
Nguyễn Thị Ba - Nguời giữ bí mật của huyền
thoại Phạm Xuân Ẩn
Written by lichsuvn.info
Thursday, 17 April 2008
Một ngày cuối năm 1969, trên đường phố Sài Gòn có
vụ cự cãi giữa một phụ nữ bán hàng rong với mấy
cảnh sát. Cảnh sát đuổi những người bán hàng rong
đi nơi khác. Người phụ nữ rủ bà con phản đối chính
quyền ức hiếp dân. Thấy mấy bà làm dữ, nhóm cảnh
sát bỏ đi sau khi dọa dẫm, chửi thề. Những cảnh sát
ấy (người có cấp bậc cao nhất là thượng sĩ) đâu thể
ngờ người bán hàng rong vừa cự cãi với họ đang
"mang" quân hàm cao hơn họ rất nhiều, cấp bậc đại
uý, mà là đại úy tình báo QĐNDVN.

Phương tiện hoạt động của bà là mâm đồ trang sức
bằng vàng giả rẻ tiền. Ngày hôm ấy, suýt chút nữa là
cảnh sát đã hất đổ cái mâm đang chứa đựng những
thông tin tối mật về kế hoạch chiến dịch Lam Sơn -
đường 9 Nam Lào diễn ra sau đó mấy tháng. Khi
chính quyền Sài Gòn và các quan thầy c
ố vấn Mỹ đau
như cắt vì kế hoạch chiến dịch đã bị đối phương nắm
trước, thì người phụ nữ ấy vẫn tảo tần bán bưng trên
khắp nẻo Sài Gòn.
Sở dĩ lần ấy bà không nhường nhịn cảnh sát cho êm
chuyện, vì với tư cách trạm liên lạc di động, bà buộc
phải có mặt ở vị trí đó để duy trì đường dây. Người
phụ nữ ấy là chiếc cầu nối duy nhất giữa nhà tình báo
chiến lược Phạm Xuân Ẩn với hậu phương. Hôm ấy,
sau khi cảnh sát bỏ đi, bà không phải đợi lâu, ông Ẩn
đường hoàng chạy xe hơi đến gặp bà. Ông cho biết,
ông đến trễ là do tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ lại nói

chuyện. Chỉ qua mấy phút ngắn ngủi trò chuyện vu
vơ giữa thanh thiên bạch nhật, ông Ẩn và bà đã trao
đổi xong những thông tin, tài liệu mà với cặp mắt
bình thường không ai có thể nhận ra. Nghề tình báo
tưởng như tuyệt đối bí mật ấy được bà và ông Ẩn
biến hóa sáng tạo thành công khai, mang dáng vẻ đời
thường. Có lẽ chính yếu tố bất ngờ đó đã giúp h
ọ suốt
15 năm hoạt động ngay trước mũi đối phương mà h
ầu
như chưa có lần nào rơi vào tình thế hiểm nghèo.
Những nẻo đường đấu tranh
Bà Ba ra đời cùng năm với Cách mạng Tháng Mười,
ở huyện Đức Hòa (Long An). Cô gái quê đã sớm đến
với cách mạng. Năm 1936, bà được kết nạp Đảng.
Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, bà cùng các đồng chí ở
Đức Hòa tổ chức cướp chính quyền ở một số nơi.
Nhưng cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu. Anh

ruột và chồng bà bị bắt đày đi Côn Đảo. Giặc Pháp
lùng bố gắt gao, bà phải lánh khỏi địa phương. Bà có
mặt ở Sài Gòn trong những ngày Cách mạng Tháng
Tám hào hùng.
Tận hưởng cuộc sống độc lập chưa đầy tháng, bà
bước vào cuộc kháng chiến 9 năm với tư cách
UVBCH Hội PN Sài Gòn. Năm 1948, bà được điều
chuyển về Hội Phụ nữ tỉnh Tân An. Năm 1952 bà về
Rạch Giá, thôi làm công tác phụ nữ, chuyển sang làm
công tác mật, cái cơ duyên cho một nữ sĩ quan tình
báo sau này.
Hiệp định Genève được ký kết, bà có tên trong danh
sách tập kết ra Bắc, nhưng cuối cùng đã xin
ở lại. Sau
đó là mấy năm bà hoạt động ở địa bàn Cà Mau, được
ông Mười Hương (một cán bộ an ninh cấp cao) đào
tạo trong một lớp học đặc biệt ở Đất Mũi. Liên tục

những chuyến công tác mật của bà đi lại giữa Cà
Mau và Sài Gòn, đường xa hun hút với bao cạm bẫy
rình rập. Năm 1958 bà chuyển về Châu Đốc - Hồng
Ngự, tại đây sau một lớp tập huấn nghiệp vụ t
ình báo,
bà được tung về Sài Gòn với bí số B3.
Hạnh phúc thời chiến
Có thể nói, gia đình bà là điển hình của chia ly cách
trở trong một giai đoạn bi thương mà hào hùng của
đất nước. Bà và ông Trần Văn Phước gặp nhau trên
đường đấu tranh và thành vợ thành chồng đầu năm
1941. Từ đó cho đến ngày mi
ền Nam giải phóng, suốt
34 năm trên danh nghĩa chồng vợ nhưng th
ời gian hai
người ở bên nhau có thể đếm bằng số ngày. Sau ngày
cưới chưa đầy tháng, ông bị bắt đày đi Côn Đảo.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Tôn cùng

