăn cá bống cát Glossogobius aureus<br />
Akihito & Meguro, 1975” đã được thực hiện.<br />
<br />
Abstract – Glossogobius aureus Akihito &<br />
Meguro, 1975 is a fish with good flesh, which<br />
has brought about high economic value. The<br />
study on feeding habit and feed spectrum of G.<br />
aureus was conducted from January to December<br />
2013 at the coastal area of Ben Tre province.<br />
The results have showed that the mouth of this<br />
fish is wide, tongue is bilobate, teeth on faws<br />
develop well. The gill rakers are sparse, short and<br />
hard. The esophagus and the intestine are short,<br />
the stomach and intestinal walls are thick. The<br />
Relative Length Gut index (RLG) of G. aureus<br />
1<br />
<br />
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bến Tre<br />
Email: nmtuan.snn@bentre.gov.vn<br />
2<br />
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ<br />
Ngày nhận bài: 07/3/2018; Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
13/3/2018; Ngày chấp nhận đăng: 21/3/2018<br />
<br />
63<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018<br />
<br />
hoặc cá ăn ven bờ (marginal feeder).<br />
Bên cạnh các cách phân chia như trên, Das<br />
and Moitra [10] cho rằng có thể chia tính ăn của<br />
cá dựa vào loại thức ăn tự nhiên mà cá ưa thích<br />
như cá ăn sinh vật nổi hay cá ăn chất vẩn. Nhóm<br />
cá ăn tạp được chia thành 2 nhóm phụ: cá ăn<br />
tạp thiên về thực vật và cá ăn tạp thiên về động<br />
vật. Riêng nhóm cá ăn động vật thì được chia:<br />
cá ăn côn trùng (insectivorous), cá ăn giáp xác<br />
(carciniphagus), cá ăn thân mềm (malacophagus),<br />
cá ăn các loài cá nhỏ khác (piscivorous), cá ăn ấu<br />
trùng của các loại côn trùng và cá (larvivorous),<br />
cá ăn thịt lẫn nhau (cannibalistic).<br />
Theo Nguyễn Bạch Loan [11], có thể dựa vào<br />
đặc điểm hình thái ống tiêu hóa để dự đoán tính<br />
ăn của cá. Cá hiền thường có miệng nhỏ, hẹp như<br />
cá sặc rằn, cá linh. Cá dữ thường có miệng rộng<br />
lớn như cá lóc, cá chẽm, cá bống tượng, cá bống<br />
cát. Cá ăn lọc thường không có răng; cá ăn động<br />
vật kích thước nhỏ có răng nhỏ, mịn; cá ăn động<br />
vật kích thước lớn có răng to, bén, thường có<br />
răng chó. Lược mang cũng khác nhau tùy theo<br />
tính ăn của mỗi loại cá. Cá ăn lọc lược mang<br />
dài, mảnh, xếp khít nhau; cá ăn động vật kích<br />
thước nhỏ lược mang dài, mảnh, xếp thưa; cá ăn<br />
mùn bã hoặc động vật đáy lược mang ngắn, to<br />
thô, xếp thưa; cá ăn động vật kích thước lớn trên<br />
cung mang có nhiều gai bén hoặc lược mang biến<br />
thành những núm có nhiều gai. Độ dài của ruột<br />
cũng quan hệ chặt chẽ với tính ăn: cá ăn động<br />
vật thì ruột ngắn, cá ăn thực vật thì ruột dài, cá<br />
ăn tạp thì ruột trung bình [12]. Trong thủy sản<br />
thường chia tính ăn của cá làm 3 nhóm: nhóm cá<br />
ăn động vật, nhóm cá ăn thực vật, nhóm cá ăn<br />
tạp [10].<br />
Hệ tiêu hóa của cá có chức năng lấy thức ăn từ<br />
môi trường bên ngoài, chuyển hóa thức ăn thành<br />
chất dinh dưỡng và hấp thụ chúng để cung cấp<br />
cho các hoạt động sống của cơ thể cá. Mỗi loại<br />
cá thích nghi với việc dinh dưỡng bằng những<br />
loại thức ăn nhất định và phù hợp với đặc tính<br />
dinh dưỡng của cá, các cơ quan mà cá dùng để<br />
tìm thức ăn cũng khác nhau [13]. Theo Phạm<br />
Thanh Liêm và Trần Đắc Định [7], nghiên cứu<br />
cấu trúc của cơ thể cá như vị trí miệng, răng,<br />
kích cỡ miệng,. . . sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn<br />
về loại thức ăn tự nhiên và tập tính bắt mồi của<br />
cá. Cá có miệng dưới hay miệng nằm ở mặt bụng<br />
chính là loài cá ăn đáy.<br />
<br />
Hình 1: Ba loài cá bống cát giống Glossogobius.<br />
(Nguồn: Trần Đắc Định và ctv., 2013) [2]<br />
(a) G. aureus, (b) G. sparsipappllus và<br />
(c) G. giuris.<br />
<br />
II.<br />
<br />
NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN<br />
<br />
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Thức ăn của cá được chia làm 3 loại, thức ăn<br />
chính (thức ăn tự nhiên) là loại thức ăn cá ưa<br />
thích nhất, giúp cá sẽ phát triển tốt nhất; thức ăn<br />
phụ được cá sử dụng một khi chúng xuất hiện;<br />
thức ăn bắt buộc là loại thức ăn mà cá bắt buộc<br />
sử dụng khi không có loại thức ăn khác [7]. Thức<br />
ăn tự nhiên của cá được chia thành 4 nhóm: sinh<br />
vật phù du, sinh vật tự bơi, sinh vật đáy và chất<br />
vẩn. Có 2 loại chất vẩn là chất vẩn lơ lững và<br />
chất vẩn lắng đọng dưới nền đáy [8].<br />
Nikolsky [9] phân chia thức ăn của cá ra thành<br />
4 loại: thức ăn cơ bản, thức ăn thứ cấp, thức ăn<br />
ngẫu nhiên và thức ăn cưỡng bức. Tùy vào khối<br />
lượng của các loại thức ăn được cá sử dụng, chia<br />
tập tính dinh dưỡng của cá ra thành các nhóm<br />
như: cá ăn đơn, chúng chỉ ăn một loại thức ăn<br />
duy nhất; cá có phổ dinh dưỡng hẹp, chúng ăn<br />
được một số loại thức ăn khác nhau; và cá có<br />
phổ dinh dưỡng rộng, chúng ăn được nhiều loại<br />
thức ăn khác nhau.<br />
Tập tính dinh dưỡng của cá cũng có thể được<br />
phân chia theo vị trí của chuỗi thức ăn (hay loại<br />
thức ăn) sẵn có hoặc nơi mà loại thức ăn ưa thích<br />
của cá xuất hiện nhiều nhất. Theo đó, cá được<br />
chia thành: cá ăn tầng mặt (surface feeder), cá ăn<br />
tầng giữa (mid feeder), cá ăn đáy (bottom feeder)<br />
64<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018<br />
<br />
Cá bống cũng có loài có tính ăn thiên về thực<br />
vật như cá bống kèo vảy nhỏ (Pseudapocryptes<br />
elongatus), thức ăn chủ yếu là tảo khuê, tảo<br />
lam và mùn bã hữu cơ. Các động vật phù du<br />
(Copepoda, Cladocera) cũng thấy hiện diện trong<br />
thức ăn của cá nhưng không nhiều [13].<br />
Cá bống Pomatoschistus minutus và những loài<br />
cá bống thường có chung mồi là động vật giáp<br />
xác, copepoda và polychaeta [14]–[16]. Theo kết<br />
quả phân tích tần số xuất hiện của thức ăn trong<br />
dạ dày cá, cá Platichthys flesus ăn Polychaeta<br />
trong những giờ buổi sáng và Neomysis integer<br />
vào buổi tối [17].<br />
Nghiên cứu của Borek et al. [18], trong tháng 8<br />
năm 2001, ghi nhận tất cả các nhóm chiều dài của<br />
cá bống Pomatoschistus minutus (Pallas, 1770)<br />
đều có calanoida chiếm ưu thế trong chế độ ăn<br />
của cá. Trứng của Copepoda, Chironomus và cá<br />
bống P. minutus con thường được tìm thấy nhiều<br />
nhất trong thành phần thức ăn của tất cả các nhóm<br />
chiều dài của cá bống P. minutus. Trong chế độ<br />
ăn của cá bống P. minutus ở nhóm chiều dài 30 –<br />
49 mm, amphipoda trội về sinh khối, nhưng trong<br />
dạ dày của nhóm cá có chiều dài lớn nhất thì con<br />
mồi bao gồm cá con của chúng. Đối với cá bống<br />
P. minutus nhỏ hơn (chiều dài các nhóm từ 30 –<br />
39 và 40 – 49 mm), con mồi quan trọng nhất là<br />
calanoida, trong khi những con lớn nhất (trên 50<br />
mm) có các đối tượng con mồi quan trọng nhất<br />
là P. minutus.<br />
Ravi [19] cho rằng cá bống sao (B. boddarti) ở<br />
rừng ngặp mặn Pichavaram, Ấn Độ là loài có tính<br />
ăn thiên về thực vật và tảo khuê là thành phần chủ<br />
yếu [20]. Nhìn chung, đa số các loài có hình thái<br />
tương tự cá bống sao thuộc giống Periophthalmus<br />
và Periophthalmodon là loài ăn động vật, trong<br />
khi những loài thuộc giống Boleophthamus là loài<br />
có tính ăn thiên về thực vật, đặc biệt tảo khuê là<br />
thành phần chủ yếu [21], [22]. Cá bống sao lấy<br />
thức ăn bằng cách di chuyển trên bãi bùn và cạp<br />
một lớp bùn mỏng từ bề mặt [20]. Fenchel [23]<br />
cho rằng tảo khuê đáy tạo thành một nguồn thức<br />
ăn quan trọng cho sinh vật đáy, trong khi Heald<br />
và Odum [24] giải thích rằng tảo khuê đóng vai<br />
trò quan trọng trong việc thiết lập các chuỗi thức<br />
ăn và mối quan hệ giữa các nhóm khác nhau của<br />
các sinh vật trong các hệ sinh thái.<br />
Họ cá bống trắng (Gobiidae) là nhóm cá rộng<br />
muối và ăn động vật nhỏ; đồng thời cũng là loài<br />
<br />
NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN<br />
<br />
có giá trị kinh tế cao góp phần đáng kể vào sản<br />
lượng khai thác và thu nhập của người dân trong<br />
vùng đầm Ô Loan, tỉnh Bình Định [25].<br />
Thức ăn của cá bống rất đa dạng, có nghĩa là<br />
chúng cũng thích nghi với những thay đổi sinh<br />
học trong môi trường và dễ dàng chuyển sang<br />
các loại thức ăn phù hợp. Ngay cả trong điều<br />
kiện thiếu thức ăn, chúng có một thời gian giới<br />
hạn chờ có được nguồn thức ăn phong phú cung<br />
cấp để đẻ trứng. Ngoài ra, còn có các giá trị<br />
khác có tính linh động, chẳng hạn sinh sản giảm,<br />
tăng trưởng giảm. Khi nguồn cung cấp thức ăn<br />
có sự thay đổi lớn, như trong trường hợp vùng<br />
ven biển, cá có thể bị buộc phải lưu trữ chất béo<br />
để sử dụng sau. Vì vậy, tính ăn linh động dự kiến<br />
sẽ tăng với môi trường biến đổi [26].<br />
Một số nghiên cứu cho thấy thức ăn của các<br />
loài cá bống rất đa dạng và tùy theo loài, có loài<br />
ăn chủ yếu là thực vật như cá bống kèo, có loài<br />
ăn chủ yếu là động vật như cá bống tượng và có<br />
loài ăn cả động vật và thực vật. Do vậy, trong<br />
quá trình nghiên cứu, tác giả luôn lưu ý điều này<br />
để xác định thức ăn của đối tượng nghiên cứu.<br />
Do không phải tất cả thành phần có trong dạ dày<br />
của cá đều là thức ăn của cá, có thể trong quá<br />
trình ăn mồi vô tình các thức ăn này theo nước<br />
đi vào dạ dày của cá.<br />
III.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
A. Thời gian, địa điểm nghiên cứu<br />
Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 1 năm<br />
2013 đến tháng 12 năm 2013 tại vùng ven biển<br />
tỉnh Bến Tre (Hình 2).<br />
Địa điểm phân tích mẫu: phân tích hình thái<br />
cơ quan tiêu hóa tại hiện trường khu vực thu mẫu<br />
và phân tích phổ thức ăn tại Phòng Thí nghiệm<br />
Nguồn lợi Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại<br />
học Cần Thơ.<br />
B. Phương pháp thu và cố định mẫu<br />
Số mẫu phân tích tương quan chiều dài ruột<br />
và chiều dài tổng của cá là 411 cá thể, phân tích<br />
phổ thức ăn là 35 cá thể.<br />
Mẫu cá được thu bằng lưới đáy (có kích thước<br />
mắt lưới phần đục là 2a = 15mm) và thu định<br />
kì hàng tháng trong suốt 12 tháng. Mẫu cá phân<br />
tích phổ thức ăn sau khi thu được gây mê bằng<br />
nước đá, sau đó cố định ngay trong dung dịch<br />
65<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018<br />
<br />
NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN<br />
<br />
- Tính % xuất hiện của mỗi loại thức ăn:<br />
T =<br />
<br />
T: TSXH thức ăn loại a (%)<br />
Cách tính tương tự cho tất cả các loại thức ăn<br />
khác còn lại.<br />
* Phương pháp khối lượng<br />
Trước tiên sử dụng cân điện tử (3 chữ số lẻ)<br />
cân tổng khối lượng thức ăn có trong dạ dày cá,<br />
sau đó cân khối lượng của từng loại thức ăn có<br />
trong dạ dày cá. Khối lượng của mỗi loại thức ăn<br />
được tính thành phần trăm trên tổng khối lượng<br />
thức ăn có trong dạ dày cá.<br />
Phổ thức ăn của cá được xác định bằng tích<br />
số giữa tỉ lệ tần số xuất hiện và tỉ lệ khối<br />
lượng thức ăn, sau đó tính ra tỉ lệ % trên tổng<br />
tích số [8].<br />
<br />
Hình 2: Bản đồ khu vực nghiên cứu<br />
<br />
formol 10%, chọn cá thể no và tiến hành phân<br />
tích tại Phòng Thí nghiệm Nguồn lợi Thủy sản,<br />
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.<br />
<br />
E. Phương pháp xử lí số liệu<br />
Số liệu ghi nhận được phân tích giá trị trung<br />
bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, tần số phần<br />
trăm bởi phần mềm Excel 2007.<br />
<br />
C. Phương pháp phân tích đặc điểm hình thái<br />
cấu tạo cơ quan tiêu hóa<br />
Quan sát cấu tạo răng, miệng, lược mang, đo<br />
chiều dài ruột và chiều dài tổng của cá. Tính<br />
tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài tổng<br />
của cá (RLG) theo Al-Hussainy [12].<br />
RLG =<br />
<br />
Số lượng dạ dày hiện diện thức ăn (a)<br />
×100<br />
Tổng số cá thể quan sát<br />
<br />
IV.<br />
<br />
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
A. Đặc điểm hình thái cơ quan tiêu hóa của cá<br />
bống cát G. aureus<br />
<br />
Chiều dài ruột (cm)<br />
Chiều dài tổng (cm)<br />
<br />
Kết quả quan sát cấu tạo hệ tiêu hóa cá bống<br />
cát được ghi nhận như sau:<br />
Miệng: cá bống cát có hàm dưới nhô ra và dài<br />
hơn hàm trên (Hình 3), rạch miệng kéo dài đến<br />
bờ trước của ổ mắt. Như thế, chúng thuộc nhóm<br />
cá miệng trên, miệng khá rộng.<br />
Răng: cá có hai hàng răng trên mỗi hàm, cả<br />
hai hàng răng bên trong và bên ngoài đều có răng<br />
lớn và nhọn (Hình 3). Tuy nhiên, hàng răng ngoài<br />
lớn và nhọn hơn so với hàng trong. Có răng hầu<br />
nhỏ, nhọn và xếp thành đám hình bầu dục ở vùng<br />
hầu (Hình 4 [1]). Kết quả quan sát răng của cá<br />
bống cát ở nghiên cứu này cũng phù hợp với mô<br />
tả của Akihito and Meguro [5]. Đối chiếu với tài<br />
liệu Nguyễn Bạch Loan [11], cá bống cát có đặc<br />
điểm về răng như thế thì có thể dự đoán được cá<br />
bống cát là loài cá dữ.<br />
Lưỡi: rất phát triển, phần tự do của lưỡi dài,<br />
phần cuối xẻ thùy và chia làm đôi (Hình 3).<br />
Mang: Cá bống cát có khe mang rộng, gồm<br />
có 4 đôi cung mang kích thước lớn dần từ dưới<br />
<br />
D. Phương pháp phân tích phổ thức ăn của cá<br />
Cách lấy thức ăn ra khỏi ống tiêu hóa để phân<br />
tích: mẫu dạ dày cá no được đặt trên khai mổ có<br />
trải tấm nhựa mỏng, dùng kéo mổ dạ dày cá rồi<br />
chuyển hết phần thức ăn có trong dạ dày ra tấm<br />
nhựa để phân tích.<br />
Cá bống cát có thành phần thức ăn là cá và<br />
giáp xác có kích thước và khối lượng lớn nên<br />
nghiên cứu này phân tích phổ thức ăn của cá<br />
theo phương pháp tần số xuất hiện và phương<br />
pháp khối lượng.<br />
* Phương pháp tần số xuất hiện (TSXH)<br />
Phương pháp này được tiến hành theo hai bước:<br />
- Tất cả các loại thức ăn trong các mẫu quan<br />
sát sẽ được liệt kê thành một danh sách, sau đó<br />
ghi nhận lại sự hiện diện của mỗi loại thức ăn<br />
trong từng dạ dày và tính ra % trên tổng số dạ<br />
dày quan sát.<br />
66<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 29, THÁNG 3 NĂM 2018<br />
<br />
Hình 3: Hình thái miệng, răng và lưỡi cá bống<br />
cát G. aureus<br />
<br />
NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN<br />
<br />
Hình 5: Hệ tiêu hóa cá bống cát (G. aureus)<br />
[1] Thực quản; [2] Gan; [3] Mật; [4] Dạ dày;<br />
[5] Ruột.<br />
<br />
lên trên (Hình 4). Lược mang cá bống cát nằm<br />
trên xương cung mang và đối xứng với tia mang,<br />
hướng vào xoang miệng hầu. Trên mỗi xương<br />
cung mang, lược mang có màu trắng ngà xếp<br />
thành một hàng thưa, dạng núm gai nhọn và bén.<br />
Cấu tạo lược mang cá bống cát phù hợp với đặc<br />
điểm của nhóm cá ăn động vật có kích thước lớn.<br />
Mỗi cung mang có khoảng 7 đến 10 lược mang.<br />
<br />
Hình 4: Hình thái cung mang của cá bống cát<br />
(G. aureus) [1] Răng hầu; [2] Tia mang;<br />
[3] Xương cung mang; [4] Lược mang.<br />
<br />
Hình 6: Cấu tạo ống tiêu hóa cá bống cát<br />
(G. aureus) (a) Cấu tạo ngoài ống tiêu hóa.<br />
(b) Cấu tạo mặt trong ống tiêu hóa.<br />
<br />
Thực quản: tương đối ngắn, nằm tiếp xoang<br />
hầu. Thực quản có thành dày, gấp nếp ở mặt<br />
trong. Cấu tạo thực quản như trên chứng tỏ cá<br />
bống cát thích hợp với thức ăn là các loài động<br />
vật kích thước lớn (Hình 5-6).<br />
Dạ dày cá bống cát rất phát triển, có dạng túi<br />
hình chữ J phình to và vách dày (Hình 5-6), cấu<br />
tạo của dạ dày vách dày đã thể hiện được thức<br />
ăn của cá bống cát có kích thước lớn.<br />
Ruột ngắn, thành ruột cá tương đối dày, bên<br />
trong bề mặt gấp nếp để tăng diện tích hấp thu<br />
chất dinh dưỡng.<br />
Để xác định chính xác hơn tính ăn của cá bống<br />
cát thì chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và<br />
chiều dài cơ thể (RLG) được khảo sát. Tương<br />
quan giữa chiều dài ruột (Lr) và chiều dài tổng<br />
<br />
(L) của cá bống cát được phân tích trên 411 mẫu,<br />
chỉ số này dao động trong khoảng 0,08–0,57 với<br />
giá trị trung bình 0,26 (Bảng 1).<br />
Bảng 1: Các thông số về chiều dài ruột và chiều<br />
dài tổng cá bống cát (G. aureus) (n = 411)<br />
Trung bình<br />
<br />
Min<br />
<br />
Max<br />
<br />
Chiều dài tổng (cm)<br />
<br />
Các chỉ tiêu đo<br />
<br />
18,5<br />
<br />
9,30<br />
<br />
30,1<br />
<br />
Chiều dài ruột (cm)<br />
<br />
4,85<br />
<br />
1,60<br />
<br />
12,0<br />
<br />
0,26<br />
<br />
0,08<br />
<br />
0,57<br />
<br />
Tương quan chiều dài<br />
ruột/chiều dài tổng (RLG)<br />
<br />
Theo Nikolsky [9], khi chỉ số RLG < 1 cá<br />
thuộc nhóm ăn động vật, cá bống cát có RLG<br />
67<br />
<br />