Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008<br />
<br />
Nghieân cöùu Y hoïc<br />
<br />
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHI TAY CHÂN MIỆNG TỬ VONG<br />
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I – TP HỒ CHÍ MINH<br />
Đòan Thị Ngọc Diệp*, Bạch Văn Cam**, Trương Hữu Khanh** và cộng sự<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bệnh tay chân miệng (TCM) do enterovirus gây nên, là một bệnh lý nhiễm trùng thường gặp ở trẻ em.<br />
Đa số bệnh nhi (BN) diễn tiến tự khỏi trong vòng 7 ngày. Một số trường hợp có biến chứng và có thễ dẫn<br />
đến tử vong nhanh chóng do tổn thương thần kinh, hô hấp, tuần hoàn.<br />
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm các trường hợp TCM tử vong tại BV Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh.<br />
Phương pháp: Đây là nghiên cứu mô tả loạt ca dựa vào tham khảo hồ sơ bệnh án.<br />
Kết quả: Từ 1.1.05 đến 30.9.07 có 17 bệnh nhi được chẩn đoán bệnh tay chân miệng tử vong tại Khoa<br />
Hồi sức và Khoa Nhiễm Thần Kinh Bệnh Viện Nhi Đồng I. Chẩn đoán bệnh tay chân miệng khi BN có sốt<br />
trong vòng 7 ngày, loét miệng, hồng ban bóng nuớc ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và mông, được xác định<br />
lâm sàng bởi ít nhất 2 bác sĩ tham gia điều trị. Loại trừ những trường hợp có nguyên nhân khác hoặc bệnh<br />
đi kèm. Trẻ tử vong thuộc lứa tuổi từ 8 đến 33 tháng (trung bình 22 tháng), có 15 trẻ nam, 2 trẻ nữ, 8 trẻ<br />
sống nông thôn, 9 trẻ sống ở thành thị. Có 15/17 trẻ nhập viện vào ngày thứ ba và ngày thứ tư sau khởi<br />
bệnh. Lúc nhập viện đã có 16 BN có biến chứng thần kinh, trong đó có 2 BN có biến chứng hô hấp và 1 BN<br />
có biến chứng suy tuần hòan. Diễn tiến kịch phát với sốt cao liên tục, mạch nhanh. Biến chứng thần kinh<br />
thuờng xảy ra vào ngày thứ 2 – 3 của bệnh. Khoảng 10 giờ sau nhập viện thì có biến chứng hô hấp và<br />
khoảng 1 giờ sau khi xảy ra suy hô hấp thì có biến chứng suy tuần hoàn. Thời gian trung bình từ lúc nhập<br />
viện đến lúc tử vong là 25 giờ . X quang phổi được chụp ở 11 BN lúc suy hô hấp, 6 BN có hình ảnh phù<br />
phổi cấp lan tỏa hình cánh bướm và 5 BN có hình ảnh phù mô kẽ. Có 3 BN phân lập được EV71 trong mẫu<br />
phết họng và phân, trong đó có 1 BN test nhanh EV71 dương tính trong máu. Có 1 BN test nhanh EV71<br />
dương tính nhưng không làm xét nghiệm phân lập virut.<br />
Kết luận: Bệnh nhi TCM tử vong trong bệnh cảnh kịch phát với sốt cao, mạch nhanh, tổn thương thần<br />
kinh, suy hô hấp và suy tuần hoàn.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
CARACTERISTICS OF THE DEATHS OF THE CHILDREN CAUSED BY HAND FOOT MOUTH<br />
DISEASE AT THE PEDIATRIC HOSPITAL NoI – HO CHI MINH CITY<br />
Doan Thi Ngoc Diep, Bach Van Cam, Truong Huu Khanh et al.<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 17 – 21<br />
Background: The hand foot mouth disease (HFMD) is caused by the enterovirus. The evolution is<br />
favorable in the most of cases but some patients die of the fulminant complication with the neurological and<br />
cardiorespiratory manifestations.<br />
Objectives: To describe the caracteristics of the deaths from HFMD at the Pediatric Hospital NoI – Ho<br />
Chi Minh City.<br />
Methods: This is a case series study carried out by reviewing medical records.<br />
Results:There were 17 children, who died of HFMD at Intensive Care Unit and Infectious Disease Ward<br />
* Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh<br />
** Bệnh viện Nhi Đồng I TP HCM<br />
<br />
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008<br />
<br />
Nghieân cöùu Y hoïc<br />
<br />
of Pediatric Hospital No I, Ho Chi Minh City from 1/1/2005 to 10/30/2007. HFMD were clinically diagnosed by<br />
fever less than 7 days with mouth ulcer, vesicular rashes at the hands, feet and bottom. The diagnosis was<br />
confirmed by at least two doctors. Cases with other associated diseases were excluded. Average age of patients was<br />
22 months (8 - 33 months) There were 15 boys and 2 girls, inclduing 8 from the countryside, and 9 from the<br />
urban area. Most of the patients (15/17) were hospitalized on the 3rd and 4th day of the illness. Sixteen patients had<br />
neurological manifestation at admission, two of them had respiratory distress and one with shock. The patients<br />
had a fulminant evoluation with continuous high fever and tachycardia. The neurological complication came on<br />
the second or third day of the illness. The respiratory complication occurred about 10 hours after the admission<br />
and the cardiovascular complication happened about one hour thereafter. The mean of duration from the<br />
admission to death was 25 hours. Chest X ray was performed in 11 patients with respiratory distress. Six of them<br />
showed acute pulmonary oedema, and other 5 revealed interstitial oedema. Enterovirus 71 (EV71) was isolated<br />
from patients’ throat and stool samples in 3 patients. One of them had an EV71 positive serum rapid test. There<br />
was one patient with EV71 positive serum rapid test without isolated virus in cultured samples.<br />
Conclusion: Patients with HFMD died in a fulminant development with high fever, which was<br />
associated with neurological, respiratory and cardiovascular complications.<br />
phổi bội nhiễm, 1 BN có dịch não tủy đục và X<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
quang phổi có viêm phổi lan tỏa 2 bên, 1 BN có<br />
Bệnh tay chân miệng (Hand foot mouth<br />
viêm thanh quản cấp và viêm đáy phổi phải.<br />
disease – TCM) là một bệnh lý nhiễm trùng do<br />
Có 4 BN được điều trị ở tuyến trước, chuyển<br />
enterovirus (EV) gây ra, biểu hiện lâm sàng với<br />
BV Nhi Đồng I với chẩn đóan T/d động kinh ≠<br />
bóng nước, sẩn hồng ban nổi ở bàn tay, bàn<br />
viêm màng não (1BN), viêm phế quản phổi +<br />
chân, mông và các vết lóet ở lưỡi và niêm mạc<br />
liệt cấp 2 chi dưới (1BN), viêm thanh quản cấp<br />
miệng. Bệnh diễn tiến tự khỏi trong vòng 1<br />
(1BN) và Bệnh TCM biến chứng thần kinh<br />
tuần trong đa số các trường hợp. Một số bệnh<br />
(1BN).<br />
nhi có biến chứng và diễn tiến nhanh chóng<br />
đến tử vong trong vòng 24 giờ sau nhập viện.<br />
Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng<br />
của các trường hợp tử vong để có thể hiểu<br />
được cơ chế bệnh sinh và có biện pháp theo<br />
dõi điều trị kịp thời là cần thiết<br />
<br />
ĐỐI TƯƠNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Mô tả loạt ca những bệnh nhi (BN) có bệnh<br />
TCM và tử vong tại Bệnh viện Nhi Đồng I từ<br />
1.1.05 đến 30.10.07 bằng cách tham khảo hồ sơ<br />
bệnh án. Chẩn đóan bệnh TCM khi BN có sốt<br />
trong vòng 7 ngày, có hồng ban bóng nước ở<br />
bàn tay, bàn chân và lóet miệng và được ít<br />
nhất 2 bác sĩ xác định các dấu hiệu này. Loại<br />
trừ các BN có bệnh nền hoặc tìm thấy nguyên<br />
nhân khác.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Có 20 BN tử vong với chẩn đóan bệnh<br />
TCM trong thời gian này. Có 3 hồ sơ loại trừ ra<br />
khỏi nghiên cứu gồm 1 BN tử vong do viêm<br />
<br />
Tuổi trung bình là 22 tháng (nhỏ nhất: 8<br />
tháng, lớn nhất: 33 tháng), 15 trẻ nam và 2 trẻ nữ.<br />
8 trẻ sống nông thôn, 7 trẻ sống ở thành thị.<br />
<br />
Biểu hiện lâm sàng và diễn tiến:<br />
Có 11/17 trẻ nhập viện vào ngày thứ ba của<br />
bệnh, 4 trẻ nhập viện vào ngày thứ tư, 1 trẻ<br />
ngày thứ hai và 1 trẻ ngày thứ sáu. Lý do<br />
khiến thân nhân đưa bệnh nhi đến bệnh viện<br />
gồm: sốt (8 BN), co giật (3), thở mệt (3), giật<br />
mình (2) và yếu 2 chi dưới (1). Thời gian trung<br />
bình từ lúc nhập viện đến lúc tử vong là 25 giờ<br />
(sớm nhất: 3 giờ, trễ nhất: 72 giờ ). Tất cả BN<br />
đều khởi phát với triệu chứng sốt.<br />
Triệu chứng thân nhân ghi nhận được<br />
trước khi nhập viện gồm: sốt (17BN), giật<br />
mình (13), nổi bóng nước ngoài da hoặc hồng<br />
ban (10), nôn ói (8), co giật (6), lơ mơ (5), đau<br />
loét miệng (5), ho sổ mũi (2) và tiêu chảy (2).<br />
<br />
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008<br />
Nhiệt độ trung bình lúc nhập viện là<br />
39,6oC. Tất cả các BN đều sốt cao liên tục.<br />
Lúc nhập viện có 16/17 BN có triệu chứng<br />
thần kinh, biểu hiện lừ đừ, giật mình, vẻ mặt hốt<br />
hoảng, kích thích. Trong số đó có 2 BN vừa có<br />
biến chứng thần kinh, vừa có biến chứng hô hấp<br />
và 1 BN có cả 3 biến chứng thần kinh, hô hấp,<br />
tuần hòan. Không có BN nào hôn mê sâu hay co<br />
gồng mất não, mất vỏ. Có 2 BN yếu 2 chân, 1 BN<br />
yếu chân trái. Không có BN nào yếu nửa người<br />
hay liệt các dây thần kinh so. Không có BN nào<br />
có dấu hiệu cổ gượng hay thóp phồng. Phổi<br />
nghe có ran ngáy trên 2 BN. Không nghe tiếng<br />
tim bất thường ở tất cả 17 BN.<br />
Bệnh diễn tiến rất nhanh chóng. Biến<br />
chứng thần kinh xảy ra thường vào ngày thứ 4<br />
của bệnh. Có 16/17 BN đã có triệu chứng thần<br />
kinh được ghi nhận lúc nhập viện. Triệu<br />
chứng thần kinh nổi bật là kích thích, hốt<br />
hỏang, giật mình và vẻ mặt thất thần. Thời<br />
gian từ lúc nhập viện đến khi có triệu chứng<br />
suy hô hấp trung bình là 10 giờ và thường biến<br />
chứng trụy tim mạch xảy ra sau đó trong vòng<br />
1- 2 giờ. Giai đoạn nguy hiểm thường bắt đầu<br />
với triệu chứng hô hấp, BN thở mệt, thở<br />
nhanh, thở bụng và co kéo cơ gian sườn và<br />
hõm trên ức. Nhịp tim trong giai đoạn này<br />
thường nhanh, huyết áp có thể tăng (1/17BN).<br />
Sau đó dấu hiệu suy hô háp diễn tiến nhanh<br />
chóng trong vòng 1 – 2 giờ, BN trụy mạch, tay<br />
chân lạnh, mạch khó bắt và huyết áp tụt.<br />
Không có BN nào co giật và hôn mê sâu trong<br />
giai đoạn bắt đầu suy hô hấp tuần hòan. Có 3<br />
BN có xuất huyết tiêu hóa trên (ói ra dịch nâu)<br />
trong giai đoạn cuối.<br />
BN tử vong trong bệnh cảnh suy hô hấp và<br />
trụy tim mạch không hồi phục. Khám lâm<br />
sàng không có tiếng gallot, không có gan to.<br />
3/17 BN được ghi nhận có trào bọt hồng qua<br />
ống nội khí quản.<br />
<br />
Kết quả cận lâm sàng<br />
* Công thức máu: Hct trung bình là 36%<br />
(32 -47%), Hb trung bình là 11,7 g/dl (10 -16<br />
g/dl). Số lượng bạch cầu máu trung bình là<br />
<br />
Nghieân cöùu Y hoïc<br />
<br />
13.505 /mm3 (5.200 – 27.000/mm3). Có 14/17<br />
BN có số lượng bạch cầu tăng >9.000/mm3. Có<br />
2 BN có bạch cầu < 6.000/mm3 (4.400 và 5.200).<br />
Số lượng bạch cầu đa nhân trung tính trung<br />
bình là 7.964/mm3 (1.400 – 18.000/mm3).<br />
Không có sự hiện diện của bạch cầu đũa ở<br />
máu ngoại biên. Có 4 BN có tiểu cầu tăng ><br />
400.000/mm3.<br />
* CRP trung bình là 6.14 mg/l (0,2 –<br />
25mg/l).<br />
* Có 16 BN được chọc dò tủy sống, trong<br />
đó có 14 trường hợp DNT thay đổi theo kiểu<br />
viêm màng não nước trong với số lượng bạch<br />
cầu trung bình là 135/mm3.<br />
* Không có trường hợp nào có rối loạn ion<br />
đồ máu. Có 11 BN được thử chức năng thận,<br />
kết quả có 1 BN có tăng uréee (129,9 mg%) và<br />
créatinine máu (2,38mg%).<br />
* Có 9 BN được chụp X quang phổi lúc<br />
nhập viện thì có 1 BN tổn thương phù phổi lan<br />
tỏa hình cánh bướm và 2 BN có tổn thương<br />
phù phổi mô kẽ.<br />
* Lúc xảy ra biến chứng hô hấp tuần hoàn,<br />
có 11 BN được chụp X quang phổi thì 6 BN có<br />
tổn thương phù phổi cấp lan tỏa hình cánh<br />
bướm và 5 BN có tổn thương phù phổi mô kẽ.<br />
Tất cả BN đều có bóng tim không to trên X<br />
quang. Troponin I tăng ở 3/11 BN được làm xét<br />
nghiệm, CPK > 250 U/l ở 6/10 BN. 10 BN được<br />
đo ECG cho thấy nhịp nhanh xoang có 1 BN<br />
kèm theo bloc nhánh trái. 3/ 6 BN được siêu<br />
âm tim tại giường có FS< 25%.<br />
* Tất cả BN đều có đường huyết bình thường<br />
lúc nhập viện. Khi thử đường huyết lúc xảy ra<br />
biến chứng hô hấp tuần hòan có 3 BN tăng<br />
đường huyết rất cao (243, 382 và 394 mg%).<br />
* Có 7 BN được làm xét nghiệm chẩn đoán<br />
nhanh EV71 trong huyết thanh (2 BN vào ngày<br />
2 của bệnh, 4 BN vào ngày 4 và 1 BN vào ngày<br />
7), có 2 BN dương tính (vào ngày 4). Có 2<br />
trong 4 BN được phân lập virus trong phết<br />
họng và phân dương tính với EV71 (1 BN xét<br />
nghiệm chẩn đoán nhanh dương tính).<br />
<br />
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008<br />
Các biện pháp điều trị<br />
Tất cả các BN đều được điều trị kháng sinh<br />
tĩnh mạch với cephalosporine thế hệ thứ ba.<br />
15/17 BN được sử dụng thuốc an thần<br />
phenobarbital truyền tĩnh mạch hoặc tiêm bắp<br />
để giảm bớt kích thích trong giai đoạn chưa có<br />
triệu chứng suy hô hấp. Khi xảy ra sốc, có 8<br />
BN được truyền dung dịch điện giải đẳng<br />
trương và 7 BN được truyền dung dịch đaị<br />
phân tử khi không đáp ứng với dung dịch<br />
điện giải. Tất cả các BN đều được truyền<br />
dopamine (liều bắt đầu là 5µg/kg/phút tăng<br />
dần đến 10µg/kg/phút) khi có sốc, 10 BN được<br />
kết hợp với dobutamine (liều bắt đầu<br />
5µg/kg/phút tăng dần đến 10µg/kg/phút). Có 3<br />
BN được sử dụng humaglobuline liều<br />
1g/kg/ngày truyền tĩnh mạch trong 6 giờ, trong<br />
2 ngày. Có 2 BN được điều trị với Milrinone<br />
khi có phù phổi mô kẽ, có dấu hiệu suy hô hấp<br />
và trong giai đoạn huyết động học ổn định.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Bệnh TCM ở các nước phương Tây thường<br />
do Coxackie virus A gây nên, bệnh cảnh thường<br />
diễn tiến lành tính phục hồi tự nhiên trong<br />
vòng 1 tuần lễ. Ở các nước Châu Á, các trận<br />
dịch ở Đài Loan có bằng chứng EV71 là tác<br />
nhân gây bệnh TCM. Bệnh cảnh lâm sàng của<br />
bệnh TCM do EV71 có thể diễn tiến đến tử<br />
vong một cách nhanh chóng. Bệnh thường gặp<br />
ở lứa tuổi nhũ nhi, ít khi xảy ra ở lứa tuổi nhỏ<br />
hơn 6 tháng vì trẻ thường có kháng thể do mẹ<br />
truyền sang và chế độ chăm sóc ít có nguy cơ<br />
lây truyền EV (chế độ ăn sữa, không đi nhà<br />
trẻ). Trẻ lớn thường đã có kháng thể do đã tiếp<br />
xúc với EV trong quá trình sống vì vậy khả<br />
năng mắc bệnh thấp và ít xảy ra thể nặng.<br />
EV xâm nhập cơ thể qua đường tiêu hóa,<br />
sau đó vào máu gây nhiễm virus máu. Giai<br />
đoạn đỉnh cao của nhiễm virus máu là ngày<br />
thứ 3 đến ngày thứ 5 của bệnh. Nếu không xảy<br />
ra biến chứng thì bệnh tự khỏi trong vòng 7<br />
ngày. Bệnh diễn tiến có thể qua các giai đoạn<br />
như sau: giai đoạn (1) chỉ có hồng ban bóng<br />
nước ngoài da và/hoặc các vết loét ở lưỡi; giai<br />
<br />
Nghieân cöùu Y hoïc<br />
<br />
đoạn (2) bắt đầu có các triệu chứng thần kinh<br />
như giật mình, hốt hoảng, co giật, yếu chi, thất<br />
điều; giai đoạn (3A) có biến chứng thần kinh<br />
hố hấp tuần hoàn với nhịp thở nhanh, tăng<br />
huyết áp; giai đoạn (3B) sốc nặng, suy hô hấp<br />
nặng, hôn mê; giai đoạn (4) là giai đoạn phục<br />
hồi.<br />
16/17 BN trong nghiên cứu của chúng tôi<br />
khi nhập viện (trung bình là ngày thứ 3 của<br />
bệnh) đã có triệu chứng thần kinh giật mình,<br />
hốt hỏang, chới với, trong đó có 5 BN co giật<br />
trước khi nhập viện. Trẻ sốt cao liên tục, mạch<br />
nhanh và không trở về bình thường khi thân<br />
nhiệt đã giảm với thuốc hạ sốt. Triệu chứng hô<br />
hấp xuất hiện sớm nhất là thở nhanh, sau đó là<br />
thở bụng và co kéo các cơ hô hấp phụ. X<br />
quang phổi trong giai đoạn này luôn luôn có<br />
phù phổi mô kẽ (11/11 BN). Trẻ vật vả kích<br />
thích hơn do tình trạng thiếu oxy. Khi phổi<br />
xuất hiện ran ngày, rít, ẩm thì độ bảo hòa oxy<br />
giảm nhanh, trẻ có các triệu chứng của thiếu<br />
oxy và ứ khí carbonic. Khi lâm sàng diễn tiến<br />
nặng hơn, tổn thương phù phổi sẽ chuyển<br />
sang dạng lan tỏa hình cánh bướm (6/11 BN<br />
được chụp X quang vào giai đoạn cuối).Trong<br />
giai đoạn đầu của biến chứng hô hấp, có thể<br />
ghi nhận huyết áp tăng. Suy tuần hòan thường<br />
xảy ra sau suy hô hấp trong vòng 1 – 2 giờ.<br />
Các biến chứng thần kinh có thể gặp là<br />
viêm màng não vô trùng, tổn thương thân não,<br />
tổn thương tủy. Tất cả BN của chúng tôi không<br />
có dấu hiệu hôn mê sâu hay co gồng mất não,<br />
mất vỏ khi bắt đầu có biến chứng hô hấp tuần<br />
hoàn. Triệu chứng thần kinh nổi bật là hốt<br />
hoảng, giật mình, chới với. Có 3 BN có yếu chi<br />
có thể do tổn thương tủy sống. Triệu chứng<br />
phù phổi cấp diễn tiến kịch phát không kèm<br />
theo dấu hiệu suy tim. Các BN trong nghiên<br />
cứu không được đo CVP nhưng trên lâm sàng<br />
không thấy dấu hiệu quá tải, BN không được<br />
truyền dịch trước khi xảy phù phổi cấp, gan<br />
không to. Bóng tim trên X quang ngực thẳng<br />
của 11 BN lúc xảy ra biến chứng suy hô hấp<br />
trong giới hạn bình thường. Có 3 BN trào bọt<br />
<br />
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 12 * Phụ bản Soá 1 * 2008<br />
hồng qua nội khí quản chứng tỏ phù phổi cấp<br />
có kèm theo tình trạng xuất huyết phổi.<br />
Một nghiên cứu tại Đài Loan trên 5 BN tử<br />
vong do nhiễm EV71 đã kết luận rằng, EV71 có<br />
thể gây tổn thương thần kinh nặng nề, phù<br />
phổi cấp và xuất huyết phổi. Kết quả MRI cho<br />
thấy rằng tất cả BN có phù phổi cấp đều có tổn<br />
thương thân não. Viêm cơ tim do virus không<br />
phải là nguyên nhân trực tiếp gây suy hô hấp<br />
– tuần hoàn trên BN nhiễm EV71. Sự hoạt hóa<br />
quá mức của hệ giao cảm trung ương dẫn đến<br />
tình trạng co mạch không phải là nguyên nhân<br />
chính gây phù phổi/ xuất huyết phổi trên BN<br />
nhiễm EV71. Cơ chế của phù phổi cấp và trụy<br />
tim mạch có thể do tăng tính thấm thành mạch<br />
ở phổi do tổn thương thân não và / hoặc do<br />
hậu quả của đáp ứng viêm toàn thân hơn là do<br />
tăng áp lực thủy tĩnh ở mao mạch phổi(3).<br />
Các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng gợi ý<br />
đến tình trạng tổn thương thân não gây bệnh<br />
cảnh suy hô hấp tuần hòan trên các BN TCM<br />
của chúng tôi. Vì sao EV71 gây tổn thương thân<br />
não mà không gây tổn thương đại não với mức<br />
độ tương ứng? Giả thuyết đưa ra có thể là EV71<br />
có ái lực với các tế bào thần kinh ở thân não hơn<br />
là các nơi khác, do các tế bào này có các thụ thể<br />
thích hợp cho sự xâm nhập của EV71 vào nội<br />
bào. Điều này có ý nghĩa lâm sàng quan trọng.<br />
Khác với các loại virus gây tổn thương não qua<br />
đường nhiễm virus máu thường gây tổn<br />
thương cả não bộ và tổn thương thân não trong<br />
bệnh cảnh co giật, hôn mê, EV71 có thể gây<br />
bệnh cảnh nguy kịch do tổn thương các trung<br />
tâm sinh tồn ở vùng thân não mà không có các<br />
triệu chứng của tổn thương hai bán cầu đại não.<br />
BN sốt cao và phù phổi, tăng huyết áp hoặc<br />
trụy tim mạch có thể xảy ra một cách nhanh<br />
chóng. Vì vậy, trên lâm sàng, trước BN có các<br />
triệu chứng nghi ngờ bệnh TCM, chúng ta cần<br />
theo dõi sát các biến chứng của tổn thương thân<br />
não và cần có biện pháp điều trị thích hợp theo<br />
cơ chế bệnh sinh(1,2).<br />
<br />
Nghieân cöùu Y hoïc<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
17 BN mắc bệnh TCM diễn tiến đến tử<br />
vong trong nghiên cứu của chúng tôi có bệnh<br />
cảnh lâm sàng kịch phát với sốt cao liên tục,<br />
mạch nhanh. Biến chưng thần kinh xảy ra vào<br />
ngày thứ 3 – 4 của bệnh với triệu chứng nổi bật<br />
là giật mình, hối hoảng, chới với. Biến chứng<br />
hô hấp xảy ra khoảng 10 giờ sau nhập viện.<br />
Biến chứng suy tuần hòan xảy ra 1 -2 giờ sau<br />
khi suy hô hấp. 6 BN có hình ảnh X quang của<br />
phù phổi cấp lan tỏa hình cánh bướm và<br />
không có bóng tim to. Lâm sàng không có dấu<br />
hiệu của suy tim cũng như quá tải. Bệnh cảnh<br />
gợi ý đến tổn thương thân não là cơ chế chính<br />
gây biến chứng nặng nề ở BN mắc bệnh TCM.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
<br />
2.<br />
<br />
3.<br />
<br />
Chan L.G, Umesh D. Parashar, Lye M.S. et al. (2000),<br />
”Deaths of Children during an outbreak of Hand, Foot<br />
and Mouth disease in Sarawak, Malaysia: Clinical and<br />
pathological characteristics of the disease”, Clinical<br />
Infectious Diseases; 31: 678 -83<br />
Lu HK, Lin TY, Hsia SH et al. (2004), “Prognostic implications<br />
of myoclonic jerk in children with enterovirus infection”, J<br />
Microbil Immunol Infect; 37: 82-87.<br />
Wu JM, Wang JN, Tsai YC et al. (2002), “Cardiopulmonary<br />
manifestations of fulminant Enterovirus 71 infection”<br />
Pediatrics Vol 109, No 2, February<br />
<br />