Nguyễn Thị Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
88(12): 41 - 46<br />
<br />
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI NÔNG DÂN<br />
TRONG DIỆN THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN<br />
*<br />
<br />
Nguyễn Thị Linh<br />
Thành đoàn Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở<br />
thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội. Đến nay, tỉnh Thái Nguyên trở thành một đơn<br />
vị điển hình về phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỉnh Thái Nguyên có<br />
7 khu công nghiệp, 29 cụm công nghiệp, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch theo hướng<br />
tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Bên<br />
cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên cũng thường xuyên quan tâm tới vấn đề giải quyết việc làm cho người<br />
lao động nông thôn, nhờ đó, đời sống của người dân ngày một ổn định, bộ mặt của tỉnh ngày càng<br />
thay đổi theo hướng tích cực.<br />
Từ khoá: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, lao động, nông thôn.<br />
<br />
THÁI NGUYÊN - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT<br />
RA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN<br />
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP*<br />
Với diện tích tự nhiên 3.531,02 km2 (bằng<br />
1,07% diện tích của cả nước) và dân số năm<br />
2010 là 1.131.278 người (bằng 1,31% dân số<br />
của cả nước). Thái Nguyên là một tỉnh trung<br />
du miền núi nhưng địa hình lại không phức<br />
tạp so với các tỉnh trung du, miền núi khác.<br />
Với 353.101,67 ha diện tích tự nhiên [2],<br />
trong đó đất núi chiếm 48,4%, đất đồi chiếm<br />
31,4% và đất ruộng chiếm 12,4%. Trong tổng<br />
quỹ đất 353.101,67 ha, đất đã sử dụng là<br />
246.513 ha (chiếm 69,81% diện tích đất tự<br />
nhiên) và đất chưa sử dụng là 106.588,67 ha<br />
(chiếm 30,19% diện tích tự nhiên). Trong đó<br />
đất chưa sử dụng có 1.714 ha có khả năng sản<br />
xuất nông nghiệp và 41.250 ha có khả năng<br />
sản xuất lâm nghiệp.<br />
Biểu 1. Tổng diện tích đất đai tự nhiên phân theo<br />
mục đích sử dụng<br />
Mục đích sử dụng<br />
Tổng diện tích đất tự nhiên<br />
Trong đó: - Đất nông nghiệp<br />
- Đất lâm nghiệp<br />
- Đất chuyên dùng<br />
- Đất ở<br />
- Đất chưa sử dụng<br />
<br />
*<br />
<br />
Diện tích<br />
(ha)<br />
353.101,67<br />
113.994,47<br />
180.639,32<br />
19.186,07<br />
12.819,79<br />
26.462,02<br />
<br />
Tel: 0989.129.909; Email: nguyenthilinh2008@gmail.com<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
Như vậy, đất đai nông nghiệp của tỉnh Thái<br />
Nguyên 113.944,47 ha bằng 32,28% tổng<br />
diện tích tự nhiên của toàn tỉnh, đất nông<br />
nghiệp bình quân đầu người chỉ có 0,1 ha.<br />
Từ sau khi tái lập tỉnh (1997), nền kinh tế của<br />
Thái Nguyên phát triển với mức tăng trưởng<br />
khá. Nếu như giai đoạn 1997 - 2000 nhịp độ<br />
tăng trưởng bình quân mới đạt 4,38%, cơ cấu<br />
kinh tế của tỉnh là nông nghiệp chiếm<br />
33,68%; công nghiệp và xây dựng 30,37%,<br />
dịch vụ 35,95%, đến giai đoạn 2001 - 2005<br />
nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng<br />
năm của tỉnh đã đạt 9,14% [1]. Trước thực tế<br />
đó, Thái Nguyên đã chủ trương ưu tiên đầu tư<br />
cho phát triển công nghiệp bằng cách thu hút<br />
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và<br />
nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế<br />
trong cả nước. Để thực hiện chủ trương đó,<br />
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện để các khu<br />
công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển.<br />
Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã quy hoạch 7 khu<br />
công nghiệp với tổng diện tích 3.770 ha.<br />
Nhằm thu hút đầu tư, đẩy mạnh phát triển<br />
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, UBND<br />
tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 29 cụm công<br />
nghiệp, tổng diện tích 1.167,8 ha, trong đó có<br />
17 CCN được UBND tỉnh phê duyệt qui<br />
hoạch chi tiết với tổng diện tích 620 ha [5].<br />
41<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
88(12): 41 - 46<br />
<br />
Biểu 2. Các khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên<br />
STT<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
<br />
Khu công nghiệp<br />
KCN Sông Công I<br />
KCN Sông Công II<br />
KCN Nam Phổ Yên<br />
KCN Tây Phổ Yên<br />
KCN Quyết Thắng<br />
KCN Điềm Thuỵ<br />
KCN - Đô thị Yên Bình<br />
<br />
Vị trí Khu công nghiệp<br />
TX. Sông Công<br />
TX. Sông Công<br />
Huyện Phổ Yên<br />
Huyện Phổ Yên<br />
TP. Thái Nguyên<br />
Huyện Phú Bình<br />
Huyện Phú Bình - Huyện Phổ Yên<br />
<br />
Cùng với sự hình thành các khu công nghiệp, cụm<br />
công nghiệp, Thái Nguyên đã có nhiều chính sách<br />
cởi mở, cùng chịu trách nhiệm với các nhà đầu<br />
tư, cùng các nhà đầu tư tháo gỡ những vướng<br />
mắc trong thủ tục hành chính, giải phóng mặt<br />
bằng,... Chính điều này đã làm cho Thái Nguyên<br />
có những bước phát triển nhanh và vững chắc<br />
trong thời gian qua, cụ thể:<br />
Giai đoạn 2006-2010, tỉnh Thái Nguyên đã đạt<br />
được những thành tựu đáng khích lệ: kinh tế đạt<br />
tốc độ tăng trưởng khá 11,11% (cao hơn mức bình<br />
quân chung của cả nước), trong đó: công nghiệp xây dựng tăng 14,91%, dịch vụ thương mại tăng<br />
11,86%, nông lâm nghiệp tăng 4,14%, cơ cấu kinh<br />
tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện<br />
đại hoá đó là tăng dần tỉ trọng công nghiệp (năm<br />
2006 đạt 38,71%, năm 2010 đạt 41,6%). GDP bình<br />
quân đầu người theo giá thực tế năm 2010 dự kiến<br />
đạt khoảng 17,5 triệu đồng/người [5] . Về chuyển<br />
dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, tốc<br />
chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành công<br />
nghiệp- xây dựng có mức tăng chậm từ 11,63%<br />
năm 2005 lên 14,53% năm 2009; lao động trong<br />
ngành dịch vụ có mức chuyển dịch chậm, tăng từ<br />
16,9% năm 2005 lên 17,15% năm 2009, chủ yếu<br />
thuộc lĩnh vực thương mại, lưu trú, ăn uống đã tạo<br />
điều kiện thu hút và chuyển dịch lao động từ lĩnh<br />
vực nông lâm nghiệp. Ngành nông lâm nghiệp mặc<br />
dù mức đóng góp trong GDP không lớn, khoảng<br />
trên 1/5 GDP toàn tỉnh, song chiếm tỷ trọng lao<br />
động lớn (năm 2009 là 68,32%). Trong các năm<br />
qua, mặc dù đã có mức giảm về cơ cấu lao động,<br />
song mức giảm còn thấp, khoảng xấp xỉ 1%/năm,<br />
đây cũng là áp lực đối với tỉnh về vấn đề giải quyết<br />
việc làm cho người lao động, đặc biệt là đối với<br />
các vùng bị thu hồi đất sản xuất để đầu tư các công<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
Diện tích (ha)<br />
220<br />
250<br />
200<br />
200<br />
200<br />
350<br />
2.350<br />
<br />
trình hạ tầng công cộng, khu đô thị, khu cụm công<br />
nghiệp. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2006<br />
đạt 845,3 tỷ đồng, chiếm 10,42% GDP và tăng<br />
17% so với năm 2005, đến năm 2009 đạt 1.730.7<br />
tỷ đồng, tăng 23,1% so với thực hiện năm 2008, tỷ<br />
lệ huy động vào ngân sách chiếm 10,48% GDP;<br />
năm 2010 ước đạt 2.200,8 tỷ đồng. Như vậy tổng<br />
thu ngân sách 4 năm từ 2006-2010 (năm 2010 dự<br />
ước) đạt trên 8.000 tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra.<br />
Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách không tăng do<br />
việc thực hiện các chính sách miễn giảm thuế và<br />
không đưa vào tổng thu ngân sách một số khoản<br />
thu, do vậy ảnh hưởng đến tỷ lệ huy động GDP<br />
vào ngân sách nhà nước. Việc thu hút đầu tư, đặc<br />
biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã bước<br />
đầu phát huy hiệu quả, tăng nguồn thu cho ngân<br />
sách. Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao vào ổn định,<br />
thu ngân sách ngày một cao nên tỉnh có điều kiện<br />
giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội. Từ năm<br />
2006 đến năm 2009 và ước đến hết năm 2010 toàn<br />
tỉnh tạo việc làm mới cho 78.500 lao động, bình<br />
quân mỗi năm giải quyết được 15.660 việc làm<br />
mới, vượt mục tiêu đề ra; Công tác quản lý nhà<br />
nước về pháp luật lao động được chú trọng: thành<br />
lập Hội đồng trọng tài lao động của tỉnh, hội đồng<br />
hoà giải lao động cơ sở theo quy định của pháp<br />
luật, thường xuyên tập huấn, phổ biến Luật lao<br />
động, Luật Bảo hiểm xã hội cho các doanh nghiệp<br />
đóng trên địa bàn tỉnh. Đời sống vật chất và tinh<br />
thần của người dân được nâng lên đáng kể, đến hết<br />
năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn<br />
13,99%, năm 2010 ước còn 10,8%. [4]. Giá trị sản<br />
xuất công nghiệp năm sau thường cao hơn năm<br />
trước (theo giá thực tế), năm 2006 đạt 9.676 tỉ<br />
đồng, năm 2010 đạt 30.651 tỉ đồng, tăng trưởng<br />
bình quân 29,25%. Trong đó: công nghiệp Trung<br />
ương 17.701 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 55,79%, công<br />
42<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nghiệp địa phương 10.979 tỉ đồng, chiếm 35,82%,<br />
công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.570 tỉ<br />
đồng, chiếm 8,39% [5].<br />
Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã có đóng<br />
góp tích cực trong phát triển kinh tế xã hội, cải<br />
thiện đời sống nhân dân, song bên cạnh đó cũng<br />
còn không ít vấn đề đang đặt ra, cần phải giải<br />
quyết như:<br />
- Các dự án phần lớn được đầu tư ở các khu công<br />
nghiệp, cụm công nghiệp ở vùng đồng bằng: 7/7<br />
khu công nghiệp đều ở các địa bàn thuộc thành<br />
phố và các huyện phía Nam của tỉnh, trong tổng số<br />
29 cụm công nghiệp thì chỉ có 8 cụm công nghiệp<br />
vùng miền núi nhưng 8 cụm công nghiệp này cũng<br />
ở vị trí thuộc đồng bằng của miền núi.<br />
- Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để phát triển<br />
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và phát<br />
triển các khu đô thị ở Thái Nguyên là tương đối<br />
lớn, khoảng trên 2.500 ha, đã ảnh hưởng trực tiếp<br />
đến đời sống của 228.380 hộ nông thôn và 574.434<br />
người trong độ tuổi lao động. Trong đó, có 71.483<br />
người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 18, chiếm<br />
12,45%,; 121.045 người từ 19 đến 25 tuổi, chiếm<br />
21,07%; 142.231 người từ 26 đến 35 tuổi, chiếm<br />
24,76%; 120.517 người từ 36 đến 45 tuổi chiếm<br />
20,98% và 119.158 người trên 45 tuổi , chiếm<br />
20,74%. Số người có độ tuổi từ 35 tuổi trở lên,<br />
chiếm 68,70%, đây là đối tượng khó đào tạo để<br />
chuyển đổi nghề nghiệp, do họ có trình độ văn hoá<br />
thấp. Chính vì vậy, giải quyết việc làm và ổn định<br />
đời sống cho đối tượng này là vấn đề nan giải đòi<br />
hỏi phải có nhiều biện pháp tổng hợp. [3]<br />
- Đời sống của nông dân bị thu hồi đất nông<br />
nghiệp phục vụ phát triển các khu công nghiêp,<br />
cụm công nghiệp, phát triển các khu đô thị có được<br />
nâng lên do tiền đền bù, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ<br />
tầng xã hội nông dân được cải thiện nhưng không<br />
có việc làm ổn định, không có thu nhập thường<br />
xuyên nên nhiều gia đình có đầy đủ tiện nghi sinh<br />
hoạt song lại rất nghèo khó, cuộc sống không ổn<br />
định.<br />
- Một bộ phận thanh niên không được tuyển dụng<br />
vào làm việc tại các khu công nghiệp, các cụm<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
88(12): 41 - 46<br />
<br />
công nghiệp và cũng không có điều kiện học tập<br />
phải rời bỏ quê đi tìm việc làm ở các vùng đô thị<br />
khác nên đã phần nào ảnh hưởng tới công tác Đoàn<br />
và phong trào thanh thiếu nhi của địa phương, nhất<br />
là trong dịp hè các hoạt động của thiếu nhi phần<br />
lớn đều do chi hội phụ nữ hoặc chi hội cựu chiến<br />
binh đảm nhận và phụ trách [7].<br />
- Các tệ nạn xã hội dễ thâm nhập, làm cho lối sống<br />
thuần tuý của người nông dân không còn nữa, mà<br />
thay vào đó là những mặt trái của xã hội thời kinh<br />
tế thị trường.<br />
- Ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp mặc dù<br />
có nhiều có gắng trong việc giải quyết và khắc<br />
phục ô nhiễm môi trường, song trên thực tế vẫn<br />
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sức khoẻ<br />
người dân do khí thải, nước thải, rác thải công<br />
nghiệp. Theo thống kê của Sở Tài nguyên-Môi<br />
trường tỉnh Thái Nguyên, hiện nay trên địa bàn<br />
vẫn còn 43 cơ sở sản xuất kinh doanh nằm trong<br />
diện gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chưa<br />
có hoặc chậm hoàn thành kế hoạch xử lý ô nhiễm<br />
theo tiến độ yêu cầu. Các cơ quan chức năng đã có<br />
văn bản kiến nghị yêu cầu xử lý, thậm chí xử phạt<br />
hành chính nhưng nhiều cơ sở, doanh nghiệp vẫn<br />
chưa thực hiện nghiêm túc các kết luận thanh,<br />
kiểm tra về môi trường [8]<br />
Với những vấn đề hết sức cơ bản đặt ra trong quá<br />
trình phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp<br />
cũng như phát triển các khu đô thị, tỉnh Thái<br />
Nguyên cần có các giải pháp hỗ trợ cần thiết giúp<br />
người nông dân có việc làm sau khi bị thu hồi đất.<br />
Bài viết này xin được trao đổi một số giải pháp<br />
sau:<br />
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC<br />
LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN BỊ THU<br />
HỒI ĐẤT<br />
Một là, xây dựng quy hoạch không gian phát triển<br />
kinh tế - xã hội cần phải cụ thể, chi tiết.<br />
Quy hoạch không gian sẽ xác định được các vùng<br />
kinh tế, làm căn cứ để xác lập các dự án đầu tư.<br />
Thái Nguyên có 3 vùng: miền núi, trung du và<br />
đồng bằng thì nên có các dự án phát triển công<br />
nghiệp tập trung ở vùng trung du và miền núi, vì<br />
đây là nơi đất đai ít màu mỡ, mật độ dân cư thưa<br />
<br />
43<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
88(12): 41 - 46<br />
<br />
thớt. Như vậy, số lượng lao động nông nghiệp bị<br />
mất việc làm do bị thu hồi đất canh tác cũng ít đi,<br />
mặt khác duy trì được diện tích trồng cây lương<br />
thực. Đây là giải pháp vừa mang tính cơ bản vừa<br />
bảo đảm phát triển công nghiệp, vừa bảo vệ<br />
được diện tích trồng lúa và số lượng lao động dư<br />
thừa do bị thu hồi đất nông nghiệp cũng ít hơn.<br />
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách,<br />
gắn trách nhiệm của doanh nghiệp trong các khu<br />
công nghiệp, cụm công nghiệp với việc giải quyết<br />
việc làm cho lao động nông thôn bị thu hồi đất<br />
canh tác.<br />
Mỗi doanh nghiệp đều có những vị trí, những công<br />
việc mà không đòi hỏi cần phải có chuyên môn kỹ<br />
thuật. Do vậy những vị trí lao động này nên dành<br />
để tuyển những lao động đã nhường đất để xây<br />
dựng nhà máy, xí nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp<br />
phải ưu tiên việc nhận con em nông dân còn trẻ, có<br />
văn hoá, có chuyên môn vào làm việc và đào tạo<br />
họ thành lực lượng lâu dài của doanh nghiệp. Điều<br />
này không chỉ giải quyết việc làm cho lao động mà<br />
còn tăng thêm sự gắn bó lâu dài giữa doanh nghiệp<br />
với địa phương.<br />
Ba là, tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện<br />
đại hoá nông nghiệp, nông thôn.<br />
Nếu có quy hoạch hợp lý và có các biện pháp sử<br />
dụng đất có hiệu quả thì diện tích đất nông nghiệp<br />
cũng vẫn bị thu hẹp, bình quân đầu người sẽ thấp.<br />
Xu hướng di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành<br />
thị sẽ tăng lên. Do đó, việc đẩy mạnh đầu tư phát<br />
triển công nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp<br />
là giải pháp tích cực để thu hút nhiều lao động, tạo<br />
điều kiện cho người lao động có việc làm và có thu<br />
nhập ổn định ngày tại nơi mình sinh sống nhằm<br />
thực hiện phương châm “ly nông không ly hương”.<br />
Thực hiện tốt giải pháp này sẽ giải quyết được việc<br />
làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp dư thừa do<br />
bị thu hồi đất canh tác và sẽ làm giảm áp lực lao<br />
động tự do tràn vào các đô thị tìm kiếm việc làm.<br />
Muốn vậy, trên cơ sở chính sách, quy định của<br />
Nhà nước, bên cạnh việc giao cho các địa phương<br />
chủ động xây dựng các chương trình kế hoạch và<br />
đề ra các phương án sát với thực tế, tỉnh cũng cần<br />
thường xuyên kiểm tra giám sát và tạo điều kiện<br />
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng<br />
xã hội nhất là ở các làng, xã vùng cao, nếu làm tốt<br />
<br />
được việc này thì sẽ thu hút được nhiều doanh<br />
nghiệp đầu tư vào các vùng miền núi và trung du;<br />
có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các cơ sở sản xuất về<br />
vốn, kỹ thuật, đào tạo công nhân lành nghề cũng<br />
như kinh nghiệm tổ chức quản lý và thị trường tiêu<br />
thụ sản phẩm.<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
44<br />
<br />
Bốn là, đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động<br />
nông thôn<br />
Thái Nguyên là tỉnh đứng thứ 3 của cả nước về<br />
giáo dục đào tạo với 19 trường Đại học và Cao<br />
đẳng, 52 cơ sở dạy nghề, do vậy Thái Nguyên<br />
cũng đã có nhiều chính sách đào tạo nghề cùng với<br />
các dự án cụ thể cho các vùng nông thôn, trong đó<br />
có những vùng bị thu hồi đất canh tác để phát<br />
triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tuy<br />
nhiên, vẫn còn có một bộ phận người lao động<br />
nông thôn chưa được tiếp cận với chính sách đào<br />
tạo nghề nên đã gặp nhiều khó khăn trong quá<br />
trình tìm kiếm việc làm. Bởi vì, những lao động<br />
này đều ở độ tuổi trên 35, trình độ văn hoá thấp, về<br />
phía cá nhân - họ không muốn học và cũng không<br />
có khả năng học. Đối tượng được đào tạo nghề<br />
hiện nay chủ yếu là lao động trong độ tuổi từ đủ 15<br />
đến 35, chiếm 58,28% tổng số lao động nông thôn<br />
trong độ tuổi trên địa bàn tỉnh. Các điều kiện đảm<br />
bảo chất lượng dạy nghề (cơ sở vật chất, trang thiết<br />
bị dạy nghề, đội ngũ giáo viên) tuy đã được tăng<br />
cường nhưng vẫn còn hạn chế so với yêu cầu thực<br />
tế của công tác dạy nghề trong thời kỳ mới. Đội<br />
ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề tuy đã<br />
được đào tạo, bồi dưỡng nhưng so với yêu cầu<br />
thực tế còn thiếu và một số chưa đạt chuẩn theo<br />
quy định. Công tác quản lý nhà nước về dạy nghề<br />
mới chủ yếu là quản lý đầu vào, quản lý quá trình<br />
đào tạo, chưa quản lý và kiểm soát được đầu ra<br />
cho quá trình đào tạo nghề. Công tác quản lý nội<br />
dung chương trình đào tạo của một số cơ sở dạy<br />
nghề còn yếu. Công tác dạy nghề thời gian qua chủ<br />
yếu là dựa trên khả năng đào tạo hiện có của cơ sở<br />
dạy nghề, việc đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp<br />
còn hạn chế, chưa phù hợp nhu cầu thị trường lao<br />
động dẫn đến tình trạng lao động qua đào tạo vừa<br />
thừa lại vừa thiếu. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát<br />
triển chưa hợp lý, quy mô đào tạo còn nhỏ, trình<br />
độ đào tạo thấp (chủ yếu là sơ cấp nghề và dạy<br />
nghề thường xuyên); lĩnh vực ngành nghề đào tạo<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Linh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
88(12): 41 - 46<br />
<br />
còn ít. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trình độ cao<br />
đẳng và trung cấp vẫn còn thấp so với tổng số lao<br />
động được đào tạo nghề, giai đoạn 2006 - 2010 chỉ<br />
chiếm 18,55% [6], thiếu lao động trình độ cao cho<br />
các khu, cụm công nghiệp, xuất khẩu lao động và<br />
chuyên gia.<br />
Do vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần đẩy mạnh đào<br />
tạo nghề cho lao động nông thôn, cụ thể: Xây dựng<br />
và phát triển hệ thống mạng lưới trường dạy nghề,<br />
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào<br />
tạo nghề nhằm tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào<br />
tạo ở nhiều nghề, nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch<br />
vụ; chú trọng đầu tư đào tạo một số nghề chất<br />
lượng cao, đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật<br />
trong quá trình phát triển kinh kế xã hội của tỉnh.<br />
Gắn công tác dạy nghề đáp ứng nhu cầu của doanh<br />
nghiệp và thị trường lao động, dạy nghề theo đơn<br />
đặt hàng,…Làm tốt công tác hướng nghiệp, phân<br />
luồng, định hướng cho người lao động, nhất là lao<br />
động trẻ sớm học nghề và thành thạo ở nghề đã<br />
học nhằm tăng cơ hội tìm được việc làm. Thực<br />
hiện có hiệu quả đề án đào tạo nghề cho lao động<br />
nông thôn theo quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ<br />
tướng Chính phủ. Tập trung vào các hoạt động chủ<br />
yếu sau:<br />
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy<br />
nghề đối với các cơ sở dạy nghề công lập.<br />
- Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý<br />
dạy nghề.<br />
- Xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu của<br />
các cơ sở dạy nghề.<br />
- Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề: chi phí dạy<br />
nghề, tiền ăn, chi phí đi lại.<br />
- Tổ chức đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường<br />
lao động, đào tạo nghề theo đơn đặt hàng, gắn<br />
đào tạo nghề với giải quyết việc làm.<br />
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào<br />
công tác đào tạo nghề theo phương thức xã hội hóa<br />
về công tác đào tạo nghề.<br />
- Xây dựng các chương trình, nội dung đào tạo, bồi<br />
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.<br />
- Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị<br />
trường lao động nhằm tăng cường thực hiện tốt<br />
chức năng quản lý nhà nước về lao động - việc<br />
làm. Đồng thời là cầu nối giữa cơ quan quản lý<br />
<br />
Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao<br />
động, các tổ chức giới thiệu việc làm, các<br />
trường và cơ sở đào tạo nghề.<br />
Để thực hiện hiệu quả đào tạo nghề cho lao động<br />
nông thôn, các địa phương và cơ sở đào tạo nghề<br />
phải phối hợp chặt chẽ, xây dựng kế hoạch cụ thể,<br />
tranh thủ các nguồn kinh phí được phân bổ để hỗ<br />
trợ cho quá trình đào tạo nghề cũng như giải quyết<br />
việc làm cho người lao động nông thôn, như:<br />
nguồn kinh phí Trung ương hỗ trợ hàng năm,<br />
nguồn kinh phí huy động từ ngân sách địa phương<br />
và huy động từ các nguồn khác.<br />
Năm là, đẩy mạnh xuất khẩu lao động<br />
Trong 5 năm (từ 2006 - 2010), tỉnh Thái Nguyên<br />
đã tạo điều kiện, hỗ trợ kinh phí cho xuất khẩu lao<br />
động làm việc có thời hạn ở nước ngoài, toàn tỉnh<br />
đã đưa được 10.438 lao động đi làm việc có thời<br />
hạn ở nước ngoài theo hợp đồng ở các thị trường<br />
như UAE, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật<br />
Bản… Số tiền gửi về gia đình qua 03 ngân hàng<br />
trong 5 năm qua (Ngân hàng Nông nghiệp &<br />
PTNT, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng<br />
Công thương) là 80 triệu USD (tương đương<br />
khoảng 1.600 tỷ VNĐ). Ngoài ra, người lao động<br />
còn gửi tiền về qua gửi trao tay hoặc dịch vụ<br />
chuyển tiển khác [6]…<br />
Mặc dù hoạt động xuất khẩu lao động là một giải<br />
pháp quan trọng nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập<br />
và giảm nghèo cho người lao động. Tuy nhiên,<br />
chất lượng nguồn lao động xuất khẩu chưa đáp<br />
ứng yêu cầu cả về ngoại ngữ, tay nghề, ý thức chấp<br />
hành pháp luật, tuân thủ các điều khoản đã cam kết<br />
trong hợp đồng. Có một số cá nhân, tổ chức đã lợi<br />
dụng lòng tin của bà con nông dân lừa đảo thu tiền<br />
bất chính, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận. Việc<br />
vay vốn cho người đi xuất khẩu lao động tại nhiều<br />
địa phương vẫn còn khó khăn, đối tượng được vay<br />
vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội không<br />
nhiều, những hạn chế này đã phần nào ảnh hưởng<br />
tới hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh<br />
Thái Nguyên trong thời gian qua.<br />
Để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, chính<br />
quyền cần tăng cường công tác quản lý các trung<br />
tâm, các cơ sở, tổ chức đưa người đi xuất khẩu lao<br />
động thực hiện đúng cam kết với người lao động.<br />
Thực hiện nghiêm các quy định, luật pháp của Nhà<br />
nước, cần có sự kết hợp có hiệu quả giữa chính<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
45<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />