intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những biến chứng trong thai kỳ

Chia sẻ: Nguyễn Văn B B | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

92
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một số vấn đề nghiêm trọng có thể nảy sinh trong quá trình mang thai và sinh nở. Những biến chứng phổ biến là thai ngoài tử cung, nhiễm trùng do virus herpes, bệnh sởi (rubella), bệnh toxoplasma, tiền sản giật và sản giật, sảy thai và sinh non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những biến chứng trong thai kỳ

  1. Những biến chứng trong thai kỳ
  2. Một số vấn đề nghiêm trọng có thể nảy sinh trong quá trình mang thai và sinh nở. Những biến chứng phổ biến là thai ngoài tử cung, nhiễm trùng do virus herpes, bệnh sởi (rubella), bệnh toxoplasma, tiền sản giật và sản giật, sảy thai và sinh non. Thai ngoài tử cung Nếu trứng được thụ tinh làm tổ bên ngoài tử cung thì sẽ gây nên chứng mang thai ngoài tử cung, vị trí phổ biến nhất là mang thai trong vòi trứng. Trừ khi được phát hiện và lấy ra sớm, còn không thì phôi thai sẽ phát triển cho đến khi vòi bị vỡ, gây ra hiện tượng xuất huyết, gây đau đớn và có thể dẫn đến tử vong. Thai ngòai tử cung có thể tự sảy thai, hoặc được phẫu thuật để lấy thai ra ngay khi phát hiện. Hầu hết phụ nữ sau khi mang thai ngoài tử cung vẫn có thể có con lại bình thường. Nhiễm trùng do virus herpes
  3. Ảnh minh họa Nhiễm trùng do virus herpes gây ảnh hưởng chủ yếu đến thai nhi hơn là người mẹ. Nó có thể lây truyền qua đường tình dục và lây từ mẹ sang con. Những người lớn bị nhiễm trùng do virus herpes thường không có triệu chứng gì, trong khi đó thai nhi bị lây nhiễm từ mẹ có nguy cơ bị dị dạng cao, chẳng hạn như chậm phát triển, động kinh, liệt não, mù hoặc điếc. Bệnh rubella Phơi nhiễm virus rubella trong thời gian mang thai gây ra các nguy cơ trầm trọng đối với sự phát triển của thai nhi, đặc biệt là ở 3 tháng đầu: phát triển chậm, các dị thường ở nhiễm săc thể mù, điếc, tổn thương não, các tổn thương ở tim. Bất kỳ phụ nữ nào có dự định mang thai và chưa từng bị rubella cũng cần tiêm ngừa trước khi có thai.
  4. Bệnh toxoplasma Ảnh minh họa Bệnh toxoplasma bắt nguồn từ ký sinh trùng toxoplasma có trong thịt nấu chưa chín và phân động vật. Mèo là nguồn chính gây nhiễm bệnh toxoplasma cho con người. Nhưng người bị nhiễm bệnh này thường có ít triệu chứng, trong khi đó thai nhi nhiễm bệnh có thể bị hỏng não, hoặc chêt lưu. Sulfasiazine một loại thuốc nhóm sunfonamide có thể được sử dụng mà không gây hại đến thai nhi, để điều trị bệnh này trước khi sinh hai tháng. Tiền sản giật và sản giật Phụ nữ mang thai bị tiền sản giật hay “nhiễm độc huyết” sẽ bị tăng huyết áp, phù. Các triệu chứng của bệnh này thường từ mức độ nhẹ (phù tư chi) đến nặng (co giật và tử vong). Nhiễm độc huyết nặng được gọi là sản giật. Nguyên nhân chính xác gây ra nhiễm độc huyết hiện vẫn chưa được biêt, tuy
  5. nhiên dinh dưỡng không đầy đủ có thể là một phần nguyên nhân. Sảy thai Đa số những trường hợp sảy thai này xuất hiện ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Những dị thường ở nhiễm săc thể và mang thai khi tuổi đã cao (trên 35 tuổi) là những nguyên nhân chính dẫn đến việc sảy thai. Sinh non Trẻ sinh non nặng dưới 2,5kg và được sinh ra khi thai ít hơn 36 tuần tuổi. Mặc dù những nguyên nhân gây ra việc sinh non vẫn chưa được biết, nhưng sinh non có thể liên quan đến chế độ ăn uống thiếu thốn, sử dụng rượu và thuốc khi mang thai, hút thuốc lá thiếu sư chăm sóc trước khi sinh hay có tiền sư sảy thai trước đó. Trẻ sinh non thường gặp các vấn đề xuất huyết, gặp khó khăn khi thở, bú sữa và tiêu hóa. Những vân đề này thường mất đi khi đứa trẻ tăng cân. Kiểm tra để phát hiện những bất thường khi mang thai
  6. Ảnh minh họa Một số phương pháp chẩn đoán có thể kiểm tra xem bào thai có khả năng bị các dị tật hay khiếm khuyết nào không. Siêu âm đặc biệt hữu dụng trong việc chẩn đoán các rối loạn trước khi sinh, theo dõi nhịp tim của thai nhi và biết trước được giới tính của thai. Các kiểm tra bằng việc chọc ối giúp biết xem có sự nhiễm trùng bào thai hay các dị thường về nhiễm sắc thể hay không. Phương pháp chọc ối thường được thực hiện khi thai được khoảng 15 tuần tuổi. Phương pháp này cho phép cha mẹ có đủ thời gian để quyết định xem có giữ thai lại cho đến khi sinh nếu như thai có những khuyết tật nặng hay không. Kết quả kiểm tra bằng phương pháp này thường có trong vòng từ 3-4 tuần. Nguy cơ gây sảy thai do chọc ối ít hơn 1%.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2