BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH THỊ MINH PHƯƠNG
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN
CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NIÊM YẾT
NHÓM NGÀNH BẤT
ĐỘNG SẢN
TRONG GIAI ĐOẠN
2011
2015
-
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH THỊ MINH PHƯƠNG
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN
CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP
NIÊM YẾT
NHÓM NGÀNH BẤT
ĐỘNG SẢN
TRONG GIAI ĐOẠN
2011
-
2015
Chuyên ngành:
Kế
toán
Mã số ngành:
60340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN VIỆT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Kinh tế với đề tài “Các Nhân Tố Ảnh
Hưởng Đến Chất Lượng Báo Cáo Tài Chính Của Các Doanh Nghiệp Niêm Yết
Nhóm Ngành Bất Động Sản Trong Giai Đoạn 2011 - 2015” là công trình nghiên
cứu khoa học của cá nhân tác giả với sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Việt.
Luận văn được tác giả thực hiện và hoàn tất một cách độc lập. Các số liệu đưa
vào Luận văn là trung thực và được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy. Kết quả
nghiên cứu của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các giải pháp, khuyến nghị được tác giả rút ra từ quá trình nghiên cứu lý luận và thực
tiễn. Tài liệu tham khảo trong Luận văn được trích dẫn đầy đủ và rõ ràng.
Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung được trình bày trong Luận
văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017
NGƯỜI CAM ĐOAN
Huỳnh Thị Minh Phương
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BIỂU ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3
5. Đóng góp của nghiên cứu .............................................................................. 4
6. Kết cấu bài nghiên cứu .................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐO
LƯỜNG CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH ..................................... 6
1.1. Các cách tiếp cận về phương pháp đo lường chất lượng BCTC ............... 6
1.1.1. Đo lường chất lượng BCTC theo các đặc tính chất lượng thông tin ...... 6
1.1.2. Đo lường chất lượng BCTC theo chất lượng lợi nhuận ......................... 6
1.2. Các nghiên cứu quốc tế .................................................................................. 7
1.3. Các nghiên cứu tại Việt Nam ...................................................................... 12
1.4. Nhận xét các nghiên cứu trước và xác định khe hổng nghiên cứu .......... 15
1.4.1. Nhận xét các nghiên cứu trước ............................................................. 15
1.4.2. Xác định khe hổng nghiên cứu ............................................................. 16
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................... 21
2.1. Các khái niệm ............................................................................................... 21
2.1.1. Chất lượng BCTC ................................................................................. 21
2.1.2. Chất lượng lợi nhuận ............................................................................ 24
Biến kế toán dồn tích ...................................................................... 26
Điều chỉnh lợi nhuận ...................................................................... 27
Các mô hình nghiên cứu ................................................................. 29
2.1.3. Đo lường chất lượng lợi nhuận dựa trên cơ sở kế toán. ....................... 26
2.2. Các lý thuyết nền .......................................................................................... 32
2.2.1. Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory).................................................... 32
2.2.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) và Lý
thuyết tín hiệu (Signaling Theory) ..................................................................... 34
2.2.3. Lý thuyết chi phí chính trị (Policital cost theory) ................................. 35
2.2.4. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (Resource dependence theory) ........... 36
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................... 38
3.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 38
3.2. Thiết lập mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC .......... 38
3.2.1. Mô hình nghiên cứu .............................................................................. 38
3.2.2. Các biến trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu ................................ 40
3.3. Thiết kế nghiên cứu ...................................................................................... 45
3.3.1. Mô tả dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin .............. 45
3.3.2. Mô hình hồi quy .................................................................................... 46
3.3.3. Đo lường biến trong mô hình ............................................................... 47
3.3.3.1. Đo lường biến phụ thuộc .................................................................. 47
3.3.3.2. Đo lường biến độc lập ...................................................................... 49
3.3.4. Quy trình phân tích dữ liệu ................................................................... 50
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ............................. 53
4.1. Phân tích thực trạng chất lượng BCTC của các công ty niêm yết nhóm
ngành BĐS ............................................................................................................... 53
4.2. Mô tả các biến nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. ..................... 55
4.2.1. Mô tả các biến định tính ....................................................................... 55
4.2.2. Mô tả các biến định lượng .................................................................... 56
4.3. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy ................................................. 57
4.3.1. Phân tích tương quan ............................................................................ 57
4.3.2. Kiểm định đa cộng tuyến ...................................................................... 59
4.3.3. Lựa chọn mô hình ước lượng phù hợp ................................................. 60
4.3.4. Kết quả hồi quy ..................................................................................... 65
4.4. Bàn luận kết quả nghiên cứu ...................................................................... 68
4.4.1. Nhóm biến liên quan đến cơ cấu sở hữu ............................................... 68
4.4.2. Nhóm biến liên quan đến cơ cấu quản trị công ty ................................ 70
4.4.3. Nhóm biến liên quan đến cơ cấu tài chính............................................ 71
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................... 74
5.1. Kết luận ......................................................................................................... 74
5.2. Hậu quả của BCTC có chất lượng thấp ..................................................... 74
5.3. Kiến nghị đối với các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các
công ty nhóm ngành BĐS tại Việt Nam. ............................................................... 75
5.3.1. Kiến nghị đối với các nhân tố thuộc cơ cấu vốn .................................. 76
5.3.2. Kiến nghị đối với các nhân tố thuộc cơ cấu quản trị ............................ 77
5.3.3. Kiến nghị đối với các nhân tố thuộc đặc điểm tài chính ...................... 78
5.4. Hạn chế nghiên cứu và hướng nghiên cứu trong tương lai ...................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCKQHĐKD Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ BCLCTT :
BCTC : Báo cáo tài chính
BCTN : Báo cáo thường niên
BĐS : Bất động sản
BKS : Ban kiểm soát
CEO : Giám đốc điều hành
CFO : Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
CK : Chứng khoán
CLLN : Chất lượng lợi nhuận
CTNY : Công ty niêm yết
ĐCLN : Điều chỉnh lợi nhuận
Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính Mỹ FASB : (The Financial Accounting Standards Board)
Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận của Mỹ GAAP : (Generally Accepted Accounting Principles)
HĐQT : Hội đồng quản trị
HN : Hà Nội
HNX : Sàn chứng khoán Hà Nội
HOSE : Sàn chứng khoán Tp.HCM
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế IASB : (The International Accounting Standard Board)
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TTCK : Thị trường chứng khoán
UBCK : Ủy ban chứng khoán
VAS : Chuẩn mực kế toán Việt Nam
VN : Việt Nam
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC (đo lường theo
chất lượng lợi nhuận) từ các nghiên cứu trước .................................................... 17
Bảng 3.1. Các giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng ảnh hưởng của các nhân tố đến
chất lượng BCTC .................................................................................................... 44
Bảng 3.2. Danh sách biến độc lập và phương pháp đo lường ............................. 49
Bảng 4.1. Kết quả ước lượng các hệ số a0, a1, a2 ................................................... 53
Bảng 4.2. Thực trạng chất lượng BCTC đo lường theo QTLN .......................... 54
Bảng 4.3. Bảng thống kê mô tả các biến loại công ty kiểm toán và kiêm nhiệm
TGĐ và chủ tịch HĐQT. ......................................................................................... 56
Bảng 4.4. Bảng thống kê mô tả các biến định lượng ............................................ 56
Bảng 4.5. Ma trận tương quan ............................................................................... 58
Bảng 4.6. Giá trị VIF của mô hình hồi quy........................................................... 59
Bảng 4.7. Giá trị VIF của mô hình hồi quy sau loại biến SIZE .......................... 60
Bảng 4.8. Bảng kết quả hồi quy mô hình Pooled- OLS ....................................... 61
Bảng 4.9. Bảng kết quả hồi quy mô hình Fixed Effects và kiểm định F ............ 62
Bảng 4.10. Bảng kết quả hồi quy mô hình Random Effects ................................ 63
Bảng 4.11. Kết quả hồi quy mô hình Fixed Effects với tùy chọn Robust .......... 65
Bảng 4.12. Bảng tóm tắt kết quả hồi quy mô hình FEM với tùy chọn Robust . 66
Bảng 4.13. Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết ............................................. 67
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BIỂU ĐỒ
Hình 3.1. Mô hình nghiên cứu chính thức ............................................................ 40
Hình 4.1. Kết quả kiểm định Hausman cho mô hình FEM và REM ................. 63
Hình 4.2. Kết quả kiểm định tự tương quan ........................................................ 64
Hình 4.3. Kết quả kiểm định phương sai thay đổi ............................................... 64
Biểu đồ 4.1. Thực trạng chất lượng BCTC (mức độ trung bình QTLN) các công
ty niêm yết nhóm ngành BĐS giai đoạn 2011-2015 55
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế toán được thực hiện nhằm cung cấp thông tin cần thiết cho việc thực hiện
các quyết định kinh tế. Mục đích chính của kế toán tài chính là để đưa ra các báo cáo
tài chính, trong đó cung cấp các thông tin hữu ích về hoạt động kinh doanh của một
tổ chức kinh tế cho các đối tượng bên ngoài như các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ
quan ban hành chính sách và luật pháp,… (Mohsen H. et al, 2016). Như vậy, việc
cung cấp một báo cáo trung thực về tình hình tài chính của một công ty là hết sức
quan trọng; giúp người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính dựa trên những thông
tin đó để đưa ra những quyết định kinh tế đúng đắn.
Tuy vậy, trên thực tế, có rất nhiều vụ việc xảy ra có liên quan đến sự gian lận,
thiếu trung thực trong việc cung cấp các BCTC kém chất lượng; gây ảnh hưởng đến
thị trường tài chính, cũng như nền kinh tế toàn cầu. Tại Việt Nam, những vụ việc liên
quan đến những gian lận, vị phạm hoặc ngừng giao dịch trên thị trường chứng khoán
khiến các nhà đầu tư cảm thấy lo ngại về tính trung thực và chất lượng của các BCTC
được công bố của các CTNY (Nguyễn Trọng Nguyên, 2015). Các nghiên cứu trước
đây đều chỉ ra rằng, BCTC có chất lượng càng cao thì càng giúp nâng cao chất lượng
vả tính hiệu quả của vốn đầu tư, giảm thiểu việc đầu tư quá nhiều hoặc quá thiếu
(Bushman and Smith, 2001; Healy and Palepu, 2001; Lambert et al., 2007; Gary et
al., 2009; …). Vì thế, có thể nói, việc các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán công khai các BCTC thiếu minh bạch và trung thực, không phản ánh đầy đủ
và trung thực tình hình hoạt động tại công ty làm ảnh hưởng đến quyết định của người
sử dụng BCTC, cũng như tính hiệu quả của thị trường vốn (Nguyễn Trọng Nguyên,
2015).
Nói về lĩnh vực bất động sản, tương tự như tại các quốc gia khác, thị trường
bất động sản tại Việt Nam chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với
việc nắm giữ trực tiếp lượng tài sản lớn về cả quy mô, tính chất và giá trị. Vì thế, khi
thị trường này mất đi tính hữu dụng vốn có - sẽ tác động không nhỏ tới nhiều lĩnh
vực trong nền kinh tế. Tuy nhiên từ năm 2011 đến nay, thị trường BĐS đã và đang
2
phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải và khó khăn, gần như bất động với lượng hàng
tồn kho rất lớn. Theo Nguyễn Mạch Cường (2014), một vấn đề quan trọng và đáng
quan ngại hiện nay đó là việc đánh mất niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường,
các thông tin về tình hình hoạt động và tình hình tài chính của các công ty BĐS được
công bố không đầy đủ, không trung thực, sự thiếu minh bạch và lỏng lẻo trong cơ chế
giám sát các dự án đầu tư, tâm lý ảo tưởng về sự bền vững siêu lợi nhuận của thị
trường dẫn tới việc mở rộng tín dụng quá mức trong thời gian trước đã tác động ngược
trở lại đe dọa sự phát triển bền vững của thị trường. Tính thanh khoản của thị trường
BĐS yếu cũng làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng các ngân hàng
thương mại, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của thị trường vốn nói riêng và của nền
kinh tế nói chung.
Do đó, việc nghiên cứu về thực trạng chất lượng BCTC của các CTNY nhóm
ngành BĐS là cần thiết, giúp nhà đầu tư nói riêng và người sử dụng thông tin trên
BCTC nói chung có thể đưa ra những quyết định phù hợp và đúng đắn, thúc đẩy phát
triển nền kinh tế Việt Nam.
Từ những lí do nêu trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài luận văn: “Các
Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Báo Cáo Tài Chính Của Các Doanh
Nghiệp Niêm Yết Nhóm Ngành Bất Động Sản Trong Giai Đoạn 2011 - 2015”.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
a. Mục tiêu của nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu nhằm tổng kết về khung lý thuyết có liên quan đến các nhân tố tác
động đến chất lượng BCTC của các doanh nghiệp niêm yết – nhóm ngành BĐS trên
thị trường chứng khoán VN; đồng thời, phân tích thực trạng và tìm kiếm bằng chứng
thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các doanh
nghiệp niêm yết nhóm ngành bất động sản trong giai đoạn 2011 - 2015.
Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục tiêu trên, nghiên cứu thực hiện hướng đến 2 mục tiêu cụ thể:
3
1. Xác định khung lý thuyết có liên quan đến các nhân tố tác động đến
chất lượng BCTC của các doanh nghiệp niêm yết – nhóm ngành BĐS trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
2. Phân tích thực trạng và xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố đến chất lượng thông tin trên BCTC của các doanh nghiệp niêm yết –
nhóm ngành BĐS trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
b. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nói trên, nội dung luận án được trình bày để trả lời các
câu hỏi như sau:
1. Khung lý thuyết nào có liên quan đến các nhân tố tác động đến chất lượng
BCTC của các doanh nghiệp niêm yết – nhóm ngành BĐS trên thị trường chứng
khoán VN?
2. Thực trạng và những nhân tố nào ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên
BCTC của các doanh nghiệp niêm yết – nhóm ngành BĐS trên thị trường chứng
khoán VN? Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng BCTC?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: chất lượng BCTC của các công ty niêm yết
nhóm ngành BĐS trên TTCK Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian: Phân tích về chất lượng BCTC và các nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty nhóm ngành BĐS niêm
yết trên sàn giao dịch TpHCM - HOSE và Hà Nội HNX tại Việt Nam
+ Phạm vi về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 5 năm
2011- 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để nhận diện tác động
của các nhân tố đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trong mẫu lựa chọn.
Tác giả thu thập các dữ liệu để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng
dựa trên các lý thuyết nền tảng như lý thuyết ủy nhiệm, lý thuyết tín hiệu; các nghiên
4
cứu trên thế giới và Việt Nam có liên quan đến chất lượng BCTC và các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng BCTC.
Dữ liệu nghiên cứu được tác giả thu thập từ BCTC đã kiểm toán, BCTN của
các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau
khi thu thập và sàng lọc dữ liệu, tác giả tiến hành thực hiện thống kê, mô tả dữ liệu.
Tiếp theo, tác giả sử dụng các mô hình hồi quy là Modified-Wald, Fixed Effect
Model và Random Efffect Model để phân tích dữ liệu nghiên cứu và lựa chọn ra mô
hình nghiên cứu thích hợp nhất cho nghiên cứu của tác giả.
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2013 và STATA
12.0 để hỗ trợ phân tích dữ liệu, tính toán và lập các bảng biểu có liên quan.
5. Đóng góp của nghiên cứu
Về mặt lý luận, nghiên cứu góp phần tổng kết các nghiên cứu có liên quan đến
đề tài các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các CTNY, khái quát lý
thuyết về chất lượng BCTC của các CTNY, giúp người đọc có cái nhìn bao quát và
hiểu sâu hơn về chất lượng và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các
CTNY. Nghiên cứu góp phần bổ sung vào tổng quan nghiên cứu về chất lượng BCTC
các CTNY ở Việt Nam, làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này.
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu sử dụng số liệu thứ cấp trình bày trên BCTC giai
đoạn 2011- 2015, vì vậy, kết quả nghiên cứu phản ánh thực trạng chất lượng thực của
BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS tại TTCK Việt Nam. Nghiên cứu
tìm ra các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến chất lượng BCTC
của các doanh nghiệp niêm yết BĐS tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở
khoa học hữu ích, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin BCTC như: các nhà quản
trị công ty, các nhà đầu tư, nhà ban hành chính sách,… có thể đưa ra các quyết định
kinh tế đúng đắn, đồng thời góp phần đưa ra các kiến nghị, để tìm ra giải pháp giúp
nâng cao chất lượng BCTC của các công ty nói trên.
6. Kết cấu bài nghiên cứu
Nghiên cứu này gồm có 5 chương như sau:
5
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đo lường chất lượng
BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC
Chương này là tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về các
phương pháp đo lường chất lượng BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC, trên cơ sở đó tìm ra khe hổng nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương này trình bày các các khái niệm, thuật ngữ, các lý thuyết nền và các
mô hình thường được sử dụng để phân tích chất lượng BCTC.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương này trình bày về mô hình nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu, thiết
kế nghiên cứu, các kỹ thuật phân tích dữ liệu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương này phân tích về kết quả của nghiên cứu thông qua kết quả của việc
phân tích dữ liệu nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
Chương này đưa ra các nhận xét và đề xuất một số kiến nghị đối với các đối
tượng có liên quan đến việc lập, trình bày, sử dụng và quản lý chất lượng BCTC của
các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS trên TTCK VN hiện nay.
6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐO
LƯỜNG CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Các cách tiếp cận về phương pháp đo lường chất lượng BCTC
Đến nay, đã có rất nhiều các nghiên cứu về các phương pháp đo lường chất
lượng BCTC; trong đó chia làm 2 hướng chính. Đó là:
1.1.1. Đo lường chất lượng BCTC theo các đặc tính chất lượng thông tin
Phương pháp này đo lường chất lượng BCTC thông qua thang đo được xây
dựng để đánh giá các đặc tính chất lượng thông tin được quy định bởi các tổ chức
nghề nghiệp hoặc của nhà nước về kế toán (Nguyễn Trọng Nguyên, 2015); ví dụ các
đặc tính chất lượng thông tin do FASB và IASB quy định như: “đáng tin cậy”, “tính
thích hợp”, “trình bày trung thực”, “có thể so sánh được”, “có thể hiểu được”, “tính
kịp thời”, … Phương pháp này được sử dụng nhằm đánh giá các khía cạnh và kích
thước của thông tin tài chính và phông tin phi tài chính của BCTC nhằm xác định
tính hữu ích của thông tin tài chính đó mà không nhằm vào các mục đích đo lường
chất lượng lợi nhuận (Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016). Ưu điểm của phương pháp
này là đo lường chất lượng thông tin BCTC một cách trực tiếp (Nguyễn Trọng
Nguyên, 2015). Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là việc khó xác định thang
đo cho các đặc điểm chất lượng; mặt khác, đánh giá dựa trên cơ sở thang đo dẫn đến
kết quả thu thập được có độ tin cậy không cao, mang tính chất cảm tính cao vì phụ
thuộc vào ý kiến chủ quan của người đánh giá, không phản ánh đúng thực trạng chất
lượng thông tin trên BCTC mà các công ty đã công bố (Nguyễn Thị Phương Hồng,
2016).
1.1.2. Đo lường chất lượng BCTC theo chất lượng lợi nhuận
Phương pháp này đo lường chất lượng BCTC thông qua việc đánh giá kết quả
phân tích các thông tin về lợi nhuận trên các BCTC đã được công bố của các CTNY
(các thông tin thứ cấp). Ưu điểm của phương pháp này đó là thông tin có thể thu thập
trực tiếp trên BCTC của các CTNY hoặc các website của các công ty (Nguyễn Trọng
Nguyên, 2015). Việc đánh giá chất lượng BCTC theo chất lượng lợi nhuận đem lại
7
kết quả có độ tin cậy cao hơn so với phương pháp đo lường chất lượng BCTC theo
đặc tính chất lượng nói trên, bám sát theo thông tin trên BCTC thực tế đã được công
bố (Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016). Tuy vậy, phương pháp này có hạn chế là chỉ
tập trung vào lợi nhuận để đánh giá về chất lượng thông tin BCTC mà bỏ qua các
thông tin khác như thuyết minh BCTC và các thông tin phi tài chính khác (Nguyễn
Trọng Nguyên, 2015).
Từ những tổng quan trên, trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tác giả lựa
chọn phương pháp đo lường chất lượng thông tin BCTC theo chất lượng lợi nhuận
với lý do sau:
- Theo đánh giá của Dechow và các cộng sự (2010) trong nghiên cứu tổng
hợp các nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận, các tác giả đồng ý với các
nghiên cứu khác rằng, chất lượng lợi nhuận càng cao đem lại càng nhiều
thông tin về các khía cạnh của tình hình hoạt động tài chính của một công
ty mà có liên quan đến một quyết định cụ thể của một người đưa ra quyết
định cụ thể. Nói cách khác, chất lượng lợi nhuận càng cao sẽ giúp các đối
tượng có liên quan có được quyết định tốt hơn dựa trên thông tin về tình
hình tài chính của công ty. Như vậy, chất lượng lợi nhuận rất quan trọng
khi đánh giá về chất lượng BCTC của một công ty.
- Với đối tượng nghiên cứu là các CTNY thuộc nhóm ngành BĐS trên sàn
chứng khoán Việt Nam, các thông tin, dữ liệu cần thiết cho việc nghiên
cứu nghiên cứu có thể thu thập được thông qua các BCTC và các thông tin
được công bố rộng rãi trên sàn chứng khoán.
- Kết quả của phương pháp đo lường chất lượng thông tin BCTC theo chất
lượng lợi nhuận có độ tin cậy cao hơn, ít phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của người đánh giá.
1.2. Các nghiên cứu quốc tế
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về chất lượng BCTC, các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng BCTC, mối liên quan giữa chất lượng BCTC và hiệu quả đầu
tư, hiệu quả thị trường vốn, nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận và các nghiên cứu có
8
liên quan đến việc khai báo lợi nhuận không chính xác (tức điều chỉnh lợi nhuận),
các nhân tố ảnh hưởng đến điều chỉnh lợi nhuận và các yếu tố có liên quan khác.
Một số nghiên cứu về chất lượng BCTC, các nhân tố ảnh hưởng và các vấn đề
liên quan:
Nghiên cứu “Understanding earnings quality: A review of the proxies,
their determinants and their consequences” của Dechow P., et al., (2010) đã phân
tích tổng quát hơn 300 nghiên cứu trên thế giới về đo lường chất lượng lợi nhuận, các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận và kết quả, hệ quả của chất lượng lợi
nhuận. Nghiên cứu đã tổng hợp và phân chia các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
lợi nhuận thành 6 nhóm, đó là:
(1) Đặc điểm công ty, bao gồm: hiệu suất hoạt động công ty, nợ, tăng trưởng
và đầu tư của công ty, và kích thước công ty.
(2) Thực tiễn báo báo cáo tài chính, bao gồm: phương pháp kế toán, thực tiễn
BCTC khác, và, so sánh phương pháp báo cáo dựa trên cơ sở nguyên tắc
(principles based) với dựa trên cơ sở quy định (rules based).
(3) Quản trị công ty và kiểm soát, bao gồm: đặc điểm của HĐQT và Ban Giám
Đốc, quy trình kiểm soát nội bộ, tỷ lệ sở hữu vốn, chế độ đãi ngộ và thay
đổi nhà quản trị.
(4) Kiểm toán viên, bao gồm: rủi ro kinh doanh, chi phí cho danh tiếng (của
công ty kiểm toán- loại công ty kiểm toán) và tính độc lập của kiểm toán
viên.
(5) Lợi ích của thị trường vốn, bao gồm: động lực khi công ty tăng vốn và lợi
ích khi cung cấp các mục tiêu lợi nhuận đạt được.
(6) Các nhân tố bên ngoài, bao gồm: yêu cầu của thị trường vốn, quy trình
chính trị, các quy định liên quan đến thuế và các quy định khác.
Nghiên cứu “ Audit committee, board characteristics and quality of
financial reporting: An empirical research on Chinese securities market” của
Qinghua et al. (2007) đã nghiên cứu mẫu gồm 1192 công ty trên thị trường chứng
khoán Trung Quốc trong năm 2002 để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
9
BCTC. Các tác giả nghiên cứu chất lượng BCTC thông qua quản trị lợi nhuận được
đo lường bằng mô hình Jones điều chỉnh, sử dụng phương pháp phân tích thống kê
mô tả và hồi quy đa biến để phân tích các nhân tố. Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1)
Tính độc lập của BGĐ là nhân tố chính có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC, BGĐ
có tính độc lập càng cao thì BCTC càng có chất lượng cao; (2) Các nhân tố thuộc
nhóm đặc điểm chuyên gia của HĐQT là rất cần thiết cho việc giám sát hiệu quả và
chất lượng của báo cáo tài chính; (3) Các nhân tố đặc điểm hành vi của HĐQT (tỷ lệ
sở huuũ của BGĐ, tính thườn xuyên các cuộc họp,không có ảnh hưởng đáng kể đến
chất lượng BCTC của các công ty được nghiên cứu.
Nghiên cứu “Board Characteristics and Financial Reporting Quality
among Jordanian Listed Companies: Proposing Conceptual Framework” của
tác giả Ebraheem Alzoubi (2012) đã sử dụng quản trị lợi nhuận để đánh giá chất
lượng BCTC và đưa ra khung nghiên cứu về mối liên hệ của các đặc điểm của BGĐ
với quản trị lợi nhuận. Tác giả tóm tắt các nghiên cứu trước đây và đưa ra khung
nghiên cứu gồm có các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận gồm có: Tính độc
lập của BGĐ, sự kiêm nhiệm của CEO, chuyên môn tài chính của HĐQT, Quy mô
HĐQT, Các cuộc họp của HĐQT.
Nghiên cứu “ Financial Reporting Quality, Does Monitoring
characteristics matter? An empirical analysis of Nigerian manufactoring sector”
của Hassan S. U. (2013) đã tìm hiểu về ảnh hưởng của các đặc điểm quản lý đến chất
lượng báo cáo tài chính của 160 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Nigerian trong thời gian 2007- 2011. Tác giả dùng quản trị lợi nhuận đo lường bằng
mô hình của Dechow and Dichev (2002) để đo lường chất lượng BCTC. Các nhân tố
đòn bẩy tài chính, tính độc lập của BGĐ, quy mô ban kiểm soát, tính độc lập của ban
kiểm soát và tính thường xuyên các cuộc họp của HĐQT, quyền sở hữu của tổ chức,
sự tập trung quyền sở hữu có ảnh hưởng thuận chiều và quyền sở hữu của nhà quản
lý có tác động ngược chiều lên chất lượng BCTC.
Nghiên cứu “Does Corporate Governance affect Earnings Quality:
Evidence from an Emerging Market” của Houque et al. (2010) nghiên cứu mẫu
10
quan sát gồm 648 công ty trong giai đoạn từ 2001-2006 để kiểm tra ảnh hưởng của
thực tiễn quản trị công ty đến chất lượng lợi nhuận tại Bangladesh. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, cơ chế quản trị công ty có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng lợi nhuận
của công ty. Các tác giả đã sử dụng mô hình Jones 1991 để đo lường điều chỉnh lợi
nhuận thông qua biến kế toán dồn tích để đánh giá về chất lượng của lợi nhuận và sử
dụng phương trình hồi quy với biến kế toán dồn tích là biến phụ thuộc, các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng là biến độc lập. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến
quyền sở hữu của nhà quản lý, quyền sở hữu của tổ chức, quyền sở hữu của nhà nước,
quy mô hội đồng quản trị, loại hình công ty kiểm toán (big4 và không big4), quyền
sở hữu của gia đình có ảnh hưởng thuận chiều, các biến ….. có ảnh hưởng ngược
chiều và các biến… không có ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các công ty
được quan sát.
Nghiên cứu “Corporate Governance and Financial Reporting Quality:
The Case of Tunisian Firms” của Klai and Omri (2011) đã nghiên cứu ảnh hưởng
của cơ chế quản trị lên chất lượng BCTC với mẫu nghiên cứu gồm 22 công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Tunis giai đoạn 1997-2007. Các tác giả đã tập trung
nghiên cứu các nhân tố liên quan đến đặc điểm của BGĐ và cấu trúc sở hữu vốn,
cũng như danh tiếng của kiểm toán độc lập. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố
quyền sở hữu bởi nhà nước, quyền sỡ hữu bởi tổ chức, quy mô BGĐ, tỷ lệ thành vên
BGĐ độc lập, tính kiêm nhiệm của CEO, có ảnh hưởng thuận chiều và các nhân tố
quyền sở hữu bởi nước ngoài, sự tập trung quyền sở hữu, quyền sở hữu của các thành
viên trong gia đình, quy mô công ty, triển vọng phát triển (tỷ lệ giá thị trường/ sổ
sách) có ảnh hưởng ngược chiều với chất lượng BCTC.
Nghiên cứu “ Board Monitoring, Management Contracting and Earnings
Management: An Evidence from ASX Listed Companies” của J. Liu (2012)
nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị công ty và hợp đồng quản trị đối với quản trị lợi
nhuận của mẫu nghiên cứu gồm 138 công ty trên thị trường chứng khoán Australia.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tính độc lập của ban giám đốc, quyền sở hữu của nhà
quản lý, quy mô hội đồng quản trị, có ảnh hưởng thuận chiều, sự kiêm nhiệm của
11
CEO, tuổi của công ty có ảnh hưởng ngược chiều và sự tập trung quyền sở hữu, sự
tồn tại kế hoạch thưởng (lợi ích trong ngắn hạn của nhà quản lý), đòn bẩy tài chính
không ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận tại các công ty được nghiên cứu.
Nghiên cứu “Audit Committee Characteristics and the Perceived Quality
of Financial Reporting: An Empirical Analysis” của Felo et al, (2003) kiểm tra
mối quan hệ giữa các đặc điểm của ban kiểm soát (ủy ban kiểm toán) với chất lượng
báo cáo tài chính. Các tác giả sử dụng dữ liệu thu thập từ tổng cộng 77 công ty trong
khoảng thời gian 1992-1993 và 1995-1996 tại Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, số
lượng thành viên ủy ban kiểm toán có trình độ chuyên môn về kế toán và quản trị tài
chính, quy mô ủy ban kiểm toán ảnh hưởng thuận chiều và tính độc lập của ủy ban
kiểm toán không có ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính.
Nghiên cứu “Effects of Audit Quality on Earnings Management and Cost
of Equity Capital- Evidence from China” của Chen et al. (2011) sử dụng mẫu gồm
3310 công ty nhà nước và tư nhân quan sát trong thời gian từ 2001 đến 2004 tại Trung
Quốc để phân tích ảnh hưởng của chất lượng kiểm toán đến đến quản trị lợi nhuận và
chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty này. Các công ty kiểm toán chất lượng cao
được định nghĩa trong bài nghiên cứu này là BIG8 gồm BIG4 và 4 công ty kiểm toán
lớn khác tại Trung Quốc. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, nhóm công ty tư nhân
quản trị lợi nhuận ít hơn và có chi phí vốn chủ sở hữu giảm so với nhóm công ty nhà
nước khi cả hai cùng thuê công ty kiểm toán có chất lượng cao.
Nghiên cứu “How does financial reporting quality relate to investment
efficiency?” của tác giả Gary C. B., et al. (2009) đã quan sát mẫu nghiên cứu gồm
34.791 BCTC của các công ty từ năm 1993 đến năm 2005 để kiểm tra mối quan hệ
giữa chất lượng của BCTC đối với tính hiệu quả của việc đầu tư tức thị trường vốn.
Các tác giả đã đưa ra ba kết luận từ kết quả của nghiên cứu, đó là:
- BCTC chất lượng cao có liên quan đến việc có ít vốn đầu tư từ bên ngoài
tại các công ty có nhiều tiền và không vay nợ, và có vốn đầu tư bên ngoài
nhiều tại các công ty thiếu tiền và có số vay nợ cao.
12
- Các công ty có chất lượng BCTC cao đầu tư ít hơn khi có vốn đầu tư tổng
hợp cao và đầu tư nhiều hơn khi có vốn đầu tư tổng hợp thấp.
- Các công ty có chất lượng BCTC cao thường ít đi chệch mức độ đầu tư dự
đoán của họ.
1.3. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Nghiên cứu đầu tiên tác giả muốn đề cập đến là luận án tiến sĩ “Các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán - bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị
Phương Hồng (2016). Sử dụng dữ liệu là các báo cáo tài chính đã được kiểm toán
và công bố, báo cáo thường niên của các công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai
đoạn 2012-2014; tác giả tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của
các công ty niêm yết từ các nghiên cứu trước, đồng thời thêm vào các nhân tố mới để
phân tích và kiểm định. Thông qua kết quả phân tích, tác giả rút ra rằng, thực trạng
chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam hiện nay chưa cao,
và, trong số 23 nhân tố được kiểm định, có 17 nhân tố có ảnh hưởng và tác động đa
chiều đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam.
Luận án tiến sĩ “Các nhân tố tác động đến chất lượng thông tin báo cáo tài
chính trong các doanh nghiệp tại Việt Nam” của Phạm Quốc Thuần (2016) đã đo
lường chất lượng thông tin BCTC trong các doanh nghiệp tại Việt Nam theo các đặc
điểm chất lượng của FASB và IASB. Tác giả đã xác định và phân tích 10 nhân tố tác
động đến chất lượng thông tin BCTC, bao gồm : hành vi quản trị lợi nhuận, áp lực từ
thuế, quy mô doanh nghiệp, niêm yết chứng khoán, hỗ trợ từ phía nhà quản trị, hiệu
quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, chất lượng dữ liệu đầu vào, quy trình hệ thống
thông tin kế toán và năng lực nhân viên kế toán. Trong các nhân tố trên, nhân tố niêm
yết chứng khoán và quy mô doanh nghiệp thực sự có ảnh hưởng và làm thay đổi tác
động của các nhân tố khác đến chất lượng thông tin BCTC.
Luận án tiến sĩ “Minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của Lê Thị Mỹ Hạnh (2015) thực hiện
đánh giá mức độ minh bạch thông tin tài chính của các CTNY trên TTCK Tp.HCM.
13
Tác giả xác định các nhân tố thuộc nhóm nhân tố tài chính và nhóm nhân tố quản trị
công ty và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự minh bạch thông tin tài
chính của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Sử dụng dữ liệu là BCTC năm trong giai
đoạn 2011-2012 của các công ty nói trên, sau khi phân tích, tác giả đưa ra nhận xét
rằng, “tính minh bạch thông tin tài chính của các CTNY trên TTCK Việt Nam thời
gian qua chưa cao, mức độ minh bạch thông tin tài chính của các CTNY trên TTCK
VN chỉ ở mức trung bình khá”; “khoảng cách chênh lệch giữa các công ty có mức độ
minh bạch cao nhất và thấp nhất là khá xa”. Trong số các nhân tố được phân tích, các
nhân tố: đòn bẩy tài chính, lợi nhuận, công ty kiểm toán và cơ cấu hội đồng quản trị
có ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin tài chính của các CTNY trên TTCK
Việt Nam
Luận án tiến sĩ “ Tác động của quản trị công ty đến chất lượng BCTC tại
các công ty niêm yết tại Việt Nam” của Nguyễn Trọng Nguyên (2015) nghiên cứu
về ảnh hưởng của quản trị công ty đến chất lượng BCTC tại các CTNY trên sàn giao
dịch HOSE và HNX tại Việt Nam trong năm 2012. Tác giả đã sử dụng thang đo cho
5 đặc tính chất lượng BCTC theo FASB và IASB là “ Tính thích hợp”, “ Trình bày
trung thực”, “ Dễ hiểu”, “ Có thể so sánh” và “ Kịp thời” để đánh giá chất lượng
BCTC của các CTNY đủ điều kiện nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất
lượng thông tin BCTC của các CTNY VN là dưới mức trung bình, có tới 81.1% trong
195 công ty có BCTC đạt mức yếu, kém. Hầu hết các CTNY tại VN công bố thông
tin trên BCTC theo hướng tuân thủ luật pháp nhà nước nhiều hơn là hướng đến thông
tin hữu ích cho việc ra quyết định của người sử dụng. Kết quả nghiên cứu mối tương
quan giữa quản trị công ty và chất lượng thông tin BCTC cho thấy, các CTNY tại
Việt Nam chưa xây dựng cơ cấu quản trị công ty hiệu quả, chưa định hướng và giám
sát tốt dẫn đến chất lượng của các thông tin phi tài chính thấp, khiến cho chất lượng
thông tin BCTC thấp. Các nhân tố tính độc lập của HĐQT, mức độ chuyên môn kế
toán tài chính của HĐQT, số lượng các cuộc họp, mức độ chuyên môn kế toán tài
chính và tồn tại kiểm toán nội bộ có ảnh hưởng thuận chiều đến chất lượng BCTC;
14
các nhân tố sự kiêm nhiệm chức danh của chủ tịch HĐQT, tính độc lập của BKS
không ảnh hưởng đến chất lượng BCTC.
Luận văn thạc sĩ “ Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty
cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của tác
giả Huỳnh Thị Vân (2012) thực hiện nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận tại
các CTNY lần đầu trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội trong giai
đoạn 2008-2010. Sử dụng đồng thời hai mô hình nghiên cứu là mô hình DeAngelo
(1986) và mô hình Friedlan (1994) để kiểm nghiệm các giả thuyết thông qua các
thông tin được công bố trên BCTC của các CTNY thỏa mãn điều kiện nghiên cứu,
tác giả tìm thấy các kết quả như sau: (1) Hầu hết CTNY điều chỉnh tăng lợi nhuận
trong năm đầu niêm yết trên TTCK VN. (2) Khả năng điều chỉnh tăng lợi nhuận trong
năm đầu niêm yết phụ thuộc thuận chiều vào điều kiện ưu đãi thuế TNDN công ty
được hưởng. (3) Mức độ điều chỉnh lợi nhuận không phụ thuộc vào quy mô công ty.
Bài nghiên cứu “Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận”
của tác giả Phạm Thị Bích Vân (2013) đưa ra 4 cách để đánh giá sự trung thực của
chỉ tiêu lợi nhuận (T) trên BCTC của doanh nghiệp niêm yết, đó là: (1) Phương pháp
của của Leuz et al (2012) dựa trên tỷ lệ giữa độ lệch chuẩn của lợi nhuận thuần từ
hoạt động kinh doanh và độ lệch chuẩn của dòng tiền từ hoạt động kinh doanh; (2)
Phương pháp của Barton và Simko (2002) dựa trên tỷ lệ giữa tài sản hoạt động thuần
và doanh thu thuần; (3) Phương pháp của Penman (2001) dựa trên tỷ lệ giữa dòng
tiền từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận sau thuế;và (4) Phương pháp của tác giả
dựa trên tỷ số giữa biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh được và lợi nhuận thuần
sau thuế. Kết quả nghiên cứu khuyến cáo các bên liên quan khi đánh giá sự trung thực
của chỉ tiêu lợi nhuận trên BCTC thì cần tiến hành đồng thời 4 phương pháp nêu trên,
nếu kết quả có sự khác biệt thì cần cẩn trọng trong khi đưa ra quyết định.
Bài nghiên cứu “Mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các
doanh nghiệp niêm yết ở sở giao dịch chứng khoán Hà Nội” của tác giả Phạm
Thị Bích Vân (2012) thực hiện trên mẫu gồm 60 doanh nghiệp niêm yết trên sàn
chứng khoán HNX. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mô hình Modified Jones không
15
hiệu quả trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp
niêm yết trên sàn chứng khoán HNX. Tác giả đã phân tích môi truờng vĩ mô và lựa
chọn thêm các biến: chi phí giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp, phải trả người bán, chi phí khấu hao, chi phí dự phòng, đưa vào mô hình. Kết
quả là các biến nêu trên có ý nghĩa trong mô hình hồi quy để nhận diện hành vi điều
chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HNX.
Bài nghiên cứu “ Kiểm định và nhận diện mô hình nghiên cứu hành vi điều
chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh
Hiền và Phạm Thanh Trung (2015) tìm ra rằng trong ba mô hình được nhiều nhà
nghiên cứu sử dụng để nhận diện điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý, mô hình
(Modified-Jones) Jones điều chỉnh của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) và mô
hình của Kothari, Leone và Wasley (2005) phù hợp để nhận diện điều chỉnh lợi nhuận
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đó, mô hình
(Modified-Jones) Jones điều chỉnh của Dechow, Sloan và Sweeney (1995) và mô
hình của Kothari, Leone và Wasley (2005) là thích hợp.
Nghiên cứu “Các nhân tố quyết định hành vi điều chỉnh thu nhập làm
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp: Trường hợp Việt Nam” của Bùi Thị
Mai Hòa và Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015) được thực hiện với mẫu gồm 211 công
ty niêm yết rên hai sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian từ 2009 –
2013. Bằng phương pháp ước lượng Logit, các tác giả phát hiện ra các yếu tố quyết
định đến hành vi điều chỉnh thu nhập làm giảm số thuế phải nộp tại các CTNY là: (1)
Hưởng chính sách ưu đãi thuế, (2) Ghi nhận doanh thu chưa thực hiện, doanh thu
theo tiến độ (3) Ghi nhận số lượng các khoản dự phòng và (4) ghi nhận chi phí thuế
TNDN hoãn lại.
1.4. Nhận xét các nghiên cứu trước và xác định khe hổng nghiên cứu
1.4.1. Nhận xét các nghiên cứu trước
Qua tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và cả trong nước, có thể nói rằng,
chất lượng BCTC cũng như chất lượng lợi nhuận là một chủ đề được rất nhiều nhà
16
nghiên cứu quan tâm, và đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Ở mỗi
quốc gia khác nhau lại có các bài nghiên cứu được tiếp cận theo các cách khác nhau.
Tại Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu đề cập đến vấn đề về chất lượng lợi
nhuận, quản trị lợi nhuận tại các CTNY, tuy nhiên chỉ dừng lại dưới dạng các khái
niệm, động cơ quản trị lợi nhuận tìm hiểu các mô hình để nghiên cứu về quản trị lợi
nhuận,… Các nghiên cứu này là các nghiên cứu cơ sở, giúp định hướng cho các
nghiên cứu chuyên sâu hơn về chất lượng lợi nhuận cũng như chất lượng BCTC.
Bên cạnh đó, cũng có một số nghiên cứu mang tính chuyên sâu hơn về chất
lượng BCTC theo đặc tính chất lượng thông tin hoặc nghiên cứu về tính minh bạch
của BCTC, cũng như nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC
thông qua chất lượng lợi nhuận dựa trên cơ sở kế toán và cơ sở thị trường, tuy nhiên
nghiên cứu mang tính tổng quát đối với các ngành nghề khác nhau, chưa đi cụ thể
đến từng ngành nghề mang tính đặc thù.
1.4.2. Xác định khe hổng nghiên cứu
Theo nhận xét của tác giả, tại Việt Nam, vẫn chưa có nghiên cứu tập trung vào
chất lượng BCTC của các CTNY thuộc lĩnh vực BĐS. Đây là lĩnh vực kinh doanh có
tầm quan trọng lớn đối với nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam
nói riêng. Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường (2014) cho biết, tỷ trọng BĐS thông
thường chiếm tới 40% tổng của cải xã hội ở mỗi quốc gia; các hoạt động liên quan
đến BĐS chiếm 30% tổng hoạt động của nền kinh tế, những giao dịch thông qua thế
chấp BĐS cũng chiếm khoảng 80% tổng dư nợ tín dụng ngân hàng ở các nước phát
triển. Vì thế, khi thị trường này mất đi tính hữu dụng vốn có - sẽ tác động không nhỏ
tới nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Từ năm 2011 đến nay, thị trường BĐS đã và
đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải và khó khăn, gần như bất động với lượng
hàng tồn kho rất lớn. Một vấn đề quan trọng và đáng quan ngại hiện nay đó là việc
đánh mất niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường BĐS, các thông tin trên BCTC,
BCTN về tình hình hoạt động và tình hình tài chính của các công ty BĐS được công
bố không đầy đủ, không trung thực; sự thiếu minh bạch và lỏng lẻo trong cơ chế giám
sát các dự án đầu tư; tâm lý ảo tưởng về sự bền vững siêu lợi nhuận của thị trường
17
dẫn tới việc mở rộng tín dụng quá mức trong thời gian trước đã tác động ngược trở
lại đe dọa sự phát triển bền vững của thị trường. Tính thanh khoản của thị trường
BĐS yếu cũng làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng các ngân hàng
thương mại, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của thị trường vốn nói riêng và của nền
kinh tế nói chung. Chính vì vậy, tác giả nhận thấy, cần có nghiên cứu về các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các CTNY lĩnh vực BĐS trên TTCK VN hiện
nay.
Trong phạm vi của bài nghiên cứu, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước,
nghiên cứu này sẽ đo lường chất lượng BCTC thông qua chất lượng lợi nhuận, sử
dụng các dữ liệu thứ cấp thu thập được từ các BCTC, BCTN do các công ty tạo lập,
trình bày, cũng như BCTC đã qua kiểm toán được công bố. Từ kết quả phân tích về
chất lượng lợi nhuận, tác giả sẽ đánh giá về việc có hay không hành vi điều chỉnh lợi
nhuận tại các CTNY nhóm ngành BĐS để đánh giá về chất lượng BCTC, tìm hiểu về
các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty lĩnh vực này.
Bảng 1.1. dưới đây tóm tắt các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC do
tác giả tổng hợp từ các nghiên cứu trước tại Việt Nam và tại nước ngoài.
Bảng 1.1. Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC (đo lường
theo chất lượng lợi nhuận) từ các nghiên cứu trước
Kết
quả Nhân tố Nghiên cứu nghiên
cứu
Quyền sở hữu nước ngoài Klai (2011) -
Houque et al (2010) + Quyền sở hữu của nhà Qinghua et al (2007) 0 quản lý Hassan (2013), Liu (2012) -
Quyền sở hữu của tổ chức Hassan (2013), Klai (2011) +
Quyền sở hữu Nhà nước Klai (2011), Houque et al (2010) +
18
Hassan (2013) +
Sự tập trung quyền sở hữu Qinghua et al (2007), Liu (2012) 0
Klai (2011) -
Quyền sở hữu của HĐQT Qinghua et al (2007) 0
Houque et al (2010) + Quyền sở hữu của thành
viên trong gia đình Klai (2011) -
Houque et al (2010) +
Quy mô HĐQT Qinghua et al (2007) 0
Liu (2012) -
Sự kiêm nhiệm của chủ Liu (2012) + tịch HĐQT và TGĐ
Qinghua et al (2007), Hassan (2013) + Tính độc lập của HĐQT Liu (2012) -
Tính độc lập của ban Hassan (2013) +
kiểm soát/ ủy ban kiểm Felo et al (2003) 0 toán
Quy mô của ban kiểm Hassan (2013), Felo et al (2003) + soát/ ủy ban kiểm toán
Chuyên môn tài chính, kế
toán của ban kiểm soát/ Felo et al (2003) +
ủy ban kiểm toán
Tồn tại ban kiểm soát/ ủy Qinghua et al (2007) + ban kiểm toán
Hassan (2013) + Mức độ thường xuyên các
cuộc họp của HĐQT Qinghua et al (2007) 0
Mức độ chuyên môn tài
chính của Giám đốc độc Qinghua et al (2007) +
lập
19
Sự tồn tại kế hoạch Liu (2012) 0 thưởng
Hassan (2013), Klai (2011) +
Đòn bẩy tài chính Liu (2012) 0
Qinghua et al (2007) -
Qinghua et al (2007) + Quy mô công ty Klai (2011) -
Tuổi công ty Liu (2012) +
Loại công ty kiểm toán Qinghua et al (2007), Chen et al (2011) +
Lợi nhuận (ROE) Qinghua et al (2007) -
Triển vọng phát triển Klai (2011), Qinghua et al (2007) -
Chính sách chia cổ tức Rafiee and Heidarpoor (2014) +
Lỗ của năm trước Qinghua et al (2007) -
Ký hiệu: +: tác động cùng chiều; -: tác động ngược chiều; 0: không tác động
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
20
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, tác giả đã tóm tắt các nghiên cứu trong và ngoài nước trước
đây có liên quan đến đo lường chất lượng báo cáo tài chính và các nhân tố ảnh hưởng
đến chất lượng báo cáo tài chính, tóm tắt sơ lược kết quả nghiên cứu và các vấn đề
quan trọng được đề cập trong các nghiên cứu.
Do đặc thù riêng của từng quốc gia mà kết luận về các nghiên cứu thực nghiệm
về vấn đề chất lượng BCTC của các doanh nghiệp cũng khác nhau. Đây là cơ sở để
tác giả có thể đưa ra các giả thuyết và mô hình nghiên cứu cho đề tài của mình.
21
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Chất lượng BCTC
a. Theo quan điểm của FASB và IASB
IASB và FASB trong khuôn mẫu khái niệm đều nêu rằng, BCTC chất lượng
cao đạt được nhờ việc tuân thủ mục tiêu và các đặc tính chất lượng của thông tin
BCTC. Các đặc tính chất lượng này là những đặc tính tạo ra tính hữu ích của thông
tin, giúp cho người sử dụng thông tin BCTC có thể đưa ra được những quyết định
quan trọng dựa trên những thông tin này. Cả FASB và IASB đều đưa ra hai đặc tính
cơ bản và bốn đặc tính bổ sung. Nội dung của các đặc tính này theo FASB và IASB
đều khá giống nhau.
Hai đặc tính chất lượng cơ bản của thông tin đó là “Tính thích hợp”
(Relevance) và “Trình bày trung thực” hay “Đáng tin cậy” (Reliability)
- Tính thích hợp: thông tin kế toán được xem là thích hợp nếu nó có thể tạo
nên sự khác biệt trong việc ra quyết định của người sử dụng bằng cách giúp
họ dự đoán về các kết quả của các sự kiện diễn ra trong quá khứ, hiện tại
và tương lai hoặc để xác nhận hay điều chỉnh dự đoán hoặc các đánh giá
trước đây của họ. Để thích hợp, thông tin cần phải được công bố kịp thời,
và phải có giá trị dự báo hoặc giá trị xác nhận hoặc cả hai.
- Trình bày trung thực (Đáng tin cậy): Để tin cậy, thông tin cần phải đầy
đủ, chính xác, mang tính chất đại diện, có thể kiểm chứng được và ở trạng
thái trung lập, không thiên vị.
Ngoài các đặc tính chất lượng cơ bản còn có các đặc tính chất lượng bổ sung,
đó là: “Có thể so sánh” (Comparability), “Có thể kiểm chứng” (Verifiability), “Tính
kịp thời” (Timeliness) và “Có thể hiểu được” (Understandability).
- Có thể so sánh: Thông tin về một tổ chức kinh tế cụ thể sẽ thực sự hữu ích
nếu thông tin đó có thể so sánh được với thông tin tương tự về các tổ chức
kinh tế khác hoặc với thông tin tương tự của chính tổ chức đó nhưng vào
thời điểm hoặc thời kỳ khác. Sự so sánh giữa các tồ chức kinh tế hoặc tính
22
nhất quán trong việc áp dụng phương pháp so sánh qua thời gian này giúp
tăng giá trị hữu ích của thông tin trong việc so sánh các cơ hội kinh tế hoặc
tình hình hiệu quả kinh doanh.
- Có thể kiểm chứng: Nếu thông tin có thể kiểm chứng được (ví dụ như
thông qua hoạt động kiểm toán) thì sẽ đảm bảo với người dùng rằng thông
tin được trình bày trung thực và đáng tin cậy. Thông tin có thể kiểm chứng
được nếu như: có sự đồng thuận giữa những người xem xét thông tin khác
nhau, đảm bảo phản ánh đúng bản chất của sự kiện kinh tế và có thể xác
minh trực tiếp và gián tiếp.
- Tính kịp thời: thông tin cần được cung cấp cho người sử dụng trong một
khoảng thời gian hợp lý trước khi thông tin đó trở nên mất giá trị đối với
quyết định họ. Nếu thông tin không được cung cấp kịp thời hoặc được cung
cấp sau khi xảy ra một sự kiện nào đó sẽ khiến thông tin mất đi tính hữu
ích và thậm chí trở nên vô ích.
- Có thể hiểu được: thông tin cần được trình bày gúp người sử dụng thông
tin có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Thông tin có thể dễ hiểu hơn nếu
được phân loại, làm rõ bàn chất và trình bày rõ ràng.
b. Theo quan điểm của VAS
Các đặc điểm chất lượng của thông tin được VAS đề cập trong phần “các yêu
cầu cơ bản đối với kế toán” (VAS 01 đoạn 10-15) như sau:
- Trung thực: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo
trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện
trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo
đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo.
- Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán
phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.
- Kịp thời: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp
thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.
23
- Dễ hiểu: Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong báo cáo tài chính phải
rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là
người có hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế, tài chính, kế toán ở mức trung
bình. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong báo cáo tài chính phải được
giải trình trong phần thuyết minh.
- Có thể so sánh: Các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một
doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính toán
và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong
phần thuyết minh để người sử dụng báo cáo tài chính có thể so sánh thông tin
giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện với
thông tin dự toán, kế hoạch.
Các yêu cầu được nêu trên cần phải được thực hiện đồng thời, không tách rời
nhau.
Ngoài ra, tại đoạn 9 VAS 21 có nêu về việc trình bày BCTC trung thực hợp lý
như sau: “BCTC phải trình bày một cách trung thực và hợp lý tình hình tài chính, tình
hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu
trung thực và hợp lý, các BCTC phải được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các
chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên quan hiện hành.” Tại đoạn
12, VAS 21 có nêu, việc lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán cho việc lập và
trình bày BCTC phải được thực hiện để phù hợp với quy định của từng chuẩn mực
kế toán. Trong trường hợp chưa có quy định ở chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
hiện hành, thì doanh nghiệp phải xây dựng các phương pháp kế toán hợp lý nhằm
đảm bảo BCTC cung cấp được các thông tin đáp ứng các yêu cầu sau:
a/ Thích hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sử dụng;
b/ Đáng tin cậy: Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp; phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao
dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng; trình
bày khách quan, không thiên vị; tuân thủ nguyên tắc thận trọng; trình bày đầy đủ trên
mọi khía cạnh trọng yếu.
24
2.1.2. Chất lượng lợi nhuận
Trong các nghiên cứu trước đây, Chất lượng lợi nhuận thường được các nhà
nghiên cứu tìm hiểu theo hai quan điểm khác nhau: (1) quan điểm về sự hữu dụng
đối với việc ra quyết định (Decision-usefulness) hay quan điểm dựa trên cơ sở kế
toán và (2) quan điểm dựa trên cơ sở thị trường (Economic-based) hay dựa trên tính
thích hợp của thông tin kế toán.
Đối với quan điểm thứ nhất, chất lượng lợi nhuận được đánh giá là cao nếu
các con số liên quan đến lợi nhuận trên BCTC giúp ích được cho mục đích ra quyết
định. Vì thế, khái niệm về chất lượng lợi nhuận khác nhau tùy theo từng đối tượng sử
dụng thông tin khác nhau. Theo Dechow and Schrand (2004), các nhà phân tích và
các nhà đầu tư thường cho rằng lợi nhuận có chất lượng cao nếu nó phản ánh chính
xác tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, giúp họ dự báo được tình hình hoạt
động của công ty trong tương lai và kiểm chứng xem giá trị cổ phiếu của công ty có
phản ánh được giá trị nội tại của công ty hay không. Mặt khác, các chủ nợ và hội
đồng chuyên trách về lương thưởng (compensation committee) lại định nghĩa lợi
nhuận chất lượng cao là lợi nhuận có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền và phản ánh
được hiệu suất làm việc của các nhà quản lý công ty. Đối với các nhà ban hành luật
pháp và chính sách, lợi nhuận có chất lượng cao khi tuân thủ đầy đủ các quy tắc tài
chính kế toán, không có sai sót và thể hiện tình hình hoạt động tài chính thực tại công
ty (Dechow and Schrand, 2004).
Trên cơ sở kế toán, người sử dụng thông tin BCTC cũng có thể xem chất lượng
lợi nhuận nghĩa là “sự thiếu vắng của điều chỉnh lợi nhuận” (absence of earnings
management) (Karmarudin and Ismail, 2014). Nếu người quản lý cố tình thao túng
lợi nhuận trong phạm vi của các nguyên tắc kế toán, thông tin về lợi nhuận này có
thể sẽ không còn hữu ích đối với người sử dụng nữa. Theo Karmarudin and Ismail
(2014), các nhà quản lý có rất nhiều lí do để điều chỉnh lợi nhuận như: động cơ thúc
đẩy của thị trường vốn, lương thưởng và chế độ phúc lợi, hoặc các hợp đồng vay, nợ;
việc điều chỉnh lợi nhuận này có thể sẽ dẫn đến làm giảm chất lượng lợi nhuận. Theo
Schipper and Vincent (2003), các hợp đồng nợ được giao kết dựa trên lợi nhuận bị
25
kê thiếu sẽ làm xảy ra việc chuyển giao tài sản không mong muốn, hiệu quả hoạt động
của nhà quản lý đánh giá trên lợi nhuận bị khai khống sẽ gây nên việc chi trả lương
thưởng quá mức, và lợi nhuận có chất lượng thấp sẽ cung cấp những tín hiệu phân bổ
nguồn lực bị khiếm khuyết cho nhà đầu tư.
Quan điểm thứ hai đánh giá chất lượng lợi nhuận dựa trên quan điểm thị
trường, nghĩa là đo lường chất lượng lợi nhuận dựa trên định nghĩa về lợi nhuận
Hicksian”- tức là lợi nhuận có thể được chi trả thành cổ tức cho các cổ đông mà không
làm thay đổi tình hình tài chính cuối kỳ của một công ty so với đầu kỳ (Karmarudin
and Ismail, 2014). Ý tưởng này đo lường chất lượng lợi nhuận dựa trên mối liên quan
của lợi nhuận được báo cáo với “lợi nhuận thực” của công ty- tức lợi nhuận không
chịu ảnh hưởng của các nguyên tắc ghi nhận và thực hiện theo kế toán. Tuy nhiên,
theo Schipper and Vincent (2003), “lợi nhuận Hicksian” này không thể quan sát được
nên ý tưởng về việc đo lường theo lợi nhuận thực này không có tác dụng. Schipper
and Vincent (2003) ủng hộ và tập trung vào việc đo lường chất lượng lợi nhuận dựa
trên hai đặc tính chất lượng của kế toán của FASB (1980) là “Tính thích hợp” và
“Trình bày trung thực”.
Gần giống với định nghĩa về lợi nhuận Hicksion, Yee (2006) giải thích rằng
chất lượng lợi nhuận dựa trên hai yếu tố chính đó là lợi nhuận căn bản (fundamental
earning) và lợi nhuận trên báo cáo (reported earning). Lợi nhuận căn bản là lợi nhuận
kế toán mà đo lường khả năng thanh toán cổ tức trong tương lai của công ty; còn lợi
nhuận trên báo cáo là tín hiệu không hoàn hảo hay ước tính của lợi nhuận căn bản mà
một công ty tuyên bố trên BCTC của mình. Yee (2006) cho rằng, chất lượng lợi nhuận
liên quan đến độ nhanh chóng và chính xác mà lợi nhuận trên báo cáo của một công
ty tiết lộ về lợi nhuận căn bản của công ty đó. Chất lượng lợi nhuận càng cao khi lợi
nhuận trên báo cáo có thể thể hiện càng nhanh và chính xác về những biến động của
giá trị hiện tại của cổ tức kỳ vọng trong tương lai.
Theo tổng hợp của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), một số nhà nghiên cứu
trên thế giới cho rằng đo lường chất lượng lợi nhuận trên cơ sở kế toán giải thích tốt
hơn so với đo lường theo cơ sở thị trường về chất lượng lợi nhuận của một công ty;
26
một số nhà nghiên cứu khác lại có quan điểm trái ngược. Trong luận văn này, tác giả
sẽ lựa chọn phương pháp đo lường chất lượng lợi nhuận trên cơ sở kế toán.
Phần tiếp theo, tác giả sẽ đề cập đến một số nội dung và mô hình đo lường
chất lượng lợi nhuận trên cơ sở kế toán.
2.1.3. Đo lường chất lượng lợi nhuận dựa trên cơ sở kế toán.
Biến kế toán dồn tích
Các nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận dựa trên cơ sở kế toán sử dụng biến
kế toán dồn tích.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (tức báo cáo thu nhập) của doanh nghiệp
được lập trên cơ sở dồn tích, nghĩa là các nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp
liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí đều phải
được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh mà không căn cứ vào thời điểm thực thu
hoặc thực chi tiền hay các khoản tương đương tiền. Lợi nhuận được xác định trên
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và
tổng chi phí phát sinh trong kỳ kế toán. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp
được lập trên sơ sở tiền, nghĩa là chỉ được ghi nhận dòng tiền ra và dòng tiền vào trên
cơ sở thực chi, thực thu. Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là chênh lệch giữa
dòng tiền chi và thu từ hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Do sự khác
biệt giữa cơ sở dồn tích và cơ sở tiền, phần chênh lệch giữa chỉ tiêu “Lợi nhuận sau
thuế TNDN” trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và chỉ tiêu “Dòng tiền thuần
từ hoạt động kinh doanh” trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chính là các khoản dồn tích
trong lợi nhuận (Total Accruals - TA) hay biến kế toán dồn tích. Nói cách khác, biến
kế toán dồn tích chính là phần lợi nhuận kế toán không bằng tiền được trình bày trong
BCTC (Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016).
TA = Lợi nhuận sau thuế TNDN – Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
Biến kế toán dồn tích bao gồm các khoản dồn tích tự định (Non-discretionary
accruals – NDA) và các khoản dồn tích không tự định (Discretionary accruals – DA).
TA = NDA + DA
27
Các khoản dồn tích không tự định là các khoản dồn tích được thực hiện theo
các quy định, nguyên tắc của chuẩn mực và chế đệ kế toán. NDA còn gọi là các khoản
dồn tích thông thường (normal accruals). Ngược lại, các khoản dồn tích tự định là các
khoản dồn tích do nhà quản lý thực hiện và điều chỉnh theo ý muốn để phù hợp với
tình hình kinh doanh của công ty. DA còn được gọi là các khoản dồn tích bất thường
(abnormal accruals). DA thường được sử dụng để làm méo mó lợi nhuận bằng cách
áp dụng các nguyên tắc kế toán hoặc điều chỉnh lợi nhuận (Dechow P., et. al, 2010)
Điều chỉnh lợi nhuận
Điều chỉnh lợi nhuận hay quản trị lợi nhuận (Earning management) thường
được dùng để đánh giá và đo lường chất lượng lợi nhuận trên cơ sở kế toán. Đến nay
vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về điều chỉnh lợi nhuận.
Davidson et al., (1985) đã định nghĩa điều chỉnh lợi nhuận là quá trình cố ý
thực hiện, trong khuôn khổ những ràng buộc của GAAP, để đưa ra một mức lợi nhuận
theo ý muốn chủ quan. Tương tự như thế, Healy and Wahlen (1999) cho rằng điều
chỉnh lợi nhuận xảy ra khi các nhà quản lý điều chỉnh BCTC và sắp xếp lại thứ tự của
các giao dịch để tu chỉnh BCTC nhằm đánh lừa các cổ đông hiểu sai về hoạt động
kinh doanh của công ty hoặc để ảnh hưởng đến các hợp đồng có cam kết dựa trên các
con số kế toán được báo cáo. Zheng (2003) cho rằng, mục đích của việc điều chỉnh
lợi nhuận theo như định nghĩa của Healy and Wahlen (1999) đã cho thấy rằng lợi
nhuận bị điều chỉnh thì có chất lượng thấp hơn so với lợi nhuận không bị điều chỉnh.
Có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã sử dụng thuật ngữ “chất lượng lợi nhuận” để chỉ
ra sự hiện diện của điều chỉnh lợi nhuận (Kamarudin and Ismail, 2014). Theo Levitt
(1998), khi hành vi quản trị lợi nhuận gia tăng thì chất lượng của BCTC giảm xuống.
Có rất nhiều nguyên nhân cho hành vi điều chỉnh lợi nhuận, đã được các nhà
nghiên cứu trước đây đưa ra như: nhà quản lý điều chỉnh lợi nhuận để tối đa hóa tiền
lương, thưởng, phúc lợi của mình; để tránh các điều khoản bất lợi trong khế ước vay
nợ hay giảm chi phí vay nợ, tránh vi phạm hợp đồng đi vay; để gian lận chống lại các
quy tắc ngành nghề và các quy định khác; để đạt được mục tiêu lợi nhuận đã đặt ra
từ trước, san bằng lợi nhuận để đảm bảo xu huớng lợi nhuận bền vững trong dài hạn;
28
để đẩy nhanh quá trình phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu; để đáp ứng kỳ vọng
của giới phân tích hoặc khi có thay đổi người quản lý (Kamarudin and Ismail, 2014;
Phạm Thị Bích Vân, 2013).
Để điều chỉnh lợi nhuận, các nhà quản lý có thể sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau nhưng hầu hết được nhóm thành hai nhóm chính là: Điều chỉnh lợi nhuận
thực (real earning management)- điều chỉnh thời gian ghi nhận của dòng tiền; và Điều
chỉnh lợi nhuận dựa trên biến kế toán dồn tích (accrual-based earning management)-
dựa trên các điều chỉnh được các quy tắc kế toán cho phép thực hiện (Kamarudin and
Ismail, 2014; Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016).
Theo (Phạm Thị Bích Vân, 2013), điều chỉnh lợi nhuận dựa trên biến kế toán
dồn tích thường được thực hiện qua việc lựa chọn phương pháp và ước tính kế toán
như phương pháp ghi nhận doanh thu, chi phí, xác định giá trị hàng tồn kho, phương
pháp khấu hao kế toán, các khoản dự phòng hàng tồn kho, dự phòng nợ phải thu khó
đòi, ước tính thời gian sử dụng hữu ích của tài sản cố định, ... Điều chỉnh lợi nhuận
thực được thực hiện bằng cách đưa ra một số chính sách nhằm dàn xếp một số giao
dịch như chính sách giá và tín dụng để tăng doanh thu; công bố kế hoạch giá cả vào
năm sau; cắt giảm các chi phí như chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí quảng cáo,
chi phí bảo trì bảo dưỡng thiết bị,…; bán sớm các khoản đầu tư đang sinh lời để tăng
lợi nhuận vào năm hiện tại,…
Theo Cohen and Zarowin (2008), điều chỉnh lợi nhuận dựa trên biến kế toán
dồn tích thường sử dụng những điều chỉnh trên sổ sách kế toán nhờ vào tính linh hoạt
của các chuẩn mực, nguyên tắc kế toán, do đó chi phí điều chỉnh thấp và dễ điều
khiển hơn. Ngược lại, điều chỉnh lợi nhuận thực có liên quan đến những giao dịch
thực tế, cần sự hợp tác của các phòng ban khác nhau trong công ty, do đó sẽ tốn nhiều
chi phí hơn và khó thực hiện hơn. Tương tự, Zhang (2012) cho rằng, điều chỉnh lợi
nhuận theo biến kế toán dồn tích thường được thực hiện khi các chuẩn mực kế toán
có tính linh hoạt và điều chỉnh lợi nhuận thực được thực hiện khi hệ thống luật pháp
được đánh giá là tốt. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều tập trung vào nghiên cứu
điều chỉnh lợi nhuận dựa trên các biến kế toán dồn tích (Deangelo, 1986; Jones, 1991;
29
Dechow et al, 1995; Kothari et al, 2005; Dechow and Dichev, 2002,…). Do đó, trong
phạm vi thực hiện của luận văn này, phần tiếp theo, tác giả chỉ đề cập đến các mô
hình nghiên cứu điều chỉnh lợi nhuận theo biến kế toán dồn tích.
Các mô hình nghiên cứu
Như đã trình bày ở phần trước, TA = NDA + DA trong đó, TA là các khoản
dồn tích trong lợi nhuận; DA là các khoản dồn tích tự định và NDA là các khoản dồn
tích không tự định. DA thể hiện sự hiện diện của hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tuy
nhiên, vì NDA là các khoản dồn tích được thực hiện theo các quy tắc, nguyên tắc
chuẩn mực kế toán nên sẽ dễ dàng đo lường hơn. Vì thế, để xác định DA, các nhà
nghiên cứu thường tìm cách tính toán NDA từ số liệu trên các BCTC được công bố.
Một số mô hình đo lường điều chỉnh lợi nhuận tiêu biểu được nhiều nhà nghiên
cứu sử dụng như sau:
Mô hình Jones (Jones, 1991)
Jones (1991) đã đưa ra một mô hình nhằm kiểm soát ảnh hưởng của các thay
đổi trong tình hình kinh doanh của công ty đối với biến kế toán dồn tích không tự
định- NDA. Mô hình của Jones như sau:
NDAit/ Ait-1 = αi (1 / Ait-1) + β1i (ΔREVit / Ait-1) + β2i (PPEit / Ait-1)
Trong đó:
: tổng dồn tích trong năm t của công ty i; TAit
: doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm t-1 của công ty i; ΔREVit
: nguyên giá BĐS, nhà xưởng, máy móc thiết bị trong năm t của công ty i; PPEit
: tổng tài sản trong năm t-1 của công ty i; Ait-1
Các tham số α, β1, β2 là ước lượng của các hệ số a, b1, b2 trong mô hình dưới
đây:
TAit / Ait-1 = ai (1 / Ait-1) + b1i (ΔREVit / Ait-1) + b2i (PPEit / Ait-1) + εit
Trong mô hình này, ε là phần biến thừa chưa xác định được, bao gồm cả biến
dồn tích tự định DA.
Mô hình của Jones (1991) giả định rằng doanh thu là không thể điều chỉnh
được. Tuy nhiên, theo Jones (1991), doanh thu cũng có thể bị tác động thông qua việc
30
các nhà quản lý cố tình ghi nhận các khoản doanh thu không đúng niên độ nhằm làm
giảm lợi nhuận báo cáo trong kỳ. Như vậy, nếu việc điều chỉnh lợi nhuận xảy ra bằng
việc ghi nhận doanh thu sang kỳ sau, mô hình của Jones sẽ mắc phải sai lầm là bỏ
qua việc có xảy ra điều chỉnh lợi nhuận.
Mô hình Jones điều chỉnh (Dechow et al., 1995)
Để khắc phục sai sót trong mô hình của Jones (1991), Dechow et al, (1995) đã
điều chỉnh mô hình này bằng cách thêm vào biến độ thay đổi của các khoản phải thu
thuần trong năm ΔREC. Mô hình Jones điều chỉnh (modified Jones) được các tác giả
đưa ra như sau:
NDAit/ Ait-1 = αi(1 / Ait-1) + β1i((ΔREVit - ΔRECit )/ Ait-1) + β2i (PPEit / Ait-1)
Trong đó:
: tổng dồn tích trong năm t của công ty i; TAit
ΔREVit : doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm t-1 của công ty i;
ΔRECit : khoản phải thu thuần năm t trừ khoản phải thu thuần năm t-1 của công ty i;
: giá trị thuần BĐS, nhà xưởng, máy móc thiết bị trong năm t của công ty i; PPEit
: tổng tài sản trong năm t-1 của công ty i; Ait-1
Trong mô hình Jones điều chỉnh này, các tác giả thêm vào biến ΔREC vì cho
rằng, việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua doanh thu bán nợ dễ dàng hơn so với điều
chỉnh lợi nhuận thông qua doanh thu bằng tiền mặt; do đó, nếu xảy ra điều chỉnh lợi
nhuận bằng cách điều chỉnh doanh thu thì sẽ tránh được nguy cơ kết luận là không
xảy ra điều chỉnh lợi nhuận như mô hình Jones (1991).
Mô hình đo lường theo kết quả hoạt động (Kothari et al., 2005)
Tiếp tục bổ sung mô hình Jones (1991) và mô hình Jones điều chỉnh (1995),
Kothari et al. (2005) đã thêm biến biến tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA nhằm
kiểm tra mối quan hệ giữa biến kế toán dồn tích và kết quả hoạt động của công ty.
Mô hình đươc các tác giả nêu ra như sau:
NDAit/ Ait-1 = αi(1 / Ait-1) + β1i(ΔREVit - ΔRECit )/ Ait-1) + β2i (PPEit / Ait-1)
+ β3i (ROAit-1 / Ait-1)
Trong đó:
31
: tổng dồn tích trong năm t của công ty i; TAit
: doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm t-1 của công ty i; ΔREVit
: khoản phải thu thuần năm t trừ đi khoản phải thu thuần năm t-1 của công ΔRECit
ty i;
: nguyên giá BĐS, nhà xưởng, máy móc thiết bị trong năm t của công ty i; PPEit
: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản năm t-1 của công ty i; ROAit-1
: tổng tài sản trong năm t-1 của công ty i; Ait-1
Mô hình của Dechow and Dichev (2002)
Tiếp cận theo một hướng khác so với các nhà nghiên cứu trên, Dechow and
Dichev (2002) cho rằng chức năng của các khoản dồn tích là để điều chỉnh thời gian
ghi nhận dòng tiền trong thu nhập. Các tác giả đã đưa ra một mô hình trong đó tổng
dồn tích ngắn hạn (total current accruals) được đo lường bởi sự thay đổi trong vốn
lưu động (working capital) vì việc ghi nhận dòng tiền có liên quan thường chỉ xảy ra
trong khoảng thời gian 1 năm. Mô hình như sau:
TCAi,t /Ai,t-1 = α0,i + α1,i(CFOi,t-1 /Ai,t) + α2,i (CFOi,t /Ai,t) + α3,i (CFOi,t+1 /Ai,t)
Trong đó:
: tổng dồn tích ngắn hạn trong năm t của công ty i với TCAit
TCAit = ΔWCit = ∆ AR it + ∆INV it - ∆AP it - ∆TPit + ∆OCA it
: thay đổi trong vốn lưu động; ΔWCit
∆ AR it
: thay đổi trong khoản phải thu của công ty i trong năm t;
∆ INV it
: thay đổi trong hàng tồn kho của công ty i trong năm t;
∆ AP it
: thay đổi trong khoản phải trả của công ty i trong năm t;
∆ TP it
: thay đổi trong khoản thuế phải trả của công ty i trong năm t;
∆ OCA it
: thay đổi thuần trong các tài sản khác của công ty i trong năm t;
: logarit tự nhiên tài sản trung bình trong năm t-1 của công ty I Ait-1
: dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty i CFOi
Như vậy, những nghiên cứu trước đây của các tác giả đều cho rằng hành vi
điều chỉnh lợi nhuận có ảnh hưởng lớn đến chất lượng lợi nhuận, cũng như chất lượng
BCTC (Zheng, 2003; Levitt, 1998; Kamarudin and Ismail, 2014; Nguyễn Thị Phương
32
Hồng, 2016; …). Các mô hình nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận được các nhà
nghiên cứu trên thế giới sử dụng rộng rãi như: Mô hình Jones (Jones, 1991), Mô hình
Jones điều chỉnh (Dechow et al,1995), mô hình đo lường theo kết quả hoạt động
(Kothari et al., 2005), mô hình nghiên cứu của Dechow and Dichev (2002), … trong
đó, mô hình được sử dụng nhiều nhất là mô hình Jones điều chỉnh của Dechow et al,
1995. Do đó, tác giả lựa chọn mô hình đo lường theo mô hình Jones điều chỉnh của
Dechow et al, 1995 để ước tính biến kế toán dồn tích trong bài viết này.
2.2. Các lý thuyết nền
2.2.1. Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory)
Lý thuyết ủy nhiệm (hay lý thuyết đại diện) được đưa ra vào năm 1976 trong
một nghiên cứu của Jensen M. C., and Meckling W. H. Một mối quan hệ ủy nhiệm
là một hợp đồng mà một hay nhiều người - bên ủy nhiệm (principal), giao cho một
người khác - bên được ủy nhiệm hay bên đại diện (agent), thay mặt thực hiện một số
công việc bao gồm cả việc ra quyết định. Như vậy, trong một công ty, mối quan hệ
giữa các cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty với các nhà quản lý công ty (ban giám đốc)
chính là mối quan hệ ủy nhiệm.
Khi cả hai bên đều hành xử theo hướng tối đa hóa lợi ích của mình, có thể tin
rằng bên được ủy nhiệm sẽ không luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho bên ủy nhiệm
(Jensen M. C., and Meckling W. H,1976). Fridson M. and Alvarez F.,(2013) cho rằng,
một công ty cổ phần tồn tại vì lợi ích của các cổ đông, mục đích của công ty cổ phần
đó chính là tối đa hóa giá trị của cổ đông; mặt khác, những nhà quản lý cũng luôn
theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình. Theo Jensen M. C., and Meckling W.
H (1976), nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định nhằm mang lại lợi ích cho chính
bản thân mình và có xu hướng quên đi lợi ích của cổ đông khi họ có thể đặt được
mức lợi nhuận nào đó. Nhà quản lý có thể sẽ hành xử theo hướng tăng lợi ích thông
qua việc chi tiêu nhiều tiền hơn cho những khoản mục không cần thiết, làm giảm lợi
ích của nhà cổ đông; hoặc không cố gắng xây dựng, nâng cao giá trị của công ty (Vũ
Hữu Đức, 2010).
33
Chi phí ủy nhiệm (Agency cost) phát sinh khi bên ủy nhiệm cố gắng thực hiện
những biện pháp quản nhằm giảm thiểu hành động vì lợi ích cá nhân của bên được
ủy nhiệm, giúp duy trì mối quan hệ đại diện hiệu quả. Trong công ty, khi người chủ
sở hữu công ty cũng là người đại diện (giám đốc công ty) thì chi phí ủy nhiệm bằng
không. Jensen M. C., and Meckling W. H (1976) chia chi phí ủy nhiệm thành ba loại,
đó là:
(1) Chi phí giám sát (Monitoring cost): là các chi phí cho người chủ sở hữu
(bên ủy nhiệm) trả để đo lường, giám sát và kiểm tra hoạt động của người quản lý
(bên được ủy nhiệm). Ví dụ như chi phí kiểm toán, kiểm tra giám sát, ký kết hợp
đồng, sa thải người đại diện,...
(2) Chi phí ràng buộc (Bonding cost): là chi phí do nhà quản lý (bên được ủy
nhiệm) phải chịu nhằm đảm bảo việc giảm thiểu các hành động có thể gây thiệt hại
cho chủ sở hữu (bên ủy nhiệm). Ví dụ như: khoản bồi thường nhà quản lý sẽ gánh
chịu trong hợp đồng đại diện nếu có gây tổn thất cho công ty hoặc không hoàn thành
mục tiêu đã cam kết với chủ sở hữu.
(3) Phần tổn thất còn lại (Residual loss), là phần lợi ích của chủ sở hữu (bên
ủy nhiệm) bị giảm đi dù cả hai bên đã thực hiện những hành động phát sinh chi phí
(1) và (2). Ví dụ như thiệt hại do kiểm soát quá mức hoạt động của nhà quản lý, quyền
biểu quyết của các cổ đông trong một số vấn đề quan trọng của công ty gây ra thiệt
hại cho công ty,…
Theo Watson, Shrives và Marstn (2002) trích trong Nguyễn Trọng Nguyên,
(2015), theo lý thuyết ủy nhiệm, mục đích chính của BCTC là giám sát sự hiệu quả
của những nhà quản lý, còn nhà quản lý sử dụng công bố để thuyết phục cổ đông rằng
họ hành động một cách tốt nhất. Kiểm toán đóng vai trò giám sát cho các cổ đông, vì
có thể phát hiện ra những sai sót trọng yếu trong BCTC của công ty, làm giảm thiểu
xung đột giữa người quản lý và chủ sở hữu. (Jensen M. C., and Meckling W. H,
(1976), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016).
34
Áp dụng vào nghiên cứu, tác giả dùng lý thuyết này để giải thích cho các biến:
quyền sở hữu của nhà quản lý, sự kiêm nhiệm của giám đốc, tính độc lập của HĐQT,
đòn bẩy tài chính, quy mô công ty, loại hình công ty kiểm toán.
2.2.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) và Lý
thuyết tín hiệu (Signaling Theory)
Người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết thông tin bất cân xứng là G. A Akerlof
vào năm 1970 trong bài nghiên cứu của mình. Việc ra quyết định cho một vấn đề nào
đó của tất cả mọi cá nhân, tổ chức đều xuất phát từ các thông tin thu thập được về
vấn đề đó. Có một số thông tin riêng tư, bí mật, thường không được truyền đạt hết
mà bị che giấu đi ít nhiều. Do đó, giữa những người nắm giữ thông tin và những
người khác không thể tiếp cận được thông tin một cách trọn vẹn xuất hiện tình trạng
thông tin bất cân xứng. Trong công ty, thông tin bất cân xứng xảy ra giữa các cổ
đông- chủ sở hữu hoặc nhà đầu tư với nhà quản lý. Các cổ đông và nhà đầu tư không
thể có thông tin chính xác và toàn diện về tình hình tài chính của công ty như người
quản lý. Người quản lý có thể đưa ra những thông tin không kịp thời, không tin cậy,
thiếu chính xác hoặc không đầy đủ về tình hình tài chính của công ty, khiến các nhà
đầu tư đưa ra những quyết định sai lầm và chịu nhiều bất lợi.
Thông tin bất cân xứng thường dẫn đến hai hậu quả, đó là “lựa chọn bất lợi”
và “suy giảm đạo đức”. “Lựa chọn bất lợi” là kết quả của việc có thông tin bất cân
xứng xảy ra trước khi giao dịch hay ký hợp đồng. Lấy ví dụ, trên thị trường chứng
khoán, thông tin bất cân xứng xảy ra khi các CTNY và các bên có liên quan cố tình
che đậy các thông tin liên quan, dẫn đến tình trạng người mua (các nhà đầu tư) không
thể có được các thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời và rơi vào tình trạng lựa chọn
bất lợi khi đưa ra quyết định đầu tư. Ngược lại, “suy giảm đạo đức” là hậu quả khi
thông tin bất cân xứng xảy ra sau khi giao dịch xảy ra. Ví dụ như sau khi nhà đầu tư
đã mua cổ phiếu của doanh nghiệp phát hành, các nhà quản lý có thể điều hành công
ty, sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích, không có hiệu quả. Nếu tỷ lệ sở hữu
vốn của nhà quản lý thấp, việc kinh doanh không hiệu quả không làm họ bị thiệt hại
nhiều trên phần vốn họ sở hữu.
35
Michael Spence trong bài nghiên cứu năm 1973 đã đưa ra giải pháp để khắc
phục tình trạng thông tin bất cân xứng bằng cơ chế phát tín hiệu. Lý thuyết tín hiệu
được sử dụng để mô tả cách ứng xử của các bên khi tiếp cận với các thông tin không
giống nhau. Một bên lựa chọn cách để truyền đạt (hay phát tín hiệu) thông tin, và bên
còn lại lựa chọn cách để giải nghĩa thông tin. Bên có nhiều thông tin có thể phát tín
hiệu một cách trung thực và tin cậy đến những bên ít thông tin. Trên TTCK, các công
ty có thể lựa chọn đưa ra những công bố, phát tín hiệu đến người sử dụng thông tin
về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh tốt, các dự án có tiềm năng phát triển, sự
lựa chọn các phương pháp kế toán thích hợp,… của mình để thuyết phục nhà đầu tư
về tình hình kinh doanh của mình. Ngược lại, các nhà đầu tư cũng có thể sàng lọc,
nhận dạng, so sánh các công ty có tình hình kinh doanh tốt hay xấu để đưa ra quyết
định đầu tư.
Lý thuyết này được áp dụng vào nghiên cứu để giải thích cho các biến: quyền
sở hữu của nước ngoài, quy mô công ty, loại hình công ty kiểm toán, lợi nhuận công
ty, chính sách cổ tức.
2.2.3. Lý thuyết chi phí chính trị (Policital cost theory)
Chi phí chính trị được đề cập trong cuốn sách về lý thuyết kế 6 toán thực
chứng của Watts và Zimmerman năm 1986. Chi phí chính trị là chi phí mà doanh
nghiệp phải chịu thông qua một hành vi mang tính chính trị từ tác động bên ngoài
(Nhà nước, nghiệp đoàn hay các nhóm cộng đồng).
Nội dung cơ bản của lý thuyết này đó là một công ty chịu chi phí chính trị cao
được dự kiến sẽ tiết lộ thêm nhiều thông tin ra thị trường nhằm hạn chế chi phí chính
trị này. Theo Watts & Zimmerman (1986), các công ty chịu sự giám sát chặt chẽ từ
cơ quan quản lý thường có xu hướng gia tăng công bố thông tin để tránh sự can thiệp
của các quy định.
Lý thuyết này được áp dụng vào nghiên cứu để giải thích cho các biến: quyền
sở hữu của Nhà nước, quyền sở hữu của tổ chức.
36
2.2.4. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (Resource dependence theory)
Lý thuyết này được xây dựng bởi Pfeffer and Salancik (1978), cung cấp nền
tảng về vai trò nguồn lực của HĐQT. Pfeffer and Salancik (1978) cho rằng công ty
như một hệ thống mở, phụ thuộc vào các tình huống bất ngờ trong môi trường bên
ngoài công ty. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực ghi nhận ảnh hưởng của các nhân tố
bên ngoài lên hành vi của tổ chức và mặc dù bị hạn chế về bối cảnh, các nhà quản trị
có thể hành động nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc và không chắc chắn của môi trường
này hoặc tăng thêm các nguồn lực khác (Hillman et al, 2009). Họ có thể thực hiện
nhiều chiến lược khác nhau để tiếp cận các nguồn lực trong công ty, chống lại những
tính huống khẩn cấp (Pfeffer and Salancik, 1978).
Lý thuyết này cho thấy vai trò quan trọng của HĐQT đối với sự tồn tại của
công ty cũng như việc tiếp cận và phân bổ các nguồn lực cho hoạt động của doanh
nghiệp.
Lý thuyết này được áp dụng vào nghiên cứu để giải thích cho biến: tính độc
lập của HĐQT và sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và BGĐ.
37
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Trong chương 2, tác giả đã giải thích một số khái niệm về chất lượng BCTC,
chất lượng lợi nhuận, điều chỉnh lợi nhuận,… và các phương pháp, mô hình nghiên
cứu chất lượng BCTC thông qua điều chỉnh lợi nhuận.
Tác giả cũng tóm tắt nội dung các lý thuyết nền như lý thuyết ủy nhiệm, lý
thuyết thông tin bất cân xứng, lý thuyết chi phí chính trị, lý thuyết phụ thuộc nguồn
lực nhằm làm cơ sở để giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC được
tác giả sử dụng trong mô hình nghiên cứu được trình bày trong chương 3 dưới đây.
38
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính tác giả sử dụng trong bài này là phương pháp
định lượng, thực hiện phân tích các dữ liệu đã thu thập và xử lý để kiểm định các giả
thuyết nghiên cứu được đưa ra.
Đầu tiên, từ vấn đề nghiên cứu, tác giả tổng hợp các nghiên cứu trước đây về
vấn đề đo lường chất lượng BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông
tin BCTC, đồng thời, hệ thống các lý thuyết nền tảng có liên quan đến các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Từ đó, tìm ra khe hổng nghiên cứu và đề xuất mô
hình nghiên cứu cho luận văn.
Tiếp theo, tác giả thu thập dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu định lượng.
Tác giả thu thập các thông tin, dữ liệu từ BCTC đã kiểm toán, BCTN của các công ty
niêm yết nhóm ngành BĐS trên thị trường chứng khoán Việt Nam, sau đó thực hiện
sắp xếp, thống kê, mô tả dữ liệu để phục vụ việc đo lường biến phụ thuộc và kiểm
định các giả thuyết về mối quan hệ giữa các nhân tố với chất lượng BCTC.
Cuối cùng, tác giả tiến hành phân tích kết quả nghiên cứu và đưa ra những
nhận xét và đề xuất kiến nghị mà theo quan điểm của tác giả là hữu ích.
3.2. Thiết lập mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC
3.2.1. Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước như đã trình bày ở
trên, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu cho đề tài nghiên cứu của mình về các nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS, trong
đó, biến phụ thuộc “chất lượng BCTC” được đo lường thông qua chất lượng lợi nhuận
trên cơ sở kế toán.
Với các nhân tố ảnh hưởng, dựa trên các nghiên cứu trước mà trọng tâm là các
nghiên cứu tại Việt Nam, thông tin được công bố có 2 loại là thông tin bắt buộc và
thông tin tự nguyện, do đó việc thu thập các thông tin tự nguyện như quyền sở hữu
của cổ đông gia đình, tính độc lập của ban kiểm soát,… không thể đầy đủ. Từ đó, tác
giả đưa vào mô hình 11 biến độc lập và chia làm 3 nhóm nhân tố, gồm có:
39
(1) Nhóm nhân tố cơ cấu sở hữu: quyền sở hữu nước ngoài; quyền sở hữu vốn
của nhà quản lý, quyền sở hữu của nhà nước, quyền sở hữu của tổ chức;
(2) Nhóm nhân tố quản trị công ty: sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch
HĐQT, tính độc lập của HĐQT;
(3) Nhóm nhân tố cơ cấu tài chính: Đòn bẩy tài chính, quy mô công ty, loại
hình công ty kiểm toán, lợi nhuận, tỷ lệ chia cổ tức.
Lí do lựa chọn các nhân tố này đó là các biến này có tác động mạnh đến chất
lượng BCTC trong các nghiên cứu trước đây và việc thu thập dữ liệu các biến này có
thể thực hiện được tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các biến này cũng phù hợp với tình
tình thực tiễn tại các doanh nghiệp BĐS niêm yết Việt Nam trong giai đoạn 2011-
2015: các thông tin tự nguyện không được công bố đầy đủ, chất lượng BCTC được
đánh giá là thấp hơn so với các ngành nghề khác, có sự chênh lệch khá lớn giữa số
liệu trước và sau khi kiểm toán, hàng loạt các công ty công bố làm ăn thua lỗ, hành
vi gian lận của một số công ty bị phơi bày,… Vì vậy, tác giả mong muốn dùng các
nhân tố này để kiểm định sự ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các CTNY nhóm
ngành BĐS tại Việt Nam.
Mô hình nghiên cứu chính thức như sau:
40
CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Nhân tố liên quan cơ cấu QTCT
Nhân tố liên quan cơ cấu tài chính
Nhân tố liên quan cơ cấu sở hữu
Đòn bẩy tài chính
Quyền sở hữu nước ngoài
Sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT
Quy mô công ty
Quyền sở hữu của nhà nước
Loại hình công ty kiểm toán
Quyền sở hữu của nhà quản lý
Tính độc lập của HĐQT
Lợi nhuận
Quyền sở hữu của tổ chức
Tỷ lệ chia cổ tức
Hình 3.1. Mô hình nghiên cứu chính thức
3.2.2. Các biến trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Biến phụ thuộc: Chất lượng cáo cáo tài chính.
Biến độc lập:
Các đặc điểm cơ cấu sở hữu
(1) Quyền sở hữu nước ngoài
Quyền sở hữu nước ngoài (FORO) là tỷ lệ % vốn sở hữu bởi cổ đông nước
ngoài. Theo lý thuyết tín hiệu, công ty có tỷ lệ vốn sở hữu nước ngoài càng cao thì
chất lượng BCTC càng thấp. Theo Klai (2011), các cổ đông và giám đốc nước ngoài
41
thường có mối quan hệ với các nhà quản lý, tạo điều kiện cho việc theo đuổi những
mục tiêu cá nhân.
Giả thuyết H1: Công ty có quyền sở hữu vốn của nước ngoài càng cao thì chất
lượng BCTC càng thấp
(2) Quyền sở hữu của nhà nước
Quyền sở hữu của nhà nước (STAO) là tỷ lệ % vốn sở hữu bởi cổ đông nhà
nước. Nghiên cứu của Klai (2011) cho thấy, cổ đông Nhà nước có vai trò kiểm soát
chất lượng quản lý và các thông tin được công bố, giúp mang lại BCTC có chất lượng
tốt, giảm thiểu sự can thiệp lên thu nhập và cải thiện chất lượng thông tin tài chính.
Nghiên cứu thực nghiệm của Houqe et al (2010) cũng cho kết quả tương tự. Áp dụng
lý thuyết chi phí chính trị, tác giả kỳ vọng rằng các công ty có quyền sở hữu vốn của
nhà nước cao thì chất lượng BCTC cao, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật hiện hành.
Giả thuyết H2: Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà nước càng cao thì chất
lượng BCTC càng cao
(3) Quyền sở hữu của nhà quản lý
Quyền sở hữu của nhà quản lý (MAO) là tỷ lệ % vốn sở hữu bởi các cổ đông
thuộc HĐQT, BGD, BKS của công ty. Theo lý thuyết ủy nhiệm, khi các nhà quản lý
có tỷ lệ quyền sở hữu cao thì sẽ đưa ra những quyết định phù hợp với lợi ích của họ
và các cổ đông khác, BCTC được lập và trình bày trung thực, có chất lượng cao hơn.
Nghiên cứu của Houqe et al (2010) cũng cho kết quả rằng sở hữu của nhà quản lý cao
dẫn đến chất lượng lợi nhuận cao hơn.
Giả thuyết H3: Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà quản lý càng cao thì
chất lượng BCTC càng cao
(4) Quyền sở hữu của tổ chức
Quyền sở hữu của tổ chức (INO) là tỷ lệ % vốn sở hữu bởi các cổ đông tổ chức
trong công ty. Houqe et al (2010), Hassan (2013), Klai (2011) đã tìm thấy, công ty
có tỷ lệ sở hữu của tổ chức cao có chất lượng lợi nhuận cao. Áp dụng lý thuyết chi
42
phí chính trị, tác giả kỳ vọng rằng công ty có quyền sở hữu vốn của tổ chức càng cao
thì có chất lượng BCTC càng cao, nhằm giảm thiểu chi phí chính trị của công ty.
Giả thuyết H4: Công ty có quyền sở hữu vốn của tổ chức càng cao thì chất
lượng BCTC càng cao
Các đặc điểm cơ cấu quản trị công ty
(5) Sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT
Áp dụng lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, tác giả kỳ vọng rằng công ty không
có sự kiêm nhiệm giữa chức vụ chủ tịch HĐQT và TGĐ thì có chất lượng BCTC
càng cao do hạn chế khả năng thông đồng để thực hiện các hành vi điều chỉnh lợi
nhuận, nhằm phục vụ lợi ích cá nhân. Nghiên cứu của Liu (2012) ủng hộ giả thuyết
này.
Giả thuyết H5: Công ty có giám đốc điều hành không kiêm nhiệm chủ tịch
HĐQT thì chất lượng BCTC cao hơn so với công ty có sự kiêm nhiệm hai chức danh
này.
(6) Tính độc lập của HĐQT
Áp dụng lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, tác giả kỳ vọng rằng công ty có HĐQT
độc lập càng cao thì chất lượng BCTC càng cao do hạn chế được khả năng thông
đồng để thực hiện các hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhằm phục vụ lợi ích cá nhân.
Một số nghiên cứu của Qinghua et al. (2007), Hassan (2013), Nguyễn Thị Phương
Hồng (2016) ủng hộ giả thuyết này.
Giả thuyết H6: Công ty có tính độc lập của HĐQT càng cao thì chất lượng
BCTC càng cao
Các đặc điểm cơ cấu tài chính
(7) Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính được đo lường bởi tỷ lệ giữa tổng nợ trên tổng tài sản. Áp
dụng lý thuyết ủy nhiệm, lý thuyết thông tin bất cân xứng, lý thuyết tín hiệu, các chủ
nợ thường kỳ vọng công ty có đòn bẩy tài chính cao, tức có tình trạng nợ cao thường
khai báo lợi nhuận cao nhằm tạo niềm tin đối với các chủ nợ. Do đó, tác giả kỳ vọng
43
rằng công ty có đòn bẩy tài chính cao thì chất lượng BCTC thấp. Nghiên cứu của
Qinghua et al. (2007) ủng hộ giả thuyết này.
Giả thuyết H7: Công ty có đòn bẩy tài chính càng cao thì chất lượng BCTC
càng thấp
(8) Quy mô công ty
Lý thuyết tín hiệu được tác giả áp dụng để giải thích việc công ty có quy mô
lớn, nhằm tạo tín hiệu tốt về khả năng hoạt động của công ty cũng như nhằm thu hút
vốn đầu tư, các công ty này có khả năng báo cáo lợi nhuận không trung thực (có thể
là thổi phồng lợi nhuận). Nghiên cứu của Klai (2011), Nguyễn Thị Phương Hồng
(2016) ủng hộ giả thuyết này.
Giả thuyết H8: Công ty có quy mô càng lớn thì chất lượng BCTC càng thấp
(9) Loại hình công ty kiểm toán
Lý thuyết ủy nhiệm cho rằng kiểm toán giúp giảm thiểu xung đột giữa cơ quan
quản lý và các cổ đông bên ngoài. Do đó, tác giả kỳ vọng một công ty được kiểm
toán bởi công ty kiểm toán thuộc BIG4 sẽ có chất lượng BCTC cao hơn so với công
ty được kiểm toán bởi công ty kiểm toán không thuộc BIG4. Nghiên cứu của
Quinghua et al (2007); Chen et al (2011) ủng hộ giả thuyết này.
Giả thuyết H9: Công ty được kiểm toán bởi công ty kiểm toán thuộc BIG4 thì
chất lượng BCTC cao hơn công ty được kiểm toán bởi công ty không thuộc BIG4.
(10) Lợi nhuận
Theo lý giải của lý thuyết tín hiệu, tác giả kỳ vọng công ty có lợi nhuận càng
cao thì có chất lượng BCTC càng cao; họ sẽ lựa chọn các chính sách kế toán để thể
hiện chất lượng tốt của công ty mình.
Giả thuyết H10: Công ty có lợi nhuận càng cao thì chất lượng BCTC càng
cao.
(11) Tỷ lệ chia cổ tức
Tác giả kỳ vọng công ty có chính sách tỉ lệ chia cổ tức càng cao thì chất lượng
BCTC càng cao theo lý giải của lý thuyết tín hiệu. Các công ty có chất lượng lợi
44
nhuận cao thường chia cổ tức cho cổ đông cao nhằm phát đi tín hiệu về hiệu quả kinh
doanh tốt của công ty.
Giả thuyết H11: Công ty có chính sách tỷ lệ chia cổ tức càng cao thì chất
lượng BCTC càng cao.
Bảng 3.1 dưới đây tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng ảnh hưởng
của các nhân tố đến chất lượng BCTC (ngược chiều với kỳ vọng ảnh hưởng đến biến
phụ thuộc).
Bảng 3.1. Các giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng ảnh hưởng của các nhân tố đến
chất lượng BCTC
Kỳ vọng Giả Nội dung ảnh thuyết hưởng
Các đặc điểm cơ cấu sở hữu
H1 Công ty có quyền sở hữu vốn của nước ngoài càng cao thì -
chất lượng BCTC càng thấp
H2 Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà nước càng cao thì chất +
lượng BCTC càng cao
H3 Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà quản lý càng cao thì +
chất lượng BCTC càng cao
H4 Công ty có quyền sở hữu vốn của tổ chức càng cao thì chất +
lượng BCTC càng cao
Các đặc điểm cơ cấu quản trị công ty
H5 Công ty có giám đốc điều hành không kiêm nhiệm chủ tịch +
HĐQT càng cao thì chất lượng BCTC càng cao
H6 Công ty có tính độc lập của HĐQT càng cao thì chất lượng +
BCTC càng cao
Các đặc điểm cơ cấu tài chính
45
H7 Công ty có đòn bẩy tài chính càng cao thì chất lượng BCTC -
càng thấp
H8 Công ty có quy mô càng lớn thì chất lượng BCTC càng thấp -
H9 Công ty được kiểm toán bởi công ty kiểm toán thuộc BIG4 +
thì chất lượng BCTC cao hơn công ty được kiểm toán bởi
công ty không thuộc BIG4.
H10 Công ty có lợi nhuận càng cao thì chất lượng BCTC càng +
cao.
H11 Công ty có chính sách tỷ lệ chia cổ tức càng cao thì chất +
lượng BCTC càng cao.
Ký hiệu: +: tác động cùng chiều; -: tác động ngược chiều
3.3. Thiết kế nghiên cứu
3.3.1. Mô tả dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin
Dữ liệu được thu thập từ các BCTC, BC thường niên, nghị quyết hội đồng cổ
đông thường niên của các công ty niêm yết, ngành bất động sản. Danh sách các công
ty niêm yết phân ngành bất động sản được công bố trên website của sàn giao dịch
HNX và HOSE. Các báo cáo trên được thu thập từ các website của sàn giao dịch
HOSE, HNX, các website: cophieu68, vietstock, stoxvn, và các website của các công
ty trong mẫu được lựa chọn.
Vào thời điểm 31/12/ 2015, trên thị trường chứng khoán Việt Nam (sàn HOSE
và sàn HNX) có tổng cộng 53 công ty niêm yết, trong đó có 37 công ty trên thị trường
chứng khoán Tp.HCM và 16 công ty trên thị trường chứng khoán Hà Nội. Tác giả
lọc ra mẫu cuối cùng gồm 44 công ty có đặc điểm phù hợp cho việc thu thập dữ liệu
cho việc đo lường biến phụ thuộc và kiểm định các biến độc lập. Tiêu chuẩn chọn
mẫu như sau:
- Có thể thu thập BCTC đã kiểm toán từ năm 2010 đến năm 2015;
- Có năm tài chính từ 1/1 đến 31/12, và không thay đổi trong suốt thời gian
nghiên cứu
- Dữ liệu có sẵn và có thể thu thập được.
46
Luận văn sử dụng dữ liệu của 44 công ty niêm yết nhóm ngành bất động sản
trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn 5 năm 2011-2015 hình thành nên dữ liệu bảng
cân bằng với tổng quan sát là 44*5 = 220. Mô hình được sử dụng gồm 11 biến độc
lập, theo Nguyễn Đình Thọ (2014), kích thuớc tối thiểu của mẫu nghiên cứu được
tính với công thức: n = 8*m+50 = 8*11+50 = 138 với n là kích thước mẫu tối thiểu,
m là số lượng biến độc lập. Như vậy, số lượng mẫu quan sát của luận văn là phù hợp.
Danh sách công ty trong mẫu được trình bày tại phụ lục 1 của luận văn này.
Để đo lường chất lượng BCTC bằng mô hình Jones điều chỉnh của Dechow et
al (1995), tác giả sử dụng các dữ liệu trên BCDKT và BCKQKD, BCLCTT trong
BCTC.
Để đo lường các nhân tố ảnh hưởng, tác giả sử dụng các thông tin trên báo cáo
thường niên, BCTC và nghị quyết hội đồng cổ đông thường niên của các công ty
trong mẫu được chọn. Cụ thể, các biến liên quan đến cơ cấu sở hữu, cơ cấu quản trị
công ty, tỷ lệ chia cổ tức được thu thập từ báo cáo thường niên và nghị quyết HĐQT;
các biến liên quan đến cơ cấu tài chính còn lại được thu thập từ BCTC đã kiểm toán.
Đây là các dữ liệu thứ cấp được chính các công ty trong mẫu nghiên cứu công
bố công khai trên thị trường nên có tính chính xác cao, không cần đo lường các biến
nghiên cứu vì chúng đã có sẵn.
3.3.2. Mô hình hồi quy
Mô hình hồi quy như sau:
FRQit = β0 + β1FOROit + β2STAOit + β3MAOit + β4INOit + β5DCit + β6BINit
+ β7LEVit + β8SIZEit + β9BIG4it + β10ROEit + β11DIVit + εi (1)
Trong đó:
: Chất lượng BCTC của công ty i trong năm t; FRQit
: Quyền sở hữu nước ngoài của công ty i trong năm t; FOROit
: Quyền sở hữu của nhà nước của công ty i trong năm t; STAOit
: Quyền sở hữu của nhà quản lý của công ty i trong năm t; MAOit
: Quyền sở hữu của tổ chức của công ty i trong năm t; INOit
47
: Sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT của công ty i trong DCit
năm t;
: Tính độc lập của HĐQT của công ty i trong năm t; BINit
: Đòn bẩy tài chính của công ty i trong năm t; LEVit
: Quy mô công ty của công ty i trong năm t; SIZEit
: Loại hình công ty kiểm toán của công ty i trong năm t; BIG4it
: Lợi nhuận của công ty i trong năm t; ROEit
: Tỷ lệ chia cổ tức của công ty i trong năm t; DIVit
3.3.3. Đo lường biến trong mô hình
3.3.3.1. Đo lường biến phụ thuộc
Như đã trình bày trong mục 2.1, chương 2, tác giả lựa chọn việc đo lường biến
phụ thuộc “Chất lượng BCTC” thông qua biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh
được DA.
Tổng dồn tích kế toán được tính toán như sau:
TAit = NIit – CFOit (2)
Trong đó:
: tổng dồn tích trong năm t của công ty i; TAit
: lợi nhuận sau thuế năm t của công ty i; NIit
: Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh năm t của công ty i. CFOit
Tổng kế toán dồn tích bao gồm các khoản dồn tích tự định (Non-discretionary
accruals – NDA) và các khoản dồn tích không tự định (Discretionary accruals – DA).
TAit = NDAit + DAit (3)
Suy ra, DAit = TAit - NDAit. (4)
Biến kế toán dồn tích tự định càng cao thì quản trị lợi nhuận càng nhiều và
như vậy, chất lượng BCTC càng thấp (Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016).
Tác giả lựa chọn việc tính toán biến kế toán dồn tích bằng mô hình của Dechow
et al (1995). Việc tính toán được thực hiện như sau:
Bước 1: Tính tổng kế toán dồn tích TA theo mô hình (2)
Bước 2: Tính toán dồn tích không tự định:
48
NDAit/ Ait-1 = α0i (1 /Ait-1) + α1i((ΔREVit - ΔRECit )/Ait-1) + α2i (PPEit/Ait-1)(5)
Trong đó:
: dồn tích không tự định trong năm t của công ty i; NDAit
: doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm t-1 của công ty i; ΔREVit
: khoản phải thu thuần năm t trừ đi khoản phải thu thuần năm t-1 của công ΔRECit
ty i;
: nguyên giá BĐS, nhà xưởng, máy móc thiết bị trong năm t của công ty i; PPEit
: tổng tài sản trong năm t-1 của công ty i Ait-1
Các hệ số α0i, α1i, α2i được ước lượng của các hệ số a0 a1, a2, trong mô hình gốc
của Dechow et al (1995) như sau:
TAit/ Ait-1 = a0i (1/Ait-1) + a1i (ΔREVit - ΔRECit)/Ait-1) + a2i (PPEit /Ait-1) + εi (6)
Trong đó:
: tổng dồn tích trong năm t của công ty i; TAit
: doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm t-1 của công ty i; ΔREVit
: khoản phải thu thuần năm t trừ đi khoản phải thu thuần năm t-1 của công ΔRECit
ty i;
: nguyên giá BĐS, nhà xưởng, máy móc thiết bị trong năm t của công ty i; PPEit
: tổng tài sản trong năm t-1 của công ty i Ait-1
Bước 3: Tính biến dồn tích tự định
Từ công thức (4), chia cả 2 vế cho Ait-1 ta có:
DAit / Ait-1 = TAit/ Ait-1 - NDAit/ Ait-1 (7)
Thế kết quả từ các phương trình (5) và (6) vào phương trình (7) nói trên, tìm
ra được DAit / Ait-1. Vì hành vi làm tăng hay giảm lợi nhuận đều là hành vi điều chỉnh
lợi nhuận (Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016) nên biến kế toán dồn tích có thể điều
chỉnh sẽ được lấy giá trị tuyệt đối |DAit / Ait-1|. |DAit / Ait-1| đo lường biến phụ thuộc
của mô hình (1); |DAit / Ait-1| càng cao thì chất lượng BCTC càng thấp.
49
3.3.3.2. Đo lường biến độc lập
Bảng 3.2. Danh sách biến độc lập và phương pháp đo lường
KÝ STT TÊN BIẾN ĐO LƯỜNG NGUỒN HIỆU
Quyền sở hữu Tỷ lệ % sở hữu vốn bởi cổ FORO Klai (2011) 1 nước ngoài đông nước ngoài
Klai (2011), Quyền sở hữu Tỷ lệ % sở hữu vốn bởi cổ STAO Houqe et al 2 của nhà nước đông nhà nước (2010)
Quinghua et al
Quyền sở hữu (2007), Hassan Tỷ lệ % sở hữu vốn của 3 của nhà quản MAO (2013), Houqe et HĐQT, BGĐ, BKS lý al (2010), Liu
(2012)
Quyền sở hữu Tỷ lệ % sở hữu vốn bởi cổ Hassan (2013), 4 INO đông là tổ chức Klai (2011) của tổ chức
Sự kiêm Biến giả, bằng 1 nếu TGĐ nhiệm chức không kiêm nhiệm chức danh 5 danh TGĐ và DC Liu (2012) chủ tịch HĐQT, bằng không chủ tịch nếu ngược lại HĐQT
Quinghua et al
Tính độc lập Tỷ lệ % thành viên ban giám (2007), Hassan BIN 6 của HĐQT đốc không nằm trong HĐQT (2013), Liu
(2012)
Hassan (2013), Đòn bẩy tài Tỷ lệ giữa tổng nợ trên tổng Klai (2011), LEV 7 chính tài sản Houqe et al
50
(2010), Liu
(2012)
Klai (2011), Quy mô công Logarit tự nhiên của tổng tài Quinghua et al 8 SIZE ty sản tại ngày kết thúc niên độ (2007)
Biến giả, bằng 1 nếu được Loại hình Quinghua et al kiểm toán bởi các công ty 9 công ty kiểm BIG4 (2007), Chen et al kiểm toán BIG4, bằng 0 nếu toán (2011) không phải
Tỷ lệ lợi nhuận thuần trên Quinghua et al 10 Lợi nhuận ROE vốn chủ sở hữu (2010)
Tỷ lệ chia cổ Tỷ lệ cổ tức được chi trả trên 11 DIV Inchausti (1997) lợi nhuận thuần tức
3.3.4. Quy trình phân tích dữ liệu
Tác giả sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2013 và STATA 12 để phân tích
các dữ liệu nhằm phục vụ mục tiêu nghiên cứu là phân tích ảnh hưởng của các nhân
tố đến chất lượng BCTC.
Đầu tiên, tác giả thu thập các dữ liệu cần thiết như đã mô tả trong mục 3.3.1
của mẫu gồm 44 CTNY nhóm ngành BĐS trong giai đoạn từ 2011-2015. Tiếp theo,
tác giả sử dụng phần mềm Microsoft Excel để tính toán và xử lý dữ liệu cần thiết cho
mô hình hồi quy. Kết quả xử lý tạo nên dữ liệu bảng cân bằng; các đơn vị chéo có
cùng số quan sát theo thời gian (từng năm).
Từ dữ liệu bảng nói trên, tác giả tiến hành kiểm tra giả định về mối tương quan
giữa các biến độc lập và kiểm tra xem hiện tượng đa cộng tuyến có xảy ra hay không
bằng hệ số khuếch đại phương sai VIF. Nếu tình trạng đa cộng tuyến xảy ra, tác giả
sẽ khắc phục bằng cách tiến hành loại bỏ các biến này.
Tiếp theo, tác giả sử dụng phần mềm STATA để lựa chọn mô hình ước lượng
phù hợp nhất trong 3 mô hình phân tích hồi quy là Pooled OLS, Fixed Effects và
51
Random Effects. Sau đó tiến hành kiểm tra tự tương quan và phương sai thay đổi
nhằm tìm cách khắc phục các khiếm khuyết trong mô hình nếu có xảy ra. Tác giả kỳ
vọng mô hình có độ tin cậy 90%, tương đương với mức ý nghĩa thống kê 10%.
52
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Trong chương 3, tác giả trình bày phương pháp nghiên cứu, đồng thời trình
bày mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các doanh
nghiệp niêm yết nhóm ngành BĐS gồm có 11 nhân tố chia làm 3 nhóm đó là:
(1) Nhóm nhân tố cơ cấu sở hữu: quyền sở hữu nước ngoài; quyền sở hữu vốn
của nhà quản lý, quyền sở hữu của nhà nước, quyền sở hữu của tổ chức;
(2) Nhóm nhân tố quản trị công ty: sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch
HĐQT, tính độc lập của HĐQT;
(3) Nhóm nhân tố cơ cấu tài chính: Đòn bẩy tài chính, quy mô công ty, loại
hình công ty kiểm toán, lợi nhuận, tỷ lệ chia cổ tức.
Tác giả cũng trình bày phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu; đưa ra mô
hình hồi quy; mô tả cách đo lường các biến phụ thuộc và biến độc lập trong mô hình
hồi quy và nêu ra quy trình phân tích dữ liệu của tác giả.
53
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
4.1. Phân tích thực trạng chất lượng BCTC của các công ty niêm yết nhóm
ngành BĐS
Tác giả tiến hành sử dụng mô hình GMM để ước lượng mô hình Jones điều
chỉnh sử dụng để đo lường biến phụ thuộc trong mô hình 1 giai đoạn 2011-2015. Kết
quả ước lượng được trình bày ở bảng 4.1 như sau:
Bảng 4.1. Kết quả ước lượng các hệ số a0, a1, a2
TAitAit1 Coef. Std. Err. z P>z
Ait1 1129.192 525.7936 2.150 0.032
REVitRECitAit1 0.235856 0.05687 4.150 0.000
PPEitAit1 -0.45619 0.096078 -4.750 0.000
_cons 0.021552 0.008165 2.640 0.008
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Các biến độc lập đều có p-value < 0.05, như vậy các biến này đều có ảnh
hưởng tới biến phụ thuộc là TAit/Ait-1 với mức ý nghĩa 5%. Do đó, việc sử dụng các
hệ số beta (a0, a1, a2) tính toán được từ bảng 4.1 trên là thích hợp. Tác giả tiếp tục sử
dụng phần mềm Microsoft Excel tính toán theo các bước đã trình bày trong mục
3.3.3.1 để tính toán ra biến phụ thuộc FRQ- thực trạng chất lượng BCTC.
Bảng 4.2 dưới đây cho thấy thực trạng chất lượng BCTC đo lường theo QTLN
tại các công ty nhóm ngành BĐS niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện nay. Như phân tích tại chương 3, mức độ quản trị lợi nhuận càng cao dẫn đến
chất lượng BCTC càng thấp, nghĩa là trị trung bình của biến FQR trong bảng 4.1 càng
cao, chất lượng trung bình BCTC càng thấp.
54
Bảng 4.2. Thực trạng chất lượng BCTC đo lường theo QTLN
Giá trị tối Giá trị tối đa Trị trung bình Độ lệch chuẩn Năm thiểu
2011 0.004786 1.045934 0.132689 0.168364
2012 0.004000 0.896111 0.096539 0.142146
2013 0.002335 0.375621 0.078848 0.085202
2014 0.000047 0.366405 0.105752 0.088735
2015 0.002289 0.649394 0.103746 0.121333
5 năm 0.000047 1.045934 0.103515 0.125295
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Microsoft Excel và STATA)
Số liệu ở bảng 4.2 trên cho thấy, mức QTLN trung bình trong 5 năm từ 2011-
2015 của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS với mức trung bình là 0.103515,
mức tối thiểu thấp là 0.000047 và mức tối đa khá cao là 1.045934.
Trong giai đoạn này, chất lượng BCTC năm 2011 là thấp nhất với trị trung
bình cao nhất là 0.132689, thấp nhất ở mức 0.004786 và cao nhất mức 1.045934.
Mức QTLN năm 2012 giảm so với năm 2013 với trị trung bình là 0.096539, thấp nhất
là 0.004000, cao nhất là 0.896111. Mức QTLN giảm thấp nhất vào năm 2013 với trị
trung bình là 0.078848, mức thấp nhất năm 2013 là 0.002335 và mức cao nhất là
0.375621. Như vậy, mức QTLN giảm từ năm 2011 đến năm 2013 nghĩa là chất lượng
BCTC tăng từ năm 2011 đến năm 2013. Tiếp đến, mức QTLN năm 2014 lại tăng so
với năm 2013 với mức trị trung bình là 0.105752, mức thấp nhất là 0.000047 và cao
nhất là 0.366405. Mức QTLN trung bình năm 2015 là 0.103515. Như vậy, mức
QTLN giai đoạn 2014 – 2015 là gần như không đổi; tuy nhiên có sự khác biệt khá
lớn giữa mức cao nhất năm 2014 và 2015 với mức cao nhất năm 2015 gấp 2 lần mức
cao nhất 2014.
55
Biểu đồ 4.1 dưới đây thể hiện mức độ trung bình chất lượng BCTC (mức độ
quản trị lợi nhuận) tại các công ty nhóm ngành BĐS niêm yết trên sàn chứng khoán
trong giai đoạn 2011-2015.
Trị trung bình
0.132689
0.14
0.12
0.105752
0.103746
0.103515
0.096539
0.1
0.078848
0.08
0.06
0.04
0.02
0
2011
2012
2013
2014
2015
5 năm
Biểu đồ 4.1. Thực trạng chất lượng BCTC (mức độ trung bình QTLN) các công
ty niêm yết nhóm ngành BĐS giai đoạn 2011-2015
4.2. Mô tả các biến nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC.
4.2.1. Mô tả các biến định tính
Theo số liệu trong bảng 4.3, trong tổng số 220 quan sát có 138 quan sát có
BCTC được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán thuộc BIG4, chiếm 62.73% và 82
quan sát được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán không thuộc BIG4, chiếm 37.27%.
Thực trạng kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT thấp hơn không
kiêm nhiệm; cụ thể, có 155 quan sát không kiêm nhiệm 2 chức danh, chiếm 70.45%
và có 65 quan sát có kiêm nhiệm giữa 2 chức danh, chiếm 29.55%.
56
Bảng 4.3. Bảng thống kê mô tả các biến loại công ty kiểm toán và kiêm nhiệm
TGĐ và chủ tịch HĐQT.
Sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ Loại công ty kiểm toán (BIG4) và chủ tịch HĐQT (DC)
Không Không Kiêm BIG4 Cộng kiêm Cộng phải nhiệm BIG4 nhiệm
82 138 220 65 155 220 Số lượng
62.73% 37.27% 100% 29.55% 70.45% 100% Tỷ lệ %
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
4.2.2. Mô tả các biến định lượng
Bảng 4.4. Bảng thống kê mô tả các biến định lượng
Số Giá trị tối Trị trung Độ lệch Biến quan Giá trị tối đa thiểu bình chuẩn sát
FORO 220 0.000000 0.480000 0.078387 0.095506
STAO 220 0.000000 0.670000 0.222733 0.127945
MAO 220 0.000000 0.658600 0.226621 0.196000
INO 220 0.004000 0.900000 0.345634 0.240505
BIN 220 0.000000 0.800000 0.268863 0.167552
LEV 220 0.008100 0.948100 0.514333 0.195844
SIZE 220 10.080000 18.800000 13.990770 1.420206
ROE 220 -1.732500 0.384000 0.021231 0.192459
DIV 220 0.000000 0.980000 0.360005 0.394153
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
57
Nhóm biến liên quan đến cơ cấu sở hữu
Theo số liệu trong bảng 4.4, tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài trung bình
là 7.84%, tỷ lệ thấp nhất là 0% và cao nhất là 48%. Tỷ lệ sở hữu của cổ đông nhà
nước trung bình là 22.28%, tỷ lệ thấp nhất là 0% và cao nhất là 67%. Trung bình
quyền sở hữu của nhà quản lý là 22.66% trong đó quan sát có tỷ lệ thấp nhất là 0%
và cao nhất là 65.86%.Trung bình quyền sở hữu của cổ đông tổ chức là 34.56%, trong
đó biến quan sát có tỷ lệ thấp nhất là 0.4% và cao nhất là 90%.
Nhóm biến liên quan cơ cấu quản trị công ty
Cũng từ số liệu trong bảng 4.4, tỷ lệ thành viên BGĐ không nằm trong HĐQT
có mức trung bình là 26.89%, thấp nhất là 0% và cao nhất là 80%.
Nhóm biến liên quan cơ cấu tài chính
Theo kết quả bảng 4.4, trung bình đòn bẩy tài chính là 51.43%, mức thấp nhất
là 0.81% và cao nhất là 94.81%. Về quy mô công ty, trị trung bình là 13.99 triệu
đồng, thấp nhất là 10.08 triệu đồng và cao nhất là 18.8 triệu đồng.
Mức ROE của các công ty nhóm ngành BĐS thuộc mẫu quan sát có trị trung
bình là 2.12%, thấp nhất ở mức -173.25% và cao nhất ở mức 38.4%. Cuối cùng là tỷ
lệ chia cổ tức với mức trung bình là 36%, thấp nhất là 0% vào cao nhất là 98%.
4.3. Kết quả phân tích tương quan và hồi quy
4.3.1. Phân tích tương quan
Việc phân tích tương quan được thực hiện với mục đích xác định mối liên hệ
tuyến tính giữa từng cặp biến phụ thuộc biến độc lập. Hệ số tương quan càng lớn cho
thấy mối quan hệ giữa hai biến càng chặt và ngược lại khi hệ số tương quan thấp diễn
tả mối quan hệ giữa hai biến không chặt. Hệ số dương chỉ ra mối quan hệ cùng chiều
giữa các cặp biến, hệ số âm cho thấy quan hệ ngược chiều giữa hai biến. Kết quả phân
tích ở bảng 4.5 cho thấy biến FRQ có tương quan mạnh nhất với DC (-0.663) và
tương quan yếu nhất với SIZE (-0.01). Theo Kennedy (2008), hiện tượng đa cộng
tuyến trở nên nghiêm trọng khi giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan giữa các biến
độc lập trong mô hình từ 0.8 trở lên. Mức tương quan giữa các biến độc lập với biến
phụ thuộc và giữa các biến phụ thuộc với nhau đều ở mức thấp và đều dưới 0.8. Như
58
vậy, các nhân tố được xem xét trong bài nghiên cứu này có hệ số tương quan với nhau
thấp nên ít có khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 4.5. Ma trận tương quan
FRQ
FORO STAO MAO
INO
DC
BIN
LEV
SIZE BIG4 ROE DIV
1
0.5717
1
0.2919 0.0161
1
-0.0632 0.0438 -0.1104
1
0.2101 0.0198 0.0639 -0.2354
1
-0.6632 -0.5215 -0.0898 0.0583 -0.2068
1
0.3794 0.1427 0.2714 0.0435 0.1162 -0.1631
1
0.0823 0.1057 -0.0474 0.1707 0.1729 -0.0333 0.1128
1
-0.0111
0.076 -0.2011 0.0771
0.081 0.0475 0.0398 0.3853
1
-0.5105 -0.4003 -0.1522 0.1651 -0.1662 0.6134 -0.0986 0.0871 0.2909
1
0.0412 0.0752 -0.0386 0.0459 -0.1358 0.0022 0.0198 -0.1944 0.1605 0.0371
1
0.1271 0.0468 -0.0502
-0.154 0.0508 -0.0408 0.0182
0.018 0.1006
0.014 0.2787
1
F R Q F O R O S T A O M A O I N O D C B I N L E V S I Z E B I G 4 R O E D I V
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Vì hệ số tương quan chỉ đánh giá quan hệ hai chiều mà không đánh giá được
tác động 1 chiều các biến độc lập lên FRQ nên tác giả tiếp tục thực hiện các bước
phân tích hồi quy để đánh giá tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc FRQ.
59
4.3.2. Kiểm định đa cộng tuyến
Tác giả sử dụng phương pháp xác định đa cộng tuyến phổ biến nhất là sử dụng
nhân tố phóng đại phương sai VIF. Giá trị VIF của một biến càng lớn thì biến đó cộng
tuyến càng cao với các biến còn lại trong mô hình. Nếu biến độc lập có VIF ≥ 10 thì
biến đó được xem là đa cộng tuyến với các biến độc lập còn lại.
Kết quả VIF như sau:
Bảng 4.6. Giá trị VIF của mô hình hồi quy
Biến VIF
SIZE 25.3
LEV 10.53
DC 6.21
BIG4 4.87
STAO 4.21
BIN 4.1
INO 3.68
MAO 2.74
FORO 2.5
DIV 2.08
ROE 1.22
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Kết quả trong bảng 4.6 cho thấy có các biến SIZE và BIN có hệ số VIF >10
nên có đa cộng tuyến với nhau. Để khắc phục hiện tượng đa cộng tuyến, tác giả tiến
hành loại bỏ một trong 2 biến này. Do SIZE có hệ số VIF cao hơn BIN nên tác giả
loại biến này đi và tiến hành kiểm tra đa cộng tuyến lại sau khi loại biến. Kết quả
được trình bày trong bảng 4.7 như sau:
60
Bảng 4.7. Giá trị VIF của mô hình hồi quy sau loại biến SIZE
Biến VIF
LEV 8.06
DC 5.27
BIG4 4.64
BIN 4
STAO 3.83
INO 3.22
MAO 2.64
FORO 2.15
DIV 2.02
ROE 1.19
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Theo kết quả trong bảng 4.7 ở trên, tất cả các giá trị VIF của mỗi biến độc lập
trong mô hình đều nhỏ hơn 10 nên mô hình không tồn tại đa cộng tuyến. Như vậy,
việc tác giả đưa đồng thời các biến này vào mô hình để phân tích hồi quy là phù hợp.
4.3.3. Lựa chọn mô hình ước lượng phù hợp
Để phân tích ảnh hưởng các nhân tố đến chất lượng BCTC theo mô hình 1, tác
giả sử dụng ba phương pháp ước lượng mô hình hồi qui bao gồm: (1) mô hình bình
phương tối thiểu thông thường gộp (Pooled-OLS) là mô hình không kiểm soát được
từng đặc điểm riêng của từng công ty trong mẫu nghiên cứu; (2) mô hình những tác
động cố định (FEM- Fixed Effects Model) được phát triển từ mô hình Pooled OLS,
có thêm kiểm soát từng đặc điểm khác nhau giữa các công ty, và có sự tương quan
giữa phần dư của mô hình và các biến độc lập; và (3) mô hình những tác động ngẫu
nhiên (REM-Random Effects Model) là mô hình được phát triển từ mô hình Pooled
OLS khi có thêm kiểm soát được từng đặc điểm khác nhau giữa các công ty, nhưng
không có sự tương quan giữa phần dư của mô hình và các biến độc lập.
61
Kết quả ước lượng Pooled-OLS theo bảng 4.8 bên dưới, hệ số R2 điều chỉnh
= 61.34%, cho thấy các biến độc lập mô tả được 61.34% biến phụ thuộc.
Bảng 4.8. Bảng kết quả hồi quy mô hình Pooled- OLS
FRQ Coef. Std. Err. t P>t
0.3807927 0.0669116 5.690 0.000 FORO
0.1804346 0.043641 4.130 0.000 STAO
0.0008691 0.0293167 0.030 0.976 MAO
0.0344544 0.0239124 1.440 0.151 INO
-0.1034966 0.0160724 -6.440 0.000 DC
0.152041 0.0335779 4.530 0.000 BIN
0.0149863 0.029265 0.510 0.609 LEV
-0.0278202 0.0143538 -1.940 0.054 BIG4
0.0087544 0.0297166 0.290 0.769 ROE
0.0311064 0.0142731 2.180 0.030 DIV
0.0517694 0.025282 2.050 0.042 _cons
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Tiếp theo, tác giả tiến hành chạy mô hình FEM và sử dụng kiểm định F để
xem mô hình nào trong 2 mô hình FEM và Pooled OLS thích hợp hơn. Giả thuyết
H0: α1= α2= α3=…. αN= α (mô hình Pooled-OLS là phù hợp); giả thuyết H1: có ít nhất
một hệ số αi là không bằng hằng số α (mô hình FEM là phù hợp). Nếu kết quả kiểm
định bác bỏ giả thuyết H0, tác giả chọn mô hình FEM; ngược lại, chọn mô hình Pooled
OLS. Bảng 4.9 dưới đây mô tả kết quả hồi quy theo mô hình FEM và kiểm định F.
Kết quả kiểm định F cho thấy, giá trị thống kê F=1.57, Prob > F = 0.0243 <
0.05 => bác bỏ H0 và chấp nhận H1 với mức ý nghĩa thống kê 5%. Như vậy mô hình
Pooled OLS không phù hợp với dữ liệu nghiên cứu, tác giả lựa chọn mô hình FEM.
62
Bảng 4.9. Bảng kết quả hồi quy mô hình Fixed Effects và kiểm định F
FRQ Coef. Std. Err. t P>t
0.3604 0.079526 4.530 0.000 FORO
0.204053 0.04913 4.150 0.000 STAO
-0.050649 0.04538 -1.120 0.266 MAO
0.177401 0.03854 4.600 0.000 INO
-0.070283 0.018218 -3.860 0.000 DC
0.119218 0.03568 3.340 0.001 BIN
0.083025 0.073039 1.140 0.257 LEV
-0.055456 0.024203 -2.290 0.023 BIG4
-0.00146 0.036416 -0.040 0.968 ROE
0.046633 0.017944 2.600 0.010 DIV
-0.027232 0.051839 -0.530 0.600 _cons
F test that all u_i=0: F(43, 166) = 1.57 Prob > F = 0.0243
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Tiếp theo, tác giả tiếp tục chạy mô hình REM và sử dụng kiểm định Hausman
để tìm ra mô hình phù hợp nhất với dữ liệu nghiên cứu của mình. Giả thuyết H0:
không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (mô hình
REM là phù hợp). Giả thuyết H1: có tương quan giữa các biến giải thích và thành
phần ngẫu nhiên (mô hình FEM là phù hợp). Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết
H0 và chấp nhận giả thuyết H1, tác giả chọn mô hình FEM; ngược lại, chọn mô hình
REM.
63
Bảng 4.10. Bảng kết quả hồi quy mô hình Random Effects
FRQ Coef. Std. Err. z P-value
0.380793 0.066912 5.690 0.000 FORO
0.180435 0.043641 4.130 0.000 STAO
0.000869 0.029317 0.030 0.976 MAO
0.034454 0.023912 1.440 0.150 INO
-0.103497 0.016072 -6.440 0.000 DC
0.152041 0.033578 4.530 0.000 BIN
0.014986 0.029265 0.510 0.609 LEV
-0.02782 0.014354 -1.940 0.053 BIG4
0.008754 0.029717 0.290 0.768 ROE
0.031106 0.014273 2.180 0.029 DIV
0.051769 0.025282 2.050 0.041 _cons
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Kết quả của kiểm định Hausman cho thấy p-value=0.0001 <0.05 nên bác bỏ
giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Nghĩa là, các sai số đặc trưng cho các chủ thể
hoặc các thời điểm có tương quan với các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu.
Tác giả chọn mô hình FEM là mô hình thích hợp hơn để ước lượng mô hình hồi quy.
Hình 4.1. Kết quả kiểm định Hausman cho mô hình FEM và REM
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Như vậy, kết quả so sánh 3 mô hình Pooled-OLS, FEM và REM cho thấy, mô
hình ước lượng FEM là phù hợp nhất cho đề tài nghiên cứu của tác giả về phân tích
các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành
BĐS tại Việt Nam.
64
Tiếp theo, tác giả tiến hành kiểm định tự tương quan cho mô hình FEM bằng
kiểm định Breusch- Godfrey với giả thuyết H0: không tồn tại tự tương quan trong mô
hình; H1: Có tồn tại tự tương quan trong mô hình. Kết quả cho thấy F(1,43)= 3.791;
Prob>F=0.0581 >0.05), chấp nhận giả thuyết H0 và bác bỏ giả thuyết H1. Kết quả này
cho thấy mô hình không tồn tại tự tương quan bậc 1.
Hình 4.2. Kết quả kiểm định tự tương quan
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Tác giả tiếp tục tiến hành kiểm định phương sai thay đổi cho mô hình FEM
bằng kiểm định Modified Wald. Giả thuyết H0: Phương sai sai số ngẫu nhiên là không
đổi; giả thuyết H1: phương sai sai số ngẫu nhiên có thay đổi. Kết quả cho thấy
Prob>chi2=0.0000 <0.05; bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Như vậy,
mô hình này xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi.
Hình 4.3. Kết quả kiểm định phương sai thay đổi
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Như vậy, khi áp dụng mô hình FEM, giữa các biến không xảy ra hiện tượng
đa cộng tuyến và không xảy ra hiện tượng tự tương quan nhưng có xảy ra hiện tượng
phương sai thay đổi. Để khắc phục khiếm khuyết này, tác giả sử dụng tùy chọn Robust 1 để hiệu chỉnh khuyết tật này. Kết quả thu được được trình bày trong bảng
4.11 dưới đây.
1 Khi sử dụng tùy chọn Robust, sai số chuẩn sẽ được cố định lại (2 không đổi), từ đó kết quả ước lượng sẽ có độ chệch không đổi, nghĩa là sẽ bỏ qua tính hiệu quả (ước lượng với độ chệch nhỏ nhất) để mô hình đạt được tính vững (kết quả ước lượng tiến gần về giá trị thực khi ta mở rộng mẫu nghiên cứu lên gần về tổng thể).
65
Bảng 4.11. Kết quả hồi quy mô hình Fixed Effects với tùy chọn Robust
Robust
Std. Err. t P>t FRQ Coef.
0.10961 3.290 0.002 0.3604 FORO
0.085596 2.380 0.022 0.204053 STAO
0.047181 -1.070 0.289 -0.05065 MAO
0.058627 3.030 0.004 0.177401 INO
0.01945 -3.610 0.001 -0.07028 DC
0.053827 2.210 0.032 0.119218 BIN
0.087595 0.950 0.349 0.083025 LEV
0.021857 -2.540 0.015 -0.05546 BIG4
0.021757 -0.070 0.947 -0.00146 ROE
0.027748 1.680 0.100 0.046633 DIV
0.099342 -0.270 0.785 -0.02723 _cons
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
4.3.4. Kết quả hồi quy
Xem xét kết quả từ bảng 4.11 ở trên và phụ lục 9 , giá trị Constant cho thấy
đặc trưng riêng của từng công ty cũng là một trong những yếu tố quyết định đến chất
lượng BCTC của các công ty niêm yết thuộc nhóm ngành BĐS. Giá trị R2 = 0.5376
cho thấy mô hình Fixed Effects với tùy chọn Robust với các biến độc lập như trên đã
giải thích được 53.76% biến phụ thuộc FRQ.
Bảng 4.12 dưới đây tóm tắt kết quả ước lượng mô hình Fixed Effects với tùy
chọn Robust. Biến phụ thuộc FRQ thể hiện mức độ QTLN của các công ty niêm yết
nhóm ngành BĐS, các biến SIZE; BIN; LEV; BIG4; DC; MAO; DIV; ROE; FORO;
STAO; INO là các biến phụ thuộc đã được tác giả trình bày trong bảng 3.2. Các hệ
số tương quan thể hiện mức độ tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc. Các
ký hiệu *, ** và *** lần lượt tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.
66
Bảng 4.12. Bảng tóm tắt kết quả hồi quy mô hình FEM với tùy chọn Robust
Hệ số β p-value FQR
0.3604 *** 0.002 FORO
0.204053** 0.022 STAO
-0.05065 0.289 MAO
0.177401*** 0.004 INO
-0.07028*** 0.001 DC
0.119218** 0.032 BIN
0.083025 0.349 LEV
-0.05546** 0.015 BIG4
-0.00146 0.947 ROE
0.046633 0.100 DIV
-0.02723 0.785 Constant
Ghi chú: *, ** và *** lần lượt tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.
(Nguồn: Tác giả tóm tắt kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Kết quả cho thấy, trong 10 biến được đưa vào mô hình phân tích hồi quy, có
6 biến có tác động đến chất lượng BCTC, trong đó có 3 biến có mức ý nghĩa thống
kê 1% và 3 biến có mức ý nghĩa thống kê 5%. Như đã trình bày ở chương 3, mức độ
QTLN càng cao thì chất lượng BCTC càng thấp, vì vậy dấu của hệ số β trong bảng
4.12 nói trên nếu âm thể hiện nhân tố đó tác động thuận chiều với chất lượng BCTC
và nếu dương thể hiện nhân tố đó tác động ngược chiều với chất lượng BCTC. Như
vậy, trong số 6 biến có tác động đến chất lượng BCTC, có 4 biến có tác động ngược
chiều là quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu vốn của Nhà
nước, quyền sở hữu vốn của tổ chức, tính độc lập của HĐQT. Có 2 biến có tác động
thuận chiều đến chất lượng BCTC là sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch
HĐQT và loại công ty kiểm toán (thuộc BIG4 hay không thuộc BIG4). Các biến còn
lại là quyền sở hữu của nhà quản lý, đòn bẩy tài chính, lợi nhuận và tỉ lệ chia cổ tức
không có tác động đến chất lượng BCTC xét về mặt ý nghĩa thống kê.
67
Tác giả trình bày lại kết quả mô hình nghiên cứu như sau:
FRQit = -0.0272 + 0.3604 (FOROit) + 0.2041 (STAOit) + 0.1774 (INOit)
- 0.0703 (DCit) + 0.1192 (BINit) - 0.0555 (BIG4it)
Dựa vào kết quả phân tích trong bảng 4.12 trên, tác giả tổng hợp kết quả kiểm
định các giả thuyết như sau:
Bảng 4.13. Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết
Kết Kỳ vọng Giả quả Nội dung ảnh thuyết kiểm hưởng định
Các đặc điểm cơ cấu sở hữu
H1 Công ty có quyền sở hữu vốn của nước ngoài càng - -
cao thì chất lượng BCTC càng thấp
H2 Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà nước càng + -
cao thì chất lượng BCTC càng cao
H3 Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà quản lý càng + 0
cao thì chất lượng BCTC càng cao
H4 Công ty có quyền sở hữu vốn của tổ chức càng cao + -
thì chất lượng BCTC càng cao
Các đặc điểm cơ cấu quản trị công ty
H5 Công ty có giám đốc điều hành không kiêm nhiệm + +
chủ tịch HĐQT thì chất lượng BCTC cao hơn so
với công ty có sự kiêm nhiệm hai chức danh này.
H6 Công ty có tính độc lập của HĐQT càng cao thì + -
chất lượng BCTC càng cao
Các đặc điểm cơ cấu tài chính
H7 Công ty có đòn bẩy tài chính càng cao thì chất - 0
lượng BCTC càng thấp
68
H9 Công ty được kiểm toán bởi công ty kiểm toán + +
thuộc BIG4 thì chất lượng BCTC cao hơn công ty
được kiểm toán bởi công ty không thuộc BIG4.
H10 Công ty có lợi nhuận càng cao thì chất lượng + 0
BCTC càng cao.
H11 Công ty có chính sách tỷ lệ chia cổ tức càng cao + 0
thì chất lượng BCTC càng cao.
Ký hiệu: +: tác động cùng chiều; -: tác động ngược chiều; 0: không tác động
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả phân tích hồi quy)
4.4. Bàn luận kết quả nghiên cứu
Kết quả ước lượng cho thấy, chất lượng BCTC ảnh hưởng bởi các nhân tố:
quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu vốn của Nhà nước, quyền
sở hữu vốn của tổ chức, sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT, tính độc
lập của HĐQT và loại công ty kiểm toán (thuộc BIG4 hay không thuộc BIG4).
Công ty có quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài càng cao, quyền sở
hữu vốn của Nhà nước càng cao, quyền sở hữu vốn của tổ chức càng cao, và tính độc
lập của hội đồng quản trị càng cao thì chất lượng BCTC càng thấp. Công ty có TGĐ
không kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và được kiểm toán bởi công ty kiểm
toán thuộc BIG4 thì có chất lượng BCTC cao hơn. Ngoài ra còn có một số nhân tố
khác có tác động đến chất lượng BCTC nhưng mối tương quan không có ý nghĩa
thống kê cao.
4.4.1. Nhóm biến liên quan đến cơ cấu sở hữu
- Quyền sở hữu vốn của nước ngoài
Theo kết quả trong bảng 4.13, kết quả kiểm định ủng hộ giả thuyết H1, nghĩa
là biến quyền sở hữu vốn của nước ngoài có tác động ngược chiều đối với chất lượng
BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS. Điều này là đúng với kỳ vọng của
tác giả với mối tương quan đáng kể và mức ý nghĩa thống kê cao. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu trước đây của Klai (2011) và Nguyễn Thị Phương Hồng (2016).
Theo lý giải của lý thuyết tín hiệu, các công ty có vốn sở hữu nước ngoài càng cao
69
thì càng có khả năng đưa ra BCTC có điều chỉnh lợi nhuận để tạo tín hiệu đầu tư tốt,
thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Ngoài ra, một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài
còn có thể điều chỉnh giảm lợi nhuận hoặc chuyển lãi ra nước ngoài nhằm giảm mức
thuế TNDN phải nộp.
- Quyền sở hữu vốn của Nhà nước
Kết quả hồi quy cho thấy quyền sở hữu vốn của cổ đông Nhà nước có tác động
ngược chiều đáng kể với chất lượng BCTC với mức ý nghĩa thống kê cao. Giả thuyết
H2 bị bác bỏ. Kết quả này trái với kỳ vọng của tác giả và trái với giải thích của lý
thuyết chính trị cho rằng các công ty có quyền sở hữu vốn của Nhà nước càng cao thì
càng phải công bố các thông tin chính xác, có chất lượng cao nhằm tuân thủ đầy đủ
các quy định của pháp luật cũng như nâng cao uy tín, tránh các bê bối. Kết quả nghiên
cứu không với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) cho rằng
không có mối liên hệ igữa quyền sở hữu vốn Nhà nước với chất lượng BCTC và kết
quả nghiên cứu của Klai (2011), Houqe et al (2010) cho kết quả tác động thuận chiều.
- Quyền sở hữu vốn của nhà quản lý
Kết quả kiểm định cho thấy quyền sở hữu vốn của nhà quản lý có tác động
thuận chiều đối với chất lượng BCTC. Điều này phù hợp với kỳ vọng của tác giả
nhưng lại có mức ý nghĩa thống kê không đạt 10% như kỳ vọng, bác bỏ giả thuyết
H3. Như vậy, quyền sở hữu vốn của nhà quản lý không ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu trước đây của Qinghua et al, (2007); Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) và không
phù hợp với nghiên cứu của Houqe et al (2010) cho kết quả tác động thuận chiều và
Hassan (2013), Liu (2012) cho kết quả tác động ngược chiều.
- Quyền sở hữu vốn của tổ chức
Kết quả hồi quy cho thấy quyền sở hữu của tổ chức có tác động giảm đáng kể
đối với chất lượng BCTC, nghĩa là công ty có vốn của tổ chức càng cao thì chất lượng
BCTC càng thấp. Giả thuyết H4 bị bác bỏ. Kết quả này trái ngược với kỳ vọng của
tác giả theo giải thích của lý thuyết chính trị, các tổ chức với mong muốn nâng cao
uy tín và thương hiệu có thể lựa chọn công bố các thông tin đặc biệt là thông tin trên
70
BCTC với chất lượng cao, tuân thủ các quy định của pháp luật. Kết quả nghiên cứu
này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) và không phù hợp
với nghiên cứu của Hassan (2013), Klai (2011) là quyền sở hữu của tổ chức có tác
động tăng đối với chất lượng BCTC.
4.4.2. Nhóm biến liên quan đến cơ cấu quản trị công ty
- Sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT
Kết quả hồi quy ủng hộ giả thuyết H5 và có tác động thuận chiều. Điều này
cho thấy công ty có TGĐ không kiêm nhiệm chức chủ tịch HĐQT có BCTC có chất
lượng cao hơn so với công ty có tồn tại sự kiêm nhiệm. Điều này là phù hợp với lý
giải của lý thuyết ủy nhiệm và lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, việc tách biệt hai chức
danh này giúp giảm việc thông đồng để thực hiện các hành vi điều chỉnh lợi nhuận vì
mục đích cá nhân. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị
Phương Hồng (2016), Liu (2012) cho rằng công ty có TGĐ không kiêm nhiệm chủ
tịch HĐQT thì BCTC có chất lượng cao hơn công ty có kiêm nhiệm và khác với kết
quả của Nguyễn Trọng Nguyên (2015) cho rằng giám đốc điều hành không kiêm
nhiệm chủ tịch HĐQT không có tác động đến chất lượng BCTC.
- Tính độc lập của HĐQT
Biến Tính độc lập của HĐQT được đo lường bằng tỷ lệ số thành viên trong
BGĐ không tham gia HĐQT trên tổng số thành viên HĐQT, biến này có giá trị càng
cao nghĩa là càng ít thành viên HĐQT có tham gia điều hành trực tiếp, tức là tính độc
lập của HĐQT càng cao. Kết quả kiểm định cho thấy tính độc lập của HĐQT có tác
động ngược chiều đối với chất lượng BCTC, nghĩa là tính độc lập của HĐQT càng
cao, chất lượng BCTC càng thấp; giả thuyết H6 bị bác bỏ. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu trước đây của Liu (2012) cho rằng tính độc lập của HĐQT có tác động
ngược chiều với chất lượng BCTC và không phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Qinghua et al, (2007); Hassan (2013), Nguyễn Trọng Nguyên (2015), Nguyễn Thị
Phương Hồng (2016) cho rằng tính độc lập của HĐQT có tác động cùng chiều đối
với chất lượng BCTC
71
4.4.3. Nhóm biến liên quan đến cơ cấu tài chính
- Đòn bẩy tài chính
Kết quả hồi quy cho thấy đòn bẩy tài chính có tương quan ngược chiều đối với
chất lượng BCTC, phù hợp với kỳ vọng của tác giả, nhưng mối tương quan này không
có ý nghĩa thống kê cao. Như vậy, giả thuyết H7 bị bác bỏ; đòn bẩy tài chính không
có tác động đến chất lượng BCTC. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu
trước đây của Liu (2012) là chất lượng BCTC không chịu ảnh hưởng bởi đòn bẩy tài
chính và không tương đồng với kết quả nghiên cứu của Qinghua et al (2007) cho rằng
đòng bẩy tài chính có tác động ngược chiều với chất lượng BCTC và kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Hassan (2013), Klai (2011) cho thấy chất
lượng BCTC chịu ảnh hưởng cùng chiều của biến đòn bẩy tài chính.
- Loại hình công ty kiểm toán
Kết quả hồi quy cho thấy giả thuyết H9 được chấp nhận, công ty có BCTC
được kiểm toán bởi công ty kiểm toán thuộc BIG4 thì có chất lượng tốt hơn so với
công ty được kiểm toán bởi công ty kiểm toán không thuộc BIG4. Điều này là phù
hợp với kỳ vọng của tác giả và giải thích của lý thuyết ủy nhiệm, các kiểm toán viên
độc lập thay thế cho các cổ đông với vai trò giám sát, phát hiện những sai sót có tồn
tại trong BCTC, mặt khác các công ty kiểm toán BIG4 thường nhận được nhiều tín
nhiệm từ các cổ đông tại Việt Nam và cả trên thế giới cho rằng các công ty này có
chất lượng kiểm toán cao hơn các công ty còn lại. Kết quả nghiên cứu này phù hợp
với nghiên cứu trước đây của Qinghua et al (2007), Chen et al (2011), Nguyễn Thị
Phương Hồng (2016) cho rằng công ty có BCTC được kiểm toán bởi công ty kiểm
toán thuộc BIG4 thì có chất lượng tốt hơn so với công ty được kiểm toán bởi công ty
kiểm toán không thuộc BIG4.
- Lợi nhuận
Kết quả kiểm định cho thấy lợi nhuận có tương quan nghịch chiều đối với chất
lượng BCTC, tuy nhiên tương quan này không cao và có ý nghĩa thống kê rất thấp.
Như vậy, giả thuyết H10 bị bác bỏ, lợi nhuận không tác động đến chất lượng BCTC.
72
Kết quả này không giống với kết quả của các nghiên cứu trước đây của Quinghua et
al (2007), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) cho rằng công ty có lợi nhuận càng cao
thì có chất lượng BCTC càng thấp.
- Tỷ lệ chia cổ tức
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chia cổ tức có tương quan ngược chiều với
chất lượng BCTC, trái với kỳ vọng của tác giả, nhưng mối tương quan này thấp và
có mức ý nghĩa thống kê không cao. Như vậy giả thuyết H11 bị bác bỏ. Kết quả này
có nghĩa rằng tỷ lệ chia cổ tức không tác động lên chất lượng BCTC. Kết quả nghiên
cứu không giống với kết quả nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị Phương Hồng
(2016) cho rằng công ty có chính sách tỷ lệ chia cổ tức càng cao thì chất lượng BCTC
càng thấp. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Rafiee and Heidarpoor (2014) cho rằng
công ty có chính sách tỷ lệ chia cổ tức càng cao thì BCTC có chất lượng càng cao.
73
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
Trong chương 4, tác giả sử dụng dữ liệu thu thập được từ BCTC, BCTN của
44 công ty BĐS niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ
2011 đến 2015 để tiến hành ước lượng mô hình hồi quy. Kết quả ước lượng cho thấy
mô hình Fixed Effects là phù hợp nhất để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS. Kết quả thu được có 6 nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC là: quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài,
quyền sở hữu vốn của Nhà nước, quyền sở hữu vốn của tổ chức, sự kiêm nhiệm chức
danh TGĐ và chủ tịch HĐQT, tính độc lập của HĐQT và loại công ty kiểm toán
(thuộc BIG4 hay không thuộc BIG4). Các nhân tố quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư
nước ngoài, quyền sở hữu vốn của Nhà nước, quyền sở hữu vốn của tổ chức và tính
độc lập của HĐQT có tác động tiêu cực; sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch
HĐQT và loại hình công ty kiểm toán có tác động tích cực đến chất lượng BCTC của
các doanh nghiệp nhóm ngành BĐS tại Việt Nam. Từ kết quả của mô hình nghiên
cứu này, tác giả đưa ra kết luận và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng BCTC của các doanh nghiệp niêm yết nhóm ngành BĐS tại Việt Nam trong
chương 5.
74
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Luận văn tập trung phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng BCTC của các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS trong giai đoạn từ năm 2011
đến năm 2015. Thông qua dữ liệu thu thập và các công cụ hỗ trợ, kết quả phân tích
hồi quy cho thấy chất lượng BCTC đo lường theo QTLN của các công ty thuộc mẫu
nghiên cứu trong giai đoạn nghiên cứu có mức trung bình là 10.35%.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự biến động của các nhân tố quyền sở hữu
vốn của nhà đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu vốn của Nhà nước, quyền sở hữu vốn
của tổ chức, sự kiêm nhiệm chức danh TGĐ và chủ tịch HĐQT, tính độc lập của
HĐQT, loại công ty kiểm toán (thuộc BIG4 hay không thuộc BIG4) có ảnh hưởng
đến chất lượng BCTC đo lường theo QTLN của các công ty này.
Bài nghiên cứu này về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu mà nghiên cứu đề
ra, cụ thể là giải quyết được các vấn đề sau:
1.Tìm hiểu khung lý thuyết có liên quan đến các nhân tố tác động đến chất
lượng BCTC của các doanh nghiệp niêm yết – nhóm ngành BĐS trên thị trường
chứng khoán VN (chương 1, 2)
2. Thực trạng và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên BCTC
của các doanh nghiệp niêm yết – nhóm ngành BĐS trên thị trường chứng khoán VN
(chương 3,4)
5.2. Hậu quả của BCTC có chất lượng thấp
BCTC có chất lượng thấp gây ảnh hưởng đến quyết định của các đối tượng sử
dụng thông tin trên BCTC:
Đối với các cổ đông của công ty và các nhà đầu tư: BCTC có chất lượng
thấp, cung cấp những thông tin sai lệch về tình hình hoạt động, kinh doanh và triển
vọng phát triển của công ty sẽ gây ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vốn của các cổ
đông và nhà đầu tư.
Đối với Nhà nước, các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý, cơ quan thuế:
BCTC có chất lượng thấp ảnh hưởng đến các nguồn thu thuế, thu ngân sách nhà nước,
75
gây thất thu ngân sách nhà nước. Ngoài ra, BCTC có chất lượng thấp sẽ cung cấp
những thông tin không chính xác về tình hình phát triển của thị trường, gây ảnh hưởng
đến những chính sách, giải pháp quản lý kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng đến nền
kinh tế quốc gia.
Đối với các Ngân hàng và các chủ nợ: thông tin BCTC cung cấp tình hình
tài chính của công ty không chính xác gây ảnh hưởng đến việc cho vay vốn của các
Ngân hàng. Thông thường, các khoản cho vay của các Ngân hàng cho các dự án kinh
doanh bất động sản là các khoản cho vay trung và dài hạn. Việc cho vay không hợp
lý có thể ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng trong ngắn hạn. Ngoài
ra, các thông tin sai lệch về tình hình hoạt động của công ty ảnh hưởng đến việc đánh
giá rủi ro khi cho vay của các Ngân hàng và các chủ nợ. Các khoản vay không thu
hồi được sẽ trở thành nợ xấu, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đầu tư của các
Ngân hàng và các chủ nợ.
Đối với khách hàng: việc đầu tư mua bán hàng hóa BĐS của các khách
hàng hiện nay chủ yếu dựa trên uy tín của chủ đầu tư. Khách hàng có thể vẫn tiếp tục
đóng tiền dù cho tiến độ xây dựng bị dừng hoặc thực hiện không đúng theo kế hoạch
ban đầu. Ví dụ như một số dự án khởi công rầm rộ nhưng bị dừng không thời hạn do
không đủ vốn thi công dẫn đến số tiền của khách hàng bị “giam” lại, thậm chí có khả
năng bị mất trắng số tiền đã thanh toán cho chủ đầu tư nếu chủ đầu tư lâm vào tình
trạng phá sản, không còn khả năng thanh toán.
5.3. Kiến nghị đối với các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các
công ty nhóm ngành BĐS tại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các công ty có vốn sở hữu nước ngoài càng cao,
vốn sở hữu Nhà nước càng cao, vốn sở hữu của tổ chức càng cao, và tính độc lập của
HĐQT càng cao thì có chất lượng BCTC càng thấp. Ngược lại, công ty có TGĐ
không kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và công ty được kiểm toán bởi các
công ty kiểm toán BIG4 thì có chất lượng BCTC cao hơn các công ty còn lại. Qua
đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị cho các nhân tố này như sau:
76
5.3.1. Kiến nghị đối với các nhân tố thuộc cơ cấu vốn
Các nhân tố này bao gồm các nhân tố như quyền sở hữu vốn của nước ngoài,
quyền sở hữu vốn của Nhà nước, quyền sở hữu vốn của tổ chức.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các công ty có vốn sở hữu nước ngoài càng cao,
vốn sở hữu của tổ chức càng cao càng cao thì có chất lượng BCTC càng thấp. Một
công ty, đặc biệt là công ty thuộc nhóm ngành BĐS, có cơ cấu vốn trong tổng tài sản
hợp lý sẽ có khả năng hoạt động tốt, mở rộng quy mô của các dự án kinh doanh, thực
hiện bàn giao đúng thời gian cam kết với khách hàng, tăng niểm tin và uy tín đối với
khách hàng và như vậy sẽ thu được nhiều lợi ích.
Thực trạng hiện nay tại Việt Nam có rất nhiều các dự án BĐS có giá trị đầu tư
rất lớn, được quảng bá rộng rãi đến các nhà đầu tư BĐS, có các buổi lễ khởi công với
quy mô hoành tráng… tuy nhiên tất cả chỉ dừng lại tại đây, khu vực được quy hoạch
để triển khai dự án bị bỏ trống trong nhiều năm liền vẫn chưa thi công hoặc thi công
dở chừng, chậm tiến độ bàn giao… Sự phân bổ vốn không hợp lý, thiếu hụt nguồn
vốn đầu tư dẫn đến các công trình này chỉ tồn tại trên giấy tờ. Do đó, các công ty cần
tổ chức cơ cấu vốn tùy vào từng giai đoạn tăng trưởng với các thế mạnh và tình hình
kinh doanh cụ thể từng thời kỳ; quyết định cơ cấu vốn hợp lý, đảm bảo hài hòa được
lợi ích của các cổ đông và đạt được quy mô nguồn vốn tối ưu; nhằm mục đích mở
rộng cơ hội phát triển, cơ hội đầu tư, tạo dựng lòng tin với khách hàng cũng như với
các cổ đông. Các công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu… để thu hút
thêm nguồn vốn đầu tư từ trong và ngoài nước.
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, các công ty BĐS niêm yết có vốn sở hữu
của Nhà nước càng cao thì có BCTC có chất lượng càng thấp. Thực tiễn hiện nay,
việc một số công ty BĐS có vốn sở hữu Nhà nước lâm vào tình trạng bị khách hàng,
đối tác kiện cáo, phá sản, mất khả năng thanh toán, các nhà quản lý cấp cao bị cơ
quan công an bắt giữ,… làm mất niềm tin của các nhà đầu tư, của khách hàng vào
các công ty BĐS có vốn sở hữu Nhà nước. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức, nhà
quản lý cần tăng cường vai trò giám sát và cải thiện chất lượng BCTC của các công
ty có vốn sở hữu Nhà nước. Đồng thời, các công ty nhà nước không được cấp quyền
77
kinh doanh, góp vốn vào lĩnh vực BĐS cần nhanh chóng cơ cấu lại lĩnh vực đầu tư,
rút vốn ra khỏi các công ty đang kinh doanh BĐS, để các cá nhân, tổ chức ngoài nhà
nước khác có cơ hội đầu tư vốn, thay đổi quy trình hoạt động, quy trình kinh doanh,
mở rộng các dự án để đầu tư có hiệu quả hơn.
5.3.2. Kiến nghị đối với các nhân tố thuộc cơ cấu quản trị
Hiện nay, hầu hết các công ty BĐS niêm yết đã thực hiện tách biệt giữa 2 chức
danh TGĐ và chủ tịch HĐQT, tuy nhiên vẫn còn một số công ty do đặc điểm tình
hình công ty nên đã thực hiện xin ý kiến của các cổ đông tại các cuộc họp Đại hội
đồng cổ đông thường niên. Kết quả nghiên cứu cho thấy công ty có TGĐ không kiêm
nhiệm chủ tịch HĐQT thì BCTC có chất lượng cao hơn so với các công ty có kiêm
nhiệm. Theo thông tư 121/TT-BTC quy định về quản trị công ty áp dụng cho các
công ty đại chúng, chủ tịch HĐQT không được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc
(Tổng giám đốc) điều hành trừ khi việc kiêm nhiệm này được phê chuẩn hàng năm
tại Đại hội đồng cổ đông thường niên. Như vậy, các công ty niêm yết ngành BĐS nói
riêng và các công ty niêm yết nói chung, nên tách biệt chức danh chủ tịch HĐQT và
TGĐ, không để xảy ra sự kiêm nhiệm giữa hai chức danh này, dễ dẫn đến việc thông
đồng vì lợi ích cá nhân. Cần quy định rõ ràng quyền hạn, chức năng và trách nhiệm
của HĐQT, chủ tịch HĐQT và ban giám đốc, TGĐ; đảm bảo một nền quản trị doanh
nghiệp hiệu quả cùng tồn tại với việc giám sát hiệu quả doanh nghiệp, tránh để xảy
ra tình trạng chủ tịch HĐQT và TGĐ hành động theo ý muốn riêng mà không có một
bộ quy tắc ứng xử chung.
HĐQT đóng vai trò thay mặt cho các cổ đông thực hiện phân phối các nguồn
lực của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên kết quả thực nghiệm
tại các công ty niêm yết nhóm ngành BĐS lại cho thấy công ty có tính độc lập của
HĐQT càng cao thì có chất lượng BCTC càng thấp. Như vậy, có thể do các thành
viên HĐQT không trực tiếp tham gia điều hành chưa thực sự làm tốt công việc giám
sát tình hình hoạt động và tài chính của công ty, cũng như việc giám sát đối với Giám
đốc (TGĐ) điều hành và các bộ phận quản lý khác chưa tốt. Các công ty cần xem xét
kỹ về thông tin các ứng viên HĐQT trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường
78
niên để có thể lựa chọn ra nhân sự đại diện có kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật,
tài chính, kế toán và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty để có thể thực hiện
nhiệm vụ của mình. Cần có ít nhất 01 thành viên HĐQT độc lập có năng lực, trình độ
và kinh nghiệm chuyên môn về kế toán, tài chính để giám sát quá trình tạo lập và
công bố thông tin BCTC; tư vấn cho HĐQT về các hướng phát triển dựa trên tình
hình tài chính của công ty hiện tại.
Ngoài ra các cổ đông có thể tiến hành đánh giá định kỳ chất lượng hoạt động
của HĐQT trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên, nêu ý kiến, bày tỏ
quan điểm để bảo vệ lợi ích của mình.
5.3.3. Kiến nghị đối với các nhân tố thuộc đặc điểm tài chính
Kết quả nghiên cứu cho thấy, công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm
toán BIG4 thì có chất lượng BCTC cao hơn các công ty công ty được kiểm toán bởi
các công ty không phải BIG4. Như vậy, các cổ đông có thể ưu tiên lựa chọn các công
ty kiểm toán BIG4 để kiểm toán BCTC cho công ty mình trong các cuộc họp thường
niên vì các công ty này đã có truyền thống hoạt động lâu đời và chất lượng dịch vụ
của họ được toàn thế giới công nhận.
Ngoài ra, các công ty kiểm toán cần nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên,
không sợ “mất lòng”, mất khách hàng trong tình trạng cạnh tranh cao mà làm giảm
chất lượng dịch vụ kiểm toán của công ty mình. Khi ký hợp đồng kiểm toán cần xem
xét về yếu tố tính độc lập của KTV, xem xét về có tồn tại hay không mối quan hệ của
khách hàng và các thành viên quan trọng trong công ty kiểm toán như trưởng nhóm
kiểm toán, quản lý, giám đốc kiểm toán; mức phí dành cho việc kiểm toán cho khách
hàng có chiếm quá 50% tổng doanh thu tại công ty kiểm toán hay không; … Các công
ty kiểm toán cũng có thể yêu cầu được tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng cổ
đông thường niên để trực tiếp nêu và giải thích ý kiến kiểm toán của mình cho các cổ
đông.
Bên cạnh đó, các CTNY nhóm ngành BĐS cũng cần tăng cường kiểm toán nội
bộ tại chính công ty mình. Chương trình hoạt động của kiểm toán nội bộ cần được
xây dựng để giúp cho công ty đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá và cải tiến
79
một cách hệ thống và chuẩn tắc tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản
lý rủi ro. Kiểm toán nội bộ cần phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong doanh
nghiệp, hỗ trợ BGĐ và HĐQT kiểm soát hoạt động và quản lý rủi ro tốt hơn mọi khi
quy mô và độ phức tạp của doanh nghiệp vượt quá tầm kiểm soát của họ.
5.4. Hạn chế nghiên cứu và hướng nghiên cứu trong tương lai
Nghiên cứu này thực hiện nghiên cứu chất lượng BCTC thông qua chất lượng
lợi nhuận đo lường bằng QTLN sử dụng mô hình Jones điều chỉnh. Các nghiên cứu
sau này có thể sử dụng phương pháp đo lường chất lượng BCTC khác và các mô hình
đo lường khác nhau như đã trình bày trong chương 1 và chương 2.
Về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC, tác giả chỉ đưa vào những nhân
tố mà tác giả có thể thu thập được dữ liệu chính xác. Ngoài những nhân tố trên còn
có các nhân tố khác liên quan đến thị trường vốn, chính sách, quy định của luật pháp
có liên quan, các nhân tố thuộc thông tin công bố không tự nguyện,… Các nghiên
cứu sau này có thể mở rộng, thêm vào các nhân tố khác để xem xét mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố này đối với chất lượng BCTC.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
A. DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
Bộ Tài Chính, 2002. Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC Chuẩn mực kế toán
Việt Nam số 01- Chuẩn Mực Chung.
2. Bộ Tài Chính, 2003. Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC Chuẩn mực kế toán
Việt Nam số 21- Trình bày báo cáo tài chính.
3. Bộ Tài Chính, 2012. Thông tư số 121/2012/TT-BTC Quy định về quản trị công
ty áp dụng cho các công ty đại chúng.
4. Bùi Thị Mai Hòa và Nguyễn Thị Tuyết Hoa, 2015. Các nhân tố quyết định
hành vi điều chỉnh thu nhập làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp:
Trường hợp Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 22(32), pp. 41-49.
5. Fridson M. and Alvarez F., 2011. Phân tích báo cáo tài chính. Hướng dẫn
thực hành. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch: Từ Thị Kim Thoa và cộng sự, 2013.
Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Kinh Tế Tp. HCM.
6. Hoàng Trọng và Chu Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPSS. Hà Nội: Nhà xuất bản Hồng Đức.
7. Huỳnh Thị Vân, 2012. Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các Công
Ty Cổ Phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ: Đại học Đà Nẵng.
8. Lê Thị Mỹ Hạnh, 2015. Minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận án tiến sỹ: Đại học Kinh Tế
Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Anh Hiền và Phạm Thanh Trung, 2015. Kiểm định và nhận diện mô
hình nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt
Nam. Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, Tâ ̣p Q3, pp. 7-17.
10. Nguyễn Đình Thọ, 2014. Giáo trình: Phương pháp nghiên cứu khoa học trong
kinh doanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Tài chính.
11. Nguyễn Mạnh Hùng, 2016. Thị trường bất động sản Việt Nam, thực trạng và
giải pháp. Nghiên cứu khoa học: Đại học Nam Cần Thơ.
12. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo
cáo tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán - bằng chứng
thực nghiệm tại Việt Nam. Luận văn tiến sỹ: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh.
13. Nguyễn Trọng Nguyên, 2015. Tác động của quản trị công ty đến chất lượng
thông tin BCTC tại các công ty niêm yết tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ: Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Phạm Quốc Thuần, 2016. Các nhân tố tác động đến chất lượng thông tin báo
cáo tài chính trong các doanh nghiệp tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ: Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Phạm Thị Bích Vân, 2012. Mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận
của các doanh nghiệp niêm yết ở sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Tạp chí
ngân hàng, Tâ ̣p 9, pp. 28-33.
16. Phạm Thị Bích Vân, 2013. Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi
nhuận. Tạp Chí Ngân Hàng, 1(1), pp. 39-47.
17. Vũ Hữu Đức, 2010. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán. Hà Nội: Nhà
xuất bản Lao Động.
B. DANH MỤC TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI (TIẾNG ANH)
1.
J. Hillman, M. C. Withers and B. J. Collins, 2009. Resource Dependence
Theory: A Review. Journal of Management, 35(6), p. 1404–1427.
2. Akerlof, G. A., 1970. The Market for "Lemons": Quality Uncertainty and the
Market Mechanism. The Quarterly Journal of Economics, Volume 84, pp.
488-500.
3. Ali, R. et al, 2011. Is Modified Jones Model Effective in Detecting Earnings
Management? Evidence from A Developing Economy. International Journal
Of Economics and Finance, 3(2), pp. 116-125.
4. Alzoubi, E., 2012. Board Characeristics and Financial Reporting Qualities
among Jordanian Listed Companies: Proposing Conceptual Framework. Asian
Journal of Finance and Accounting, 4(1), pp. 245-258.
5. Barth, M., Landsman, W., Lang, M., 2008. International Accounting
Standards and Accounting Quality. Journal of Accounting Research, Volume
46, pp. 791-811.
6. Bushman, R. and Smith, A, 2001. Financial accounting information and
corporate governance. Journal of Accounting and Economics, Volume 31, pp.
237-333.
7. Cohen, D and Zarowin, P, 2008. Accrual-Based and Real Earnings
Management Activities around Seasoned Equity Offerings. [Online] Available
at: https://ssrn.com/abstract=1281359 [Accessed 12 3 2017].
8. Connelly B. L., et al, 2011. Signaling Theory: A Review and Assessment.
Journal of Management, 37(1), pp. 39-67.
9. Davidson, S. Stickney, C. Weil, R., 1985. Intermediate Accounting: Concepts,
Methods and Use. 4 ed. Forthworth: Dryden Press.
10. Deangelo, L., 1986. Accounting Numbers As Market Valuation Substitutes: A
Study of Management Buyouts of Public Stockholders. Accounting Review,
Volume 61, pp. 400-420.
11. Dechow P., et. al, 2010. Understanding earnings quality: A review of the
proxies, their determinants and their consequences. Journal of Accounting and
Economics, Volume 50, pp. 344-401.
12. Dechow, M. and Schrand, C., 2004. Earning Quality. New York: The
Research Foundation of CFA Institute.
13. Dechow, P and Dichev, I, 2002. The Quality of Accruals and Earnings: The
Role of Accrual Estimation Errors. The Accounting Review (Supplement),
Volume 77, pp. 35-59.
14. Dechow, P., Sloan, R. & Sweeney, A., 1995. Detecting Earnings Management.
The Accounting review, 70, No. 2(4), pp. 193-225.
15. Felo A. J. , Krishnamurthy S. , Solieri S. A. , 2003. Audit Committee
Characteristics and the Perceived Quality of Financial Reporting: An
Empirical Analysis. [Online] Available at:
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=401240 [Accessed 13 3
2017].
16. Firth, M., Fung, P. & Rui, O., 2007. Ownership, two-tier board structure, and
the informativeness of earnings – Evidence from China. Journal of Accounting
and Public Policy, 26(4), pp. 463-496.
17. Gary C. B., et al., 2009. How does financial reporting quality relate to
investment efficiency?. Journal of Accounting and Economics, Volume 48,
pp. 112-131.
18. H. Chen, J. Z Chen, G.J. Lobo, Y. Wang, 2011. Effects of Audit Quality on
Earnings Management and Cost of Equity Capital- Evidence from China.
Contemporary Accounting Research, 28(3), pp. 892-925.
19. Hassan, M. S. and Omar, N., 2016. How do we assess the quality of corporate
financial reporting? A methodological issue. AESTIMATIO, The IEB
International Journal of Finance, Volume 13, pp. 2-17.
20. Hassan, S. U., 2012. Determinants of Financial Reporting Quality: An In-
Depth Study of Firm Structure. Journal of Modern Accounting and Auditing,
8(11), pp. 1656-1672.
21. Hassan, S. U., 2013. Financial Reporting Quality, Does Monitoring
characteristics matter? An empirical analysis of Nigerian manufactoring
sector. The Business & Management Review, 3(2), pp. 147-161.
22. Healy, M. and Wahlen, M., 1999. A review of the Earning Management
Literature and Its Implications for Standard Setting. Accounting Horizons,
Volume 13, pp. 365-383.
23. Healy, P. and Palepu, K., 2001. Information asymmetry, corporate disclosure,
and the capital markets: a review of the empirical disclosure literature. Journal
of Accounting and Economics, Volume 31, pp. 405-440.
24. Inchausti, G. B., 1997. The influence of company characteristics and
accounting regulation disclosed by Spanish firms. European Accounting
Review, 6(1), pp. 45-68.
25. Jensen M. C., and Meckling W. H., 1976. Theory of the Firm: Managerial
Behavior, Agency Costs and Ownership Structure. Journal of Financial
Economic , Volume 3, pp. 305 -360.
26. Jones, J., 1991. Earnings Management During Import Relief Investigations.
Journal of Accounting Research, Volume 29, pp. 193-228.
27. K.A. Karmarudin and W.A.W. Ismail, 2014. Earning Quality Construct and
Measures in Empirical Accounting Studies. Manchester, International
Conference on Governance & Strategic Management (ICGSM) 2014.
28. Kennedy, P., 2008. A guide to econometrics. 6th ed. Cambridge: MIT Press.
29. Klai N. and Omri A., 2011. Corporate Governance and Financial Reporting
Quality: The Case of Tunisian Firms. International Business Research, 4(1),
pp. 158-166.
30. Kothari, S. P. et al, 2005. Performance matched discretionary accrual
measures. Journal of accounting and economics, 39(1), pp. 163-197.
31. Lambert, R. et al, 2007. Accounting information, disclosure, and the cost of
capital. Journal of Accounting Research, Volume 45, pp. 385-420.
32. Levitt, A., 1998. The Importance of High Quality Accounting Standards.
Accounting Horizons, Volume 12, pp. 79-82.
33. Liu, J., 2012. Board Monitoring, Management Contracting and Earnings
Management: An Evidence from ASX Listed Companies. International
Journal of Economics and Finance, 4(12), pp. 121-136.
34. M. N Houque, T. V. Ziji, K. Dunstan, A. K. M. W. Karim, 2010. Does
Corporate Governance affect Earnings Quality: Evidence from an Emerging
Market. Academy of Taiwan, Business Management Review, 7(3), pp. 48-57.
35. Mohsen H. et al, 2016. A stusy on the relationship between earnings
management incentives and earnings response coefficient. Procedia
Economics and Finance, Volume 36, pp. 232-243.
36. Pfeffer J. and G. Salancik, 1978. The external Control of Organizations: A
Resource Dependency Perspective. New Jersey: Pearson Education, Inc.
37. Qinghua et al., 2007. Audit committee, board characteristics and quality of
financial reporting: An empirical research on Chinese securities market.
Frontiers of Business Research in China, 1(3), pp. 385-400.
38. Rafiee S. Z. and Heidarpoor F., 2014. The effective factors of financial
information quality in listed companies on Tehran Stock Exchange.
International Journal of Accounting and Financial Reporting, 4(2), pp. 2162-
3082.
39. Schipper, K. and Vincent, L., 2003. Earning quality. Accounting Horizons,
Volume 17, pp. 97-110.
40. Schipper, K., 1989. Commentary on earnings management. Accounting
Horizons, 3(4), pp. 91-102.
41. Spence, M., 1973. Job Market Signaling. The Quarterly Journal of Economics,
Volume 87, pp. 355-374.
42. Watts, R. L. & Zimmerman, J.L, 1986. Positive Accounting Theory.
Englewood-Cliffs, N.J.: Prentice Hall, Inc..
43. Yee, K., 2006. Earnings Quality and the Equity Risk Premium: A Benchmark
Model. Contemporary Accounting Research, Volume 23, pp. 833-877.
44. Zhang, Y., 2012. The Empirical Study of Earning Management Based on
Chinese Listed Companies. Lingan Journal of Banking, Finance and
Economics, 3(1), pp. 9-14.
45. Zheng, L., 2003. Did the 1998 Chinese Accounting System Improve Earnings
Quality?. Alabama: The University of Alabama.
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT NHÓM NGÀNH BĐS GIAI
ĐOẠN 2011-2015 TRONG MẪU NGHIÊN CỨU
SÀN Ngày giao MÃ STT GIAO TÊN CÔNG TY dịch đầu CK DỊCH tiên
HNX BSC Công Ty CP Dịch Vụ Bến Thành 05/01/2011 1
HNX EFI CTCP Đầu tư tài chính Giáo dục 30/09/2009 2
HNX ICG CTCP Xây dựng Sông Hồng 21/04/2009 3
Công ty Cổ phần Đầu tư tài chính Quốc tế HNX IDJ 13/09/2010 4 và Phát triển doanh nghiệp IDJ
HNX NDN Công ty Đầu tư Phát triển Nhà Đà Nẵng 21/04/2011 5
HNX PVL Công ty Cổ phần Địa ốc Dầu khí 15/04/2010 6
CTCP Kinh doanh dịch vụ cao cấp Dầu khí HNX PVR 21/06/2010 7 Việt Nam
CTCP Đầu tư và Thương mại Dầu khí Nghệ HNX PXA 22/02/2011 8 An
Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và Phát HNX SDU 28/09/2009 9 triển đô thị Sông Đà
HNX SJC CTCP Sông Đà 1.01 21/11/2007 10
HNX SRA CTCP SARA Việt Nam 18/01/2008 11
Công ty Cổ phần Xây Dựng Số 3 - 12 HNX VC3 13/12/2007 Vinaconex 3
13 HOSE ASM Công ty Cổ phần Tập đoàn Sao Mai 18/01/2010
Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Bình 14 HOSE BCI 16/03/2009 Chánh
Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị 15 HOSE CCL 03/03/2011 Dầu khí Cửu Long
16 HOSE CIG Công ty Cổ phần COMA18 19/07/2011
Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Nhà 09/08/2010 17 HOSE CLG đất Cotec
Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Công 14/08/2009 18 HOSE D2D nghiệp Số 2
19 HOSE DRH Công ty Cổ phần Đầu tư Căn nhà mơ ước 26/07/2010
16/07/2010 20 HOSE DTA Công ty Cổ phần Đệ Tam
Công ty Cổ phần Dịch vụ và Xây dựng địa 22/12/2009 21 HOSE DXG ốc Đất Xanh
Công ty Cổ phần Ngoại thương và Phát triển 18/01/2010 22 HOSE FDC Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh
23 HOSE FLC Công ty Cổ phần Tập đoàn FLC 05/10/2011
Công ty Cổ phần Phát triển nhà Bà Rịa- 08/10/2007 24 HOSE HDC Vũng Tàu
Công ty Cổ phần Tư vấn - Thương mại - 20/10/2010 25 HOSE HQC Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân
26 HOSE ITC Công ty Cổ phần Đầu tư - Kinh doanh nhà 19/10/2009
27 HOSE KAC Công ty Cổ phần Đầu tư Địa ốc Khang An 27/10/2010
28 HOSE KBC Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc 18/12/2007
Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Nhà 29 HOSE KDH 01/02/2010 Khang Điền
Công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Khánh 30 HOSE KHA 19/08/2002 Hội
31 HOSE LHG Công ty Cổ phần Long Hậu 23/03/2010
32 HOSE NBB Công ty Cổ phần đầu tư Năm Bảy Bảy 18/02/2009
33 HOSE NTL Công ty Cổ phần Phát triển đô thị Từ Liêm 21/12/2007
Công ty Cổ phần Bất động sản Du lịch Ninh 34 HOSE NVT 07/05/2010 Vân Bay
Công ty Cổ phần Phát triển Bất động sản 35 HOSE PDR 30/07/2010 Phát Đạt
Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng và Đô thị 36 HOSE PTL 22/09/2010 Dầu khí
37 HOSE QCG Công ty Cổ phần Quốc Cường Gia Lai 09/08/2010
Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương 38 HOSE SCR 09/11/2010 Tín
Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và 39 HOSE SJS 06/07/2006 Khu công nghiệp Sông Đà
40 HOSE SZL Công ty Cổ phần Sonadezi Long Thành 09/09/2008
Công ty Cổ phần Kinh doanh và Phát triển 41 HOSE TDC 04/05/2010 Bình Dương
42 HOSE TDH Công ty Cổ phần Phát triển nhà Thủ Đức 14/12/2006
19/09/2007 43 HOSE VIC Tập Đoàn VinGroup - CTCP
09/09/2009 44 HOSE VPH Công ty Cổ phần Vạn Phát Hưng
(Nguồn: tổng hợp của tác giả)
PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG CÁC HỆ SỐ CHO MÔ HÌNH JONES ĐIỀU CHỈNH
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 3
KẾT QUẢ THỐNG KÊ MÔ TẢ BIẾN ĐỘC LẬP TRONG MÔ HÌNH HỒI QUY
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 4
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 5
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH XÁC ĐỊNH ĐA CỘNG TUYẾN SỬ DỤNG
NHÂN TỐ PHÓNG ĐẠI PHƯƠNG SAI VIF
Kết quả VIF lần 1:
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
Kết quả VIF lần 2:
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 6
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HỒI QUY MÔ HÌNH POOLED-OLS
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 7
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HỒI QUY MÔ HÌNH FIXED EFFECTS
VÀ KIỂM ĐỊNH F
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 8
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HỒI QUY MÔ HÌNH RANDOM EFFECTS
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)
PHỤ LỤC 9
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HỒI QUY MÔ HÌNH FIXED EFFECTS
VỚI TÙY CHỌN ROBUST
(Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm STATA)