Phụ lục A. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG VIỆC<br />
TỔ CHỨC TRUNG ĐOÀN (HIPPARCHIES)<br />
TRONG ĐỘI KỴ BINH CHIẾN HỮU<br />
Arrian đã không nói gì về thay đổi này, điều có thể suy ra từ tác phẩm của<br />
ông. Lần nhắc tới “trung đoàn” sớm nhất, ngoài ví dụ đầu tiên về năm đầu<br />
tiên của chiến dịch (Quyển một), diễn ra vào mùa thu năm 329, khi Ptolemy<br />
được cử đi với một lực lượng bao gồm “ba trung đoàn Chiến hữu” để bắt giữ<br />
Bessus (Quyển ba). Sau đó, trong cùng một năm, trong một trận đại chiến<br />
chống lại người Scythia, chúng ta một lần nữa nghe nhắc tới các trung đoàn<br />
Kỵ binh (Quyển bốn). Tuy nhiên, trong một bài báo có giá trị về “Kỵ binh<br />
Macedonia của Alexander”, Giáo sư Brunt cho rằng Arrian sử dụng thuật<br />
ngữ “trung đoàn” một cách lộn xộn, vì trong lần Hephaestion và Cleius Đen<br />
cùng nhau chỉ huy quân Chiến hữu và “rõ ràng là quân Chiến hữu chỉ có một<br />
hoặc hai ‘hipparchy’, thuật ngữ ‘hipparchy’ không phù hợp để chỉ một nhóm<br />
gồm tám đơn vị mà quân Chiến hữu được hình thành”.[589] Ông cho rằng sự<br />
thay đổi diễn ra sau vụ giết hại Geitus vào cuối năm 328, vì Alexander cho<br />
rằng thật nguy hiểm khi giao phó một lực lượng kỵ binh lớn mạnh và quan<br />
trọng như vậy vào tay một chỉ huy duy nhất, người có thể cũng như Cleitus,<br />
đã lấy làm oán hận việc Alexander chấp nhận trang phục Ba Tư và thực hành<br />
các nghi lễ triều đình theo kiểu Ba Tư. Đây cũng là một ý kiến thú vị. Không<br />
may là, việc xem xét kỹ lưỡng tác phẩm của Arrian về trận chiến của người<br />
Scythia đã cho thấy, mà theo quan điểm của tôi là không thể nghi ngờ, rằng<br />
“các trung đoàn” đã tồn tại vào năm 329, trước khi Cleitus qua đời. Trong<br />
cuộc chiến này, Alexander hạ lệnh cho “một trung đoàn (hipparchy) kỵ binh<br />
đánh thuê và bốn đội (ilai) kỵ binh đánh giáo” tấn công mở màn, và sau đó,<br />
ngài sử dụng “ba trung đoàn Chiến hữu và toàn bộ kỵ binh đánh giáo” để<br />
tiếp tục tấn công, trong khi đích thân ngài chỉ huy “các tiểu đội theo đội hình<br />
hàng dọc”. Đây là một mô tả cẩn trọng và chi tiết, hiển nhiên là dựa trên cứ<br />
liệu của Ptolemy và khó mà tin được rằng Arrian có thể nhầm lẫn “tiểu đội”<br />
và “trung đoàn”.[590] Trên thực tế, chúng ta không biết sự thay đổi về cách tổ<br />
chức trung đoàn diễn ra khi nào. Lần cuối cùng đội quân Hoàng gia được<br />
nhắc tới là vào cuối năm 331 tại cổng Ba Tư (3.18.5), cùng với một thuật<br />
ngữ không rõ nghĩa là khác là “tetrachy” dùng để nói về đội kỵ binh. Sau<br />
này, đầu năm 327 (4.24.1), chúng ta nghe nói đến đội bảo vệ (agema), rõ<br />
ràng là để chỉ một đơn vị quân đội tương tự với tiểu đội Hoàng gia.<br />
Quan trọng hơn câu hỏi về việc thay đổi tổ chức trung đoàn diễn ra vào<br />
ngày nào là câu hỏi về thành phần của trung đoàn, cụ thể là các tiểu đoàn<br />
giúp duy trì sức mạnh của chúng. Vì trung đoàn là đơn vị lớn hơn, bao gồm<br />
hai hoặc hơn hai tiểu đoàn, và kỵ binh hạng nặng Macedonia không thể cung<br />
<br />
cấp đủ số người cho tất cả các tiểu đoàn. Chắc chắn rằng quân Chiến hữu có<br />
khoảng 1.800 người khi bắt đầu cuộc viễn chinh, rằng có một phân đội tăng<br />
cường gồm 300 người đã hợp nhất với lực lượng của Alexander tại Gordium<br />
vào đầu năm 333, và không lâu sau đó là phân đội 500 người tại Gaugamela<br />
vào cuối năm 331. Tuy nhiên, Giáo sư Brunt đã suy luận từ Polybius<br />
(12.19.2) rằng Alexander đã nhận được một lực lượng viện quân bao gồm<br />
hơn 500 kỵ binh Macedonia trước khi trận Issus diễn ra và đoán chừng đợt<br />
viện quân vào khoảng năm 328/327, khoảng thời gian khi các trung đoàn<br />
(hipparchy) được thành lập. Trong cả hai trường hợp, vị giáo sư này đều<br />
nhầm lẫn. Điều mà Polybius nói, theo Callisthenes, là 800 kỵ binh từ<br />
Macedonia đã tới hợp nhất với lực lượng của Alexander trước khi ngài đặt<br />
chân lên đất Cilicia, và vì Callisthenes đã tính toán số lượng kỵ binh lớn nhất<br />
mà Alexander có thể có trong trận Issus, rõ ràng là không có đội viện quân<br />
kỵ binh nào khác ngoài đợt 800 kỵ binh này. Chúng ta có thể kết luận rằng<br />
đó chính là số kỵ binh đã tới hỗ trợ Alexander tại Gordium mà Arrian<br />
(1.29.4) đã thuật lại trong tác phẩm của mình. Số kỵ binh đó bao gồm 300<br />
quân Macedonia, 200 quân Thessaly, và 150 quân Elis. 150 kỵ binh còn lại,<br />
Arrian không nhắc tới, có thể vì họ là lính đánh thuê. Brunt cho rằng ngài<br />
William Tarn có thể đã đưa ra ý kiến cho rằng “Tiểu đoàn bộ binh thứ bảy<br />
được hình thành từ những tân binh Macedonia mà Alexander đã cử Sopolis,<br />
Epocillus và Menidas đi từ Nautaca để đưa họ tới (Arrian 4.18.3).” Nhưng<br />
Arrian không hề nhắc tới bất kỳ lần viện quân nào của quân Macedonia sau<br />
thời gian đó và việc này có lẽ đã bị hoãn lại. Hơn nữa, Giáo sư R. D. Milns<br />
đã chứng minh[591] rằng tiểu đoàn bộ binh thứ bảy, mà Tarn cho rằnghẳn là<br />
một phần của “lực lượng từ Macedonia” mà các sĩ quan đã đưa tới chỗ<br />
Alexander, đã tồn tại ngay từ đầu năm 330. Sau đó, chúng ta có thể ước đoán<br />
rằng tổng số kỵ binh hạng nặng mà Alexander có vào cuối năm 331 không ít<br />
hơn 2.600 người. Vậy cứ coi như số đó là khoảng 2.500 lính. Chắc chắn, cần<br />
phải có nhiều kỵ binh hơn để xây dựng các trung đoàn mới. Nếu “các lính<br />
trinh sát” hoặc “kỵ binh đánh giáo” là quân Macedonia, như Brunt nói, họ<br />
chắc hẳn được hợp nhất trong đội Chiến hữu. Nhưng vì chúng ta đọc được từ<br />
trước tác của Arrian (4.4.6-7), họ tồn tại như một đơn vị độc lập tại thời<br />
điểm mà các trung đoàn được thành lập – trừ phi Arrian hoàn toàn nhầm lẫn.<br />
Nhưng nếu “các lính trinh sát” không được sáp nhập thành các trung đoàn,<br />
vậy các kỵ binh thì sao? Đối với tôi, giải pháp khả thi nhất đã được G.T.<br />
Griffith, người cho rằng các trung đoàn này được thành lập từ các kỵ binh<br />
tây Iran, đặt ra. Như ông đã chỉ ra, thật khó có thể tin rằng Alexander đã có<br />
các đơn vị kỵ binh Bactria và Sogdia vào khoảng cuối năm 328 (Quyển bốn),<br />
thời điểm mà cuộc chiến vẫn còn đang diễn ra tại khu vực này; vào khoảng<br />
thời gian đó, Alexander không thể triệu tập một đội kỵ binh xuất sắc nào<br />
<br />
khác ngoài kỵ binh vùng phía tây và trung tâm Iran. Tuy nhiên cho tới tận<br />
năm 324, chúng ta mới nghe nói đến nhóm kỵ binh này trong lực lượng của<br />
Alexander, khi nó được “hợp nhất” vào kỵ binh Chiến hữu. Trong đoạn văn<br />
này (Quyển bảy), Arrian đã liệt kê nhiều lời than phiền – việc bổ sung<br />
30.000 tân binh Ba Tư, việc tổ chức các hôn lễ ở Susa, việc “phương Đông<br />
hóa” của Peucestas, và việc Alexander mặc trang phục Media – mà điều cuối<br />
cùng đã dẫn tới cuộc binh biến của quân Macedonia tại Opis. Giáo sư Brunt<br />
đã chỉ ra rằng những lời than phiền này dường như chỉ xuất hiện sau nỗi oán<br />
hận của quân Macedonia về việc Alexander “sáp nhập” kỵ binh phương<br />
Đông vào đội Chiến hữu và đưa những người Ba Tư xuất sắc vào đội vệ<br />
quân (agema). Tuy nhiên, ngay trước cuộc binh biến, Arrian đã tóm tắt (một<br />
cách ngắn gọn hơn) những nỗi oán hận của người Macedonia (7.8.2.).<br />
“Trong suốt toàn bộ cuộc chinh phạt này”, ông viết, “người Macedonia lấy<br />
làm phật ý về việc Alexander “nhập” kỵ binh nước ngoài với đội ngũ Chiến<br />
hữu.” “Toàn bộ cuộc chinh phạt này” là chỉ tới cuộc chinh phạt Ấn Độ (hoặc<br />
có phần phóng đại là chỉ tới toàn bộ cuộc viễn chinh), chắc chắn không phải<br />
thời gian sau khi ngài trở về từ phương Đông. Sau đó, nếu ông Griffith chính<br />
xác trong việc phân biệt giữa “hợp nhất” [integration] và “nhập”<br />
[importation] vào đội Chiến hữu, chúng ta thấy được hai giai đoạn kế tiếp<br />
nhau của chính sách hướng tới người Ba Tư mà Alexander theo đuổi, một<br />
chính sách được thể hiện rõ ràng nhất trong lời cầu nguyện của ngài tại Opis,<br />
cầu cho “người Macedonia và người Ba Tư có được sự hòa thuận và mối<br />
giao hảo trong đế chế”. Nếu ông Griffith nhầm lẫn trong sự phân biệt này, và<br />
nếu hai đoạn văn trong trước tác của Arrian là “một cặp” như Giáo sư<br />
Badian đã tranh luận,[592] thì có khả năng là, trong khi việc tái tổ chức lần<br />
cuối cùng của đội Chiến hữu là việc mới diễn ra, nỗi oán hận của quân<br />
Macedonia với việc đưa quân Ba Tư vào đội Chiến hữu đã xảy ra vài năm<br />
trước đó. Điều này chắc chắn cũng đúng với chi tiết họ phật ý vì Alexander<br />
chấp nhận mặc trang phục của phương Đông.<br />
<br />
Phụ lục B. BIÊN NIÊN SỬ CỦA CUỘC<br />
VIỄN CHINH<br />
Arrian xác định ngày tháng của các sự kiện theo lịch Athens, chẳng hạn<br />
khi kết thúc cuộc vây hãm thành Tyre và thường xuyên nhắc đến mùa khi<br />
Alexander rời đi hoặc đi tới một thị trấn hoặc một địa hạt. Việc xác định<br />
chính xác ngày tháng xảy ra sự kiện là bất khả thi, nhưng với sự trợ giúp<br />
thông tin của các tác giả khác, cụ thể là nhà địa lý Strabo, có thể xây dưng<br />
dựng một biên niên sử theo các mùa một cách tương đối.<br />
334<br />
Mùa xuân Xâm lược lục địa Á châu<br />
334/333 Mùa đông Alexander ở Gordium<br />
333<br />
Mùa xuân? Khởi hành từ Gordium<br />
Tháng<br />
Mười một<br />
Tháng Một<br />
332<br />
– Tháng<br />
Tám<br />
Tháng<br />
Chín <br />
–<br />
Tháng<br />
Mười<br />
14 Tháng<br />
Mười một<br />
332/331 Mùa đông<br />
<br />
Trận Issus<br />
<br />
Quyển hai<br />
<br />
Vây hãm thành Tyre<br />
<br />
Quyển hai; Plutarch;<br />
Alexander 24.5<br />
<br />
Vây thành Gaza<br />
<br />
Diodorus 17. 48. 7<br />
<br />
Alexander được tôn làm<br />
Pharaoh tại Memphis<br />
Viễn chinh tới Siwah<br />
Quyển ba<br />
<br />
331<br />
<br />
7 Tháng<br />
Sáng lập Alexandria<br />
Tư<br />
<br />
331<br />
<br />
Cuối Mùa<br />
xuân<br />
20/21<br />
Tháng<br />
Chín<br />
1 Tháng<br />
Mười<br />
<br />
330<br />
<br />
Quyển một<br />
Quyển một<br />
Quyển hai<br />
<br />
Ngụy Callisthenes[593]<br />
1.32[594]<br />
<br />
Khởi hàng từ Ai Cập<br />
Nhật thực <br />
Gaugamela<br />
<br />
trước <br />
<br />
Trận Gaugamela<br />
<br />
Tháng Một<br />
– Tháng Lưu lại Persepolis<br />
Năm<br />
<br />
Quyển ba<br />
trận<br />
<br />
Quyển ba<br />
Plutarch Alexander 31.8<br />
Plutarch Alexander 37.6<br />
<br />
Giữa<br />
Đốt cháy cung điện Ba Tư<br />
Tháng<br />
Năm<br />
Tháng Bảy Darius III bỏ mạng<br />
Alexander tới các ngọn núi<br />
329<br />
Mùa xuân<br />
của Ấn Độ [Hindu Kush]<br />
Cuộc chiến chống lại những<br />
Giữa Mùa<br />
người Scythia phía Bắc của<br />
hè<br />
R. Jaxartes<br />
Giữa Mùa Alexander ở Zariaspa<br />
329/328<br />
đông<br />
(Bactra)<br />
328<br />
Mùa xuân? Tiến quân tới sống Oxus<br />
328/327 Mùa đông Alexander ở Nautaca<br />
327<br />
<br />
326<br />
<br />
Bắt đầu<br />
mùa xuân<br />
Kết thúc<br />
mùa xuân<br />
Tháng<br />
Năm<br />
<br />
Tháng<br />
Mười một<br />
325<br />
Tháng Bảy<br />
Kết thúc<br />
Tháng<br />
Tám<br />
20/21<br />
Tháng<br />
Chín<br />
325/324 Mùa đông<br />
324<br />
Mùa xuân<br />
326<br />
<br />
Curtius 5. 6. 12[595]<br />
Quyển ba<br />
Strabo 15. 2. 10; Quyển<br />
ba (cuốn này)<br />
Quyển bốn<br />
Quyển bốn<br />
Quyển bốn<br />
Quyển bốn<br />
<br />
Tấn công vào Pháo đài Đá<br />
Quyển bốn<br />
vùng Sogdiana<br />
Khởi hành từ Bactria<br />
Trận chiến <br />
Hydaspes<br />
<br />
tại <br />
<br />
Quyển năm<br />
sông<br />
<br />
Quyển năm<br />
<br />
Bắt đầu chuyến hải hành<br />
Strabo 15,1,17<br />
xuôi dòng Hydaspes<br />
Tới Pattala<br />
Strabo 15.1.17<br />
Alexander rời Pattala<br />
<br />
Quyển sáu<br />
<br />
Nearchus rời Pattala<br />
<br />
Indica 21.1<br />
<br />
Alexander ở Carmania<br />
Alexander tới Susa<br />
<br />
Quyển sáu<br />
<br />
Cuộc chinh phạt chống lại<br />
Quyển bảy<br />
người Cossaea<br />
Mùa xuân Quay trở lại Babylon<br />
Quyển bảy<br />
<br />
324/323 Mùa đông<br />
323<br />
<br />
10 Tháng<br />
<br />
Cái chết của Alexander<br />
<br />
Ngụy Callisthenes 3.55;<br />
văn bản bằng tiếng<br />
<br />