intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người nông dân trong diện thu hồi đất nông nghiệp ở Thái Nguyên

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

50
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. Đến nay, tỉnh Thái Nguyên trở thành một đơn vị điển hình về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỉnh Thái Nguyên có 7 khu công nghiệp, 29 cụm công nghiệp, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người nông dân trong diện thu hồi đất nông nghiệp ở Thái Nguyên

Nguyễn Thị Linh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 88(12): 41 - 46<br /> <br /> MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI NÔNG DÂN<br /> TRONG DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN<br /> *<br /> <br /> Nguyễn Thị Linh<br /> Thành đoàn Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở<br /> thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. Đến nay, tỉnh Thái Nguyên trở thành một đơn<br /> vị điển hình về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỉnh Thái Nguyên có<br /> 7 khu công nghiệp, 29 cụm công nghiệp, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng<br /> tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Bên<br /> cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên cũng thường xuyên quan tâm tới vấn đề giải quyết việc làm cho người<br /> lao động nông thôn, nhờ đó, đời sống của người dân ngày một ổn định, bộ mặt của tỉnh ngày càng<br /> thay đổi theo hướng tích cực.<br /> Từ khoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, lao động, nông thôn.<br /> <br /> THÁI NGUYÊN - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT<br /> RA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN<br /> CÁC KHU CÔNG NGHIỆP*<br /> Với diện tích tự nhiên 3.531,02 km2 (bằng<br /> 1,07% diện tích của cả nước) và dân số năm<br /> 2010 là 1.131.278 người (bằng 1,31% dân số<br /> của cả nước). Thái Nguyên là một tỉnh trung<br /> du miền núi nhưng địa hình lại không phức<br /> tạp so với các tỉnh trung du, miền núi khác.<br /> Với 353.101,67 ha diện tích tự nhiên [2],<br /> trong đó đất núi chiếm 48,4%, đất đồi chiếm<br /> 31,4% và đất ruộng chiếm 12,4%. Trong tổng<br /> quỹ đất 353.101,67 ha, đất đã sử dụng là<br /> 246.513 ha (chiếm 69,81% diện tích đất tự<br /> nhiên) và đất chưa sử dụng là 106.588,67 ha<br /> (chiếm 30,19% diện tích tự nhiên). Trong đó<br /> đất chưa sử dụng có 1.714 ha có khả năng sản<br /> xuất nông nghiệp và 41.250 ha có khả năng<br /> sản xuất lâm nghiệp.<br /> Biểu 1. Tổng diện tích đất đai tự nhiên phân theo<br /> mục đích sử dụng<br /> Mục đích sử dụng<br /> Tổng diện tích đất tự nhiên<br /> Trong đó: - Đất nông nghiệp<br /> - Đất lâm nghiệp<br /> - Đất chuyên dùng<br /> - Đất ở<br /> - Đất chưa sử dụng<br /> <br /> *<br /> <br /> Diện tích<br /> (ha)<br /> 353.101,67<br /> 113.994,47<br /> 180.639,32<br /> 19.186,07<br /> 12.819,79<br /> 26.462,02<br /> <br /> Tel: 0989.129.909; Email: nguyenthilinh2008@gmail.com<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> Như vậy, đất đai nông nghiệp của tỉnh Thái<br /> Nguyên 113.944,47 ha bằng 32,28% tổng<br /> diện tích tự nhiên của toàn tỉnh, đất nông<br /> nghiệp bình quân đầu người chỉ có 0,1 ha.<br /> Từ sau khi tái lập tỉnh (1997), nền kinh tế của<br /> Thái Nguyên phát triển với mức tăng trưởng<br /> khá. Nếu như giai đoạn 1997 - 2000 nhịp độ<br /> tăng trưởng bình quân mới đạt 4,38%, cơ cấu<br /> kinh tế của tỉnh là nông nghiệp chiếm<br /> 33,68%; công nghiệp và xây dựng 30,37%,<br /> dịch vụ 35,95%, đến giai đoạn 2001 - 2005<br /> nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng<br /> năm của tỉnh đã đạt 9,14% [1]. Trước thực tế<br /> đó, Thái Nguyên đã chủ trương ưu tiên đầu tư<br /> cho phát triển công nghiệp bằng cách thu hút<br /> nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và<br /> nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế<br /> trong cả nước. Để thực hiện chủ trương đó,<br /> Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện để các khu<br /> công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển.<br /> Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã quy hoạch 7 khu<br /> công nghiệp với tổng diện tích 3.770 ha.<br /> Nhằm thu hút đầu tư, đẩy mạnh phát triển<br /> công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, UBND<br /> tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 29 cụm công<br /> nghiệp, tổng diện tích 1.167,8 ha, trong đó có<br /> 17 CCN được UBND tỉnh phê duyệt qui<br /> hoạch chi tiết với tổng diện tích 620 ha [5].<br /> 41<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Linh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 88(12): 41 - 46<br /> <br /> Biểu 2. Các khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên<br /> STT<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> <br /> Khu công nghiệp<br /> KCN Sông Công I<br /> KCN Sông Công II<br /> KCN Nam Phổ Yên<br /> KCN Tây Phổ Yên<br /> KCN Quyết Thắng<br /> KCN Điềm Thuỵ<br /> KCN - Đô thị Yên Bình<br /> <br /> Vị trí Khu công nghiệp<br /> TX. Sông Công<br /> TX. Sông Công<br /> Huyện Phổ Yên<br /> Huyện Phổ Yên<br /> TP. Thái Nguyên<br /> Huyện Phú Bình<br /> Huyện Phú Bình - Huyện Phổ Yên<br /> <br /> Cùng với sự hình thành các khu công nghiệp, cụm<br /> công nghiệp, Thái Nguyên đã có nhiều chính sách<br /> cởi mở, cùng chịu trách nhiệm với các nhà đầu<br /> tư, cùng các nhà đầu tư tháo gỡ những vướng<br /> mắc trong thủ tục hành chính, giải phóng mặt<br /> bằng,... Chính điều này đã làm cho Thái Nguyên<br /> có những bước phát triển nhanh và vững chắc<br /> trong thời gian qua, cụ thể:<br /> Giai đoạn 2006-2010, tỉnh Thái Nguyên đã đạt<br /> được những thành tựu đáng khích lệ: kinh tế đạt<br /> tốc độ tăng trưởng khá 11,11% (cao hơn mức bình<br /> quân chung của cả nước), trong đó: công nghiệp xây dựng tăng 14,91%, dịch vụ thương mại tăng<br /> 11,86%, nông lâm nghiệp tăng 4,14%, cơ cấu kinh<br /> tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện<br /> đại hoá đó là tăng dần tỉ trọng công nghiệp (năm<br /> 2006 đạt 38,71%, năm 2010 đạt 41,6%). GDP bình<br /> quân đầu người theo giá thực tế năm 2010 dự kiến<br /> đạt khoảng 17,5 triệu đồng/người [5] . Về chuyển<br /> dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, tốc<br /> chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công<br /> nghiệp- xây dựng có mức tăng chậm từ 11,63%<br /> năm 2005 lên 14,53% năm 2009; lao động trong<br /> ngành dịch vụ có mức chuyển dịch chậm, tăng từ<br /> 16,9% năm 2005 lên 17,15% năm 2009, chủ yếu<br /> thuộc lĩnh vực thương mại, lưu trú, ăn uống đã tạo<br /> điều kiện thu hút và chuyển dịch lao động từ lĩnh<br /> vực nông lâm nghiệp. Ngành nông lâm nghiệp mặc<br /> dù mức đóng góp trong GDP không lớn, khoảng<br /> trên 1/5 GDP toàn tỉnh, song chiếm tỷ trọng lao<br /> động lớn (năm 2009 là 68,32%). Trong các năm<br /> qua, mặc dù đã có mức giảm về cơ cấu lao động,<br /> song mức giảm còn thấp, khoảng xấp xỉ 1%/năm,<br /> đây cũng là áp lực đối với tỉnh về vấn đề giải quyết<br /> việc làm cho người lao động, đặc biệt là đối với<br /> các vùng bị thu hồi đất sản xuất để đầu tư các công<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> Diện tích (ha)<br /> 220<br /> 250<br /> 200<br /> 200<br /> 200<br /> 350<br /> 2.350<br /> <br /> trình hạ tầng công cộng, khu đô thị, khu cụm công<br /> nghiệp. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2006<br /> đạt 845,3 tỷ đồng, chiếm 10,42% GDP và tăng<br /> 17% so với năm 2005, đến năm 2009 đạt 1.730.7<br /> tỷ đồng, tăng 23,1% so với thực hiện năm 2008, tỷ<br /> lệ huy động vào ngân sách chiếm 10,48% GDP;<br /> năm 2010 ước đạt 2.200,8 tỷ đồng. Như vậy tổng<br /> thu ngân sách 4 năm từ 2006-2010 (năm 2010 dự<br /> ước) đạt trên 8.000 tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra.<br /> Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách không tăng do<br /> việc thực hiện các chính sách miễn giảm thuế và<br /> không đưa vào tổng thu ngân sách một số khoản<br /> thu, do vậy ảnh hưởng đến tỷ lệ huy động GDP<br /> vào ngân sách nhà nước. Việc thu hút đầu tư, đặc<br /> biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã bước<br /> đầu phát huy hiệu quả, tăng nguồn thu cho ngân<br /> sách. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao vào ổn định,<br /> thu ngân sách ngày một cao nên tỉnh có điều kiện<br /> giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội. Từ năm<br /> 2006 đến năm 2009 và ước đến hết năm 2010 toàn<br /> tỉnh tạo việc làm mới cho 78.500 lao động, bình<br /> quân mỗi năm giải quyết được 15.660 việc làm<br /> mới, vượt mục tiêu đề ra; Công tác quản lý nhà<br /> nước về pháp luật lao động được chú trọng: thành<br /> lập Hội đồng trọng tài lao động của tỉnh, hội đồng<br /> hoà giải lao động cơ sở theo quy định của pháp<br /> luật, thường xuyên tập huấn, phổ biến Luật lao<br /> động, Luật Bảo hiểm xã hội cho các doanh nghiệp<br /> đóng trên địa bàn tỉnh. Đời sống vật chất và tinh<br /> thần của người dân được nâng lên đáng kể, đến hết<br /> năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn<br /> 13,99%, năm 2010 ước còn 10,8%. [4]. Giá trị sản<br /> xuất công nghiệp năm sau thường cao hơn năm<br /> trước (theo giá thực tế), năm 2006 đạt 9.676 tỉ<br /> đồng, năm 2010 đạt 30.651 tỉ đồng, tăng trưởng<br /> bình quân 29,25%. Trong đó: công nghiệp Trung<br /> ương 17.701 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 55,79%, công<br /> 42<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Linh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> nghiệp địa phương 10.979 tỉ đồng, chiếm 35,82%,<br /> công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.570 tỉ<br /> đồng, chiếm 8,39% [5].<br /> Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã có đóng<br /> góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội, cải<br /> thiện đời sống nhân dân, song bên cạnh đó cũng<br /> còn không ít vấn đề đang đặt ra, cần phải giải<br /> quyết như:<br /> - Các dự án phần lớn được đầu tư ở các khu công<br /> nghiệp, cụm công nghiệp ở vùng đồng bằng: 7/7<br /> khu công nghiệp đều ở các địa bàn thuộc thành<br /> phố và các huyện phía Nam của tỉnh, trong tổng số<br /> 29 cụm công nghiệp thì chỉ có 8 cụm công nghiệp<br /> vùng miền núi nhưng 8 cụm công nghiệp này cũng<br /> ở vị trí thuộc đồng bằng của miền núi.<br /> - Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để phát triển<br /> các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và phát<br /> triển các khu đô thị ở Thái Nguyên là tương đối<br /> lớn, khoảng trên 2.500 ha, đã ảnh hưởng trực tiếp<br /> đến đời sống của 228.380 hộ nông thôn và 574.434<br /> người trong độ tuổi lao động. Trong đó, có 71.483<br /> người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 18, chiếm<br /> 12,45%,; 121.045 người từ 19 đến 25 tuổi, chiếm<br /> 21,07%; 142.231 người từ 26 đến 35 tuổi, chiếm<br /> 24,76%; 120.517 người từ 36 đến 45 tuổi chiếm<br /> 20,98% và 119.158 người trên 45 tuổi , chiếm<br /> 20,74%. Số người có độ tuổi từ 35 tuổi trở lên,<br /> chiếm 68,70%, đây là đối tượng khó đào tạo để<br /> chuyển đổi nghề nghiệp, do họ có trình độ văn hoá<br /> thấp. Chính vì vậy, giải quyết việc làm và ổn định<br /> đời sống cho đối tượng này là vấn đề nan giải đòi<br /> hỏi phải có nhiều biện pháp tổng hợp. [3]<br /> - Đời sống của nông dân bị thu hồi đất nông<br /> nghiệp phục vụ phát triển các khu công nghiêp,<br /> cụm công nghiệp, phát triển các khu đô thị có được<br /> nâng lên do tiền đền bù, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ<br /> tầng xã hội nông dân được cải thiện nhưng không<br /> có việc làm ổn định, không có thu nhập thường<br /> xuyên nên nhiều gia đình có đầy đủ tiện nghi sinh<br /> hoạt song lại rất nghèo khó, cuộc sống không ổn<br /> định.<br /> - Một bộ phận thanh niên không được tuyển dụng<br /> vào làm việc tại các khu công nghiệp, các cụm<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 88(12): 41 - 46<br /> <br /> công nghiệp và cũng không có điều kiện học tập<br /> phải rời bỏ quê đi tìm việc làm ở các vùng đô thị<br /> khác nên đã phần nào ảnh hưởng tới công tác Đoàn<br /> và phong trào thanh thiếu nhi của địa phương, nhất<br /> là trong dịp hè các hoạt động của thiếu nhi phần<br /> lớn đều do chi hội phụ nữ hoặc chi hội cựu chiến<br /> binh đảm nhận và phụ trách [7].<br /> - Các tệ nạn xã hội dễ thâm nhập, làm cho lối sống<br /> thuần tuý của người nông dân không còn nữa, mà<br /> thay vào đó là những mặt trái của xã hội thời kinh<br /> tế thị trường.<br /> - Ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp mặc dù<br /> có nhiều có gắng trong việc giải quyết và khắc<br /> phục ô nhiễm môi trường, song trên thực tế vẫn<br /> ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sức khoẻ<br /> người dân do khí thải, nước thải, rác thải công<br /> nghiệp. Theo thống kê của Sở Tài nguyên-Môi<br /> trường tỉnh Thái Nguyên, hiện nay trên địa bàn<br /> vẫn còn 43 cơ sở sản xuất kinh doanh nằm trong<br /> diện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chưa<br /> có hoặc chậm hoàn thành kế hoạch xử lý ô nhiễm<br /> theo tiến độ yêu cầu. Các cơ quan chức năng đã có<br /> văn bản kiến nghị yêu cầu xử lý, thậm chí xử phạt<br /> hành chính nhưng nhiều cơ sở, doanh nghiệp vẫn<br /> chưa thực hiện nghiêm túc các kết luận thanh,<br /> kiểm tra về môi trường [8]<br /> Với những vấn đề hết sức cơ bản đặt ra trong quá<br /> trình phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp<br /> cũng như phát triển các khu đô thị, tỉnh Thái<br /> Nguyên cần có các giải pháp hỗ trợ cần thiết giúp<br /> người nông dân có việc làm sau khi bị thu hồi đất.<br /> Bài viết này xin được trao đổi một số giải pháp<br /> sau:<br /> CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC<br /> LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN BỊ THU<br /> HỒI ĐẤT<br /> Một là, xây dựng quy hoạch không gian phát triển<br /> kinh tế - xã hội cần phải cụ thể, chi tiết.<br /> Quy hoạch không gian sẽ xác định được các vùng<br /> kinh tế, làm căn cứ để xác lập các dự án đầu tư.<br /> Thái Nguyên có 3 vùng: miền núi, trung du và<br /> đồng bằng thì nên có các dự án phát triển công<br /> nghiệp tập trung ở vùng trung du và miền núi, vì<br /> đây là nơi đất đai ít màu mỡ, mật độ dân cư thưa<br /> <br /> 43<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Linh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 88(12): 41 - 46<br /> <br /> thớt. Như vậy, số lượng lao động nông nghiệp bị<br /> mất việc làm do bị thu hồi đất canh tác cũng ít đi,<br /> mặt khác duy trì được diện tích trồng cây lương<br /> thực. Đây là giải pháp vừa mang tính cơ bản vừa<br /> bảo đảm phát triển công nghiệp, vừa bảo vệ<br /> được diện tích trồng lúa và số lượng lao động dư<br /> thừa do bị thu hồi đất nông nghiệp cũng ít hơn.<br /> Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách,<br /> gắn trách nhiệm của doanh nghiệp trong các khu<br /> công nghiệp, cụm công nghiệp với việc giải quyết<br /> việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất<br /> canh tác.<br /> Mỗi doanh nghiệp đều có những vị trí, những công<br /> việc mà không đòi hỏi cần phải có chuyên môn kỹ<br /> thuật. Do vậy những vị trí lao động này nên dành<br /> để tuyển những lao động đã nhường đất để xây<br /> dựng nhà máy, xí nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp<br /> phải ưu tiên việc nhận con em nông dân còn trẻ, có<br /> văn hoá, có chuyên môn vào làm việc và đào tạo<br /> họ thành lực lượng lâu dài của doanh nghiệp. Điều<br /> này không chỉ giải quyết việc làm cho lao động mà<br /> còn tăng thêm sự gắn bó lâu dài giữa doanh nghiệp<br /> với địa phương.<br /> Ba là, tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện<br /> đại hoá nông nghiệp, nông thôn.<br /> Nếu có quy hoạch hợp lý và có các biện pháp sử<br /> dụng đất có hiệu quả thì diện tích đất nông nghiệp<br /> cũng vẫn bị thu hẹp, bình quân đầu người sẽ thấp.<br /> Xu hướng di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành<br /> thị sẽ tăng lên. Do đó, việc đẩy mạnh đầu tư phát<br /> triển công nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp<br /> là giải pháp tích cực để thu hút nhiều lao động, tạo<br /> điều kiện cho người lao động có việc làm và có thu<br /> nhập ổn định ngày tại nơi mình sinh sống nhằm<br /> thực hiện phương châm “ly nông không ly hương”.<br /> Thực hiện tốt giải pháp này sẽ giải quyết được việc<br /> làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp dư thừa do<br /> bị thu hồi đất canh tác và sẽ làm giảm áp lực lao<br /> động tự do tràn vào các đô thị tìm kiếm việc làm.<br /> Muốn vậy, trên cơ sở chính sách, quy định của<br /> Nhà nước, bên cạnh việc giao cho các địa phương<br /> chủ động xây dựng các chương trình kế hoạch và<br /> đề ra các phương án sát với thực tế, tỉnh cũng cần<br /> thường xuyên kiểm tra giám sát và tạo điều kiện<br /> đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng<br /> xã hội nhất là ở các làng, xã vùng cao, nếu làm tốt<br /> <br /> được việc này thì sẽ thu hút được nhiều doanh<br /> nghiệp đầu tư vào các vùng miền núi và trung du;<br /> có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các cơ sở sản xuất về<br /> vốn, kỹ thuật, đào tạo công nhân lành nghề cũng<br /> như kinh nghiệm tổ chức quản lý và thị trường tiêu<br /> thụ sản phẩm.<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 44<br /> <br /> Bốn là, đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động<br /> nông thôn<br /> Thái Nguyên là tỉnh đứng thứ 3 của cả nước về<br /> giáo dục đào tạo với 19 trường Đại học và Cao<br /> đẳng, 52 cơ sở dạy nghề, do vậy Thái Nguyên<br /> cũng đã có nhiều chính sách đào tạo nghề cùng với<br /> các dự án cụ thể cho các vùng nông thôn, trong đó<br /> có những vùng bị thu hồi đất canh tác để phát<br /> triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tuy<br /> nhiên, vẫn còn có một bộ phận người lao động<br /> nông thôn chưa được tiếp cận với chính sách đào<br /> tạo nghề nên đã gặp nhiều khó khăn trong quá<br /> trình tìm kiếm việc làm. Bởi vì, những lao động<br /> này đều ở độ tuổi trên 35, trình độ văn hoá thấp, về<br /> phía cá nhân - họ không muốn học và cũng không<br /> có khả năng học. Đối tượng được đào tạo nghề<br /> hiện nay chủ yếu là lao động trong độ tuổi từ đủ 15<br /> đến 35, chiếm 58,28% tổng số lao động nông thôn<br /> trong độ tuổi trên địa bàn tỉnh. Các điều kiện đảm<br /> bảo chất lượng dạy nghề (cơ sở vật chất, trang thiết<br /> bị dạy nghề, đội ngũ giáo viên) tuy đã được tăng<br /> cường nhưng vẫn còn hạn chế so với yêu cầu thực<br /> tế của công tác dạy nghề trong thời kỳ mới. Đội<br /> ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề tuy đã<br /> được đào tạo, bồi dưỡng nhưng so với yêu cầu<br /> thực tế còn thiếu và một số chưa đạt chuẩn theo<br /> quy định. Công tác quản lý nhà nước về dạy nghề<br /> mới chủ yếu là quản lý đầu vào, quản lý quá trình<br /> đào tạo, chưa quản lý và kiểm soát được đầu ra<br /> cho quá trình đào tạo nghề. Công tác quản lý nội<br /> dung chương trình đào tạo của một số cơ sở dạy<br /> nghề còn yếu. Công tác dạy nghề thời gian qua chủ<br /> yếu là dựa trên khả năng đào tạo hiện có của cơ sở<br /> dạy nghề, việc đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp<br /> còn hạn chế, chưa phù hợp nhu cầu thị trường lao<br /> động dẫn đến tình trạng lao động qua đào tạo vừa<br /> thừa lại vừa thiếu. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát<br /> triển chưa hợp lý, quy mô đào tạo còn nhỏ, trình<br /> độ đào tạo thấp (chủ yếu là sơ cấp nghề và dạy<br /> nghề thường xuyên); lĩnh vực ngành nghề đào tạo<br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Nguyễn Thị Linh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 88(12): 41 - 46<br /> <br /> còn ít. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trình độ cao<br /> đẳng và trung cấp vẫn còn thấp so với tổng số lao<br /> động được đào tạo nghề, giai đoạn 2006 - 2010 chỉ<br /> chiếm 18,55% [6], thiếu lao động trình độ cao cho<br /> các khu, cụm công nghiệp, xuất khẩu lao động và<br /> chuyên gia.<br /> Do vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần đẩy mạnh đào<br /> tạo nghề cho lao động nông thôn, cụ thể: Xây dựng<br /> và phát triển hệ thống mạng lưới trường dạy nghề,<br /> khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào<br /> tạo nghề nhằm tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào<br /> tạo ở nhiều nghề, nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch<br /> vụ; chú trọng đầu tư đào tạo một số nghề chất<br /> lượng cao, đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật<br /> trong quá trình phát triển kinh kế xã hội của tỉnh.<br /> Gắn công tác dạy nghề đáp ứng nhu cầu của doanh<br /> nghiệp và thị trường lao động, dạy nghề theo đơn<br /> đặt hàng,…Làm tốt công tác hướng nghiệp, phân<br /> luồng, định hướng cho người lao động, nhất là lao<br /> động trẻ sớm học nghề và thành thạo ở nghề đã<br /> học nhằm tăng cơ hội tìm được việc làm. Thực<br /> hiện có hiệu quả đề án đào tạo nghề cho lao động<br /> nông thôn theo quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ<br /> tướng Chính phủ. Tập trung vào các hoạt động chủ<br /> yếu sau:<br /> - Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy<br /> nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập.<br /> - Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý<br /> dạy nghề.<br /> - Xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu của<br /> các cơ sở dạy nghề.<br /> - Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề: chi phí dạy<br /> nghề, tiền ăn, chi phí đi lại.<br /> - Tổ chức đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường<br /> lao động, đào tạo nghề theo đơn đặt hàng, gắn<br /> đào tạo nghề với giải quyết việc làm.<br /> - Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào<br /> công tác đào tạo nghề theo phương thức xã hội hóa<br /> về công tác đào tạo nghề.<br /> - Xây dựng các chương trình, nội dung đào tạo, bồi<br /> dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.<br /> - Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị<br /> trường lao động nhằm tăng cường thực hiện tốt<br /> chức năng quản lý nhà nước về lao động - việc<br /> làm. Đồng thời là cầu nối giữa cơ quan quản lý<br /> <br /> Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao<br /> động, các tổ chức giới thiệu việc làm, các<br /> trường và cơ sở đào tạo nghề.<br /> Để thực hiện hiệu quả đào tạo nghề cho lao động<br /> nông thôn, các địa phương và cơ sở đào tạo nghề<br /> phải phối hợp chặt chẽ, xây dựng kế hoạch cụ thể,<br /> tranh thủ các nguồn kinh phí được phân bổ để hỗ<br /> trợ cho quá trình đào tạo nghề cũng như giải quyết<br /> việc làm cho người lao động nông thôn, như:<br /> nguồn kinh phí Trung ương hỗ trợ hàng năm,<br /> nguồn kinh phí huy động từ ngân sách địa phương<br /> và huy động từ các nguồn khác.<br /> Năm là, đẩy mạnh xuất khẩu lao động<br /> Trong 5 năm (từ 2006 - 2010), tỉnh Thái Nguyên<br /> đã tạo điều kiện, hỗ trợ kinh phí cho xuất khẩu lao<br /> động làm việc có thời hạn ở nước ngoài, toàn tỉnh<br /> đã đưa được 10.438 lao động đi làm việc có thời<br /> hạn ở nước ngoài theo hợp đồng ở các thị trường<br /> như UAE, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật<br /> Bản… Số tiền gửi về gia đình qua 03 ngân hàng<br /> trong 5 năm qua (Ngân hàng Nông nghiệp &<br /> PTNT, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng<br /> Công thương) là 80 triệu USD (tương đương<br /> khoảng 1.600 tỷ VNĐ). Ngoài ra, người lao động<br /> còn gửi tiền về qua gửi trao tay hoặc dịch vụ<br /> chuyển tiển khác [6]…<br /> Mặc dù hoạt động xuất khẩu lao động là một giải<br /> pháp quan trọng nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập<br /> và giảm nghèo cho người lao động. Tuy nhiên,<br /> chất lượng nguồn lao động xuất khẩu chưa đáp<br /> ứng yêu cầu cả về ngoại ngữ, tay nghề, ý thức chấp<br /> hành pháp luật, tuân thủ các điều khoản đã cam kết<br /> trong hợp đồng. Có một số cá nhân, tổ chức đã lợi<br /> dụng lòng tin của bà con nông dân lừa đảo thu tiền<br /> bất chính, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận. Việc<br /> vay vốn cho người đi xuất khẩu lao động tại nhiều<br /> địa phương vẫn còn khó khăn, đối tượng được vay<br /> vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội không<br /> nhiều, những hạn chế này đã phần nào ảnh hưởng<br /> tới hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh<br /> Thái Nguyên trong thời gian qua.<br /> Để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, chính<br /> quyền cần tăng cường công tác quản lý các trung<br /> tâm, các cơ sở, tổ chức đưa người đi xuất khẩu lao<br /> động thực hiện đúng cam kết với người lao động.<br /> Thực hiện nghiêm các quy định, luật pháp của Nhà<br /> nước, cần có sự kết hợp có hiệu quả giữa chính<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> 45<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2