Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NGƯỜI NÔNG DÂN HIỆN NAY<br />
TRONG MỐI QUAN HỆ NHÀ NƯỚC, HỢP TÁC XÃ VÀ GIA ĐÌNH<br />
<br />
MAI KIM CHÂU<br />
<br />
<br />
<br />
Quá trình hợp tác hóa ở nước ta cũng là quá trình biến động mạnh mẽ và căn bản trong toàn bộ cơ<br />
cấu xã hội nông thôn.<br />
Từ sau Hiệp định Giơnevơ, phong trào hợp tác hóa ở nông thôn miền Bắc Việt Nam đã từng bước<br />
gạt bỏ giai cấp địa chủ, các tầng lớp cường hào, phú nông và những thành phần bóc lột khác. Việc chia<br />
lại ruộng đất đã khiến cho người nông dân nghèo khổ không có hoặc có ít ruộng trở thành người tư<br />
hữu nhỏ về ruộng đất. Họ đem hết nhiệt tình và khả năng lao động của bản thân và gia đình tập trung<br />
cho sản xuất, vừa làm nghĩa vụ đóng góp xây dựng Tổ quốc, vừa nâng cao đời sống gia đình. Trên cơ<br />
sở đó, với lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, người nông dân đã hăng hái đi vào hợp<br />
tác hóa với tinh thần tự nguyện và giác ngộ cách mạng cao.<br />
Dưới tác động trực tiếp của ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa<br />
học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa), quá trình xây dựng hợp tác xã ở nông thôn đã dần dần<br />
làm biến đổi giai cấp nông dân. Số người lao động cá thể ngày một thu nhỏ, thành phần giai cấp xã hội<br />
lần đầu tiên xuất hiện ở nông thôn Việt Nam là giai cấp nông dân tập thể đã giữ vai trò chủ đạo trong<br />
toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn. Trong nội bộ giai cấp nông dàn tầng lớp<br />
bên cạnh những người làm công việc trồng trọt, chăn nuôi, đã xuất hiện những tầng lớp người làm thợ<br />
cơ khí, điều khiển máy móc, các ngành nghề hỗ trợ cho nông nghiệp và đặc biệt đông đảo là những<br />
người làm nghề thủ công kiêm làm nông nghiệp hoặc làm nông nghiệp kiêm thợ thủ công.<br />
Trong hệ thống tổ chức lãnh đạo chính trị, quản lý kinh tế và văn hóa, xã hội, các thành phần xã hội<br />
mới đã được tạo ra ở nông thôn. Đó là tầng lớp các cán bộ làm công tác lãnh đạo thuộc hệ thống tổ<br />
chức của Đảng, của chính quyền, đoàn thể và các cán bộ lãnh đạo kinh tế từ ban quản trị hợp tác xã tới<br />
các đội sản xuất, các ban, ngành chuyên môn. Sự phát triển về văn hóa, giáo dục đã đổi mới bộ mặt<br />
nông thôn và cũng từ đó tạo ra trong cơ cấu xã hội những thành phần xã hội mới như giáo viên, cán bộ<br />
y tế, cán bộ văn hóa, xã hội, v.v...<br />
Sự xuất hiện cơ cấu xã hội hoàn toàn mới ở nông thôn đã hiện ra cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự<br />
biến động từ thành phần xã hội này sang thành phần xã hội khác luôn luôn diễn ra cùng với những biến<br />
động và phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước nói chung và nông thôn nói riêng. Tình<br />
hình đó đòi hỏi xã hội học cần đi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
22 MAI KIM CHÂU<br />
<br />
<br />
sâu nghiên cứu để phát hiện ra những đặc điểm cụ thể của các tầng lớp giai cấp xã hội và nêu lên<br />
những thuận lợi, khó khăn của xu hướng thống nhất về chính trị, tư tưởng và tinh thần trong nông thôn<br />
trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.<br />
Bài nghiên cứu này của chúng tôi không đề cập tới toàn bộ cơ cấu xã hội nông thôn, mà chỉ nhằm<br />
vào một số đặc điểm của người nông dân Việt Nam đang biến đổi và đi lên trong mối quan hệ giữa ba<br />
cơ chế cơ bản ở nông thôn là Nhà nước, hợp tác xã và gia đình xã viên.<br />
1. Gia đình, hợp tác xã và Nhà nước: các thực thể kinh tế - xã hội ở nông thôn.<br />
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những thay đổi cực kỳ to lớn trên tất cả các lĩnh vực<br />
của đời sống kinh tế, xã hội. Quan hệ sản xuất cũ đã từng bước bị gạt bỏ. Quan hệ sản xuất mới dựa<br />
trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất do được hình thành và phát triển.<br />
Ở nông thôn, quan hệ sản xuất mới ra đời đánh dấu bằng sự xuất hiện của các tổ chức hợp tác xã.<br />
Hợp tác xã trước hết là một thực thể kinh tế, và thực tế cũng là một thực thể xã hội. Hợp tác xã là cầu<br />
nối giữa gia đình xã viên bởi Nhà nước. Nó đại diện cho cả hai thực thể kinh tế - xã hội này. Nhà nước,<br />
hợp tác xã và gia đình là ba tác nhân chính của những thay đổi ở nông thôn hiện nay, trước hết là thay<br />
đổi về đời sống kinh tế và sau đó là những biến đổi trên các lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hóa, tư<br />
tưởng.<br />
Tuy vậy, sự hiện diện và hoạt động của ba thực thể kinh tế - xã hội này có khác nhau.<br />
Trong hệ thống tổ chức gia đình, về cơ bản có chức năng tổ chức lao động, sản xuất trên phân công<br />
việc được nhận khoán và trên phần kinh tế gia đình, đồng thời là nơi tổ chức cuộc sống hàng ngày cho<br />
mỗi cá nhân. Gia đình cũng là nơi tổ chức thực hiện các nghĩa vụ của các thành viên đối với tập thể và<br />
nhà nước.<br />
Hợp tác xã với tư cách là thiết chế xã hội mới, vừa có tính chất độc lập vừa có tính chất phụ thuộc.<br />
Tính độc lập của hợp tác xã thể hiện ở chỗ nó là cơ quan ra các quyết định trong phạm vi hoạt động<br />
kinh tế, xã hội ở địa phương, đồng thời tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của bản thân nó. Tính phụ<br />
thuộc của hợp tác xã biểu hiện ở chỗ nó vừa là nơi cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và<br />
Nhà nước tại địa phương, vừa là cơ quan chịu trách nhiệm huy động đóng góp nghĩa vụ của địa<br />
phương đối với Nhà nước.<br />
Khác với những kiểu Nhà nước trước đây, Nhà nước ta hiện nay thực sự là người trực tiếp tham gia<br />
vào hoạt động kinh tế. Hiện diện của Nhà nước trong tổ chức lao động sản xuất ở các cơ sở trước hết<br />
thể hiện ở chủ trương, đường lối nhằm phát triển kinh tế nông thôn. Nhà nước còn là người trực tiếp<br />
tiến hành tổ chức hoạt động kinh tế thông qua hoạt động của các hợp tác xã. Như vậy, dưới góc độ nào<br />
đó, hợp tác xã và Nhà nước vừa trùng hợp làm một, vừa là hai thực thể kinh tế - xã hội ở hai cấp độ<br />
khác nhau.<br />
Vậy sự hoạt động của các thực thể kinh tế - xã hội này như thế nào, và những mỗi quan hệ giữa<br />
chúng ra sao? Đó là vấn đề chúng tôi muốn đề cập ở đây.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Người nông dân hiện nay… 23<br />
<br />
<br />
2. Sự phát triển kinh tế ở nông thôn và quan hệ giữa Nhà nước - hợp tác xã - gia đình.<br />
Sau giai đoạn tổ chức các tổ đổi công, các hợp tác xã dần dần được thành lập. Từ chỗ hợp tác xã<br />
có quy mô nhỏ này đã tiến lên quy mô lớn với cơ cấu ngành nghề đa dạng. Ngoài số người hoạt động<br />
trong sản xuất nông nghiệp, số người làm các ngành nghề cũng đã dần dần tăng lên.<br />
Trong sản xuất nông nghiệp, các hợp tác xã đã tập trung thâm canh và chuyên canh. Việc áp dụng<br />
những tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, liên tục sử dụng những loại giống mới, cải tạo hệ<br />
thống kênh mương, trang bị nhiều công cụ cải tiến, v.v..., đã làm cho năng suất lúa tăng lên không<br />
ngừng. Từ chỗ đạt 5 tấn/ha trong chiến tranh chống Mỹ phá hoại, đến nay nhiều hợp tác xã đã đạt tới<br />
10 - 11 tấn/ha. Thu hoạch trong việc trồng cấy các loại cây vụ đông, các ngành nghề khác đã đem lại<br />
nguồn thu lớn cho hợp tác xã. Chính vì những điều đó mà quỹ tích lũy của hợp tác xã tăng lên và đời<br />
sống của các gia đình xã viên cũng từng bước được cải thiện.<br />
Song, nếu xét trên tổng thể nền kinh tế của các địa phương, tỷ trọng lao động trong sản xuất nông<br />
nghiệp vẫn chiếm con số gần như tuyệt đối. Dù có làm ngành nghề, 90% dân cư vẫn làm ruộng là<br />
chính. Tỷ trọng thu về từ sản xuất ngành nghề, kể cả ngành nghề phụ của nông nghiệp như dệt chiếu,<br />
xe đay, đan lát, thêu ren, mành trúc v.v... cũng chỉ chiếm tới 1/10 đến 2/10 hoặc 3/10 tổng giá trị thu<br />
nhập, cá biệt lắm mới có nơi đạt 50-80%. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện của dân số ngày càng tăng,<br />
dù chỉ tăng tự nhiên với tốc độ 2% thì có cố gắng để vượt qua con số 11 tấn/ha cũng vẫn khó khăn<br />
trong việc giải quyết công ăn việc làm cho số lao động được bổ sung và nuôi thêm số người vừa sinh<br />
ra mỗi năm. Nếu tính đến năm 1990 phải đạt tới mức năng suất 15 tấn/ha (một con số gần như khó có<br />
thể đạt tới với điều kiện lao động hiện tại) thì mới đạt tới gần 400 kg lương thực/đầu người mỗi năm<br />
như ở một số hợp tác xã tiên tiến hiện nay. Như vậy, vấn đề cơ bản không phải chỉ là làm sao đạt tới<br />
năng suất lúa ngày càng cao, mặc dù đây là yếu tố quan trọng của nền nông nghiệp nước ta, mà là phân<br />
bố lao động trong nội bộ nền nông nghiệp. Nghĩa là phải tạo ra nhiều ngành nghề khác nhất là ngành<br />
thủ công sử dụng thế mạnh của các địa phương, chuyển một phần lao động thừa của sản xuất nông<br />
nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp và qua đó làm cho tỷ trọng thu nhập của các ngành nghề<br />
tăng lên trong tổng thu nhập của hợp tác xã. Đây chính là xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta<br />
nói chung và nền nông nghiệp nói riêng. Điều này được các cấp lãnh đạo ở nhiều địa phương cũng như<br />
hợp tác xã nông nghiệp nhận thấy, đồng thời cũng là ý kiến của bà con nông dân khi họ đề nghị với<br />
chính quyền địa phương. Nhưng trong thực tế có nhiều lý do đã hạn chế việc mở rộng ngành nghề,<br />
chuyển một phần lao động nông nghiệp sang lao động thủ công nghiệp. Chẳng hạn, đã có năm, hợp tác<br />
xã Hải Thanh (Hải Hậu, Hà Nam Ninh) tổ chức trồng cây vụ đông như tỏi và cà chua xuất khẩu, nhưng<br />
các cơ quan hữu quan không thu mua và vận chuyển kịp thời, làm cho sản phẩm đó bị hủy hoại và cây<br />
vụ đông không được chú trọng canh tác như trước nữa. Cũng tại Hải Thanh, làm mây song là một nghề<br />
cổ truyền của địa phương, nhưng hiện nay gần như đã bị vứt bỏ hoàn toàn, lý do là các mặt hàng sản<br />
xuất ra không có nơi tiêu thụ, hoặc là những vật tư cần thiết, kể cả tiền bán sản phẩm cũng không kịp<br />
thời thu về để tái sản xuất, từ đó không những hợp tác xã không có tiền vốn để quay vòng mà bà con<br />
xã viên cũng không đủ sinh sống để tiếp tục hành nghề. Vì vậy, một trong những vấn đề cơ bản để thúc<br />
đẩy<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
24 MAI KIM CHÂU<br />
<br />
<br />
sản xuất phát triển ở nông thôn là cần phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ Nhà nước và các cơ sở sản<br />
xuất, cụ thể là các cơ quan chức năng từ huyện trở lên với các cơ sở sản xuất, cụ thể là hợp tác xã và<br />
gia đình xã viên.<br />
Sản xuất nông nghiệp đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng, là mặt trận hàng đầu và<br />
nóng bỏng nhất hiện nay. Với Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 6 và lần thứ 8, những gò bó,<br />
kìm hãm sự phát triển kinh tế của nông thôn đã được từng bước tháo gỡ, tạo điều kiện cho các cơ sở<br />
phát huy quyền chủ động của mình trong việc định ra các kế hoạch và tổ chức sản xuất; nhưng trong<br />
thực tế mối quan hệ giữa cơ sở và các ngành chưa được giải quyết một cách đúng đắn. Như mọi người<br />
đã thấy, những hợp đồng kinh tế hai chiều chưa được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, nhất là về phía<br />
Nhà nước.. Hiện nay, Nhà nước vốn chưa đảm bảo trong hợp đồng của mình đáp ứng những nhu cầu<br />
của sản xuất nông nghiệp đủ về số lượng, đúng chủng loại, vào những thời gian và không gian cụ thể.<br />
Thường khi các hợp tác xã nông nghiệp cần vật tư thì Nhà nước không có, hoặc có nhưng về chậm,<br />
hoặc rất phiền phức trong giao nhận. Do đó, khi đồng lúa bị úng, hạn thì không có điện hoặc dầu để<br />
chạy máy bơm, khi cần thuốc trừ sâu thì không có xuất, hoặc khi đồng ruộng cần phân đạm để bón<br />
thúc thì tới khi lúa gần gặt mới được đưa về.<br />
Tất cả những khó khăn nói trên đã làm cho các hợp tác xã nông nghiệp và các gia đình xã viên<br />
không những không thể đảm bảo cho ruộng đồng của mình đạt năng suất cao, mà đôi khi còn tạo ra<br />
cho họ những thiệt hại nhất định. Trong khi đó, các chỉ tiêu về thuế má, nghĩa vụ đóng góp của các gia<br />
đình xã viên và hợp tác xã đều phải nộp đủ.<br />
Hiện nay, Chỉ thị 100 của Ban Chấp hành Trung ương đã được chấp hành đều khắp ở các nông<br />
thôn. Song, ở một số nơi, tinh thần của chỉ thị này chưa được quán triệt một cách đầy đủ. Đã có tình<br />
trạng khoán trắng toàn bộ quá trình thâm canh cây lúa cho người nông dân. Về mặt tư tưởng, các cấp<br />
lãnh đạo của tác hợp tác xã đều hiểu rõ rằng hợp tác xã chịu trách nhiệm chính tổ chức và điều hành 5<br />
khâu quản, còn 3 khâu khoán được giao cho các gia đình xã viên đảm nhiệm. Trên thực tế, ở nhiều nơi,<br />
hầu như toàn bộ các khâu khoán đều do các gia đình xã viên tự chăm lo lấy, trừ khâu tổ chức bảo vệ<br />
thực vật, phun thuốc trừ sâu. Thí dụ ở khâu làm đất, việc cày bừa các ruộng khoán đều được phân cho<br />
các đội chuyên, hoặc thuê cày máy, nhưng các công việc làm đất đều không đảm bảo cho việc gieo cấy<br />
có thể thực hiện được, nên các gia đình xã viên phải mất khá nhiều công sức để cuốc xới lại. Trong<br />
khâu chăm bón, các gia đình xã viên thường đầu tư thêm từ 5 đến 10 kg đạm/sào, có nơi còn lên tới 13<br />
đến 15 kg. Còn khâu giống thì hầu như nhiều nơi gia đình xã viên tự lo liệu. Vai trò của các hợp tác xã<br />
và các đội sản xuất chỉ được biểu hiện một cách gián tiếp. Từ đó, các gia đình xã viên chỉ lo làm sao<br />
bảo đảm mảnh ruộng khoán của mình đạt năng suất cao. Một số gia đình đã trả một phần ruộng khoán<br />
cho hợp tác xã với mục đích để đầu tư khả năng tiền vốn và sức lao động của mình nhiều hơn cho phần<br />
ruộng khoán của mình. Các gia đình xã viên tận dụng mọi khả năng nhân lực và tiền vốn cho sản xuất<br />
nông nghiệp, trên cơ sở đó tổng sản phẩm nông nghiệp được tăng lên. Đây chính là thế mạnh và là ưu<br />
điểm nổi nhất của chính sách khoán mà mọi người đều thừa nhận. Nhưng làm sao giải quyết đúng đắn<br />
giữa quyền lợi của xã viên với quỹ tích lũy của hợp tác xã và đóng góp cho Nhà nước là vấn đề đang<br />
đòi hỏi cần được giải quyết một cách thỏa đáng. Chẳng hạn thu nhập của các gia đình xã viên được<br />
nâng lên vì vừa được phân phối theo công điểm trên ruộng khoán, phần khác vừa được thu về số thóc<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Người nông dân hiện nay… 25<br />
<br />
<br />
vượt khoán, nhưng tổng số thóc còn lại dành cho hợp tác xã thì không thay đổi, ngược lại bị giảm đi<br />
khi những đòi hỏi đóng góp của Nhà nước tăng lên. Từ đó, quỹ tích lũy để phát triển sản xuất cũng<br />
như quỹ phúc lợi dành cho phát triển các hoạt động văn hóa, xã hội và xây dựng các công trình công<br />
cộng cũng bị hạn chế.<br />
Nhưng điều quan trọng hơn là tinh thần làm chủ tập thể của bà con xã viên có phần nào giảm sút.<br />
Do tư tưởng tư hữu của người nông dân sinh ra từ nền sản xuất nhỏ trước đây, trong tình hình giao<br />
khoán ruộng đất cho các gia đình xã viên, tư tưởng đó lại có điều kiện nảy nở. Ở nơi nào các khâu<br />
quản không được đảm bảo thì vai trò của hợp tác xã bị lu mờ, và ở nơi đó hợp tác xã chỉ tồn tại về mặt<br />
hình thức.<br />
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể nói rằng việc hợp tác xã phải đảm bảo tốt khâu quản<br />
là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.<br />
Điều này đòi hỏi các cấp lãnh đạo ở địa phương phải quán triệt một cách đầy đủ. Chỉ thị 100 của Ban<br />
Chấp hành Trung ương. Song, điều đó: không được thực hiện tốt nếu các cơ quan của Nhà nước có<br />
liên quan đến chương trình sản xuất nông nghiệp không thực hiện tốt vai trò của mình. Cụ thể là phải<br />
đảm bảo cung cấp các vật tư, công cụ cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời thực hiện mua bán và trao<br />
đổi một cách công bằng và hợp lý đối với hợp tác xã nông nghiệp và bà con nông dân. Qua đó, các hợp<br />
tác xã có thể đảm đương và hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình là người tổ chức và quản lý lao<br />
động sản xuất ở nông thôn, từng bước đưa nền kinh tế gia đình phụ thuộc và hỗ trợ đắc lực cho kinh tế<br />
tập thể.<br />
3. Tình hình đới sống kinh tế, văn hóa tinh thần của bà con nông dân. Trách nhiệm của Nhà<br />
nước và cơ sở.<br />
Từ khi có chính sách khoán sản phẩm, đời sống kinh tế của bà con nông dân đã dần dần được nâng<br />
cao. Số gia đình có mức sống khá ngày một nhiều. Thông qua quan sát thực tế, chúng ta thấy số nhà<br />
mới được xây dựng trong những năm gần đây phát triển mạnh ở nông thôn. Chính sách “ngói hóa”<br />
không còn chỉ là chủ trương, mà đang dần dần biến thành hiện thực. Nguồn làm giàu cho đại đa số<br />
nông dân phần lớn bắt nguồn từ thu nhập chính là chăn nuôi và làm ruộng khoán. Số gia đình xã viên<br />
hụt khoán phải bù chiếm tỷ lệ không đáng kể.<br />
Tuy nhiên, đang có những hiện tượng phân hóa ở nông thôn. Có nhiều gia đình giàu lên, nhưng<br />
cũng có nhiều gia đình chỉ đảm bảo mức sống bình thường. Số liệu điều tra cho thấy số gia đình phải<br />
vay, hoặc để sản xuất, hoặc để ăn hay giỗ chạp, ma chay, cưới xin... (số này chiếm phần đông) là 70%<br />
số gia đình được nghiên cứu. Theo số liệu thống kê trung bình thì trong tổng số các gia đình của nhiều<br />
xã có khoảng 20% khá giả, 60% đủ ăn và có tới gần 20% gia đình còn lại là thiếu ăn. Lý do chủ yếu<br />
của các gia đình phải vay nhiều là do họ không có đủ vốn liếng đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, phần<br />
đông là những gia đình neo đơn, thiếu lao động và các gia đình thuộc diện chính sách xã hội. Để trang<br />
trải cho đời sống, cho việc học hành của con em, chi phí ốm đau và nhiều công việc cần thiết khác, các<br />
gia đình này phải vay mượn của các gia đình khá giả, lãi suất thường là 15%, có khi lên tới 20%. Có<br />
nhiều gia đình phải vay ăn và trả lúa non khi vụ gặt chưa tới. Đây là một hiện tượng có ý nghĩa giai<br />
cấp sâu sắc, nếu các cấp lãnh đạo địa phương và Nhà nước không có biện pháp giải quyết một cách<br />
đúng đắn thì hậu quả kinh tế - xã hội sẽ ngày càng trở nên nghiêm trọng.<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
26 MAI KIM CHÂU<br />
<br />
<br />
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đời<br />
sống văn hóa tinh thần của bà con nông dân cũng không ngừng phát triển. Nhiều địa phương đã đầu tư<br />
một phần rất lớn của cải vật chất cho xây dựng trường học, bệnh xá, hệ thống loa truyền thanh, v.v…<br />
Sinh hoạt văn hóa, văn nghệ được tổ chức khá thường xuyên. Do vậy tất cả con em nông dân đến tuổi<br />
đều được đi học. Bình quân trình độ học vấn của nông dân là cấp II. Những người bệnh tật, ốm đau<br />
được chăm sóc chu đáo. Trung bình mỗi người dân nông thôn Bác Bộ được đi xem các loại hình văn<br />
hóa văn nghệ từ 2 đến 3 lần/năm. Ở một số địa phương, hệ thống điện thắp sáng, phục vụ sản xuất và<br />
đời sống đã được đưa tới tận các gia đình.<br />
Tuy vậy, trong khi nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của bà con nông dân ngày một tăng, khả<br />
năng của các địa phương chưa đáp ứng được bao nhiêu. Tình hình đó dẫn đến kết qủa là những sinh<br />
hoạt văn hoá cộng đồng, vốn có nguồn gốc sâu xa từ xã hội cũ bắt đầu tái hiện. Điều này biểu hiện ở<br />
chỗ các hủ tục, lễ nghi lạc hậu đang dần dần trở thành phổ biến. Cưới xin, ma chay linh đình, tốn kém,<br />
hội hè đình đám liên miên, các sinh hoạt có tính chất dòng họ, dòng tộc trở nên sôi nổi qua việc cúng<br />
giỗ, tìm gia phả, xây dựng từ đường,v.v... Tình trạng này sẽ dẫn đến một loạt hậu quả ảnh hưởng đến<br />
sản xuất, và mặt khác quan trọng hơn là đời sống văn hóa, văn minh ở nông thôn sẽ từng bước đi<br />
xuống, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, những mô hình con người mới sẽ mất dần cơ sở tồn tại và phát triển.<br />
Vì vậy, các cơ sở sản xuất, các địa phương, bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống vật chất của<br />
người nông dân, cần chú trọng cải thiện đời sống tinh thần của họ. Đồng thời, Nhà nước, thông qua hệ<br />
thống tổ chức của mình, cần chú trọng nhiều tới phát triển đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn,<br />
giúp đỡ các cơ sở thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình.<br />
4. Bộ máy quản lý và lãnh đạo của địa phương: vấn đề đặt ra.<br />
Kiện toàn bộ máy tổ chức và quản lý lãnh đạo ở cơ sở là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho các chủ<br />
trương, chính sách của Đảng được thực hiện tốt.<br />
Trước khi thực hiện chính sách khoán sản phẩm, do chưa phát huy tốt quyền làm chủ của người lao<br />
động, đội ngũ lãnh đạo ở nhiều nơi, một phần do chưa đủ trình độ quản lý, phần khác chăm lo cho hợp<br />
tác xã ít hơn chăm lo đến đời sống gia đình mình, trong khi đó lại tổ chức chè chén linh đình, phân<br />
phối không công bằng, hợp lý... đã làm cho bà con xã viên không gắn bó với hợp tác xã. Bộ máy lãnh<br />
đạo của nhiều hợp tác xã không được kiện toàn, năng suất lao động đã tụt xuống mức rất thấp. Bà con<br />
nông dân chán nản, một số khác bỏ ruộng đồng đi làm những ngành nghề khác hoặc buôn bán để kiếm<br />
sống. Từ khi áp dụng chính sách khoán, quan hệ giữa đội ngũ lãnh đạo và bà con xã viên đã được giải<br />
quyết. Lao động được bù đắp thỏa đáng, bà con nông dân phấn khởi làm việc, sản xuất đã dần dần phát<br />
triển.<br />
Tuy nhiên, trong số những ý kiến đề nghị với chính quyền địa phương ở nhiều nơi, một trong<br />
những vấn đề được bà con nông dân chú trọng nhất là cần kiện toàn và nâng cao năng lực của bộ máy<br />
lãnh đạo hợp tác xã. Điều này nói lên vai trò lãnh đạo của các cấp ở địa phương, nhất là ban quản trị<br />
của một số hợp tác xã, còn phần nào bị hạn chế. Lấy xã Hải Thanh (Hải Hậu) làm ví dụ. Các ý kiến<br />
của bà con đều thừa nhận rằng đội ngũ cán bộ lãnh đạo hợp tác xã đã chú trọng một cách đúng mức<br />
đến mục tiêu phấn đấu và nâng cao năng suất của sản xuất nông nghiệp, nhưng trong<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
Người nông dân hiện nay… 27<br />
<br />
<br />
lãnh đạo cụ thể thì vai trò của ban quản trị chưa được thực hiện tốt. Cụ thể là có tới gần 50% số ý kiến<br />
đề nghị ban quản trị hợp tác xã cần thực hiện tốt các khâu quản trong qúa trình thâm canh lúa. Sở dĩ<br />
như vậy vì một phần hợp tác xã chưa có đủ điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện tốt các khâu quản.<br />
Chẳng hạn, khâu làm đất chưa được bảo đảm một cách hoàn chỉnh, khâu làm giống, phân bón còn phó<br />
thác cho các gia đình xã viên, đôi khi cả khâu bảo vệ thực vật, phun thuốc trừ sâu, các gia đình cũng tự<br />
lo liệu. Không phải ban quản trị hợp tác xã không nhận thấy điều này, mà do trong quá trình thực hiện,<br />
hợp tác xã còn vướng mắc ở các khâu liên quan đến các cơ quan Nhà nước, chẳng hạn số trâu cày của<br />
hợp tác xã không đủ, hợp tác xã phải thuê máy cày để làm đất đảm bảo khoảng 60% diện tích, nhưng<br />
việc làm đất bằng máy thường là chậm. Còn các khâu khác thuộc vào các hợp đồng kinh tế hai chiều<br />
như phân đạm, thuốc trừ sâu, xăng dầu cho máy bơm, Nhà nước cung cấp cũng không bảo đảm, hợp<br />
tác xã phải tự lo liệu, nhất là khi thời vụ bận rộn.<br />
Trong số ý kiến đề nghị của bà con nông dân, một số người đã đề cập đến việc các cấp lãnh đạo ở<br />
địa phương phải phát huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể của người nông dân (11% số ý kiến). Bà con<br />
đòi hỏi phải có thái độ dứt khoát, xử lý nghiêm minh một số cá nhân có khuyết điểm tham ô, việc<br />
thanh toán ăn chia phải rõ ràng, quy định trao đổi, nhất là đổi phân đạm, lợn, phải đúng mức, v.v... Số<br />
ý kiến đề nghị lãnh đạo địa phương quán triệt hơn nữa đường lối, chính sách của các cấp trên (cũng<br />
tương đối cao 11%). Thí dụ, về chính sách hậu phương quân đội, địa phương cần thực hiện các chế độ<br />
trợ cấp hoặc thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình bộ<br />
đội đang ở phía trước. Mặt khác, cần phải giải quyết đúng đắn việc phân phối sản phẩm trong mối<br />
tương quan giữa cán bộ lãnh đạo và người lao động trực tiếp (10% ý kiến đề nghị). Cụ thể là địa<br />
phương cần giải quyết một cách hợp lý số công điểm cho các cấp cán bộ lãnh đạo hợp tác xã, không để<br />
hiện tượng chênh lệch quá nhiều giữa cán bộ không sản xuất trực tiếp và bà con xã viên. Đồng thời cần<br />
hạn chế nạn chè chén linh đình hoặc trích quỹ của hợp tác xã cho các cuộc hội họp quá nhiều. Hiện<br />
tượng này ở nhiều nơi không nặng nề, song những đề nghị của bà con đối với việc kiện toàn bộ máy tổ<br />
chức lãnh đạo ở địa phương, đặc biệt ở các cấp lãnh đạo tại một số hợp tác xã, cần được quan tâm giải<br />
quyết. Có như vậy mới phát huy được quyền làm chủ tập thể của bà con xã viên, khuyến khích và động<br />
viên sản xuất, làm cho hợp tác xã ngày càng trở nên vững mạnh.<br />
5. Xu hướng tất yếu thay đổi chức năng kinh tế của gia đình và hoạt động hợp tác xã, Nhà<br />
nước.<br />
Những phân tích bước đầu về mối quan hệ giữa gia đình, hợp tác xã và Nhà nước trên lĩnh vực<br />
kinh tế cho ta thấy các yếu tố của gia đình truyền thống đang mất đi những yếu tố của gia đình hiện đại<br />
chưa hoàn toàn xuất hiện. Mặc dù gia đình nông thôn hiện nay vẫn còn mang tính chất là đơn vị sản<br />
xuất, nhưng không hoàn toàn có ý nghĩa là một đơn vị kinh tế tự túc tự cấp như trước đây. Nếu trong<br />
xã hội cũ, gia đình là đon vị sản xuất cơ bản của xã hội thì nay nó chỉ là một trong các thực thể kinh tế<br />
- xã hội ở nông thôn: gia đình, hợp tác xã và Nhà nước. Chức năng sản xuất của gia đình được duy trì<br />
với mục đích hỗ trợ cho phát triển kinh tế tập thể. Sản xuất của gia đình không chỉ để tự cấp mà được<br />
dùng chủ yếu cho trao đổi, phục vụ những nhu cầu ngày càng cao của người nông dân. Phát triển kinh<br />
tế tập thể thông qua tổ<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
28 MAI KIM CHÂU<br />
<br />
<br />
chức lao động sản xuất và từng bước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nông dân sẽ là cơ sở vật chất quan<br />
trọng gắn bó người nông dân với tập thể và xã hội. Đó là điều kiện khách quan hạn chế sự tái hiện<br />
những truyền thống lạc hậu, tiêu cực của gia đình và xã hội trước đây, tạo điều kiện cho chế độ mới,<br />
con người mới, nền văn hóa mới tồn tại và phát triển.<br />
Nghiên cứu mối quan hệ gia đình, hợp tác xã và Nhà nước, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng sự<br />
biến đổi của nông thôn hiện nay được thể hiện ở chỗ gia đình và tập thể cùng hoạt động xung quanh<br />
hoạt động lao động sản xuất và cùng góp phần đáp ứng những nhu cầu của các thành viên xã hội. Sự<br />
biến đổi ấy đang vận động theo xu hướng kinh tế tập thể ngày một lớn, chiếm vai trò chủ yếu trong sản<br />
xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Sự vận động đó đã và đang phá vỡ tính chất khép kín của cộng đồng<br />
làng xã cổ truyền và tạo ra một hình thái nông thôn mở về kinh tế và xã hội trong quá trình liên tục,<br />
không đứt đoạn từ sự biến đổi của nông thôn cũ sang sự phát triển của nông thôn mới.<br />
Đó là đặc điểm của sự biến đổi kinh tế - xã hội nông thôn trong thời kỳ quá độ hiện nay và là bước<br />
đi tất yếu trên con đường đưa nông thôn tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.<br />
Để đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở nông thôn, cần phải thực hiện<br />
đồng bộ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong điều kiện cụ thể của các địa phương.<br />
Thứ nhất: phải có đội ngũ lãnh đạo mạnh mẽ về tổ chức, có năng lực và có phẩm chất cao đẹp.<br />
Trên cơ sở đó, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không những sẽ được quán triệt mà<br />
còn được vận dụng một cách sáng tạo ở địa phương. Với đội ngũ cán bộ lãnh đạo như vậy, các mục<br />
tiêu phát triển kinh tế - xã hội sẽ được nâng cao và các biện pháp thực hiện sẽ được đẩy mạnh.<br />
Thứ hai: Quyền làm chủ tập thể của nhân dân phải được tôn trọng và phát huy. Quyền làm chủ tập<br />
thể này đã được xây dựng qua nhiều năm cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thực tế chứng minh<br />
rằng nơi nào quyền làm chủ tập thể của nhân dân được đảm bảo thì ở đó những nhiệm vụ kinh tế - xã<br />
hội được thực hiện tốt. Còn ở nơi nào quyền làm chủ tập thể của nhân dân không được tôn trọng thì ở<br />
đó sản xuất không phát triên, đời sống kinh tế - xã hội bị giảm sút, các chỉ tiêu kế hoạch về sản xuất<br />
không hoàn thành, các cơ sở vật chất của hợp tác xã bị sói mòn và người nông dân sẽ không gắn bó với<br />
làm ăn tập thể.<br />
Thứ ba: Trong điều kiện hiện nay, nông thôn đã phá vỡ sự khép kín của mình, sản xuất đã mang<br />
tính chất xã hội hóa cao, đòi hỏi mối quan hệ giữa các cơ sở sản xuất với nhau, nhất là giữa gia đình,<br />
hợp tác xã và Nhà nước, phải được giải quyết một cách đúng mức. Phá bỏ sự quan niệm bao cấp, tạo<br />
điều kiện phát huy quyền làm chủ của cơ sở trong các hoạt động kinh tế - xã hội là một chủ trương<br />
đúng đắn. Do đó, việc các cơ sở sản xuất phải tự vươn lên để giải quyết những khó khăn, tháo gỡ<br />
những vướng mắc là điều quan trọng. Song Nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho các cơ sở hoàn thành<br />
kế hoạch là điều kiện cực kỳ bức thiết. Với sự hỗ trợ của Nhà nước, nhất là các cơ quan Nhà nước phải<br />
đảm bảo thực hiện nghiêm túc các hợp đồng kinh tế hai chiều, cung cấp đúng, đầy đủ và kịp thời các<br />
vật tư cho sản xuất, không những sẽ giúp cho cơ sở hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của<br />
mình mà còn tạo điều kiện thuận lợi đóng góp các nghĩa vụ với Nhà nước. Các cơ sở gắn bó giữa tập<br />
thể với Nhà<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1986<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người nông dân hiện nay… 29<br />
<br />
<br />
nước, giữa địa phương với trung ương và giữa nhân dân với chế độ sẽ được đảm bảo vững chắc.<br />
Thứ tư: Cần chú ý chăm lo tới đời sống vật chất và tinh thần của bà con nông dân. Nông dân rất<br />
gắn bó với Đảng, Nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Họ luôn luôn sẵn sàng thực hiện tốt các nhiệm vụ của<br />
người công dân trên tất cả các lĩnh vực. Chăm lo sức dân sẽ là cơ sở vững chắc đảm bảo cho sự nghiệp<br />
xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Vì vậy, các cơ quan Đảng, Nhà nước và tập thể hợp tác xã, ngoài<br />
việc có các chế độ, chính sách và quy định hợp lý trong việc động viên phát huy khả năng sản xuất của<br />
gia đình nông dân, phải có chính sách giá cả thu mua phù hợp với sức lao động của bà con nông dân<br />
bỏ ra cho hạt thóc, con lợn, thu mua một số lượng vừa phải, trong khi phải tính đến một khối lượng sản<br />
phẩm còn lại, đảm bảo cho đời sống và tiêu dùng của họ. Đồng thời phải tạo ra nhiều nguồn hàng hóa,<br />
nhất là hàng hóa tiêu dùng, để bán, trao đổi cho họ. Đó là những đòi hỏi cấp thiết hiện nay.<br />
*<br />
* *<br />
Chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là chặng đường đổi mới của<br />
nông thôn Việt Nam, và đó cũng là giai đoạn đầu tiên về sự trưởng thành của người nông dân tập thể.<br />
Đây là chặng đường tạo lập về mặt hình thức, tiến tới hoàn chỉnh về mặt nội dung của cơ cấu xã hội ở<br />
nông thôn Việt Nam.<br />
Sự hoàn thiện của cơ chế khoán trong nông nghiệp, sự phát huy mọi tiềm năng của mỗi quan hệ<br />
Nhà nước, tập thể và gia đình nông dân sẽ rút ngắn con đường xích lại gần nhau giữa giai cấp công<br />
nhân và nông dân, giữa nông dân và trí thức, giữa nông thôn và thành thị.<br />
Nghiên cứu những vấn đề trên đây và dự báo về quá trình phát triển của người nông dân và nông<br />
thôn Việt Nam là một sứ mệnh quang vinh mà xã hội học đã và đang gánh vác.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />