intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những con đường hình thành và một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

71
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xuất phát từ nguồn gốc của các yếu tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, bài viết mong muốn khái quát những con đường hình thành nên các đơn vị của hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt từ từ ngữ thông thường tiếng Việt, từ ngữ của các ngành khoa học khác và từ sự vay mượn tiếng nước ngoài. Qua đó, đặt ra các vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những con đường hình thành và một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài

LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> NHỮNG CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH<br /> VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý<br /> KHI DẠY THUẬT NGỮ QUÂN SỰ TIẾNG VIỆT<br /> CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI<br /> TRẦN THỊ HÀ*<br /> Học viện Khoa học Quân sự, ✉ tranhahvkhqs@gmail.com<br /> *<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 30/9/2017; ngày hoàn thiện: 18/10/2017; ngày duyệt đăng: 15/11/2017<br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thuật ngữ quân sự tiếng Việt là lớp từ vựng chuyên biệt nằm trong hệ thống ngôn ngữ toàn dân.<br /> Thuật ngữ quân sự được hình thành trên cơ sở từ vựng từ nhiều nguồn khác nhau. Xuất phát từ<br /> nguồn gốc của các yếu tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, bài viết mong muốn khái quát những con<br /> đường hình thành nên các đơn vị của hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt từ từ ngữ thông thường tiếng<br /> Việt, từ ngữ của các ngành khoa học khác và từ sự vay mượn tiếng nước ngoài. Qua đó, đặt ra các<br /> vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài.<br /> Từ khóa: con đường hình thành, học viên quân sự nước ngoài, thuật ngữ quân sự, tiếng Việt<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu thuật ngữ được đặt ra ở Việt Nam<br /> từ đầu thế kỉ XX với sự mở đầu của tác giả Hoàng<br /> Nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới được gắn Xuân Hãn trong cuốn “Danh từ khoa học”. Cuốn<br /> liền với tên tuổi của các nhà nghiên cứu như sách là bảng tổng kết cách thức xây dựng thuật<br /> CarlvonLinne (1736), Beckmann (1780), A.L. ngữ dựa vào từ thông thường, mượn từ tiếng Hán<br /> Lavoisier, G.de Morveau, M. Berthellot, A.F.de và phiên âm từ ngôn ngữ Ấn-Âu. Tiếp theo, “Vào<br /> Fourcoy (1789). Tuy vậy, phải đến đầu thế kỉ XX, cuối thập kỉ 60, đầu thập kỉ 70, tổ thuật ngữ thuộc<br /> việc nghiên cứu thuật ngữ mới có tính chuyên sâu Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước … đã tổ chức<br /> và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của ngôn biên soạn một loạt các từ điển đối dịch thuật ngữ<br /> ngữ nói riêng và các mặt xã hội nói chung. Đầu cho hầu hết các ngành khoa học tự nhiên, khoa<br /> thế kỉ XX, đi đầu trong lĩnh vực thuật ngữ là các học kĩ thuật và khoa học xã hội” (Chu Thị Bích<br /> nhà khoa học Liên Xô cũ với những công trình của Thu, 2001, tr.20). Đây là công sức của rất nhiều<br /> A.A. Rêfformatxkiy, N.P. Cudơkin, G.O. Vinôcua, nhà khoa học ở miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ.<br /> V.V. Vinôgrađôp…. Các tác giả này thường tập “Những cuốn từ điển này có vai trò lịch sử rất quan<br /> trung chú ý chủ yếu vào chức năng của thuật ngữ, trọng… đánh dấu một giai đoạn, một quá trình phát<br /> quan hệ giữa thuật ngữ với khái niệm để tìm bản triển và bước đầu hoà nhập của khoa học Việt Nam<br /> chất của thuật ngữ…. với khoa học quốc tế, đồng thời góp phần chuẩn<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 10 - 11/2017 11<br /> v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ<br /> <br /> <br /> hoá thuật ngữ … phản ánh không khí sôi nổi của Đào Thị Luyến xây dựng một số cuốn giáo trình<br /> công việc chuẩn hoá thuật ngữ, chuẩn hoá tiếng về thuật ngữ quân sự tiếng Việt, song chỉ dùng lưu<br /> Việt cuối thập kỉ 60, đầu thập kỉ 70” (Chu Thị Bích hành trong nội bộ Học viện Khoa học Quân sự.<br /> Thu, 2001, tr.21). Theo Hà Quang Năng “Trải qua<br /> hơn nửa thế kỉ, thuật ngữ tiếng Việt đã có những Nhìn tổng quan quá trình nghiên cứu về thuật<br /> bước phát triển nhanh chóng về số lượng. Đáng ngữ ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy những công<br /> chú ý hơn, bên cạnh mặt số lượng, thuật ngữ tiếng trình kể trên hoặc mới chỉ dừng lại ở mảng lí luận<br /> Việt đã thay đổi cả về chất” (Hà Quang Năng, chung hoặc xem xét thuật ngữ khoa học kĩ thuật<br /> 2010, tr.2). Tiếp theo, hầu hết các nhà nghiên trên những ngữ liệu cụ thể nhưng vẫn mới chỉ<br /> cứu ở Việt Nam đều mặc nhiên thừa nhận, thuật dừng lại ở sự phát triển và đặc điểm của thuật ngữ<br /> ngữ nói chung và thuật ngữ quân sự nói riêng là như một bộ phận của ngôn ngữ toàn dân. Như vậy,<br /> một bộ phận hữu cơ của ngôn ngữ văn hóa toàn diện mạo hệ thống từ vựng này vẫn còn nhiều khía<br /> dân. Các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, cạnh cụ thể cần bàn luận. Nói cách khác nếu xem<br /> Mai Ngọc Chừ, Bùi Minh Toán, Đỗ Việt Hùng, thuật ngữ quân sự là một bộ phận của ngôn ngữ<br /> Nguyễn Thị Ngân Hoa… đều xem thuật ngữ là hệ toàn dân thì những đặc điểm về các bình diện kết<br /> thống từ ngữ đơn phong cách. Sự phát triển của học, nghĩa học của nó vẫn còn là mảnh đất chưa<br /> thuật ngữ gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính được khai phá kỹ lưỡng. Chúng tôi nhận thức<br /> trị, xã hội của Việt Nam. Đó là hệ thống từ ngữ rằng, những công trình nghiên cứu vừa kể trên sẽ<br /> “bảo thủ” về nghĩa, mỗi từ là một “cái nhãn” dán là những tiền đề lí luận bổ ích cho quá trình nghiên<br /> lên sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan cứu của mình về thuật ngữ quân sự tiếng Việt.<br /> (Đỗ Hữu Châu, 2007, tr.222). Các từ này xét về<br /> Trong bài viết này, trên cơ sở kế thừa thành<br /> mặt cấu tạo, ngữ nghĩa và nguồn gốc, ngoài những<br /> quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước,<br /> đặc điểm loại biệt ra đều không nằm ngoài qui<br /> ứng dụng vào nghiên cứu một lớp thuật ngữ mang<br /> luật vận động phát triển của ngôn ngữ toàn dân,<br /> tính đặc thù, chúng tôi phân tích, lý giải và trình<br /> nhưng xét ở phạm vi sử dụng thì chúng là những<br /> bày những con đường hình thành nên thuật ngữ<br /> từ có ngoại diên hẹp và nội hàm khá trừu tượng.<br /> quân sự tiếng Việt. Hy vọng những kiến giải trong<br /> Trong những thập niên gần đây, một số nhà bài báo sẽ góp phần làm phong phú hệ thống lý<br /> Việt ngữ học đã nghiên cứu về thuật ngữ như: Đỗ luận về thuật ngữ quân sự, cũng như cung cấp<br /> Hữu Châu, Nguyễn Đức Tồn, Hoàng Văn Hành…, thêm những nguồn tư liệu, những đặc trưng ngữ<br /> từ đó đã mở đường cho nhiều luận án tiến sĩ, luận nghĩa của lớp từ vốn được xem là khoa học, trừu<br /> văn thạc sĩ nghiên cứu về thuật ngữ của nhiều tượng, khô khan, cứng nhắc – hệ thuật ngữ quân sự<br /> ngành khoa học. Về thuật ngữ quân sự, từ trước tiếng Việt trong việc dạy thuật ngữ quân sự tiếng<br /> đến nay mới chỉ có tác giả Vũ Quang Hào là người Việt cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện<br /> đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ cấu Khoa học Quân sự.<br /> tạo. Ông đã chỉ ra rằng “Ở đây chúng tôi qui mẫu<br /> 2. NỘI DUNG<br /> cấu tạo thuật ngữ quân sự căn cứ vào chính bản<br /> chất cấu thành. Làm như thế phần nào vừa mô tả 2.1. Các con đường hình thành thuật ngữ<br /> đúng bản chất của thuật ngữ, vừa chỉ ra được cái quân sự tiếng Việt<br /> mà công việc chỉnh lý thuật ngữ và cấu tạo thuật<br /> mới cần hướng vào” (Đỗ Hữu Châu, 2007, tr.90). 2.1.1. Thuật ngữ quân sự được hình thành từ<br /> Những đóng góp của ông trong đề tài là bước khởi các từ ngữ tiếng Việt thông thường<br /> đầu quan trọng cho việc nghiên cứu ứng dụng hệ<br /> thống lý luận ngôn ngữ vào xem xét một lĩnh vực Thuật ngữ quân sự và từ ngữ thông thường có<br /> từ vựng chuyên biệt. Tiếp sau đó, các tác giả Phạm rất nhiều điểm khác nhau về nội dung biểu niệm<br /> Ngọc Lại, Nguyễn Trọng Khánh, Nguyễn Thị Yến, và biểu vật. Từ ngữ thông thường được dùng rộng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 12 Số 10 - 11/2017<br /> LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v<br /> <br /> <br /> <br /> rãi trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, phản ánh phẳng, thường ở lưu vực những con sông lớn. Khi<br /> những khái niệm khác nhau, có khả năng sản sinh làm thuật ngữ quân sự, nó biểu thị khái niệm: địa<br /> từ ngữ phong phú do mang nhiều sắc thái ý nghĩa. hình trống trải, mang những thuộc tính chiến thuật<br /> Còn thuật ngữ quân sự chỉ biểu thị khái niệm và như việc ngụy trang, triển khai đội hình, sử dụng<br /> gọi tên sự vật trong khoa học quân sự. Tuy vậy, lực lượng phương tiện, kèm theo đó là các hình<br /> để làm phong phú thêm số lượng từ ngữ của mình thức thủ đoạn tác chiến cho phù hợp với đặc điểm<br /> trong lĩnh vực quân sự, ngôn ngữ đã tạo ra một qui địa hình (Cục khoa học Quân sự – Bộ Tổng tham<br /> luật hết sức năng động là sử dụng những từ ngữ mưu, 1985).<br /> tiếng Việt sẵn có trong vốn từ toàn dân để tạo thành<br /> thuật ngữ chuyên môn quân sự. Qua khảo sát 1700 Từ thành phố khi được sử dụng làm thuật ngữ<br /> thuật ngữ (Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự quân sự thì các nghĩa khái niệm thông thường như<br /> – Bộ Quốc phòng, 2004), chúng tôi thấy các thuật đơn vị hành chính, khu vực tập trung đông dân<br /> ngữ kiểu này hình thành từ hai con đường. cư, có sự phát triển cao về công nghiệp, thương<br /> mại, dịch vụ…, và phát triển mạnh hơn các vùng<br /> Một là, sử dụng y nguyên hình thức ngôn ngữ khác sẽ bị loại bỏ, thay vào đó là nghĩa khái niệm<br /> có sẵn trong ngôn ngữ thông thường nhưng thay hoàn toàn mới được nhìn từ góc độ quân sự: khu<br /> đổi nội dung biểu đạt của chúng. Cụ thể là giữ lại vực tác chiến có những thuộc tính nhất định về<br /> những nét nghĩa cần thiết phục vụ cho khái niệm địa bàn, sử dụng lực lượng phương tiện, triển khai<br /> quân sự hoặc chỉ giữ lại những khái niệm nào được đội hình, cách đánh (Cục khoa học Quân sự – Bộ<br /> nhận thức từ góc độ quân sự. Ví dụ: Các từ đồng Tổng tham mưu, 1985).<br /> bằng, miền núi, thành phố, bến phà, bắn… khi là<br /> từ ngữ thông thường phản ánh những sự vật, khái Hai là, kết hợp các đơn vị có sẵn trong vốn<br /> niệm không giống khi làm thuật ngữ quân sự. Bắn, từ toàn dân với nhau hoặc kết hợp với một yếu tố<br /> khi là từ ngữ thông thường, có các nghĩa biểu niệm, thuật ngữ để tạo thành thuật ngữ quân sự. Những<br /> biểu vật sau: 1. Phóng mũi tên hoặc viên đá, đất, đơn vị kiểu này bao giờ cũng là các từ ghép. Ví<br /> vật gây nổ, vật gây cháy… ra khỏi dụng cụ như ná, dụ: bãi, cụm, điểm, đoạn, nhóm… là các đơn vị có<br /> cung nỏ, giàn phóng… bằng lực đẩy. Bắn tên. Bắn sẵn trong ngôn ngữ, chúng chưa phải là thuật ngữ<br /> ná thun. Bắn đá vào cổng thành. 2. Phát hỏa từ các mà chỉ là yếu tố đi kèm với mìn, pháo binh, tựa,<br /> loại hỏa khí. Bắn súng ngắn. Bắn cối 82. Bắn tỉa. đột kích, chiến thuật… để tạo nên các thuật ngữ:<br /> 3. Văng hoặc bật ra. Nước bắn ra tung tóe. 4. Làm bãi mìn, cụm pháo binh, điểm tựa, đoạn đột kích,<br /> chuyển dời vật nặng bằng cách bẩy lên. Bắn bể nhóm chiến thuật (Trung tâm từ điển bách khoa<br /> nước ra góc sân. 5. Chuyển tiền, chuyển nợ sang Quân sự – Bộ Quốc phòng, 2004).<br /> tài khoản hoặc phần cho người khác. Bắn nợ sang<br /> bên A. 6. Kín đáo đưa tin cho đối tượng biết. Bắn 2.1.2. Thuật ngữ quân sự vay mượn từ các<br /> tin cho nhà gái biết. 7. Dùng tiền bạc để lo lót, hối ngành khoa học khác<br /> lộ. Cứ bắn mạnh vào thì mới được việc (Hoàng<br /> Phê, chủ biên, 1988). Khi chuyển thành thuật ngữ Khoa học quân sự là khoa học mang tính tổng<br /> quân sự, “bắn” chỉ còn lại duy nhất một nghĩa là: hợp cao vì nó nghiên cứu, phân tích một hiện<br /> phát hỏa từ các loại hỏa khí, do đó, những kết hợp tượng cực kỳ phức tạp mà biểu hiện đặc trưng nhất<br /> kiểu như từ thông thường ở các ví dụ thuộc nghĩa là đấu tranh vũ trang. Khi nghiên cứu hiện tượng<br /> 1, 3, 4, 5, 6, 7 dẫn trên đây không thể tồn tại được. này, khoa học quân sự phải vận dụng nhiều tri thức<br /> và phương pháp của các ngành khoa học khác như<br /> Đồng bằng, khi là từ ngữ thông thường, biểu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ<br /> thị những đặc trưng chung nhất, trực quan nhất đối thuật…. Vì vậy để tích hợp từ ngữ cho mình, khoa<br /> với mọi người trong xã hội: là nơi đất thấp, bằng học quân sự ngoài việc tiếp thu những thành tựu<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 10 - 11/2017 13<br /> v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ<br /> <br /> <br /> của các khoa học liên ngành còn dùng luôn các chống lại nhau…. Vay mượn do nhu cầu phải đặt<br /> thuật ngữ của các ngành khác làm thuật ngữ của tên sự vật hiện tượng mới mà tiếng Việt chưa có<br /> mình. Ví dụ: hóa học, hợp chất, phốt pho, chất tên, chẳng hạn như độc lập, tự do, thủ phạm, hình<br /> cháy, chất lỏng, phương tiện vận tải, công trình, sự, cộng sản, cường độ, anh hùng…. Vay mượn<br /> hạn ngạch, cấu kiện, độ bền, nhân cách, tình cảm… để thay thế, đảm bảo sự gọn gàng cho thuật ngữ.<br /> Dùng phi tài sản thay cho không có tính chất tài<br /> Ngày nay, cùng với những tiến bộ của khoa sản, phi quân sự thay cho không có tính chất quân<br /> học kỹ thuật, việc ứng dụng những thành tựu sự, phi pháp thay cho trái pháp luật, phi lộ thay<br /> khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực quân sự ngày càng cho lời trình bày mở đầu (dọn đường).<br /> nhiều. Bởi vậy ngày càng có nhiều thuật ngữ của<br /> các ngành chuyên môn khoa học khác được tiếp Yếu tố Hán-Việt chiếm số lượng lớn nhất<br /> nhận vào hệ thuật ngữ quân sự. Chính vì vậy mà (1845) chiếm 99, 8 % trong cấu tạo 1700 thuật<br /> thuật ngữ quân sự luôn mang tính tổng hợp cao. ngữ quân sự tiếng Việt (Trung tâm từ điển bách<br /> Nhưng cũng phải khẳng định rằng, khoa học quân khoa Quân sự – Bộ Quốc phòng, 2004). Chúng<br /> sự là khoa học xã hội nên số lượng thuật ngữ thuộc làm nên bộ mặt cơ bản của hệ thuật ngữ quân sự<br /> các ngành khoa học xã hội vẫn chiếm tỉ lệ cao. tiếng Việt. Thuật ngữ do các yếu tố này tạo thành<br /> mang những đặc điểm lý tưởng, có nhiều ưu điểm<br /> 2.1.3. Thuật ngữ quân sự được hình thành từ nhất, đáp ứng tiêu chuẩn của thuật ngữ. Các yếu tố<br /> sự vay mượn tiếng nước ngoài Hán-Việt được chia thành 2 loại lớn, loại có khả<br /> năng kết hợp trực tiếp với nhau để tạo ra thuật ngữ<br /> Vay mượn yếu tố Hán-Việt và loại chỉ là thành tố của từ ghép hoặc cụm từ<br /> thuật ngữ.<br /> Từ gốc Hán là những từ vốn của tiếng Hán<br /> nhưng được người Việt mượn để dùng như tiếng Vay mượn yếu tố Hán làm phong phú thêm<br /> Việt. Khi vào tiếng Việt những từ này được đọc thuật ngữ diễn ra bằng nhiều con đường, nhiều<br /> theo âm của tiếng Việt và được hiểu theo cách của nguyên nhân. Cách vay mượn cũng diễn ra theo<br /> người Việt nên gọi là từ Hán-Việt. Lúc đầu từ gốc những phương thức khác nhau. Mượn y nguyên<br /> Hán vào Việt Nam bằng con đường khẩu ngữ, đến thuật ngữ Hán nhưng đọc theo âm Hán-Việt: trực<br /> đời Đường thì bằng cả khẩu ngữ lẫn sách vở. Yếu thăng, phi cơ, không phận, hải phận…. Mượn ý rồi<br /> tố Hán-Việt là những từ tố trong từ vựng của tiếng chuyển dịch sang tiếng Việt. Những từ vay mượn<br /> Hán được người Việt mượn để cấu tạo nên những bằng phương thức này thường là những từ có từ<br /> từ mới như: thể công, thúc bách, sản xuất, pháo hai âm tiết trở lên: trực thăng = lên thẳng; hỏa xa<br /> tép, hình mẫu, vô ích, vô bổ…. = xe lửa; phi cơ = máy bay; phi trường = sân bay;<br /> hồng thập tự = chữ thập đỏ; không phận = vùng<br /> Vay mượn là hiện tượng ngôn ngữ phổ biến trời; tu chính chủ nghĩa = chủ nghĩa xét lại; hỏa<br /> đối với những dân tộc, có những mối quan hệ nhất đầu quân = chiến sĩ nuôi quân…. Mượn từ tố Hán-<br /> định với nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã Việt để cấu tạo từ. Đây là phương thức rất phổ biến,<br /> hội... Sự vay mượn diễn ra theo những qui tắc, thường diễn ra trong cấu tạo thuật ngữ khoa học.<br /> những nguyên nhân bên ngoài và bên trong. Ở đây Trong khi cấu tạo thuật ngữ quân sự tiếng Việt, yếu<br /> chúng tôi chỉ đề cập đến những nguyên nhân bên tố Hán-Việt vẫn mang sắc thái ý nghĩa của nó. Vị<br /> trong bản thân ngôn ngữ của lĩnh vực quân sự. Vay trí của nó ở trong cấu tạo từ có thể đứng trước hoặc<br /> mượn do nhu cầu muốn chính xác hóa nội dung đứng sau yếu tố thuần Việt. Khi tách ra khỏi từ,<br /> khái niệm. Chẳng hạn, dùng đánh tao ngộ thì chính chúng ít có khả năng đứng độc lập, nhưng khi kết<br /> xác hơn đánh gặp gỡ, dùng tiền bối thì chính xác hợp với các từ tố khác để tạo thành từ, chúng lại<br /> hơn người trước, dùng mâu thuẫn chính xác hơn dễ trở thành hệ thống. Chẳng hạn, hóa trong quân<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 14 Số 10 - 11/2017<br /> LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v<br /> <br /> <br /> <br /> sự hóa, chiến tranh hóa, kế hoạch hóa, qui hoạch thể phân biệt nó với các thuật ngữ thuần Việt. Ví<br /> hóa; vô trong vô thừa nhận, vô trách nhiệm, vô dụ: bom, mìn, tăng, bi đông, boong ke, phốt pho….<br /> tổ chức…; phi trong phi quân sự, phi chính phủ, Các thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Đức lại được<br /> phi giới tuyến, phi chính trị…. Mượn từ tiếng Hán vay mượn chủ yếu từ lĩnh vực kỹ thuật quân sự.<br /> kết hợp với từ tiếng Việt để tạo ra từ mới có nghĩa Chẳng hạn, những thuật ngữ tercom, toornađô, la<br /> khái quát. Ví dụ: binh lính, giống nòi, lính chiến, de, được mượn từ tiếng Anh, các thuật ngữ lô cốt,<br /> súng trường, tàu hỏa, kịp thời…. Mượn ý và nghĩa gextapô mượn từ tiếng Đức…. Các thuật ngữ được<br /> của từ nhưng đọc theo âm Việt. Đây là những từ vay mượn từ tiếng Nga phần lớn được dịch nghĩa<br /> thường được gọi là từ Hán-Việt. Những từ này sang tiếng Việt, ví dụ: ổ đề kháng, phòng ngự gấp,<br /> khó có thể thay thế bằng từ thuần Việt vì nếu thay sóng xung động…. Khi mượn thuật ngữ gốc Ấn-<br /> thường phải giải thích dài dòng. Mặt khác chúng Âu, thuật ngữ quân sự, sử dụng nhiều phương thức<br /> cũng được dùng quen, và tồn tại trong tiếng Việt cấu tạo từ để các thuật ngữ phù hợp với qui luật<br /> một cách khá vững chắc. Chẳng hạn: tái sản xuất, ngữ âm ngữ nghĩa tiếng Việt. Đó có thể là phương<br /> độc lập, tích cực, tiêu cực, hệ quả, kết cấu, xung thức phiên âm các thuật ngữ có sẵn trong ngôn ngữ<br /> kích, chiến sĩ, cách mạng… Mượn từ Hán-Việt rồi Ấn-Âu như: na- pan, kê-pi, mooc-chi-ê, cac-bin,<br /> đổi trật tự theo ngữ pháp tiếng Việt. Ví dụ: chỉ huy sờ cút, đó cũng có thể là phương thức ghép một<br /> sở -> sở chỉ huy; cao điểm -> điểm cao; dân số -> yếu tố Ấn-Âu với từ ngữ có sẵn trong tiếng Việt:<br /> số dân; ảnh ảo -> ảo ảnh… bốt gác, bom ba càng, mìn chống tăng….<br /> <br /> Việc sử dụng yếu tố Hán-Việt để cấu tạo thuật Thuật ngữ quân sự được hình thành từ các yếu<br /> ngữ quân sự rõ ràng là điều cần thiết để đảm bảo tố có nguồn gốc hỗn hợp<br /> tính hệ thống, ngắn gọn, chính xác và tạo ra khả<br /> năng sản sinh của thuật ngữ. Đó là một qui luật tất Những thuật ngữ kiểu này có lẽ chiếm số<br /> yếu khách quan, là một hiện tượng xã hội phù hợp lượng nhiều nhất trong thuật ngữ quân sự, bởi qui<br /> với sự vận hành của ngôn ngữ. luật của nó tuân theo phương thức cấu tạo từ chủ<br /> yếu trong tiếng Việt là phương thức ghép. Ghép là<br /> Vay mượn yếu tố có nguồn gốc Ấn-Âu phương thức cấu tạo từ căn cứ vào số lượng hình<br /> vị cấu tạo nên từ. Đó là cách thức ngôn ngữ tác<br /> Dân tộc Việt Nam có một lịch sử đặc biệt, trải động vào hai hay nhiều hình vị, kết hợp chúng lại<br /> qua mấy nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại với nhau để cho ta các từ mới. Tiếng Việt có hai<br /> xâm, nhất là những cuộc kháng chiến chống Pháp loại từ ghép là ghép đẳng lập và ghép chính phụ.<br /> và chống Mỹ. Vì vậy, sự vay mượn hay tự giác Thuật ngữ quân sự cũng sử dụng hai phương thức<br /> tích hợp một cách tự nhiên những thuật ngữ Ấn- này. Về ngữ nghĩa, phương thức ghép đẳng lập tạo<br /> Âu vào thành phần của mình là điều hiển nhiên. ra những từ có nghĩa khái quát như co cụm, vây<br /> Trong quá trình đó, thuật ngữ quân sự đã nảy sinh giáp, chiến tuyến, phòng thủ, bao vây, chia cắt,<br /> nhiều nét sáng tạo độc đáo cả về số lượng lẫn cấp bậc, binh lính, đột phá…. Theo thống kê của<br /> chất lượng. Số lượng tăng nhanh một cách đáng chúng tôi, số lượng ghép đẳng lập trong thuật ngữ<br /> kể, còn chất lượng đã được Việt hóa cao độ cả về chiếm số lượng không nhiều (7 thuật ngữ, tương<br /> ngữ âm và chữ viết. Trong 1700 thuật ngữ quân đương 0,4%). Tuy vậy, số lượng từ ghép chính<br /> sự, có 8 yếu tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, chiếm phụ bao giờ cũng nhiều hơn, phổ biến hơn, bởi đặc<br /> 0,05% (Trung tâm từ điển bách khoa Quân sự – trưng ngữ nghĩa của các thành tố tham gia cấu tạo<br /> Bộ Quốc phòng, 2004). Các nguồn vay mượn chủ có khả năng sản sinh ngữ nghĩa và ngữ pháp lớn<br /> yếu là từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng hơn. Đây là loại thuật ngữ chiếm số lượng nhiều<br /> Đức…. Những thuật ngữ gốc Pháp được Việt hóa nhất 1550 /1700 thuật ngữ, tương đương 92,2%.<br /> cao đến mức, ngày nay nhiều người Việt khó có (Nguồn: Trung tâm từ điển bách khoa quân sự –<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 10 - 11/2017 15<br /> v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ<br /> <br /> <br /> Bộ Quốc phòng, 2004). Khi sử dụng phương thức thức lý luận ngôn ngữ học và cung cấp vốn từ về<br /> ghép để sản sinh từ ngữ, thuật ngữ quân sự thường thuật ngữ quân sự – một lớp từ vựng chuyên biệt<br /> kết hợp những yếu tố có sẵn kết hợp với yếu tố trong hệ thống từ vựng của tiếng Việt. Đây là một<br /> Hán- Việt: bao vây, co cụm, canh gác, binh lính… môn học khó đòi hỏi cả người dạy và người học<br /> hoặc yếu tố gốc Hán-Việt kết hợp với yếu tố Ấn- phải có kiến thức về khoa học quân sự.<br /> Âu như bãi mìn định hướng, ra-đa cảnh giới, trực<br /> thăng tìm diệt…. Thực tế, việc dạy và học thuật ngữ quân sự<br /> tiếng Việt đang gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt<br /> Điều đáng lưu ý trong phương thức ghép của việc dạy thuật ngữ quân sự đối với học viên quân<br /> thuật ngữ quân sự là ngoài cách ghép thông thường, sự nước ngoài.<br /> hệ thuật ngữ còn tồn tại phương thức ghép bậc hai.<br /> Ghép bậc hai là hai từ ghép đứng kề cận trên trục Thứ nhất, đội ngũ cán bộ giáo viên của khoa<br /> tuyến tính có thể tiếp tục liên kết lại với nhau để Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam tại Học viện<br /> tạo ra một đơn vị từ mới (Bùi Thị Thanh Lương, Khoa học Quân sự phần lớn được đào tạo từ các<br /> 2006, tr.80). Ví dụ: thủy quân lục chiến, dẫn chứng trường đại học bên ngoài quân đội với các chuyên<br /> chiến đấu, chiến tranh nhân dân, chiến tranh hạt ngành ngôn ngữ, văn hóa, phương pháp giảng dạy<br /> nhân, trực ban chiến đấu, sĩ quan chỉ huy….Trong tiếng Việt. Mặc dù họ đã được trang bị kiến thức<br /> khi ghép các yếu tố ngôn ngữ với nhau, cấu trúc quân sự qua các lớp đào tạo ngắn hạn, song có<br /> nội tại của thuật ngữ ngoài các thực từ còn thêm thể thấy kiến thức về lý luận quân sự và kiến thức<br /> các hư từ: yểm hộ bằng đường không, trang bị đúc kết từ các hoạt động thực tiễn quân sự còn<br /> theo biên chế, khả năng bảo vệ của xe tăng, sơ đồ hạn chế. Mặt khác, do đặc thù riêng, các chuyên<br /> báo cáo về địch, tính tích cực của phòng ngự, tính ngành quân sự đòi hỏi tính bảo mật cao, vì vậy, có<br /> chất ngụy trang của địa hình…. Do có những đặc rất nhiều thuật ngữ chỉ được sử dụng và diễn đạt ý<br /> điểm trên nên cấu tạo của thuật ngữ có xu hướng nghĩa trong nội bộ, không được phổ biến, sử dụng<br /> nghiêng về các cụm từ tự do, quan hệ giữa các rộng rãi.<br /> thành tố trong thuật ngữ lỏng lẻo hơn quan hệ giữa<br /> Thứ hai, về hệ thống giáo trình, tài liệu. Từ<br /> các thành tố trong từ ghép thông thường. Nhưng<br /> năm 2002, Học viện đã biên soạn và đưa vào sử<br /> chính đặc điểm này cũng tạo cho thuật ngữ một<br /> dụng cuốn giáo trình Thuật ngữ quân sự và chỉ<br /> ưu thế lớn là có khả năng sản sinh từ ngữ cao để<br /> dành riêng giảng dạy cho đối tượng học viên quân<br /> tạo ra những nhóm thuật ngữ có tính hệ thống. Ví<br /> sự Việt Nam. Tuy nhiên, do sự phát triển của đối<br /> dụ: chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân,<br /> tượng đào tạo và qua hơn 10 năm sử dụng, giáo<br /> chiến tranh hạt nhân, chiến tranh vùng Vịnh….<br /> trình bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cần thiết phải<br /> 2.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện cho phù hợp với<br /> ngữ quân sự cho học viên quân sự nước ngoài sự vận động, phát triển của thực tế ngôn ngữ và<br /> tại Học viện Khoa học Quân sự đáp ứng nhu cầu của đối tượng đào tạo. Năm 2014,<br /> hai cuốn giáo trình Thuật ngữ quân sự tiếng Việt<br /> 2.2.1. Thực trạng việc dạy thuật ngữ quân sự và Tiếng Việt quân sự được biên soạn dành riêng<br /> cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện cho đối tượng học viên quân sự nước ngoài. Có<br /> Khoa học Quân sự thể nói, hai cuốn giáo trình trên bước đầu đã khắc<br /> phục được tình trạng chỉ trang bị hệ thống lý luận<br /> Hiện nay, thuật ngữ quân sự là môn học cơ sở mà chưa đề cập, cung cấp và sử dụng các thuật ngữ<br /> ngành đối với nhóm ngành đào tạo ngoại ngữ quân quân sự theo hướng thực hành. Tuy nhiên, trong xu<br /> sự, nhóm thực hành tiếng và Việt Nam học (Học thế phát triển như vũ bão của quân sự trên thế giới<br /> viên quân sự nước ngoài) tại Học viện Khoa học như hiện nay, nhu cầu tìm hiểu về quân sự của đối<br /> Quân sự với mục đích nhằm cung cấp những kiến tượng học viên này càng ngày càng lớn. Số lượng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 16 Số 10 - 11/2017<br /> LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v<br /> <br /> <br /> <br /> giáo trình tiếng Việt quân sự như vậy là chưa đủ, + Có khả năng ứng xử phù hợp với những vấn<br /> phải nhanh chóng cập nhật thêm hệ thống tài liệu đề nhạy cảm trong hoạt động quân sự<br /> bổ trợ về thuật ngữ quân sự là vô cùng cần thiết.<br /> + Không ngừng học tập nâng cao kiến thức về<br /> Thứ ba, về học viên. Có rất nhiều vấn đề được quân sự<br /> đặt ra từ phía học viên:<br /> - Yêu cầu với người học:<br /> - Họ đến từ quân đội nhiều nước trên thế giới<br /> với rất nhiều các loại trình độ về tiếng Việt. Có + Có trình độ tiếng Việt C trở lên<br /> nhóm đối tượng chưa từng được tiếp xúc với tiếng<br /> Việt và văn hóa Việt Nam, có nhóm đã được đào + Có khả năng thông hiểu khái niệm quân sự<br /> tạo tại bản địa khoảng từ 3-6 tháng, có nhóm đã<br /> + Có khả năng tri nhận về sự vật hiện tượng<br /> được đào tạo cử nhân, thậm chí cả tiến sĩ ngôn<br /> trong lĩnh vực quân sự trên cơ sở văn hóa Việt Nam<br /> ngữ, song nhìn chung, kiến thức về tiếng Việt của<br /> họ chưa đáp ứng yêu cầu về nhiều mặt. - Nguyên tắc dạy và học:<br /> - Hệ thống cấu âm của mỗi học viên ở các đất + Đảm bảo tính hệ thống: Giáo trình cần được<br /> nước, các khu vực rất khác nhau, có ngôn ngữ xây dựng theo hệ thống kiến thức từ dễ đến khó, từ<br /> có thanh điệu, có ngôn ngữ không có thanh điệu đơn giản đến phức tạp.<br /> giống tiếng Việt. Do đó, việc phát âm của họ gặp<br /> rất nhiều khó khăn. + Đảm bảo tính cơ bản, chuyên sâu. Mỗi bài sẽ<br /> bắt đầu từ mục từ mới, cung cấp từ khó để học viên<br /> - Mục đích học tiếng Việt của mỗi học viên là ghi nhớ và thực hành, tiếp theo là các bài nghe,<br /> khác nhau. Việc học thuật ngữ quân sự tiếng Việt nói, đọc, viết. Đó là các dạng: dựa vào bài đọc để<br /> cũng do đó mà tùy thuộc vào nhu cầu và sự hứng trả lời câu hỏi, tìm nghĩa cho đoạn văn trong bài,<br /> thú của học viên. điền từ vào chỗ trống, tìm câu trả lời đúng, tìm<br /> nghĩa của từ cho trước, tóm tắt đoạn văn, viết đoạn<br /> 2.2.2. Một số vấn đề cần lưu ý khi dạy thuật<br /> văn…. Trên cơ sở đó trang bị các kiến thức về lý<br /> ngữ quân sự cho học viên quân sự nước ngoài<br /> luận về thuật ngữ quân sự tiếng Việt.<br /> tại Học viện Khoa học Quân sự<br /> + Đảm bảo tính phù hợp: Nội dung cần đề cập<br /> Trước thực trạng vừa nêu ở trên, việc dạy thuật<br /> đến các lĩnh vực quân sự và các hoạt động quân<br /> ngữ quân sự tiếng Việt cho học viên quân sự nước<br /> sự thời hiện đại như các phương tiện, vũ khí trang<br /> ngoài cần lưu ý một số vấn đề sau:<br /> bị của các quân binh chủng, công tác tổ chức tác<br /> - Yêu cầu với người dạy: chiến, những chiến dịch lịch sử trong chiến tranh<br /> thời hiện đại, các quan điểm và xu thế quân sự<br /> + Nắm vững đối tượng, xây dựng kế hoạch rõ quốc phòng của thế giới hiện nay.<br /> ràng, yêu cầu mức độ kiến thức đối với từng loại<br /> đối tượng 3. KẾT LUẬN<br /> <br /> + Có khả năng thông hiểu và diễn đạt rõ ràng Tích hợp các con đường để làm giàu hệ thống<br /> các khái niệm quân sự là con đường có tính qui luật của ngôn ngữ nói<br /> chung và thuật ngữ quân sự nói riêng. Từ khi được<br /> + Nắm được những đặc trưng cơ bản của khái hình thành đến nay, thuật ngữ quân sự luôn luôn<br /> niệm quân sự tìm nhiều con đường mới để bổ sung vốn từ của<br /> mình. Mặt khác, tích hợp thuật ngữ cũng góp phần<br /> + Gắn thuật ngữ quân sự với hoàn cảnh quân sự không nhỏ vào việc chuẩn hóa thuật ngữ theo<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 10 - 11/2017 17<br /> v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ<br /> <br /> <br /> hướng hiện đại, dân tộc, khoa học, chính xác và Quân đội nhân dân, Hà Nội.<br /> tiện dùng. Khoa học quân sự đang ngày càng hiện<br /> đại hóa để đáp ứng công cuộc xây dựng và bảo vệ 4. Vũ Quang Hào (1991), Hệ thống thuật ngữ<br /> tổ quốc. Muốn đổi mới quân đội về mọi mặt thì quân sự tiếng Việt, đặc đặc điểm và cấu tạo thuật<br /> thuật ngữ phải đi trước một bước, phải hạn chế bớt<br /> ngữ, Luận án Phó tiến sĩ, Trường Đại học Tổng<br /> những yếu tố không chính xác, những yếu tố dài<br /> dòng, những yếu tố không đồng nhất trong cách sử hợp, Hà Nội.<br /> dụng…. Con đường tích hợp thuật ngữ như vậy sẽ<br /> giúp cho nó gần gũi, gắn bó hơn với toàn dân. Mặt 5. Hoàng Văn Hành (1993), “Về sự hình thành<br /> khác, con đường tích hợp thuật ngữ quân sự như và phát triển của thuật ngữ tiếng Việt”, Tạp chí<br /> vậy sẽ giúp quá trình giảng dạy tiếng Việt quân Ngôn ngữ, số 4, tr.2-9.<br /> sự cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện<br /> Khoa học Quân sự ngày càng hiệu quả hơn./. 6. Hà Quang Năng (2010), “Đặc điểm của<br /> Tài liệu tham khảo: thuật ngữ tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học & Bách<br /> khoa thư, số 3, tr.12-23.<br /> 1. Đỗ Hữu Châu ( 2007), Đại cương ngôn ngữ<br /> học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội 7. Nguyễn Đức Tồn (chủ biên, 2016), Thuật<br /> 2. Bùi Thị Thanh Lương (2006), Từ ngữ mới ngữ học tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học xã hội,<br /> tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, Viện Ngôn Hà Nội.<br /> ngữ, Hà Nội.<br /> 8. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự – Bộ<br /> 2. Chu Bích Thu (2001), “Giới thiệu sơ lược Quốc phòng (2004), Từ điển bách khoa quân sự<br /> về từ điển và từ điển học Việt Nam”, Tạp chí Ngôn<br /> Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.<br /> ngữ, số 14, tr.12-26.<br /> <br /> 3. Cục khoa học quân sự – Bộ Tổng tham mưu  9. Hoàng Phê (chủ biên, 1988), Từ điển tiếng<br /> (1985), Từ điển giải thích thuật ngữ quân sự, NXB Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> FORMATION OF VIETNAMESE MILITARY TERMS AND SOME CONCERNS<br /> WHEN TEACHING VIETNAMESE MILITARY TERMS<br /> TO FOREIGN MILITARY STUDENTS<br /> TRAN THI HA<br /> Abstract: The Vietnamese military term is terminology special class subordinating to the<br /> population lexical system. The Vietnamese military terms are based on different lexical<br /> resrources. With the regard to the forming elements of these above terms, the atircle aims to<br /> sumarize the ways of forming Vietnamese military terms, namely from the general Vietnamese<br /> vocabulary, from different scientific disciplines and borrowing from foreign words.<br /> Keywords: formation, military practitioners, military term, Vietnamese<br /> Received: 30/9/2017; Revised: 18/10/2017; Accepted for publication: 15/11/2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 18 Số 10 - 11/2017<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2