Những bước thăng trầm trong quan hệ Indonesia - Việt Nam trên lĩnh vực an ninh chính trị (1964-1991)
lượt xem 3
download
Quan hệ Indonesia - Việt Nam (1964-2010) là mối quan hệ láng giềng, trải qua những bước thăng trầm đáng kể trên lĩnh vực an ninh chính trị trong lịch sử quan hệ ngoại giao hai nước. Tuy ở vào những thời điểm khó khăn nhất Indonesia vẫn giữ quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Những bước thăng trầm trong quan hệ Indonesia - Việt Nam trên lĩnh vực an ninh chính trị (1964-1991)
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Science Sci., 2011, Vol. 56, No. 8, pp. 111-115 NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM TRONG QUAN HỆ INDONESIA - VIỆT NAM TRÊN LĨNH VỰC AN NINH CHÍNH TRỊ (1964-1991) Lê Thị Liên Trường Đại học An Giang E-mail: lelien4580@yahoo.com Tóm tắt. Quan hệ Indonesia - Việt Nam (1964-2010) là mối quan hệ láng giềng, trải qua những bước thăng trầm đáng kể trên lĩnh vực an ninh chính trị trong lịch sử quan hệ ngoại giao hai nước. Tuy ở vào những thời điểm khó khăn nhất Indonesia vẫn giữ quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ Chiến tranh lạnh. Điều này hoàn toàn củng cố niềm tin của Việt Nam đối với Indonesia và ngược lại, Indonesia cũng thể hiện sự tin tưởng sâu sắc vào Việt Nam trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”. Việc “vấn đề Campuchia” được giải quyết đã mở ra một điều kiện thuận lợi cho hai nhóm nước trong khu vực đến với nhau. Qua đó, vai trò của Indonesia ngày càng được củng cố trong khu vực và nâng cao trên trường quốc tế. 1. Mở đầu Cuối những năm 60 và suốt thập niên 70 của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn cao trào, sự đối đầu căng thẳng giữa hai phe TBCN và XHCN đã biến Đông Nam Á trở thành một trong những điểm nóng trong quan hệ quốc tế. Sự tranh giành ảnh hưởng của hai cường quốc Xô - Mỹ đã biến bán đảo Đông Dương thành nơi mà hai bên đều muốn tỏ rõ sức mạnh quân sự của mình. Theo đó, các nước Đông Nam Á cũng chia làm hai phe, tạo nên một mâu thuẫn lớn ngay chính trong khu vực, thể hiện rõ sự chi phối giữa hai khối Đông - Tây trong quan hệ quốc tế, ASEAN và Đông Dương là đại diện cho mâu thuẫn đó. Từ đó, quan hệ Indonesia - Việt Nam cũng bị tác động và bước vào những thăng trầm đáng kể (1964-1991). 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Bước khởi đầu: quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ (1964-1965) Chính phủ Indonesia cùng với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định nâng mối quan hệ hai nước từ hàng Tổng lãnh sự lên cấp Đại sứ quán (10-8- 1964). Đây là việc làm của một người bạn tốt, thuỷ chung và thể hiện niềm tin sâu 111
- Lê Thị Liên sắc đối với Việt Nam trong lúc Việt Nam gặp cảnh khó khăn. Hơn nữa, Chính phủ Indonesia cắt quan hệ ngoại giao với Chính quyền Sài Gòn cũng là sự thể hiện hết lòng ủng hộ của Chính phủ Indonesia đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ủng hộ này đã góp phần đưa mối quan hệ hai nước lên tới đỉnh cao của tình đoàn kết trên mặt trận chống chủ nghĩa đế quốc thực dân vì độc lập dân tộc. Năm 1965, nhiều tổ chức phụ nữ, thanh niên, sinh viên, công nhân ở các nhà máy xí nghiệp kéo đến Lãnh sự quán Mỹ (Jakarta) để phản đối đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam [2]. Chính phủ và nhân dân Việt Nam rất cảm kích khi nhận được sự đồng tình ủng hộ của Chính phủ và nhân dân Indonesia đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Càng xúc động hơn nữa khi Hội những nhà khoa học Indonesia cũng quan tâm và bày tỏ quan điểm của mình là cực lực lên án mọi hình thức lạm dụng khoa học mà bọn đế quốc Mỹ đã làm trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu của chúng ở Việt Nam và đòi Chính phủ Mỹ chấm dứt ngay hành động can thiệp đó [3]. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Indonesia đấu tranh chống lại sự can thiệp và lật đổ của nước ngoài, giải phóng Tây Irian, đồng thời “đập tan Malaysia” tiến tới xây dựng đất nước. Để tỏ rõ thiện chí của Việt Nam trong buổi đầu thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ, Chính phủ Việt Nam đã có chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (4-1965), Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đến Indonesia. Tuy cuộc đảo chính ngày 30-9-1965 ở Indonesia bất thành nhưng đã đưa đến thời kỳ “Trật tự mới” với sự nắm quyền của tướng Suharto với những thay đổi quan trọng trong chính sách đối nội và đối ngoại. Những thay đổi này đã tác động không nhỏ và làm cho quan hệ Indonesia - Việt Nam trở nên trầm lắng trong gần một thập kỷ sau đó. 2.2. Thời kỳ trầm lắng trong quan hệ hai nước (1966-1974) Sau khi Tổng thống Suharto lên nắm chính quyền, Chính phủ và nhân dân Việt Nam không còn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của Chính phủ Indonesia như thời Tổng thống Sukarno nữa. Đây chính là “nốt trầm” chủ đạo của quan hệ hai nước trong gần suốt thập kỷ đầu tiên của chế độ mới này (1966-1974). Chính phủ Suharto hướng tới ủng hộ và muốn nối lại quan hệ ngoại giao với Chính quyền Sài Gòn đã bị cắt đứt từ năm 1964, trục xuất những người ở Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam đang làm nhiệm vụ ở Jakarta, giữ khoảng cách nhất định với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (dẫn theo [4;135-136]). Mặc dù có những hành động thiếu thiện chí đối với Việt Nam nhưng Chính phủ Indonesia vẫn duy trì chính sách ngoại giao “độc lập” và “tích cực”, không lệ thuộc vào bất cứ một quốc gia nào, do đó Indonesia là nước duy nhất trong ASEAN không tiếp tay với đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Hơn thế nữa, một bộ phận quan chức trong Chính phủ và nhân dân Indonesia, cũng bày tỏ sự cảm thông cũng như công khai ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam [4;130-150]. Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết (27-1-1973), chiến tranh Việt Nam 112
- Những bước thăng trầm trong quan hệ Indonesia - Việt Nam... đi vào giai đoạn kết thúc, Indonesia là một trong những nước nằm trong Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế, tích cực ủng hộ việc Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Phía Việt Nam cũng tỏ thiện chí với Indonesia, cử đại sứ Nguyễn Hoà đến Jakarta nhận nhiệm vụ (9-1973) [1;108]. 2.3. Quá trình cải thiện quan hệ (1975-1978) Cuộc chiến ở Đông Dương kết thúc (1975) mở ra những cơ hội thuận lợi hơn nữa cho việc phát triển quan hệ thân thiện và hợp tác giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á nói chung, giữa Indonesia và Việt Nam nói riêng. Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam công bố chính sách bốn điểm là Việt Nam sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác về mọi mặt với tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á. Từ đây, mối quan hệ hữu nghị giữa Indonesia và Việt Nam đã thật sự nồng ấm trở lại sau thời kỳ trầm lắng. Do vậy, các cuộc thăm viếng lẫn nhau của các đoàn đại biểu giữa hai nước bắt đầu được tăng cường hơn. Biểu hiện rõ nhất cho tình hữu nghị này là đặc phái viên của Thủ tướng Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền (7-1976), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (cuối 1977 đầu 1978) dẫn đầu sang thăm các nước thành viên ASEAN, trong đó có Indonesia. Có thể nói, đây là cuộc đối thoại trực tiếp giữa Việt Nam với các nước ASEAN, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ giữa các bên, việc nối lại tình hữu nghị nồng thắm giữa Indonesia và Việt Nam là điều cần thiết. Đỉnh cao trong những nỗ lực của Việt Nam để phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác và thân thiện với các nước trong khu vực là chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm Indonesia (9-1978). Như vậy, chính sách ngoại giao và những hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1975-1978 đối với các thành viên ASEAN nói chung, Indonesia nói riêng đã tạo ra bước chuyển biến tốt đẹp, bước sang xu thế cải thiện. Tuy nhiên, sự cải thiện này chưa được bao lâu thì ở Đông Nam Á lại xuất hiện luồng gió ngược chiều thổi tan đi những tình cảm tốt đẹp vừa mới tạo dựng xong, đó là “vấn đề Campuchia” xuất hiện. Chính những điều này đã làm cho mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN, trong đó có Indonesia bước vào giai đoạn thăng trầm trở lại trong hơn một thập kỷ (1979-1991). 2.4. Những bước thăng trầm mới trong quan hệ Indonesia - Việt Nam (1979-1991) Trong suốt thời gian từ năm 1980 đến năm 1986, Indonesia - Việt Nam vẫn có những đoàn thăm viếng qua lại lẫn nhau, chủ yếu là thăm dò động thái nhằm tiến tới giải pháp tốt đẹp cho “vấn đề Campuchia”. Bước khởi đầu đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong quan hệ an ninh chính trị giữa Indonesia và Việt Nam, được biểu hiện bằng các chuyến thăm của các cấp lãnh đạo hai nhà nước như Ngoại trưởng Indonesia Mochtar đến Việt Nam (1982); tướng Murdani dẫn đầu đoàn sang thăm Việt Nam (1984); Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch sang thăm Indonesia vào năm 1980, 1982 và 1984. Mặc dù còn nhiều bất đồng về quan điểm 113
- Lê Thị Liên nhưng cuộc trao đổi giữa hai bên đã tiến hành trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau hợp tác để giải quyết ổn thoả vấn đề an ninh trong khu vực. Năm 1985 đã đánh dấu sự chuyển biến tích cực hơn trong quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN nói chung, với Indonesia nói riêng. Một biểu hiện cho động thái quan trọng này là tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 18 họp tại Thái Lan (tháng 2-1985), các nước ASEAN đã nhất trí cử Indonesia làm đại diện, “đối thoại” trực tiếp với Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”. Sự kiện này đã mở ra xu hướng đối thoại giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương, thông qua vai trò hoà giải trung gian của Indonesia và Việt Nam. Thêm một sự kiện nữa, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Đông Dương (8-1985), Việt Nam bày tỏ thiện chí của mình bằng hành động đơn phương rút quân tình nguyện ở Campuchia về nước và tuyên bố sẽ rút hết quân vào năm 1990, nếu có giải pháp sẽ rút sớm hơn. Hai sự kiện lịch sử đó cùng diễn ra vào năm 1985, điều này không chỉ có ý nghĩa đối với lợi ích của mối quan hệ Indonesia và Việt Nam mà còn vì lợi ích đến an ninh khu vực. Cũng từ thời điểm đó, Indonesia đã chủ động liên hệ riêng với Việt Nam để thảo luận “vấn đề Campuchia” và hai nước đã có những biểu hiện tích cực bằng việc thông qua các cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo hai bên. Với vai trò và trọng trách của mình, Indonesia tiếp tục kiên trì vận động mở những cuộc hội đàm không chính thức với Việt Nam để giải quyết “vấn đề Campuchia”. Trong quá trình Indonesia cùng với Việt Nam tìm cách hoà giải, xoa dịu sự căng thẳng giữa hai nhóm nước, có thể ví hai nước là hai đầu dây kéo hai nhóm nước ở Đông Nam Á xích lại gần nhau. Mặc dù cuộc đối thoại giữa hai nhóm nước chưa đạt được một kết quả đáng kể nào do còn nghi ngờ, thiếu thông cảm với nhau, song đã bớt căng thẳng hơn trước. Bắt đầu từ năm 1987, quan hệ Indonesia và Việt Nam đã có những bước phát triển mới vượt xa so với quan hệ giữa các nước ASEAN khác với Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đánh giá rất cao những đóng góp tích cực của Indonesia trong việc duy trì hoà bình an ninh ở khu vực. Vào năm 1988, Indonesia đưa ra sáng kiến “tiệc rượu” để tạo điều kiện cho các bên có liên quan ngồi vào bàn đàm phán giải quyết “ vấn đề Campuchia” theo xu hướng hoà dịu. Kết quả là các cuộc Hội nghị không chính thức đã được tổ chức ở Jakarta (Indonesia) như JIM-1 (7-1988); JIM-2 (2-1989) và IMC (2-1990), tạo diễn đàn cho các nước ASEAN, Đông Dương trực tiếp đối thoại với nhau. Với vị trí của mình, Indonesia tỏ ra là vai trò trụ cột trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”, thông qua đó Indonesia cũng muốn nâng cao vị thế của mình hơn trong khu vực và trên trường quốc tế. Sự chia rẽ và hoài nghi về việc cải thiện quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương vẫn còn là nỗi ám ảnh và bao trùm các nước trong khu vực, do vậy chuyến thăm của Tổng thống Indonesia Suharto, vị nguyên thủ đầu tiên đại diện cho các quốc gia ASEAN, đến Việt Nam vào tháng 11-1990 có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có thể nói, đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của Tổng thống Suharto kể từ khi ngài lên nhậm chức và là vị nguyên thủ đầu tiên của một nước trong ASEAN đến thăm Việt Nam, cho nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan hệ hai nước nói riêng, Việt Nam với ASEAN nói chung. Kết quả của chuyến thăm này đã mở ra giai đoạn mới trong quan hệ Indonesia và Việt Nam, góp phần 114
- Những bước thăng trầm trong quan hệ Indonesia - Việt Nam... đẩy lùi một bước quan trọng chính sách bao vây cô lập Việt Nam, quan hệ của Việt Nam với các nước khác, đồng thời vị thế của Indonesia cũng được nâng cao trên trường quốc tế. Như vậy, trải qua nhiều bước thăng trầm đáng kể trong quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực, cùng với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, Hiệp định hoà bình về Campuchia được ký kết (tháng 10-1991). Sự kiện này đánh dấu sự chấm dứt khủng hoảng ở Campuchia, sự chia rẽ nội bộ, đối đầu giữa hai nhóm nước trong khu vực, đồng thời mở ra thời kỳ mới, hợp tác và phát triển các quốc gia Đông Nam Á. 3. Kết luận Quan hệ giữa Indonesia và Việt Nam (1964-1991) là mối quan hệ hữu nghị, trải qua những bước thăng trầm đáng kể trong lịch sử quan hệ ngoại giao hai nước. Tuy nhiên, những vấn đề tồn tại giữa Việt Nam và Indonesia cũng như các nước ASEAN đã dần dần được giải quyết có hiệu quả bằng thái độ thiện chí và hiểu biết lẫn nhau, trong đó Indonesia và Việt Nam đóng vai trò là chiếc cầu nối cho hai nhóm nước trong khu vực đến với nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Hoàng An, 2004. Nền ngoại giao Indonesia (đề tài nghiên cứu). Jakarta, Indonesia. [2] Phòng Lưu trữ, Bộ Ngoại giao Việt Nam, 1964. Nâng quan hệ ngoại giao Việt Nam - Indonesia lên hàng Đại sứ. Phông Á châu III, Hồ sơ số 127, Hà Nội. [3] Phòng Lưu trữ, Bộ Ngoại giao Việt Nam, 1965. Việt Nam - Indonesia ủng hộ lẫn nhau. Phông Á châu III, Hồ sơ số 131, Hà Nội. [4] Franklin B. Weinstein, 1976. Indonesian foreign policy and the dilemma of inde- pendence from Sukarno to Soeharto. Cornell University Press, Ithaca and London. ABSTRACT Rise and fall in Indonesia - Vietnam relations on political and secure areas (1964-2010) Indonesia and Vietnam have enjoyed close neighbour relationships, experi- enced the considerable rise and fall in political and secure areas, for the long period of diplomatic history between the two countries. However, in the most difficult times, Indonesia still kept the relationship with Viet Nam, especially in the Cold War pe- riod. This built up the trust in Indonesia and in contrast, Indonesia’s complete trust in Vietnam assisting with the solutions of the “Cambodian problem”. Solving the “Cambodian problem” is a good condition for the cooperation between the two countries and increases the Indonesia’s position in the world. 115
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Lý thuyết trung bình về xã hội học
5 p | 163 | 43
-
bí mật thành phố hoa Đà lạt
403 p | 48 | 11
-
Tính nhất quán - đa dạng trong nghiên cứu, phê bình văn học của Lê Đình Kỵ
10 p | 79 | 4
-
Ban Thống nhất Trung ương với việc tiếp nhận hàng viện trợ từ các nước cho miền Nam trong giai đoạn chống Chiến lược Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965-1968)
7 p | 69 | 3
-
Những nhân tố tác động đến quan hệ Mỹ - Cuba giai đoạn 1991-2008
9 p | 68 | 3
-
Ebook Văn kiện Đảng bộ tỉnh Sơn La (1939-1963): Phần 2 (Tập 1)
455 p | 9 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn