Ngôn ngữ và văn hoá
Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu
văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất
thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm
hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề
như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá, nó không độc lập với văn
hoá, nên làm sao mà tìm được quan hệ. Tôi bảo vậy trái tim có quan hệ với
sức khoẻ không, bởi vì trái tim cũng là một thành tố của cơ thể vậy. Bà im
không nói gì. Tôi hỏi tiếp, vậy xin bà cho biết định nghĩa về văn hoá. Bà bảo
có hơn 500 định nghĩa, anh muốn định nghĩa nào? Tôi xin bà nói cho biết
định nghĩa của chính bà. Bà liền bảo “Văn hoá là tất cả những gì liên quan
đến cuộc sống hoạt động của con người”. Đến đây thì tôi chịu, không hiểu.
Vì tôi vẫn thấy nhan nhản khắp nơi các biển đề “Khu dân cư văn hoá”, “cụm
văn hoá làng xã”, “văn hoá giao thông”, “văn hoá công sở”, “văn hoá phong
bì”, “văn hoá ngón tay cái”,…
Vậy văn hoá là gì? Đặc trưng cơ bản nhất của văn hoá là gì? Và hơn nữa cái
gì làm nên bản sắc văn hoá của nhân dân ta?
Trước hết, con người khác muôn loài ở ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà con
người đã xây dựng nhiều nền văn minh trên trái đất này. Nhưng ngôn ngữ
của mỗi dân tộc khác nhau. Điểm khác nhau cơ bản trong ngôn ngữ là ở
cách dùng danh từ, tính từ và đại từ. Quả vậy, người Việt nói “áo
trắng” nhưng người Tầu không nói vậy. Người Tầu nói “Bái Yfu” (Bạch y
phục). Người Nga, Ý, Mỹ, Anh, Pháp, Arập, Nhật, Hàn,… nói giống người
Tầu hết. Họ đặt tính từ lên trước danh từ. Trong mối quan hệ đại từ và danh
từ cũng có sự trái ngược tương tự: người Việt nói“Đất nước tôi”, người
Pháp nói “Mon pays” (của tôi đất nước). Khi học ngoại ngữ chúng ta phải
tuân theo ngữ pháp của ngôn ngữ đó và nhận thấy cái sự ngược đời ấy là
bình thường. Nhưng khi nhìn nhận ngôn ngữ theo vật lý học hoặc/và văn hoá
học ta có thể phân tích sự ngược đời ấy dưới các góc độ khác.
Vật lý học là môn nghiên cứu sự vận động có hướng của các vật thể trong
không thời gian. Còn văn hoá học là môn nghiên cứu sự vận động của các
khái niệm trong tâm hồn con người. Do vậy, có thể kết hợp hai môn này
trong việc phân tích thứ tự danh từ, đại từ, tính từ trong các ngôn ngữ.
Dân Việt khi nói bao giờ cũng đặt danh từ lên trước, rồi mới đến tính từ.
Người Việt mình nói “trời xanh, mây trắng, cờ hồng”, chứ không nói“Blue
sky, white cloud, red flag” (xanh trời, trắng mây, đỏ cờ). Dân ta, ngàn năm
bị lệ thuộc Tầu, lại gần ngàn năm dùng chữ Tầu trong thi cử và giao dịch
hành chính vẫn không nói theo người Tầu và các dân tộc khác. Cách nói đó
có sức sống mãnh liệt và là một đặc trưng cơ bản nhất của ngôn ngữ Việt.
Có lẽ cụ Phạm Quỳnh đã nhìn thấy cái sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ
Việt, nên ngay trong những năm dài mất nước cụ đã viết “Truyện Kiều còn,
tiếng Việt còn, tiếng Việt còn, nước Nam còn".
Vậy tại sao dân Việt mình khi nói lại đặt danh từ lên trước như vậy? Ngôn
ngữ được hình thành gắn liền với thông tin về hình ảnh, âm thanh, mầu sắc...
Nếu ta trông thấy một cái gì đó dài dài, hơi tròn, lại rỗng ở giữa, ta bảo đó là
cái ống. Danh từ “ống” được hình thành và lưu trữ trong óc với những thông
tin về hình ảnh và cấu trúc. Nếu ta nhìn thấy cái gì đó có cấu trúc gần như
thế, ta sẽ bảo đó là cái “ống” đã. Sau rồi ta mới tả các đặc trưng thực tại của
nó về mầu sắc, về chất liệu. Cuối cùng ta có một cụm từ “cái ống xanh bằng
nhựa”. Còn người nước khác, khi nhìn thấy cái ống sẽ làm văn tả cảnh thực
tại. Họ nói mầu sắc, rồi cấu trúc, sau chất liệu thành ra cụm từ “a blue tube
by plastic”.
Vậy cách nói của dân Việt là so sánh trước, miêu tả sau. Người Việt so sánh
vật thể thực tại với những khái niệm có sẵn trong óc, sau đó bổ sung thêm
các tính từ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng. Trong khi đó, dân Tầu,
Nga, Mỹ, Pháp, Nhật,…sẽ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng trước,
rồi dần dần mới lột tả vật thể bằng một danh từ. Do đó, đối với các ngôn ngữ
khác, danh từ để sau (trong đa số trường hợp). Nhưng để so sánh thì khái
niệm phải có sẵn trong óc. Do đó, trong quá trình hình thành các danh từ, khi
học nói, học chuyên môn, người Việt đã xây dựng các khái niệm, rồi lưu trữ
vào bộ óc. Đó là cách tư duy “tổng thể trước, chi tiết sau”. (Danh từ là từ để
chỉ tổng thể của khái niệm. Tính từ là từ để chỉ trạng thái tính chất, tức là các
chi tiết). Mặt tích cực của tư duy theo phong cách “tổng thể trước, chi tiết
sau” là coi trọng cái thuộc tính chung, coi trong cấu trúc tổng. Nhưng mặt
tiêu cực của phong cách tư duy đó là định kiến, bảo thủ. Ví dụ, khi nói đến
cái bàn, mà không thêm tính từ mô tả bổ sung, thì phần lớn người Việt sẽ
hình dung về một vật thể có 4 chân, bằng gỗ, phía trên có một hình chữ nhật
phẳng. Họ ít khi nghĩ ngay đến cái gì ba chân, có mặt hình ô-van. Nhưng khi
nói theo ngôn ngữ Mỹ, ta phải đặt tính từ ô-van và số chân lên trước rồi mới
đến danh từ “cái bàn” ở vị trí cuối cùng. Như vậy ít khi hiểu sai ý của người
đối thoại.
Từ những phân tích ở trên, ta thấy ngôn ngữ ảnh hưởng mãnh mẽ đến phong
cách tư duy. Nó là công cụ quan trọng nhất để tư duy. Có hai cách tư duy:
đặt tổng thể lên trước hoặc là đặt chi tiết lên trước.
Nếu tư duy theo phong cách đặt chi tiết lên trước thì nhanh chóng tìm ra các
thành tố, nhưng lâu đi đến khái niệm chung. Ngược lại, theo phong cách tư
duy đặt tổng thể lên trước thì chóng tìm đến khái niệm, nhưng khái niệm lại
có thể bị hiểu không nhất quán trong các bộ óc cá thể, như trường hợp thầy
bói xem voi. Mỗi lối tư duy đều có điểm mạnh điểm yếu. Nhưng lối tư duy
tổng thể khái niệm đặt trước, đôi lúc có thể đạt hiệu quả tập trung cực mạnh.
Ví dụ, hồi thế kỷ 13, nếu bạn trông thấy trên cánh tay một thanh niên có
chữ “Sát Thát”, thì chắc chắn bạn biết ngay đó là một chiến binh sẵn sàng
hy sinh “vợ đẹp, con khôn, giọng hát hay, bầu rượu béo” quyết tâm đánh
giặc Nguyên Mông. Hoặc hồi thế kỷ 20, đang đi trong rừng Trường Sơn mà
gặp một cánh mũ “tai bèo” bạn cũng nghĩ như vậy. Mở rộng ra, cách nói,
cách sử dụng ngôn ngữ theo kiểu “danh từ lên trước” là cách tư duy
theo biểu tượng. Dân Việt Nam rất giỏi tư duy theo biểu tượng, bởi vì ngàn
đời nay khi nói chúng ta đều đặt danh từ lên trước tính từ. Đó là di sản quý
báu nhất của tổ tiên Lạc Hồng. Nếu xem ngôn ngữ là một cách sinh hoạt văn
hoá, thì lối sinh hoạt văn hoá “danh từ trước tính từ” là một đặc điểm văn
hoá qui báu nhất của dân tộc Việt nam. Tất nhiên, một số dân tộc khác cũng
có lối sinh hoạt ấy. Ví dụ Thái Lan, Inđonesia, Ấn độ, nhưng thực tế các
ngôn ngữ ấy đã biến thể theo các ngôn ngữ Á Âu khác đến 80% rồi. Có lẽ
chỉ còn duy nhất dân Việt Nam là giữ được lối nói thuần Việt theo phong
cách danh từ trước, tính từ sau. Mặc dù chúng ta du nhập nhiều từ tiếng Hán,
tiếng Pháp, tiếng Anh,… nhưng khi vào tiếng Việt các danh từ ấy vẫn phải
tuân theo qui tắc ngữ pháp Việt nam.
Ngày nay, để phát huy di sản này chúng ta cần có biểu tượng cho mỗi công
ty, xí nghiệp, mỗi trường học, mỗi tỉnh thành. Ví dụ, cán bộ và chiến sỹ
công ty Viễn Thông quân đội Viettel có câu “Viettel, hãy nói theo cách của
bạn”. Đó là một biểu tượng ngôn ngữ. Biểu tượng này, gắn liền với logo hai
cánh cung đỏ xanh nằm ngang đã tạo nên sức mạnh hành động chung của
Viettel. Sức mạnh ngôn ngữ (hay đúng hơn sức mạnh văn hoá) ấy đã biến
Viêttel từ một công ty điện thoại nhỏ thành một tập đoàn viễn thông hùng
mạnh trong vài ba năm.
Hiện nay, nhiệm vụ chính của nhân dân ta là chung sức xây dựng một xã hội
phồn vinh và công bằng. Cần phải tạo ra biểu tượng ngôn ngữ, hay tạo ra
khái niệm và danh từ cho công cuộc ấy. Sao cho mỗi khi nói ra mọi người
cùng hiểu rõ, hiểu đúng toàn bộ nội dung của quá trình hành động chung.
Biểu tượng ngôn ngữ ấy sẽ chảy trong huyết mạch Lạc Hồng và chẳng mấy
dân ta, nước ta sẽ tiến lên đài vinh quang, dám sánh vai với bạn bè năm
châu.
Theo Thu San Nguyễn Thế Hùng

