
Những Bí Mật Về
Chiến Tranh Việt Nam
Chương 11
Rời Việt Nam
Vào một tối giữa tháng giêng năm 1967, đại tá Châu mời tôi đến ăn tối tại nhà ông để gặp
cấp trên mới của ông ta ở Bộ Tổng Tham mưu - Đại tướng Ngô Dzu. Ngày hôm sau dưới
sự hướng dẫn của tướng Landsdale, tôi báo cáo lại cuộc trò chuyện đó dưới dạng một bản
ghi nhớ cho phó Đại sứ thường trực Porter.
Dzu nói rằng tinh thần chiến đấu yếu kém của binh lính trong Quân đội Việt Nam cộng
hoà là do sự thiếu tin cậy, và thiếu tôn trọng đối với ban lãnh đạo tối cao của GVN. Mỗi
cấp bậc - từ tiểu đội trưởng đến những sư đoàn trưởng và cao hơn nữa - đều nhận thấy
rằng thượng cấp của họ đều dính dáng đến những hành vi nhũng nhiễu hoặc lôi kéo về
mặt chính trị và lấy đó làm cái cớ để cho mình có những hành động tương tự. Binh lính
sẽ tiếp tục bị căm ghét vì những hành động trộm cắp và ngược đãi đến khi nào có sự cải
cách triệt để từ cấp cao nhất. Ông ta cho rằng những việc làm phi pháp của sĩ quan và
binh lính là sự phản ánh trực tiếp những cảm nhận của họ rằng cuộc chiến kéo dài khiến
họ cảm thấy mệt mỏi, và không thể dành được chiến thắng với bộ máy nhà nước và
những nhà lãnh đạo như hiện nay. Tôi gạch chân điều đó trong bản báo cáo, để nhấn
mạnh sự bức xúc của ông ta khi nói tới điều đó một cách nghiêm túc, trong bóng tối bên
chiếc bàn được thắp nến, phía sau nhà ông ta. Ông ta nói tiếp sự tham nhũng và hối lộ sự
phản ánh nỗi tuyệt vọng. "Khi bạn nhận ra, từ bản chất của ban lãnh đạo của chúng ta,
rằng không còn hy vọng gì cho sự tiến bộ, bạn chẳng thể đạt được điều gì ở địa phương,
hay sư đoàn của mình, cả về mặt quân sự lẫn chính trị… bạn sẽ quay sang làm những gì
có thể để phục vụ cho lợi ích của chính gia đình mình".
Khoảng một tuần sau, Đại tá Châu tới nhà tôi nói chuyện.
Lúc đó tôi vừa trở về sau một chuyến khảo sát cuộc hành quân, trong lần đó tôi đã phát
hiện một đường hầm dài của Việt Cộng. Hiển nhiên, nó không hề bị bỏ hoang, bởi lúc đó
tôi phát hiện ra những chân nến cháy dở dính vào những vỏ đạn, trong đó chất sáp vẫn
còn lỏng và nóng. Tôi quyết định sẽ không tiến vào sâu hơn nữa. Tôi đem các chân nến
về, cùng với những mẩu giấy viết tay cạnh đó, mà sau này khi chúng được dịch tôi mới
biết đó là những lá thư tình. Tôi kể với Châu về cuộc hành quân, và nói rằng tôi có thứ
này muốn cho anh ta xem. Tôi lên phòng ngủ và đem xuống một đôi dép Hồ Chí Minh tôi
tìm thấy trong đường hầm, đó là một đôi dép xăng đan làm bằng cao su đã qua lưu hoá
với đế dép được cắt từ những lốp xe tải phế thải, đó là đôi dép mà Việt Cộng và trước họ,
những người Việt Minh trong thời kỳ chống Pháp đã đi.

Đôi mắt anh ta sáng lên, và đón lấy chúng từ tay tôi. Anh ta nâng niu chúng trong tay và
ngắm chúng rất lâu như thể anh ta đang bế trên tay một đứa trẻ. Gương mặt anh ta trở nên
dịu dàng khi nói và với một thanh âm mà tôi chưa từng nghe trước đó. Đó là một cảm xúc
rất riêng tư. Anh ta nói: "Tôi đã từng đi nó trong suốt 4 năm", nghĩa là anh ta đã tham gia
vào tổ chức Việt Minh vào cuối những năm 40 trong cuộc chiến với Pháp. Anh ta ngừng
lại một lúc thật lâu, tôi cũng giữ im lặng. Anh ta nói: "Đó là những năm tháng đẹp nhất
trong cuộc đời tôi".
Một lát sau, anh ta đặt đôi dép xuống và nói: "Anh biết không, có một điều mà tôi luôn tự
hỏi bản thân mình rằng: tôi nói tôi rời bỏ Việt Minh và tham gia phục vụ đức vua Bảo
Đại, sau là đến Tổng thống Diệm bởi vì Chủ nghĩa Cộng sản quá khắc nghiệt, họ không
tôn trọng tôn giáo cũng như những truyền thơng dân tộc của chúng tôi, đường lối phát
triển của họ quá cứng nhắc đối với chúng tôi, và chúng tôi cần sự giúp đỡ của Phương
Tây. Nhưng đó có phải là sự thật không? Hay tôi đã theo phe khác chỉ vì tôi quá mệt mỏi
khi phải sống dưới những đường hầm và ở trong rừng, tôi muốn đi giày da và mặc một bộ
quân phục đẹp và ngủ trên một chiếc giường êm, trong một căn nhà? Tôi luôn tự hỏi
mình điều đó".
Tôi đợi anh ta nói tiếp, nhưng anh ta đã im lặng. Tôi hỏi: "Thế câu trả lời của anh là gì?"
Anh ta đáp: "Tôi không biết".
Tháng hai, tôi quyết định thực hiện các chuyện thanh tra ở vùng châu thổ nơi tôi đã phải
hoãn lại từ tháng trước. Trước tiên, tôi tới thăm một số địa phương, nhưng điều mà tôi
thực sự mong đợi mục đích chính của chuyến đi, là được tham gia cùng với một đơn vị
thuộc một sư đoàn người Việt, theo các cố vấn Mỹ của sư đoàn thì đơn vị này đang thực
hiện một chiến dịch tuần tra vào ban đêm. Vì tôi được biết rằng không một đơn vị nào
khác thực hiện việc đó, dù lớn hay nhỏ, và đó là sự thiếu sót tai hại đối với bất cứ triển
vọng nào của chương trình bình định.
Trong bản báo cáo về nghiên cứu vai trò và nhiệm vụ chiến lược hồi tháng 6 vừa qua, tôi
có viết: "Một đòi hỏi đặc biệt khẩn cấp đối với các đợt tuần tra và phục kích ban đêm - là
phải xác định rõ nơi cuộc đụng độ có thể xảy ra theo báo cáo của tình báo. Trừ khi các
cuộc hành quân đêm của các lực lượng Quân đội Việt Nam cộng hoà (RVANF) bắt đầu
với mục đích làm cho Việt Cộng không được an toàn khi di chuyển, hoặc tiến vào làng
trong đêm, chứ dứt khoát là không thể cắt bỏ được gốc rễ của họ đã ăn sâu trong lòng dân
chúng để từ đó tiêu diệt những nhóm quân du kích hoặc giảm bớt sự kiểm soát của họ".
"Họ đã giành lại màn đêm từ tay Việt Cộng!" Đó là những gì người ta nói về sư đoàn
này. Tôi đã từng nghe điều này trước đó nhưng những người ở sở chỉ huy của MACV nói
rằng đây là điều có thực, đoàn cố vấn đề có mối quan hệ đáng kinh ngạc đối với một sư
đoàn trưởng nổi tiếng, và việc đó thực sự đang xảy ra.
Tôi tin những người đang nói ra điều này và cách họ nói về nó.

Tôi muốn được tận mắt trông thấy chứ không phải vì tôi có chút nghi ngờ mà vì tôi muốn
biết được điều kỳ diệu này đã xảy ra và được truyền bá như thế nào.
Chắc chắn rằng, tại sở chỉ huy của sư đoàn, viên Đại tá, Trưởng đoàn cố vấn đề có một
biểu đồ lớn cho thấy số lượng của những đợt tuần tra đêm được thực hiện bởi mỗi tuần
một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn trong suốt vài tháng qua. Số lượng thay đổi tuỳ thuộc vào
các tiểu đoàn khác nhau, và dao động hàng tuần, nhưng cũng có thể dễ dàng nhận thấy xu
hướng được tổng kết trên các đường cong của một biểu đồ khác. Số lượng các đợt tuần
tra, bắt đầu ở số 0 hoặc gần tới đó, đã đều đặn đạt tới chỗ mà sư đoàn sắp kết thúc là hàng
trăm đợt trong một tuần, hàng tá các đợt trong một đêm. Trong 2 năm ở Việt Nam, tôi
chưa từng gặp một điều tương tự như thế. Viên Đại tá tự hào về điều này cũng là điều dễ
hiểu. Tôi muốn nghe toàn bộ câu chuyện về việc ông đã làm thế nào để có kết quả ấy
nhưng tôi phải chờ đến ngày hôm sau. Trời đang xế chiều, tôi muốn chắc chắn rằng mình
có đủ thời gian để xuống một tiểu đoàn để tham gia vào cuộc tuần tra đêm đó. Tôi xem
lướt.qua tấm bản đồ rộng, nơi các khu vực tuần tra được đánh dấu bằng bút chì cho các
trung đoàn và tiểu đoàn tôi chỉ ra một trung đoàn và nói ý định của mình với viên đại tá
Viên đại tá có vẻ rất ngạc nhiên với ý định của tôi, nhưng tôi đã giải thích bằng cơ sở và
những kinh nghiệm của mình ở Rạch Kiến. Ông ta thấy tôi đã rất sẵn sàng với tất cả
những trang bị cần thiết. Ông ta cũng biết cấp bậc của tôi, nên không tranh luận nữa.
Nhưng ông ta nói, không chắc về việc có thể sắp xếp với một lời yêu cầu bất thình lình
như thế. Tôi nói, sẽ tốt hơn nếu thực hiện việc đó một cách không chính thức. Đây không
phải là một cuộc thanh tra chính thức mà thật ra chỉ muốn có một câu chuyện ấn tượng
hơn nhiều để chọn ra một trong hàng tá các đợt tuần tra đêm, tham gia cùng với họ, sau
đó miêu tả lại sự khác nhau mà nó đã tạo ra ở vùng nông thôn khi có một sư đoàn người
Việt đang hoạt động vào ban đêm. Tôi chưa từng nghe tới một đơn vị người Việt nào
khác nơi bạn có thể thực hiện việc này, vì thế chúng tôi có được câu chuyện này càng
sớm càng tốt.
Ông ta đã hiểu được vấn đề, nhưng ông nói rằng vào thời điểm này sẽ rất bất tiện cho tôi
khi tới thăm trung đoàn mà tôi đã chọn trên bản đồ. Ông ta không nói rõ lý do. Có lẽ mọi
thứ sẽ được tiến hành một cách tốt hơn nếu như hoãn lại tới chuyến đi sau của tôi. Nhưng
tôi không dám chắc khi nào mình có thể quay lại lần nữa, tôi đã chờ đợi điều này từ rất
lâu rồi, và cuối cùng cũng thành công. Tôi thúc ép ông ta cho tôi tới thăm một trung đoàn
khác và sau vài cuộc nói chuyện trên điện đài, ông ta đưa tôi tới một trạm chỉ huy trung
đoàn cách đây khoảng một dặm.
Ở đó, cố vấn trung đoàn cũng có thái độ ngập ngừng khi đưa tôi xuống tiểu đoàn. Tôi
hiểu sự dè dặt này của họ. Với tất cả những gì tôi đã nói chỉ là: đây không phải là chuyện
thanh tra chính thức, tôi là người của đại sứ quán, và không một người chỉ huy hay cố
vấn nào, sẽ cảm thấy hoàn toàn dễ chịu với một chuyến viếng thăm không trong kế hoạch
những hoạt động quân sự của một trong số các đơn vị chiến đấu của họ mà không hề
được báo trước. Ai có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra, hoặc đơn vị sẽ như thế nào
trong đúng cái đêm đó, hoặc ai biết được việc này thì sao? Thế nên tôi không hề ngạc
nhiên khi lại được nghe nói rằng điều này quâ bất ngờ, và rằng không biết có thể sắp xếp
được không, nhưng tôi cũng không dễ dàng bỏ cuộc. Tôi đe doạ ông ta nhưng không
nhằm một ý đồ xấu nào; tôi biết rằng tôi không nên ở đó để họ phải lúng túng. Tôi không

quan tâm tới chất lượng của các hoạt động. Điều mà tôi thật sự quan tâm là câu chuyện
về họ, về những binh lính người Việt đang tiến về phía vành đai của tiểu đoàn trong đêm
tối.
Trên thực tế, có một vấn đề trong chuyện này, cuối cùng tôi đã biết được ở bốt chỉ huy
tiểu đoàn mà tôi đã được đưa tới lần cuối và đến đúng lúc trời vừu sập tối. Một thiếu tá
người Mỹ, cố vấn cho một tiểu đoàn, đã chỉ cho tôi xem tấm bản đồ có những tuyến
đường tuần tra trong đêm. Khi biết tôi sẽ tham gia vào một trong số đó, ông ta nói rằng
không thể. Tôi hỏi tại sao, và lần này tôi nhận được câu trả lời hết sức thẳng thắn. Các
cuộc tuần tra trên bản đồ thật ra không hề có thực. Không hề có một cuộc tuần tra ban
đêm nào. Không chỉ ở trung đoàn đoàn này mà còn ở tất cả các đơn vị khác thuộc sư
đoàn, theo như viên thiếu tá biết được.
Vậy còn những thống kê và các khu vực tuần tra, các danh sách có trên tất cả các biểu đồ
ở sở chỉ huy trung và sư đoàn?
Bịa đặt. Dưới áp lực của cố vấn sư đoàn và đối tác người Việt Nam của mình, mỗi tiểu
đoàn phải lập ra các kế hoạch tuần tra cho từng ngày và gửi các báo cáo và tính toán lên
trên, nhưng trên thực tế không có một đại đội người Việt nào cho quân của mình đi tuần
tra đêm trong khu vực hoạt động của Việt Cộng. Không rõ đã có ai từng cố gắng khiến họ
thử làm việc đó chưa?
Vị đại tá của Sư đoàn đã có những con số để đưa lên biểu đồ. Hàng trăm cuộc tuần tra
trong một tuần. Nhưng không một cuộc nào thực sự diễn ra. Không phải 10, 50, mà là 0.
Không có cuộc nào để tôi có thể đi cùng. Tôi cám ơn vị thiếu tá vì sự ngay thẳng của ông,
điều khá hiếm hoi ở những người có cùng địa vị của ông, dẫu điều đó có thể khiến ông
gặp rắc rối. Nhưng tôi cũng cảm thấy mình như một kẻ ngốc. Họ lại lừa tôi. Tôi giống
như Charlie Brown 11 lần đá vào khoảng không. Tôi không thể tin được rằng mình lại có
thể bị lừa một cách dễ dàng như vậy.
Điều gì đã khiến tôi xuống tới tận đây mà không một chút nghi ngờ cho đến khi tôi biết
được những thông tin tồi tệ từ viên thiếu tá ấy? Đó là cái cách mà người ta thường nói:
"Đây mới là sự thật, đây mới thật sự là điều đang xảy ra. Một khi nó không phải là
chuyện nhảm nhí, như thể họ đã biết tỏng rồi". Có lẽ họ không biết, tôi không nghĩ rằng
họ đã cố tình lừa tôi. Điều gì đã lừa dối họ. Đó hẳn là nội dung chi tiết của bản báo cáo,
nỗ lực đã được thể hiện trong đó.
Viên đại tá có biết không? Tôi nhận ra rằng mình không quan tâm đến điều đó. Nếu là
một năm trước, tôi sẽ nghĩ đó là trách nhiệm của mình phải quay trở lại Sở chỉ huy Sư
đoàn để thông báo với ông ta - nếu như ông ta thực sự không biết - hoặc để cảnh cáo ông
ta, nhưng đó không phải là lý do làm tôi phải xuống đây lần này. Tôi ngồi nói chuyện với
viên thiếu tá một lát, rồi ngủ lại trên cái giường mà ông ta chỉ cho tôi, và ngày hôm sau
tôi lái xe quay về Sài Gòn.
Tôi đã quá mệt mỏi với việc thu thập và báo cáo cùng một vấn đề hết lần này đến lần
khác ở 43 tỉnh khác nhau. Tôi mệt mỏi vì phải vạch trần sự dối trá của Quân đội Việt

Nam cộng hoà và chương trình bình định. Bây giờ tôi khá thoải mái trong việc quyết định
mình sẽ làm gì. Điều xuất hiện trong đầu tôi lúc này là mong muốn được quay trở lại làm
việc với đám lính Hoa Kỳ, quan sát, theo kiểu tôi đã làm ở Rạch Kiến. Tôi có lý do chính
đáng để làm điều đó; để đánh giá chiến dịch bình định cho ngài phó đại sứ, tôi cần theo
dõi khá nhiều các kiểu hành quân và các loại đơn vị khác nhau của quân đội Mỹ. Tôi có
thể bắt đầu tại Khu vực phi quân sự (DMZ) ở phía bắc và sau đó sẽ đi suốt dọc dài miền
Nam Việt Nam, quan sát hết đơn vị này đến đơn vị khác.
Tôi bắt đầu chương trình trong vòng khoảng một hoặc hai tuần vào một ngày bình thường
với một đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hoà ở phía Bắc gần khu phi quân sự. Một
vài ngày sau, khi đang làm việc ở phía nam tôi đã tới dự một chương trình nghe có vẻ rất
hay ở gần Đà Nẵng. Cố vấn là William Corson, một trung tá lính thuỷ đánh bộ, người đã
Phát minh ra cái gọi là CAPs, các trung đội hành động phối hợp. Đó là các tiểu đội trong
đó hai phần ba lính là người Việt Nam và một phần ba là lính thuỷ đánh bộ người Mỹ.
Tiểu đội trưởng là một người Việt Nam, và một tiểu đội phó phụ trách nhóm lính thuỷ
đánh bộ. Nhóm lính này được học đủ ngôn ngữ của nhau nên có khả năng giao tiếp với
nhau một cách cơ bản.
Nói một cách dễ hiểu thì đó là điều mà Lyndon Johnson đã từng đề nghị theo cách kết
hợp các đơn vị người Việt và người Mỹ trở lại vào năm 1965. Giới lãnh đạo bên quân đội
lúc đó đã không đồng tình với điều này. Họ muốn các đơn vị của Mỹ có thể hoạt động
độc lập với các đơn vị của người Việt Nam, để tránh việc phải chi quá nhiều viện trợ. Họ
thừa nhận một điều rằng các đơn vị của Việt Nam đã bị tình báo của Việt Cộng thâm
nhập vào, và họ không muốn các đơn vị của Mỹ bị chia nhỏ ra để trở thành điều mà
người ta luôn nghĩ là sẽ đóng vai trò huấn luyện chủ yếu.
Nhưng ý tưởng của Corson, theo như những gì ông ta đã giải thích với tôi chiều hôm đó,
là cả hai bên sẽ cùng tạo ra được sức mạnh cần thiết. Phía Việt Nam rõ ràng nắm rất rõ về
con người và đặc điểm của các vùng lãnh thổ. Quân lính thuỷ đánh bộ sẽ học tập từ họ và
sẽ huấn luyện cho các đối tác của mình về các kỹ năng chiến thuật qua những ví dụ. Sự
có mặt của họ sẽ đảm bảo cho quân đội Việt Nam hoả lực yểm trợ tốt, không quân và
pháo binh, mà thuỷ quân lục chiến có thể điều động từ các căn cứ của Mỹ. Quan trọng
hơn cả, đó là nhờ có sự hiện diện của thuỷ quân lục chiến, các cuộc tuần tra có thể được
thực hiện vào ban đêm.
Thế nên đêm hôm đó là lần đầu tiên tôi hành quân trong đêm cùng với đội quân người
Việt. Trong tiểu đội còn có 4 người Mỹ nữa, họ đi dọc theo những con mương dẫn nước,
dưới ánh trăng. Trong buổi giới thiệu vắn tắt tình báo của Quân đội Việt Nam cộng hoà
đã cho chúng tôi biết rằng có khoảng 500 Việt Cộng đang qua nơi chúng tôi đang hành
quân. Đây không phải là một thông tin ngẫu nhiên hay một thông báo thông thường, do
vậy chúng tôi phải hết sức cảnh giác.
Đôi lúc, quá nửa đêm chúng tôi tạm dừng chân ở một cánh đồng để phục kích trong vài
giờ. Chúng tôi rời khỏi chỗ con mương, ngồi dưới nước nấp giữa những cây lúa. (Các
cánh đồng lúa ở Việt Nam được bón bằng phân bắc, nên khi tôi bị suy sụp vì bệnh viêm
gan một vài tuần sau đó, tôi đã nghĩ đến điều này).

