V- NGOẠI GIAO TRIỀU TỰ ĐỨC (1847 - 1883)
Năm 1848, Tự Đức lên ngôi vua cũng là năm nước nhà bước vào thời kỳ nhiều khó
khăn nhất, cả về nội tr và ngoi giao.
Về nội trị, đời sống cả nước gian khổ quá. Nhân dân vô cùng ta tn. Người đương thời
đặt thành vè để nói lên ni lòng ngao ngán của mình.
Vè rằng:
K từ Tự Đức cầm quyền
Bốn phương giặc giã chng yên chút nào
Nắng khan bão lụt biết bao
Mất mùa chết đói năm nào năm không
K sĩ cho chí nhà nông
Ai ai ri cũng một lòng chán vua.
Nội tr đã ri bời thì ngoi giao không thể tốt đẹp Nhưng người cầm quyền trì nước thời
xưa đã có kinh nghim tnghìn đời rằng: “Quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh" .
Nước có giàu, quân có mạnh, trong nước có yên t ngoài nước mới tĩnh, mới hòa
bình, hòa hảo với ngoài. Thời Tự Đức, dân đói khổ, trong nước không yên thì ngoi giao
đã không thuận lợi, mà còn có nhiều khó khăn không lưng trước được.
Trên thế giới, từ thế kỷ XVII, XVIII, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. Cho tới thế k
XIX, nhiều nước châu Á, kể cả các nước Đông Nam Á, đều đã tiếp xúc thường xuyên với
các nước láng giềng và ít nhiều với các nước tư bản phương Tây. Nhưng ở Việt Nam,
triều đình nhà Nguyn vẫn kp kín cửa, không cho người Việt Nam đi ra khỏi nước và
nhiều cấm đoán đối với người phương y đến nước mình.
Ngay khi mi lên ni vua, Tự Đức đã cho người sang triều đình nhà Thanh, xưng thần
nộp cống rất trọng hậu.
Sứ bộ đầu tiên của triều đình Huế đi sang Trung Quốc cầu phong vương hiệu cho Tự Đức
o năm 1848. Năm sau, 1849, triều đình Thanh ở Trung Quốc cho mt sứ bộ do Lao
Sùng Quang cầm đầu, sang làm lễ phong vương cho Tự Đức tại triều đình Huế.
Quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc lúc này hn chế bớt nhng hoạt động phá phách của
các toán giặc cướp nhà Thanh min biên giới hai nước. Đầu năm 1852, ba tướng nhà
Thanh làĐại Xưng (hiệu Quảng Nghĩa Đường), Hoàng Nh Vãn (hiệu Lục Thắng
Đường) và Lưu Sĩ Anh (hiệu Đức Thắng Đường) đã sang hàng triều đình Việt Nam.
Cũng trong năm này, ta và Trung Quc định rõ đường biên giới hai nước ở phía tỉnh
Tuyên Quang, lấy núi Đại Lĩnh Can làm giới mc.
Nhưng vấn đề quan trọng sống còn của Việt Nam lúc này không phải là sự đe dọa hay lấn
chiếm của nhà Thanh, mà là cuc xâm lược của đế quốc Pháp đang từng bước din ra,
ngàyng quyết liệt và xảo quyệt
1. Pháp đánh chiếm miền Nam Việt Nam
Pháp mưu toan chiếm đóng Việt Nam làm thuộc địa từ lâu, ít nhất là tcuối thế k
XVIII. Khi ký hip ước Versailles, Pháp đã nắm được mt phần chquyền Việt Nam
thông qua giám mục Pháp là Bá Đa Lộc - đại diện của bọn bán nước Gia Long Nguyễn
Ánh. Nhưng nội tình nước Pháp thời ấy chưa cho phép làm được việc đó. Sang giữa thế
k XIX, tham vọng của pháp lại bộc phát.
Từ nhng năm thập k 50 của thế kỷ XVIII, đại sứ pháp ở Trung Quốc là Bourboulon
nhiều lần đề ngh chính phủ Pháp đưa quân xâm lược Việt Nam, trước tiên là đánh chiếm
cảng Đà Nng. Chính phủ pháp giao cho Bourboulon nghiên cứu kế hoạch cướp nước
này.
Đầu năm 1852, Pháp cho chiến hạm Capricieuse tới thăm dò các cửa biển Cần Giờ, Phú
Yên, Cam Ranh và nhiều cửa biển ở miền Bắc.
Tới m 1856, Pp quyết tâm thực hiện mưu đồ đánh chiếm Việt Nam. Ngay từ đầu
năm, vua Pháp Napoléon III lệnh cho Montigny, nguyên lãnh sự Pháp ở Thượng Hải, tiến
hành hai nhim vụ: Một là thương lưng ký hòa ước với Xiêm. Hai là đưa hai tàu chiến
Capricieuse và Catinat tới Việt Nam uy hiếp triều đình TĐức.
Montigny đến làm việc ở Xiêm và cho hai tàu chiến đi Việt Nam đưa thư cho triều đình
Huế.
Khoảng giữa tháng 9 năm 1856, tàu Catinat ti Đà Nẵng đưa thư. Quan li nhà Nguyễn ở
đây tchi không nhận thư. Viên sĩ quan trưởng tàu Catinat ra lnh bắn phá các pháo đài
ở cảng. Sau đó tàu Catinat đóng quân trong tnh Đà Nẵng, chờ tàu Capricieuse. Tàu
Capricieuse gặp bão nên tới Đà Nẵng muộn. Khi tàu Capricieuse tới, hai tàu đều cùng
chờ Montigny ti. Nhưng chờ mãi không thấy Montigny, mà cả hai tàu lương ăn đều sắp
cạn, cuối cùng phải nhneo rời Đà Nẵng đi Ma Cao.
Sau đó ítu, Montigny được vua Pháp trao quyn đại diện để gii quyết công việc ở Việt
Nam. Ngày 25 tháng 1 năm 1857, Montigny tXiêm sang Đà Nẵng yêu cầu được đưa
quc thư xin cho người Pháp tự do thông thương, đặt lãnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn
bán ở Đà Nng và cho các giáo sĩ tự do đi giảng đạo. Triều đình Huế không chấp nhn
điều nào.
Vua Pháp Napoléon III nhất quyết xâm ợc Việt Nam. Ngày 22 tháng 4 năm 1857,
Napoléon III lập “Hội đồng Nam Kỳ", chuẩn bị đánh chiếm min Nam Việt Nam.
Tháng 11 năm 1857, Napoléon III lệnh cho đô đốc Rigault de Genouilly, tư lnh hạm đội
Pháp ở châu Á đem quân đánh chiếm Đà Nng. Tây Ban Nha cho quân phối hợp cùng
xâm lược. Ngày 31 tháng 8 năm 1858, một hạm đội gồm 14 tàu chiến, 2.500 quân Pháp
500 quân Tây Ban Nha tiến tới Đà Nẵng.
Mờ sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp gửi ti hậu thư cho triều đình Huế, đòi Tự Đức
trong hai giờ phải đầu hàng. Triu đình Huế lúng túng, chưa biết nên như thế nào. Không
nhận được thư trả lời, Pháp cho quân bắn đại bác phá vỡ hệ thống đồn lũy của quân
Nguyễn ở Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Tháng giêng năm Kỷ Mùi (2-1859), quân Pháp và quân Tây Ban Nha từ Đà Nẵng đánh
o cửa Cần Giờ và từ đấy tiến đánh thành Gia Định. Lấy được thành Gia Định, quân
xâm lược cướp của quân Nguyễn 200 súng đại bác, 85.000 ki-lô-gam thuc súng, tin và
bc ước khoảng 180.000 phờ-răng, vũ khí và thóc gạo nhiều vô kể. Nhưng tướng giặc
Rigault de Genouilly không dám cho đóng quân trong thành, sợ bị quân ta bao vây tiêu
diệt, nên cho đốt hết thóc gạo, san phng thành th, đồn lũy; sau đó rút quân xuống đóng
trên các tàu chiến đậu trên sông.
Tình thế giặc Pháp trên chiến trường Gia Định nhiều khó khăn buộc tướng Genouilly
phải tìm cách điều đình với ta để kéo dài thời gian.
Bấy giờ tháng sáu năm Kỷ Mùi (1859). Nhận được thư đề nghị thương lượng của
Pháp, TĐức cho Bộ Binh tr lời rằng Pháp muốn nghị hòa mà vẫn cho quân đốt phá
Quảng Nam, Khánh Hòa t nghị hòa sao được. Pháp trả lời: từ nay trở đi không để xảy
ra như thế nữa.
Trước thái độ cầu hòa của Pháp, triều đình Huế không thể không có ý kiến dứt khoát. Tự
Đức hỏi ý kiến Viện Cơ mật. Các quan Vin Cơ mật như Trương Đăng Quế, Phan Thanh
Giản thiên về giảng hòa, đưa ra ý kiến đối vi ba yêu cầu của Pp thì điều thứ nhất là
xin đất, quyết không cho; điều thứ hai xin thông thương thì từ đầu thời Nguyễn tới nay đã
cho phép họ thông thương, nay cthế mà làm; điều thứ ba là việc giảng đạo Giê-su thì t
thời Trần, Lê đã cho phép họ được giảng đạo tự do; gần đây vì ta cm giảng đạo ngặt quá
nên họ phải xin phép được giảng đạo; vy ta nên bỏ lệnh cấm giảng đạo, để cho trong
nước được nghỉ binh, yên dân. Do đó nhn hòa với Pháp là điều rất nên.
Ngược lại, Nguyễn Tư Gin cũng là quan Viện Cơ mật đưa sớ tấu không nên nghị hòa.
Vì có những ý kiến trái nhau như vậy, triều đình Huế không biết trả lời thế nào. Rốt cuộc,
không trả li.
__________________
Cuối năm 1859, thiếu tướng Page sang thay Genouilly ng nhận thấy cần tiếp tục đưa
thư bàn hòa với triều đình Huế.
Dự thảo hòa ước của Page gồm 10 điều chính:
1. Đại Pháp cùng Đại Nam giao hiếu mn năm cho tỏ nghĩa lớn.
2. Khi Pháp đưa quốc t thì báo với cửa Hàn ri đi đường bộ đưa lên Kinh.
3. Nước Nam giao hiếu với nước nào t nước Pháp cũng đối xử như nước anh em.
4. Không bắt tội những dân làm thuê với Pháp.
5. Không bắt tội những dân theo đạo Giê-su.
6. Những giáo Pháp bị bắt, xin giao lại cho Pháp để đưa về Pháp.
7. Không ngăn cản tàu Pháp vào buôn bán ở các cửa biển.
8. Nước Nam nên lập hòa ước với nước Tây Ban Nha.
9. Không ngăn cấm các cố đạo đi giảng đạo ở các làng xóm.
10. Pháp được quyn đặt lãnh svà lp phố buôn bán ở các cửa biển.
Đại diện triều đình Huế tại Gia Định chấp nhận bảy điều khoản trên, riêng ba điều khoản
cuối phải đưa về Huế để triều đình quyết định.
Bản dự thảo nghị hòa đưa về triều. Trước một văn kin ngoại giao xâm phạm chủ quyền
dân tc như vậy, trong triều có nhiều ni không muốn chấp nhn. Do đó, triều đình do
dự, chưa quyết.
Trong khi đó, tàu chiến Pháp vẫn đỗ ở cửa Hàn (Đà Nẵng). Thấy triều đình Huế không
trả lời, Pp cho quân dưới tàu lên đốt phá my đồn quân Nguyn ở Đà Nẵng rồi rút
quân.
Đầu năm 1859 Pháp tiến chiếm Gia Định. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Địnhi
o tay giặt.
Sau khi thôn tính xong Gia Đnh, quân Pháp tiếp tục tung quân đánh chiếmc thành Đại
Đồn (Chí Hòa), Định Tường (Biên Hòa)... Lúc này Nguyễn Tri Phương được giao trọng
trách trấn githành Đại Đồn do chính ông đã huy động quân dân xây gấp để ngăn chặn
quân Pháp đánh rng ra.
Trước tình hình thành Gia Định thất thủ, Pháp tung quân đánh chiếm mt số tnh miền
y Nam B, triều đình Huế hoảng ht cho Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đi sứ vào
Gia Định xin giảng hòa.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862 (âm lịch là ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất), Bonard đại diện
Pháp cùng Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp đại diện triều đình Huế, ký hoà ước giữa hai
nước, thường gọi là hoà ước Nhâm Tuất 1862, gồm 12 điều. Trong hoà ước có nhng
điều khoản chyếu như sau:
1. Nước Nam phải để các giáo sĩ Pháp và y Ban Nha tdo giảng đạo và để nhân dân tự
do theo đạo.
2. Nước Nam nhường hn cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn
Đảo, để các chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mê Công.
3. Nước Nam không được đem vũ k, đạn dược đi qua những tỉnh đã nhường cho Pháp.
4. Nước Nam giao thiệp vi nước nào, phải cho chính phủ Pháp biết, muốn nhường đất
cho nước nào phải được sự đồng ý của Pháp.
5. Người Pháp và người Tây Ban Nha được ra vào buôn bán tự do ở các cửa biển Đà
Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên.
6. Nước Nam phải trả cho Pháp tiền binh p 4 triu đồng, trả làm 10 năm, mi năm 40
vạn đồng.
7. Pháp trả li cho nước Nam tnh Vĩnh Long (nhưng quân Pháp vẫn đóng li ở tỉnh lỵ
cho đến khi chúng gọi là "dẹp yên giặc giã" ở Gia Định và Định Tường, chúng mới rút
đi).
Hoà ước này đại diện Tây Ban Nha là đại tá Palanca cùng ký.
Tháng 2 năm Quý Hợi 1863, Bonard và Palanca tới Huế mượn cớ đưa quà tặng của vua
nước họ để đòi triều đình Huế đưa quốc thư, tức đưa giy dâng mt phần đất nước cho
chúng. TĐức tiếp sứ trọng hậu, trả bồi thường cho Pháp số tin 186.111 đồng, gửi quà
tặng hai vua Pháp, Tây Ban Nha và tặng quà sứ bộ Pháp.
Trong khi triều đình TĐức đầu hàng,ng đất, nộp tin cho quân cướp nước, thì nhân
dân, văn thân, sĩ phu min Nam nổi lên đánh giặc, chống triều đình ny càng quyết liệt.
Khi Pháp đánh chiếm Gia Định, các sĩ phu Gia Định như Phan Văn Đạt, Lê Cao Dũng
chiêu m nghĩa quân đánh giặc. B giặc bắt, hai ông tự tử.
Nhiều sĩ phu yêu nước khác như tri huyện Toi, Thiên HDương cũng ni lên đánh
Pháp. Nguyn Hữu Huân, người Định Tường, đỗ thkhoa năm 1832, làm giáo thụ ở
huyện Kiến Hưng, khi Pháp xâm lược Nam Bộ, đã tập hợp nghĩa sĩ, phối hợp cùng các
nhóm nghĩa quân Âu Dương Lân, Võ Duy Dương (tức Thiên H Dương) hoạt động suốt
mt dải từ Tân An đến Mỹ Tho. Một võ quan của triều đình Nguyễn ở Gia Định là
Trương Định cũng dấy quân đánh Pháp.
ngoài Bắc, từ năm 1862 đã có nhiều nhóm nghĩa quân nổi lên chống triều đình bán
nước. Đầu năm 1862, nghĩa quân của cai tng Vàng (tức Nguyn Văn Thịnh) ở Bắc Ninh
tiến đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng và vây thành Bắc Ninh.ng thời gian này,
tay sai của Pp là Tạ Văn Phụng đưa quân đánh chiếm phủ Hải Ninh (Quảng Ninh) và
nhiều nơi khác miền duyên hải nhằm mc đích quấy rối hậu phương miền Bắc của triều
Nguyễn.
________________