Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NHẬN DIỆN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÀNG XÃ VEN BIỂN ĐÀ NẴNG<br />
ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA TƯ LIỆU ĐỊA BẠ<br />
? LÊ XUÂN THÔNG *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
L<br />
à một thành phố duyên hải, Đà Nẵng có các làng là không đều nhau mà có sự chênh lệch rất<br />
nhiều làng xã định cư dọc theo đường bờ lớn. Nam An là làng lớn nhất có diện tích 351.1.9.0<br />
biển từ chân đèo Hải Vân (phía tây bắc) (351 mẫu 1 sào 9 thước 0 tấc); nhỏ nhất là làng Cổ<br />
đến Ngũ Hành Sơn (phía đông nam), kéo Mân có diện tích 90.8.5.2. Tổng diện tích của năm làng<br />
dài khoảng 50 km. Hầu hết, các làng xã này được khai là 994.6.13.7.7 (994 mẫu 6 sào 13 thước 7 tấc 7 phân).<br />
phá, xác lập vào thời chúa Nguyễn (thế kỷ XVI - XVII). Quy mô bình quân của một làng là 198.9.5.7.5.4 (198<br />
mẫu 9 sào 5 thước 7 tấc 5 phân 4 ly) (xem bảng 1).<br />
Bài viết này tập trung tìm hiểu về quy mô làng xã,<br />
tình trạng đất đai và tình hình sở hữu ruộng đất đầu Bảng 1. Quy mô diện tích làng xã khu vực<br />
thế kỷ XIX trên cơ sở nguồn tư liệu địa bạ của năm ven biển (Đà Nẵng)<br />
làng, gồm: Cổ Mân, Hoa Ổ, Nam An, Tân An và Thanh Tên làng Diện tích Quy mô<br />
Khê. Bấy giờ, những làng này thuộc hai huyện Diên TT<br />
xã (m.s.th.t.p) bình quân<br />
Khánh và Hòa Vang, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam.1 1 Cổ Mân 90.8.5.2.0<br />
Dĩ nhiên, số làng xã này chưa phải là toàn bộ khu vực 2 Tân An 103.9.2.0.0<br />
3 Hoa Ổ 134.4.3.9.0 Khoảng<br />
ven biển Đà Nẵng nhưng với sự phân bố trải đều trên<br />
4 Thanh Khê 314.3.8.6.7 trên 198<br />
các địa bàn khác nhau, lại tương đồng về lịch sử hình mẫu/làng<br />
5 Nam An 351.1.9.0.0<br />
thành nên có thể coi là cơ sở đảm bảo cho kết quả<br />
nghiên cứu. Tổng cộng 994.6.13.7.7<br />
Nguồn: Địa bạ của năm làng Cổ Mân, Tân An,<br />
Địa bạ được sử dụng đều do chúng tôi sưu tầm<br />
Hoa Ổ, Thanh Khê và Nam An<br />
từ dân gian (tức là bản Bính). Về niên đại, bốn địa<br />
bạ thuộc Gia Long thứ 13 (1814) và Gia Long thứ 14 Trong khi đó, từ số liệu 937 làng (có địa bạ) của<br />
(1815); riêng địa bạ xã Hoa Ổ thuộc Khải Định thứ 8 dinh Quảng Nam và 365 làng (có địa bạ) của phủ Điện<br />
(1923). Tuy nhiên, đây là bản do bộ Hộ sao lục từ bản Bàn mà Nguyễn Đình Đầu giới thiệu3, ta biết mức bình<br />
gốc được lưu trữ tại kinh đô có niên đại Gia Long thứ quân của một làng, lần lượt là khoảng 219 mẫu và 236<br />
13, để giao cho tỉnh Quảng Nam và làng Hoa Ổ. Bởi lúc mẫu. Như vậy, có thể thấy quy mô làng xã ven biển Đà<br />
bấy giờ, tỉnh Quảng Nam đang giải quyết tranh chấp Nẵng nhỏ hơn nhiều làng xã khác trong vùng, nhất<br />
đất đai giữa hai làng Hoa Ổ và Xuân Thiều nhưng địa là trong nội phủ Điện Bàn. Tuy nhiên, đây mới là so<br />
bạ làng Hoa Ổ đã bị mất.2 Như vậy, thực chất về nội sánh trên đại thể, chung nhất. Để dễ hình dung và<br />
dung, đây là địa bạ thời Gia Long. Tất cả các địa bạ đồng thời làm sáng tỏ hơn quy mô làng xã ven biển<br />
đều được viết trên giấy dó, đa phần còn nguyên vẹn, Đà Nẵng, chúng tôi đem so sánh với các làng xã khác<br />
trong bối cảnh không gian nhỏ hơn - tức ở thành phố<br />
duy địa bạ Tân An bị hư nát cục bộ nên đôi chỗ mất<br />
Đà Nẵng ngày nay - trên cơ sở những khác biệt cơ bản<br />
chữ, song nội dung cơ bản của nó - các loại đất đai và<br />
về địa lý - địa hình, như với làng vùng đồng bằng ven<br />
tình hình ruộng đất - thì vẫn còn đầy đủ.<br />
sông, vùng gò đồi - bán sơn địa.<br />
1. Quy mô diện tích làng xã<br />
Trước hết xin nói đến các làng thuộc khu vực đồng<br />
Thống kê từ địa bạ cho thấy, quy mô diện tích giữa bằng ven sông. Đại diện tiêu biểu cho khu vực này là<br />
*<br />
ThS., Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ.<br />
<br />
64 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
những làng nằm bên các con sông Thúy Loan, Cẩm biển có thể nói là rất nhỏ, chỉ chưa bằng 1/3, nhưng<br />
Lệ, Cổ Cò và sông Yên, vốn được khai phá sớm - có thể so với khu vực gò đồi - bán sơn địa thì nó lại trở nên<br />
nói thuộc nhóm những làng xã có lịch sử lâu đời nhất vượt trội (xem bảng 4). Rõ ràng, sự khác biệt về địa<br />
Đà Nẵng - từ giữa thế kỷ XVI đã được Ô châu cận lục lý - địa hình đã dẫn đến sự khác biệt về quy mô làng<br />
nói đến. Kết quả thống kê từ 10 làng cho thấy, làng xã ở Đà Nẵng.<br />
xã ở đây có quy mô lớn, với mức bình quân là khoảng Bảng 4. Quy mô bình quân làng xã theo<br />
626 mẫu/làng xã (xem bảng 2). khu vực (địa lý) ở Đà Nẵng<br />
Bảng 2. Quy mô diện tích làng xã khu vực<br />
TT Khu vực Quy mô bình quân<br />
đồng bằng ven sông (Đà Nẵng)<br />
Gò đồi - bán<br />
1 Khoảng trên 175 mẫu/làng<br />
Diện tích Quy mô sơn địa<br />
TT Tên làng xã<br />
(m.s.th.t.p) bình quân 2 Ven biển Khoảng trên 198 mẫu/làng<br />
1 Lỗ Giản 153.1.3.5.6 Đồng bằng ven<br />
3 Khoảng trên 626 mẫu/làng<br />
2 Cẩm Lệ 199.9.1.0.0 sông<br />
3 Quá Giản 365.9.9.5.6<br />
2. Tình trạng đất đai<br />
4 Thúy Loan 462.3.5.6.0<br />
5 Cẩm Nê 480.5.14.8.0 Cũng như nhiều làng xã khác nằm ở rìa cuối của<br />
Khoảng<br />
6 Lệ Sơn 597.7.9.8.0 đồng bằng duyên hải miền Trung vốn được tạo nên<br />
trên<br />
7 Yến Nê 705.1.10.2.0 chủ yếu bởi sự vận động nâng lên của đất liền, sự bồi<br />
8 Cẩm Toại 808.3.5.5.0 626 mẫu/ tụ của phù sa biển và thêm nữa là những cồn cát di<br />
Hóa Khuê làng động nên đất đai làng xã ven biển Đà Nẵng rất xấu, đa<br />
9 927.3.13.6.0<br />
Đông phần là cát trắng với những bãi hay gò nổng; ruộng<br />
Hóa Khuê đất khan hiếm và manh mún.<br />
10 1.566.0.3.9.0<br />
Trung Tây<br />
Tổng cộng 6266.6.5.5.2 Trong năm làng được nghiên cứu thì Hoa Ổ là làng<br />
hoàn toàn không có ruộng đất thực canh, tức không<br />
Nguồn: Nguyễn Đình Đầu, Sđd có điền (ruộng lúa) cũng chẳng có thổ (đất trồng các<br />
Còn đây là số liệu quy mô làng xã khu vực gò đồi loại cây khác). Những làng có ruộng đất thực canh thì<br />
- bán sơn địa. Khu vực này chính là dải đất hình cánh chỉ có điền mà không có thổ, với một tỷ lệ hết sức<br />
cung nằm về phía tây - tây nam của thành phố Đà nhỏ bé trong diện tích tổng thể. Cao nhất như Thanh<br />
Nẵng hiện nay, bấy giờ tương ứng với hầu hết các Khê cũng chỉ chiếm 28%; số khác, không vượt quá<br />
làng xã thuộc hai tổng Hòa An Thượng và Phước 11% (như Cổ Mân 10,71%, Nam An 9,47% và Tân An<br />
Tường Thượng của huyện Hòa Vang, gồm 54 làng (trừ 2,80%). Tính chung cho năm làng, diện tích ruộng<br />
4 làng Bình An Trung, Hòa Mỹ, Hòa An (Yên) và Phú chỉ gần 14% trong tổng thể đất đai. Tỷ lệ này rất thấp<br />
Lộc)4, tổng diện tích là 9.497.5.13.6.2; mức bình quân so với mức bình quân của dinh Quảng Nam là 59%5,<br />
khoảng 175 mẫu/làng (xem bảng 3). và còn thấp hơn nữa so với nhiều địa phương khác<br />
trong cả nước cùng thời kỳ. Trong khi đó, đất cát trắng<br />
Bảng 3. Quy mô diện tích làng xã khu vực hoang nhàn, gò nổng chiếm tỷ lệ không nhỏ. Chẳng<br />
gò đồi - bán sơn địa (Đà Nẵng) hạn làng Thanh Khê, đất đai loại này là 22,30%. Hoặc,<br />
Số Quy mô trở lại với làng Hoa Ổ, cát trắng hoang nhàn, rừng rú<br />
Diện tích chiếm tỷ lệ đến 59,56% tổng diện tích.<br />
TT Tổng làng bình<br />
(m.s.th.t.p)<br />
xã quân Bảng 5. Cơ cấu đất đai theo mục đích sử dụng<br />
Hòa An<br />
1 28 4.955.4.3.6.5 Khoảng Diện tích Tỷ lệ<br />
Thượng TT Loại đất<br />
trên (m.s.th.t.p) %<br />
Phước<br />
2 Tường 26 4.542.1.9.9.7 175 1 Điền 138.3.9.8.7 13,91<br />
Thượng mẫu/ Đất khác (thổ cư,<br />
làng 2 mộ địa, hoàng nhàn, 856.3.3.9.0 86,09<br />
Tổng cộng 54 9.497.5.13.6.2<br />
thần từ phật tự)<br />
Nguồn: Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr.307, 322. Tổng cộng 994.6.13.7.7 100<br />
Từ những thống kê trên, ta dễ dàng nhận ra rằng, Nguồn: Địa bạ của năm làng Cổ Mân, Tân An,<br />
so với khu vực đồng bằng ven sông, quy mô làng ven Hoa Ổ, Thanh Khê và Nam An<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
65<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
Sự nghèo nàn về ruộng đất không chỉ biểu hiện ở thấy ghi chép. Hiện tượng này ít nhiều phản ánh việc<br />
số lượng mà còn ở chất lượng. Bởi, như ta thấy ở bảng lập địa bạ thời Gia Long chưa phải đã chặt chẽ, bởi lẽ<br />
6: ruộng hạng 1, hạng 2 cực kỳ ít ỏi, chưa đến 2% (và không thể không tồn tại các loại đất này trong thực<br />
đều thuộc làng Cổ Mân); ruộng hạng 3 và ruộng thu6 tế.8 Đất ở được ghi trong địa bạ là “đồng cư trú” nghĩa<br />
- hai mức thấp cuối cùng trong thang phân loại đẳng là “cùng cư trú”, hoặc “đồng kết lập gia cư” nghĩa là<br />
hạng ruộng đất lúc bấy giờ - chiếm ưu thế tuyệt đối, “cùng kết lập đất ở”. Tổng số đất ở của ba làng Hoa Ổ,<br />
trên 98% (xem bảng 6). Tân An và Thanh Khê là 140.2.11.9.0; trong đó, riêng<br />
Tính manh mún của ruộng đất cũng thể hiện rất Thanh Khê chiếm hơn một nửa (87 mẫu), lớn gấp hơn<br />
rõ qua số sở ruộng và quy mô diện tích bình quân 5 lần Hoa Ổ (16.2.11.9.0).<br />
của nó. Có tổng cộng 493 sở ruộng, bình quân 1 sở Đất công trình tín ngưỡng tôn giáo, được ghi cụ<br />
khoảng 0.2.12.0.9.9 (0 mẫu 2 sào 12 thước 0 tấc 9 thể tùy theo từng đối tượng, bao gồm đất chùa, đình<br />
phân 9 ly) (xem bảng 7). Trong đó, sở ruộng dưới 1 sào miếu, miếu hội đồng (tức miếu âm linh - cô hồn).<br />
rất phổ biến. Làng có nhiều sở ruộng nhất và cũng Thanh Khê là làng có nhiều đất loại này hơn cả (13<br />
manh mún nhất là Nam An. mẫu), tiếp đến là Hoa Ổ (1.3.11.5.0).<br />
Bảng 6. Cơ cấu ruộng đất theo đẳng hạng 3. Tình hình sở hữu ruộng đất<br />
Diện tích Tỷ lệ Xét ở góc độ sở hữu, ruộng đất có hai loại: ruộng<br />
TT Hạng ruộng<br />
(m.s.th.t.p) % đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất tư hữu. Đến<br />
1 Hạng 1 0.6.0.0.0 0,40 nửa đầu thế kỷ XIX, ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về<br />
2 Hạng 2 2.1.4.3.0 1,50 ruộng đất đã trở nên áp đảo, tuy rằng có sự khác nhau<br />
3 Hạng 3 29.1.7.9.0 21,10 về mức độ, quy mô giữa các địa phương. Có nơi (bao<br />
4 Ruộng thu 106.4.12.6.7 77,00 gồm cả dinh Quảng Nam), nhiều xã, tổng, thậm chí<br />
Tổng cộng 138.3.9.8.7 100 đến cấp huyện/châu, tư hữu hóa ruộng đất đã diễn<br />
ra triệt để.9 Trong xu thế đó, ở các làng xã ven biển<br />
Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Đà Nẵng, đầu thời Gia Long, tuyệt nhiên không tồn<br />
Thanh Khê và Nam An tại sở hữu nhà nước về ruộng đất - tức chỉ có tư điền,<br />
Bảng 7. Quy mô sở ruộng công điền hoàn toàn vắng bóng. Tư điền gồm hai bộ<br />
phận: bộ phận do cá nhân làm chủ (tức sở hữu cá<br />
TT Làng xã Điền (m.s.th.t.p) Số sở<br />
thể) chiếm phần ưu thắng; bộ phận do tập thể - cộng<br />
1 Cổ Mân 9.7.5.2.0 27<br />
2 Nam An 33.2.9.0.0 265 đồng làng xã làm chủ (tức sở hữu tập thể)10 không<br />
3 Tân An 2.9.2.0.0 13 đáng kể (xem bảng 8).<br />
4 Thanh Khê 92.4.8.6.7 188 Tư điền làng xã nói trên không phải phân bố ở tất<br />
Tổng cộng 138.3.9.8.7 493 cả những làng có ruộng mà chỉ xuất hiện ở mỗi làng<br />
Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, Thanh Khê, được ghi trong địa bạ là “do bổn xã đồng<br />
Thanh Khê và Nam An canh” - tức do làng xã cùng canh tác, không phải cho<br />
Điểm đáng chú ý là các làng xã đã dành một phần thuê hay phát canh thu tô. Hoa lợi thu được hẳn nhiên<br />
diện tích không nhỏ cho mộ địa. Tổng hợp từ địa bạ cũng do làng xã quản lý và sử dụng vào việc công,<br />
bốn làng Hoa Ổ, Nam An, Tân An và Thanh Khê7, đất như hội hè đình đám…11 Về nguồn gốc, loại ruộng<br />
loại này là 178.8.0.0.0 (178 mẫu 8 sào), lớn xấp xỉ 1,4 này có thể được hình thành bởi hai khả năng, hoặc là<br />
lần đất ruộng (128.4.6.7) và chiếm gần 20% toàn diện do tư nhân hiến cúng hoặc là do làng ẩn lậu làm của<br />
tích (903.8.8.5.7). Làng có diện tích mộ địa nhiều nhất riêng (lậu điền).<br />
là Thanh Khê (50 mẫu); nhưng chiếm tỷ lệ cao nhất Bảng 8. Các loại tư điền<br />
trong cơ cấu đất đai là làng Tân An (42%). Một cách<br />
giải thích hợp lý nhất trong trường hợp này, có lẽ, là Diện tích<br />
TT Hình thức sở hữu Tỷ lệ<br />
(m.s.th.t.p)<br />
do đất đai quá xấu.<br />
1 Cá thể 126.7.12.8.7 91,64<br />
Còn hai loại đất đai khác nữa, đó là thổ cư và đất<br />
2 Tập thể 11.5.12.0.0 8,36<br />
công trình tín ngưỡng tôn giáo. Có điều, nó không<br />
Tổng cộng 138.3.9.8.7 100<br />
xuất hiện đầy đủ trong tất cả các địa bạ. Nghĩa là, có<br />
địa bạ ghi đất loại này mà không có loại kia và ngược Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An,<br />
lại; hoặc như địa bạ làng Cổ Mân hoàn toàn không Thanh Khê và Nam An<br />
<br />
66 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
Số tư điền cá thể phân bố cho 82 chủ sở hữu, chủ tổng diện tích tư điền. Đặc biệt, làng Tân An với số<br />
sở hữu lớn nhất là 18.0.0.6.0, chủ sở hữu nhỏ nhất là tư điền chỉ 2.9.2.0.0 nhưng hoàn toàn do phụ canh.<br />
0.1.0.0.0; bình quân mỗi chủ sở hữu khoảng 1.5.6.9.2.5. Số phụ canh làng Cổ Mân cũng đáng chú ý, chiếm<br />
Làng có mức sở sữu bình quân cao nhất là Thanh Khê 63,63% số chủ và 66,66% diện tích tư điền. Quê quán<br />
(2.4.7.6.2.6); thấp nhất là Tân An (0.4.12.8.3.3). các chủ phụ canh tuyệt đại đa số ở những làng lân<br />
cận thuộc nội tổng.<br />
Trong 82 chủ sở hữu thì lớp sở hữu từ 1 mẫu trở<br />
xuống chiếm ưu thế nổi trội, với 50 chủ sở hữu, chiếm Bảng 10: Quy mô sở hữu theo dòng họ<br />
60,98%; tiếp đó là lớp sở hữu từ trên 1 mẫu đến 3<br />
Chủ sở hữu Diện tích sở hữu<br />
mẫu, với 24 chủ sở hữu, chiếm 29,27%; còn lại, chỉ có<br />
TT Họ Số Tỷ lệ Số ruộng Tỷ lệ<br />
8 chủ sở hữu trên 3 mẫu, chiếm 9,75% (xem bảng 9).<br />
chủ % (m.s.th.t.p) %<br />
Bảng 9. Quy mô sở hữu tư điền cá thể 1 Đào 6 7,31 37.3.12.7.0 29,50<br />
2 Nguyễn 25 30,49 30.4.1.2.0 24,00<br />
Chủ sở hữu Diện tích sở hữu 3 Trương 16 19,50 17.9.5.8.0 14,14<br />
TT Quy mô Số Tỷ lệ Số ruộng Tỷ lệ 4 Trần 5 6,10 12.9.7.9.0 10,21<br />
chủ % (m.s.th.t.p) % 5 Võ 5 6,10 6.2.8.6.0 4,93<br />
Từ 0 đến 6 Hồ 6 7,32 5.8.13.6.0 4,64<br />
1 26 31,71 8.3.12.8.0 6,62 7 Phạm 6 7,32 4.8.8.1.0 3,82<br />
5 sào<br />
Trên 5 8 Phan 4 4,88 3.7.14.3.0 3,00<br />
2 sào đến 24 29,27 18.3.2.8.0 14,45 9 Bùi 4 4,88 3.4.14.8.0 2,76<br />
1 mẫu 10 Đỗ 1 1,22 1.2.11.3.7 1,01<br />
11 Lê 2 2,44 1.1.8.0.0 0,91<br />
Trên 1<br />
12 Mai 1 1,22 0.7.11.5.0 0,61<br />
mẫu<br />
3 24 29,27 41.0.6.6.7 32,37 13 Hoàng 1 1,22 0.6.0.0.0 0,47<br />
đến 3<br />
Tổng cộng 82 100 126.7.12.8.7 100<br />
mẫu<br />
Trên 3 Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An,<br />
4 08 9,75 59.0.5.6.0 46,56<br />
mẫu Thanh Khê và Nam An<br />
Tổng cộng 82 100 126.7.12.8.7 100<br />
Xét theo dòng họ, 82 chủ sở hữu trên thuộc 13 họ,<br />
Nguồn: Địa bạ của bốn làng Cổ Mân, Tân An, gồm: Bùi, Đào, Đỗ, Hoàng, Hồ, Lê, Mai, Nguyễn, Phạm,<br />
Thanh Khê và Nam An Phan, Trần, Trương, Võ. Quy mô sở hữu giữa các họ<br />
Quy mô sở hữu trên đặt trong bối cảnh chung không đồng đều mà có khoảng cách khá xa nhau. Nổi<br />
toàn quốc thì rõ ràng ở mức thấp, thậm chí quá nhỏ bật là 4 họ Đào, Nguyễn, Trương, Trần chiếm gần 2/3<br />
bé. Nhưng vấn đề là ở chỗ, số ruộng đất sở hữu không số chủ với hơn 77% diện tích. Đặc biệt, không như<br />
tương ứng với số chủ mà ngược lại, số chủ nhiều những họ kia, đối với họ Đào, số chủ và diện tích sở<br />
nhưng tư điền lại ít, trong khi số chủ ít nhưng lại sở hữu đều thuộc một làng duy nhất là Thanh Khê; số<br />
hữu nhiều tư điền. Cụ thể ta thấy, tư điền của lớp sở ruộng sở hữu trong nội làng lên đến 46,22%, còn<br />
hữu thứ nhất chỉ chiếm 21,07% tổng diện tích, trong trong tổng thể các làng là 29,50%. Một tỷ lệ rất lớn.<br />
khi của lớp thứ hai là 32,37% và đặc biệt, của lớp thứ Những họ Hoàng, Mai, Lê, Đỗ chỉ xuất hiện lẻ tẻ 1 đến<br />
ba lên đến 46,56%. Điều này cho thấy, một mặt là sự 2 chủ, diện tích sở hữu cực kỳ nhỏ bé (xem bảng 10).<br />
phổ biến của đối tượng nông dân tự canh, nhưng Địa bạ không cho biết cụ thể đối tượng sở hữu<br />
mặt khác, là xu hướng tập trung ruộng đất đã diễn thuộc hệ thống chức dịch, chức sắc làng xã.<br />
ra mạnh mẽ.<br />
4. Nhận xét chung<br />
Nằm trong đặc điểm chung của chế độ sở hữu<br />
Thông qua nghiên cứu các địa bạ cho thấy, trước<br />
ruộng đất tư nhân ở Việt Nam, đối tượng sở hữu tư<br />
hết, làng xã ven biển Đà Nẵng có sự đa dạng trong<br />
điền ở các làng xã ven biển Đà Nẵng cũng bao gồm cả<br />
hoạt động sản xuất kinh tế. Sự vắng bóng hoàn toàn<br />
nữ giới và người phụ canh (hay xâm canh), tức chủ sở<br />
về ruộng đất ở làng Hoa Ổ, 100% là ruộng phụ canh<br />
hữu là người ngoài làng. Số chủ sở hữu nữ giới là 19,<br />
ở làng Tân An đã nói lên rằng đây là những làng phi<br />
chiếm 23,17% tổng số chủ sở hữu; diện tích sở hữu là<br />
nông nghiệp. Với làng Cổ Mân, sản xuất nông nghiệp<br />
15.2.12.1.7, chiếm 12,05% tổng diện tích tư điền.<br />
cũng không phải là phương thức kinh tế chi phối, bởi<br />
Số chủ phụ canh là 31, chiếm 37,80% tổng số chủ trừ đi số ruộng phụ canh, tư điền của làng chỉ còn hơn<br />
sở hữu; diện tích sở hữu là 35.2.11.1.7, chiếm 27,82% 3 mẫu.12 Nhưng ở những làng khác, đặc biệt là Thanh<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
67<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
Khê, nông nghiệp lại đóng vai trò chủ đạo. Như vậy, hình theo tiêu chí đề ra mà như là sự chuyển tiếp giữa địa<br />
ở khu vực này đã hình thành nhiều loại làng: làng phi hình gò đồi và ven biển. Cả bốn làng nằm gần kề tạo thành<br />
nông nghiệp, làng vừa phi nông nghiệp vừa kết hợp một vệt theo chiều bắc - nam, nay tương ứng với khoản<br />
từ phía nam Bến xe trung tâm thành phố chạy ra hướng<br />
nông nghiệp và làng nông nghiệp, tuy loại thứ ba<br />
biển, thuộc hai phường Hòa An (quận Cẩm Lệ) và Hòa Minh<br />
không chiếm ưu thế. Rõ ràng, điều này buộc chúng (quận Liên Chiểu).<br />
ta phải suy nghĩ lại về những nhận định trong một số 5<br />
Thống kê trên cơ sở số liệu trong sách của Nguyễn<br />
tài liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa Đà Nẵng gần đây,<br />
Đình Đầu, sđd, 133.<br />
khi ở đó không thể hiện sự thừa nhận kinh tế nông<br />
6<br />
Ruộng một vụ; cấy vào mùa hạ, gặt vào mùa thu.<br />
nghiệp tại các làng xã ven biển mà luôn coi phi nông<br />
nghiệp - cụ thể hơn là ngư nghiệp - là sinh hoạt kinh<br />
7<br />
Địa bạ làng Cổ Mân không ghi mục này; có lẽ, nó được<br />
tế mang tính truyền thống, phổ quát và đặc trưng. tính chung trong diện tích đất hoang nhàn. Bởi dù sao, các<br />
loại đất này đều không bị đánh thuế.<br />
Trong kinh tế nông nghiệp, trồng lúa là hình thức 8<br />
Không có căn cứ để suy nghĩ về một khả năng cư trú<br />
duy nhất, do không tồn tại loại đất thổ canh. Đây khác mang tính toàn làng của cư dân nơi đây, chẳng hạn<br />
là một khác biệt nếu so sánh với làng nông nghiệp cư trú trên thuyền. Đối với công trình tín ngưỡng, trên lý<br />
thuộc hai khu vực (đã được nói đến) ở Đà Nẵng. Bởi ở thuyết, không một làng Việt truyền thống nào không xây<br />
những nơi này, bên cạnh điền thường còn có thổ, nên dựng cho mình một công trình để thỏa mãn nhu cầu niềm<br />
ngoài lúa là cây trồng chủ yếu còn có cây hoa màu, cây tin. Thực tế, từ tài liệu dân tộc học, văn hóa học và tài liệu<br />
công nghiệp ngắn ngày và cây lương thực khác. lịch sử khác nữa cho phép khẳng định, ít nhất từ thời Gia<br />
Long, các làng xã đã xây dựng - thậm chí rất nhiều - thiết<br />
Về văn hóa - xã hội, xét riêng đối với làng nông chế văn hóa làng xã.<br />
nghiệp, từ thực tế hoàn toàn không có công điền 9<br />
Xem, chẳng hạn: Nguyễn Đình Đầu, sđd; Vũ Huy Phúc,<br />
(ruộng công làng xã), tư điền đồng canh cũng không Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, (Hà<br />
nhiều, có thể cho phép nghĩ rằng vai trò tổ chức làng Nội: Khoa học Xã hội, 1979); Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang<br />
xã trong đời sống cộng đồng có phần mờ yếu, sức (chủ biên), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống<br />
gắn kết giữa các thành viên cộng đồng không cao. nông dân dưới triều Nguyễn, (Huế: Thuận Hóa, 1997); Đàm<br />
Thị Uyên, Nguyễn Thị Hà, “Tình hình ruộng đất ở huyện<br />
Trong khi đó, sự phân bố chênh lệch tư điền cá thể<br />
Chiêm Hóa, Tuyên Quang qua tư liệu địa bạ Gia Long 4<br />
theo dòng họ đã phản ánh thế lực dòng họ được xác<br />
(1805)”, Nghiên cứu Lịch sử, Số 9/2009, 30-39.<br />
lập ở một mức độ nhất định trong khuôn khổ làng xã. 10<br />
Tất cả địa bạ chỉ có mục tư điền, không có mục ghi<br />
L.X.T. công điền. Nhân tiện, xin lưu ý rằng, không nên nhầm lẫn<br />
giữa loại ruộng thuộc sở hữu làng xã mà về thực chất, là<br />
một loại tư điền với loại ruộng được gọi là ruộng công làng<br />
xã. Đây là một loại công điền, do nhà nước nắm quyền sở<br />
CHÚ THÍCH hữu; làng xã chỉ đóng vai trò là người đại diện quản lý và sử<br />
1<br />
Theo tên gọi và đơn vị hành chính hiện nay thì đó dụng, tuyệt đối không có quyền chuyển nhượng.<br />
chính là những làng: Nam Ô (Hoa Ổ) thuộc quận Liên 11<br />
Dĩ nhiên, làng xã cũng phải nộp tô thuế cho nhà nước,<br />
Chiểu; Thanh Khê thuộc quận Thanh Khê; Cổ Mân, Tân Thái theo quy chế ruộng tư.<br />
(Tân An), Nam Thọ (Nam An) thuộc quận Sơn Trà, thành 12<br />
Với số lượng ruộng đất quá ít ỏi của những làng này,<br />
phố Đà Nẵng. thì ngay cả khi không có hiện tượng phụ canh, chắc chắn,<br />
2<br />
Phần cuối địa bạ này có đoạn: “Nay tiếp tờ tư của tỉnh tỷ trọng nông nghiệp cũng chẳng đáng kể gì trong cơ cấu<br />
Quảng Nam về việc tỉnh ấy đang xử khoản tranh chấp giới kinh tế của địa phương.<br />
hạn đất cát trắng của hai xã Hoa Ổ và Xuân Thiều thuộc hạt TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
huyện Hòa Vang. Lúc ấy, châu bạ của xã Hoa Ổ đã bị mất, nên<br />
sức soạn sao châu bạ thời Gia Long của xã Hoa Ổ, tổng Bình 1. Nguyễn Đình Đầu. 2010. Nghiên cứu địa bạ triều<br />
Thới Hạ, huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, phát hồi nhận lĩnh Nguyễn - Dinh Quảng Nam. TPHCM: Đại học Quốc gia. Tập 1.<br />
tra cứu, đồng thời giao cho xã ấy nhận giữ. Những người trình 2. Vũ Huy Phúc.1979. Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam<br />
việc nhân bổn bộ sức cho sao lại châu bạ xin dùng ấn kiềm nửa đầu thế kỉ XIX. Hà Nội: Khoa học Xã hội.<br />
đóng lên. Sau khi xong sẽ phát giao nhận để làm việc. Vậy nay 3. Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên). 1997. Tình<br />
chép.” hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều<br />
3<br />
Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Nguyễn. Huế: Thuận Hóa.<br />
Dinh Quảng Nam, (TPHCM: Đại học Quốc gia, 2010), Tập 1, 4. Đàm Thị Uyên - Nguyễn Thị Hà. 2009. “Tình hình<br />
133, 137. ruộng đất ở huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang qua tư liệu địa<br />
4<br />
Những làng này không mang tính đặc trưng về địa bạ Gia Long 4 (1805)”, Nghiên cứu Lịch sử. Số 9. 30-39.<br />
<br />
68 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />