Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG<br />
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC<br />
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br />
Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc ∗∗<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước<br />
và hội nhập quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu“tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản<br />
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”và có thể phát triển đất nước bền vững, Đảng<br />
Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến phát triển con người nói chung, phát triển nguồn nhân lực<br />
nói riêng, trong đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba đột phá chiến lược<br />
của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và Chiến lược<br />
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020.<br />
Từ khóa: nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức, Việt Nam<br />
<br />
HIGH QUALITY HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT IN QU1<br />
KNOWLEDGE ECONOMY IN VIETNAM TODAY<br />
ABSTRACT<br />
In this context, to promote the industrialization and modernization of the country and<br />
international integration to achieve the objective of “creating a foundation for 2020 put our<br />
country basically becomes an industrialized country modern” and maybe sustainable development<br />
of the country, the Communist Party of Vietnam has always focused on human development in<br />
general, human resource development in particular, in which the development of high quality<br />
human resources is a in three strategic breakthrough of the Platform for national construction in<br />
the transition to socialism and economic development strategy - social period 2011-2020.<br />
Keywords: high quality human resources, knowledge economy, Vietnam<br />
∗<br />
<br />
ThS. Giảng viên khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP.HCM<br />
<br />
∗∗<br />
<br />
ThS. Giảng viên Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan<br />
<br />
94<br />
<br />
Nguồn nhân lực . . .<br />
<br />
1. Nguồn nhân lực chất lượng cao và<br />
kinh tế tri thức<br />
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng<br />
sản xuất mới vào khoảng giữa thế kỷ XX đã<br />
dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó là một<br />
nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức,<br />
sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa<br />
vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng<br />
trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm<br />
cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học<br />
P.F.Durker gọi đó là nền “kinh tế tri thức” và<br />
tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với<br />
việc sử dụng chính thức của Ngân hàng Thế<br />
giới (WB). Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri<br />
thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri<br />
thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn<br />
chỉ giữ vai trò thứ yếu.<br />
Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân<br />
loại, con người là động vật duy nhất có năng<br />
lực sáng tạo tri thức, do đó, biết lao động sản<br />
xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri<br />
thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một<br />
lịch sử tất yếu.<br />
Hiện nay, trên thế giới, khái niệm “kinh tế<br />
tri thức” có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Tổ<br />
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)<br />
đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền<br />
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử<br />
dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với<br />
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao<br />
chất lược cuộc sống”; còn Viện Ngân hàng<br />
Thế giới (WBI) lại cho rằng: “Nền kinh tế tri<br />
thức là nền kinh tế dựa vào tri thức như là<br />
động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Đó<br />
là nền kinh tế trong đó tri thức được lĩnh hội,<br />
sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy<br />
phát triển”. Cũng có cách nêu ngắn gọn hơn<br />
là: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà tri<br />
thức là “đầu vào” (input) cơ bản của quá trình<br />
phát triển kinh tế”. Tuy cách diễn đạt có khác<br />
<br />
nhau, nhưng đều cho thấy điểm chung nhất<br />
trong nền kinh tế tri thức là công nghệ và tri<br />
thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự<br />
phát triển kinh tế.<br />
Tóm lại, có thể hiểu kinh tế tri thức là nền<br />
kinh tế mà sự phát triển của nó dựa chủ yếu vào<br />
tri thức, trên nền tảng tri thức; tri thức chiếm tỉ<br />
trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội.<br />
Để cụ thể hóa trong việc đánh giá trình<br />
độ phát triển kinh tế tri thức của các nước<br />
trên thế giới, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa<br />
ra chỉ số kinh tế tri thức KEI (Knowledge<br />
Economy Index), với thang điểm thấp nhất là<br />
0 và cao nhất là 10. Theo đó, chỉ số KEI của<br />
Việt Nam năm 2012 còn rất thấp, chỉ là 3,4<br />
xếp thứ 104/145 quốc gia được xếp loại, tăng<br />
9 bậc so với năm 2000, trong khi các nước có<br />
thu nhập trung bình chỉ số này là 4,1. Thêm<br />
vào đó, năng suất lao động của nước ta rất<br />
thấp. Theo Nghiên cứu của Tổ chức Lao động<br />
Quốc tế (ILO) công bố năm 2013 cho thấy<br />
năng suất lao động của Việt Nam năm 2013<br />
thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái Bình<br />
Dương – thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp<br />
hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với<br />
các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập<br />
trung bình, năng suất lao động của Việt Nam<br />
vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần<br />
năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan14.<br />
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), sự phát<br />
triển của nền kinh tế tri thức của một quốc gia<br />
dựa trên bốn trụ cột sau: lực lượng lao động<br />
trình độ cao, chất lượng cao; hệ thống sáng<br />
tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả; hệ<br />
thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện<br />
đại; hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế<br />
hiện đại. Ngoài ra, kinh tế tri thức còn được<br />
xác định dựa trên bốn tiêu chí cơ bản như sau:<br />
14 http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/motnguoi-singapore-lam-bang-15-nguoi-viet-2989707.html; Ngày<br />
truy cập: 01/7/2015<br />
<br />
95<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
≥ 70% GDP do đóng góp của các ngành kinh<br />
tế tri thức; ≥ 70% giá trị gia tăng do lao động<br />
trí óc mang lại; ≥ 70% lực lượng lao động xã<br />
hội là lao động trí óc; ≥ 70% vốn sản xuất là<br />
vốn về con người.<br />
Như vậy, theo Ngân hàng Thế giới (WB),<br />
trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức<br />
chính là “lực lượng lao động trình độ cao, chất<br />
lượng cao”; còn trong bốn tiêu chí xác định<br />
nền kinh tế tri thức thì có đến ba tiêu chí liên<br />
quan đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Qua<br />
đây chúng ta thấy rằng để phát triển được nền<br />
kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực chất lượng<br />
cao đóng vai trò quan trọng nhất. Do vậy, phát<br />
triển kinh tế tri thức tốt nhất trong bối cảnh<br />
hiện nay của Việt Nam là phải thúc đẩy phát<br />
triển đội ngũ lao động chất lượng cao. Và, chỉ<br />
có phát triển đội ngũ lao động chất lượng cao<br />
để phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam mới có<br />
thể thực hiện được mục tiêu “tạo nền tảng để<br />
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành<br />
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”<br />
hay xa hơn là “từ nay đến giữa thế kỷ XXI,<br />
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện<br />
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa”15.<br />
Vấn đề được đặt ra là, nguồn nhân lực chất<br />
lượng cao là gì? Theo cách hiểu mang tính<br />
chất định tính thì “nguồn nhân lực chất lượng<br />
cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có<br />
khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của<br />
công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả<br />
cao trong công việc, có những đóng góp đáng<br />
kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng<br />
đồng cũng như của toàn xã hội”16.<br />
Mặt khác, mỗi quốc gia để phát triển bao<br />
giờ cũng phải có các nguồn lực cho sự phát<br />
triển. Trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội<br />
<br />
nào, trình độ và tính chất phát triển ra sao thì<br />
các nguồn lực cho sự phát triển vẫn là tư liệu<br />
sản xuất (đất đai, tài nguyên, máy móc thiết<br />
bị, công nghệ, tài chính...) và sức lao động<br />
(nguồn nhân lực và rộng ra là nguồn vốn con<br />
người, vốn xã hội, vốn thể chế...). Trong đó,<br />
sức lao động - nguồn nhân lực - con người là<br />
yếu tố động nhất, nguồn gốc của mọi của cải<br />
vật chất và sức sáng tạo ra các nền văn minh.<br />
Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại cho<br />
thấy, sự thành bại của các quốc gia không thể<br />
là quá trình lịch sử tự nhiên, mà là một quá<br />
trình liên tục kế tiếp nhau của năng lực sáng<br />
tạo mang tính cách mạng của nhân loại qua<br />
các khúc quanh lịch sử. Một quốc gia giàu tài<br />
nguyên thiên nhiên, rất thuận lợi cho sự phát<br />
triển, nhưng chưa hẳn là quốc gia giàu có và<br />
ngược lại, Nhật Bản là một minh chứng rõ<br />
nhất cho vấn đề này.<br />
Tóm lại, về cơ bản chúng ta có thể khẳng<br />
định rằng, nguồn lực con người, vốn con người<br />
là hết sức quan trọng trong chiến lược và chính<br />
sách phát triển của mọi quốc gia. Theo Liên<br />
Hợp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những<br />
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và<br />
tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự<br />
phát triển của mỗi cá nhân và đất nước”. Ngân<br />
hàng Thế giới cũng cho rằng “nguồn nhân lực là<br />
toàn bộ vốn con người, bao gồm thể lực, trí lực,<br />
kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân”. Như<br />
vậy, con người là tài nguyên đặc biệt và nguồn<br />
nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực của lực<br />
lượng lao động toàn xã hội. Nguồn nhân lực ấy<br />
kết tinh truyền thống, kinh nghiệm, trí tuệ của<br />
mỗi dân tộc và tinh hoa tri thức nhân loại được<br />
vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh<br />
thần phục vụ cho nhu cầu phát triển hiện tại và<br />
tương lai của mọi quốc gia.<br />
Ðiều này càng hoàn toàn đúng và trở thành<br />
quan trọng hơn trong thời đại ngày nay, khi<br />
<br />
15 Đảng CSVN (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần<br />
thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.71<br />
16 http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/30648/Giao-duc-dao-tao-voi-phat-trien-nguon-nhanluc-chat-luong.aspx; Ngày truy cập 27/6/2015<br />
<br />
96<br />
<br />
Nguồn nhân lực . . .<br />
<br />
khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành<br />
lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế tri thức<br />
ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh<br />
tế - xã hội của mọi quốc gia - dân tộc; khi lợi<br />
thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa<br />
và hội nhập quốc tế đã không còn dựa trên<br />
con số cộng của các yếu tố cấu thành đầu vào<br />
như: đất đai, khai thác tài nguyên, lao động rẻ,<br />
nhiều vốn tài chính, mà là dựa trên công nghệ,<br />
tri thức, tư duy đổi mới và năng lực sáng tạo<br />
của chính con người. Nguồn nhân lực, nguồn<br />
vốn con người, theo đó, đang ngày càng được<br />
xác định là yếu tố trung tâm trong hệ thống<br />
các nguồn lực phát triển, nhân tố quyết định<br />
việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các<br />
nguồn lực khác. Và điều quan trọng hơn, ngày<br />
nay, nguồn nhân lực được mọi quốc gia quan<br />
tâm tới không phải là nguồn nhân lực nói<br />
chung, mà là nguồn nhân lực chất lượng cao.<br />
Ðó là những người lao động có kỹ năng, các<br />
nhà kinh doanh năng động và tài ba, các nhà<br />
quản lý giỏi, các nhà khoa học và công nghệ<br />
xuất sắc, các nhà lãnh đạo chính trị có tầm<br />
nhìn chiến lược và tư duy đổi mới vượt trội.<br />
Do đó, cũng có thể nói, nguồn nhân lực chất<br />
lượng cao là nhân tài của các quốc gia, nhân<br />
tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả<br />
và khả năng cạnh tranh của mọi nền kinh tế;<br />
quyết định vận mệnh của các dân tộc và tương<br />
lai phát triển của nhân loại.<br />
2. Chủ trương phát triển nguồn nhân<br />
lực chất lượng cao gắn vớiphát triển kinh<br />
tế tri thức ở Việt Nam nhằm đẩy mạnh<br />
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước<br />
Nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực<br />
đối với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tại Ðại hội<br />
VIII (1996), Ðảng đã đề ra quan điểm: “Lấy<br />
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu<br />
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền<br />
<br />
vững”17, và “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và<br />
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt<br />
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công<br />
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”18. Ðồng<br />
thời, nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa<br />
quyết định của nguồn nhân lực chất lượng cao<br />
trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng và<br />
lợi thế cạnh tranh quốc tế đã thuộc về công<br />
nghệ, tri thức, lao động có kỹ năng..., tại Ðại<br />
hội X (2006), Ðảng đã đề ra chủ trương “đổi<br />
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển<br />
nguồn nhân lực chất lượng cao... chấn hưng<br />
nền giáo dục Việt Nam”19. Và, để thực hiện<br />
thắng lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp<br />
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải<br />
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tức<br />
là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn<br />
nhân lực từ theo chiều rộng sang chiều sâu,<br />
Ðảng chủ trương phải đặc biệt coi trọng và<br />
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo<br />
tinh thần của Ðại hội X, Hội nghị Trung ương<br />
7 khóa X đã ban hành Nghị quyết 27 (2009)<br />
về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ<br />
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất<br />
nước, xác định rõ vai trò căn bản, động lực<br />
của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng<br />
cao chính là xây dựng đội ngũ trí thức. Ðảng<br />
nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng<br />
lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong<br />
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại<br />
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng<br />
kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt<br />
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây<br />
dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp<br />
nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất<br />
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng<br />
và chất lượng hoạt động của hệ thống chính<br />
17 Đảng CSVN (200), Các nghị quyết của Trung ương Ðảng 19961999, Nxb. CTQG, HN, tr.85<br />
18 Đảng CSVN (1996), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần<br />
thứ VIII, Nxb. CTQG, HN, tr.21<br />
19 Đảng CSVN (2006), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần<br />
thứ X, Nxb. CTQG, HN, tr.91<br />
<br />
97<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
trị. Ðầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư<br />
cho phát triển bền vững”20.<br />
Tại Ðại hội XI (2011) của Ðảng Cộng sản<br />
Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục<br />
tiêu tổng quát là “tạo nền tảng để đến năm<br />
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công<br />
nghiệp theo hướng hiện đại”, Ðảng đã xác<br />
định ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện<br />
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội<br />
chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ<br />
tầng đồng bộ; và phát triển nhanh nguồn nhân<br />
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,<br />
trong đó phát triển và nâng cao chất lượng<br />
nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định<br />
là “yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và<br />
ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền<br />
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là<br />
lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm<br />
cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”21.<br />
Khâu đột phá này chính là bước ngoặt quan<br />
trọng nhằm tập trung nâng cao sức mạnh nội<br />
sinh: tri thức - trí tuệ của dân tộc Việt Nam<br />
để thích ứng và đột phá phát triển trong một<br />
thế giới năng động, của thời đại khoa học và<br />
công nghệ phát triển như vũ bão; và chỉ có<br />
như vậy, nền kinh tế nước ta mới có được sự<br />
tăng trưởng nhanh, hiệu quả, có chất lượng và<br />
bền vững; mới có thể thoát ra khỏi nguy cơ<br />
rơi vào bẫy thu nhập trung bình đang hiện hữu<br />
và sớm đưa nước ta trở thành một nước công<br />
nghiệp theo hướng hiện đại.<br />
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI, Chính<br />
phủ đã có hai văn bản rất quan trọng nhằm<br />
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: Chiến<br />
lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ<br />
2011-2020 đã được Chính phủ thông qua<br />
trong Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 194-2011 và Quy hoạch phát triển nhân lực Việt<br />
<br />
Nam giai đoạn 2011-2020 cũng đã được Thủ<br />
tướng Chính phủ ký tại Quyết định 1216/QĐTTg, ngày 22-7-2011. Gần đây nhất là việc<br />
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua<br />
Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản,<br />
toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu<br />
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều<br />
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội<br />
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Đảng không<br />
chỉ coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự<br />
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân,<br />
mà còn nhấn mạnh ưu tiên đầu tư phát triển<br />
giáo dục trong các chương trình, kế hoạch<br />
phát triển kinh tế - xã hội; chuyển mạnh quá<br />
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức<br />
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm<br />
chất người học, học đi đôi với hành, lý luận<br />
gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp<br />
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đó<br />
là những văn bản pháp lý quan trọng có tính<br />
định hướng để phát triển nhân lực Việt Nam<br />
đến năm 2020 nhằm phát triển kinh tế tri thức<br />
và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện<br />
đại hóa đất nước.<br />
3. Thực trạng đào tạo và phát triển<br />
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam<br />
thời gian qua<br />
Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn<br />
nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng lại<br />
rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước có<br />
khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học;<br />
1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc<br />
sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công<br />
nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng,<br />
trong số đó 49% giảng viên đại học có trình<br />
độ thạc sĩ trở lên. Cả nước hiện có 14.000 giáo<br />
viên trung cấp chuyên nghiệp; 11.200 giáo<br />
viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ<br />
thông. Trong số 9.000 tiến sĩ được điều tra thì<br />
có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực<br />
<br />
20 Sđd, tr.91<br />
21 Ðảng CSVN (2011), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần<br />
thứ XI, Nxb. CTQG, HN, tr.130<br />
<br />
98<br />
<br />