intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những định hướng lớn cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

37
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trọng tâm cải cách tư pháp trong thời gian tới là nên hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án cho phù hợp với mục tiêu bảo đảm quyền con người, khắc phục những vấn đề còn yếu kém trong hoạt động tư pháp hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những định hướng lớn cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam

  1. CHỦ ĐỀ 1: CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP HÌNH SỰ- THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM Đoàn Đức Lương Nguyễn Ngọc Kiện TÓM TẮT: Trọng tâm cải cách tư pháp trong thời gian tới là nên hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án cho phù hợp với mục tiêu bảo đảm quyền con người, khắc phục những vấn đề còn yếu kém trong hoạt động tư pháp hình sự. Trong đó định hướng xác định chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho Viện kiểm sát nhân dân; chuyển giao công tác thi hành án hình sự từ Bộ Công an sang Bộ Tư pháp; khắc phục bất cập của Bộ luật Hình sự về duy trì quá lâu kết cấu khung hình phạt giãn rộng và quy định nhiều loại hình phạt mang tính hình thức; hoàn thiện các thủ tục tố tụng hình sự có tính cấp bách… Từ khóa: định hướng cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật. ABSTRACT: The focal point of judicial reform in the coming time should be the improvement of law on the functions and missions of the investigating agencies, procuracies, courts and judgment enforcement agencies regarding the goal of ensuring human rights, overcoming problems in the course of criminal justice. In detail, designing the function of law enforcement observation for the People's Procuracy; shifting the acts of judgment enforcement from the Ministry of Public Security to the Ministry of Justice; overcoming the inadequacies of the Penal Code in terms of the over-extended penalty frame and formalistic punishments; completing the urgent criminal proceedings… Keywords: orientation of judicial reform, legal improvement.  PGS. TS., Hiệu trưởng Trường Đại học Luật, Đại học Huê; Email: luongdd@hul.edu.vn  TS., Trưởng Khoa Luật hình sự, Trường Đại học Luật, Đại học Huế; Email: kiennn@hul.edu.vn 1
  2. I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Trong cải cách tư pháp (CCTP) đương đại ở Việt Nam việc tổng kết rút kinh nghiệm quá trình CCTP của mười mấy năm qua có ý nghĩa rất quan trọng, tạo tiền đề khoa học vững chắc cho hoạch định đường lối, chiến lược CCTP trong giai đoạn tiếp theo (làm rõ được các nội dung cơ bản: kết quả đạt được, hạn chế vướng mắc và nguyên nhân của nó). Nói đến CCTP là nói đến nguồn lực rất quan trọng đó là đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng. Nghị quyết của Trung ương Đảng về chiến lược CCTP được ban hành mới soi sáng, dẫn đường cho hoạt động lập pháp và hành động thực tiễn. Với những luận điểm tiến bộ vượt bậc, đột phá là hết sức cần thiết. 1.2. Cải cách tư pháp nói chung, trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng trọng tâm vẫn ở 02 vấn đề lớn nhất cần phải xác định, đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án hình sự và pháp luật liên quan. 1.3. Cần phải nhấn mạnh sự quan trọng của thủ tục tố tụng hình sự trong đướng lối CCTP- cần phải được đổi mới như thế nào? Vì thủ tục tố tụng hình sự là biểu hiện sự cụ thể hóa đường lối CCTP và hiện thực hóa Hiến pháp (cụ thể nhất ở trong các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự), và vì thủ tục TTHS tác động trực tiếp, quyết đoán đến các quyền căn bản của con người và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội. 1.4. Cải cách tư pháp thành công hay không thì cần phải làm rõ thực trạng hệ thống pháp luật về tư pháp hình sự. 1.5. Trong đó về mặt tổ chức bộ máy, con người, chuyên môn và các yếu tố khác thuộc về công nghệ, cần phải được xác định trong đướng lối CCTP. 1.6. Sự ảnh hưởng của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng trên thế giới ảnh hưởng như thế nào đến chủ trương của Đảng và Nhà nước, ở nước ta vẫn duy trì mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, nhưng tiếp thu những hạn nhân hợp lý của mô hình tranh tụng (cân bằng các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, trọng tậm là xác định lại vai trò của Thẩm phán và người bào chữa)1. Và cuối cùng, 1.7. Cải cách tư pháp cần phải xác định điều kiện tiên quyết là đổi mới tư duy của cán bộ tư pháp theo hướng bảo đảm, bảo vệ quyền con người (trong đó tạo ra nhiều quyền cho người bị buộc tội để họ tự bảo vệ mình, thay vì chỉ trông chờ vào người thực thi công vụ bảo đảm quyền cho người tham gia tố tụng). Với cách thức, phương pháp 1 Đây là một vấn đề rất khó cần phải có quyết tâm cao mới thực hiện được trong lập pháp và đổi mới tư duy, vì tính cục bộ ngành và tư duy bảo thủ trong xã hội luôn tìm cảnh cản trở sự đổi mới tiến bộ. 2
  3. tiếp cận mạnh mẽ, giám đột phá và hợp lý trong việc xác định thủ tục tố tụng hình sự và thi hành án hình sự. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1. Nhu cầu tiếp tục cải cách tư pháp ở Việt Nam 2.1.1. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005, của Bộ Chính trị - Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong gần 15 năm CCTP2 ở Việt Nam. Vì những giá trị cơ bản của nó trên phương diện thực tiễn đã đạt được ở các bình diện: 1) trong việc xây dựng chính sách hình sự, mà bộ phận quan trọng của nó là chính sách pháp luật hình sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; 2) trong việc tổ chức lại bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan điều tra, VKS, tòa án và cơ quan thi hành án hình sự; 3) trong hoạt động thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự có sự chuyển biến tích cực, đặc biệt là sự đổi mới tư duy của cán bộ làm công tác thực tiễn; 4) trong định hướng nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ta3. Đến nay, vấn đề đặt ra là phải tổng kết việc thực hiện các Nghị quyết nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải đánh giá khách quan những kết quả đã đạt được, những hạn chế vướng mắc và nguyên nhân của nó; trong đó có một số chủ trương lớn vẫn chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa triệt để, hoặc chưa phù hợp với thực tế, đòi hỏi phải có định hướng, giải pháp mới để giải quyết. Ví dụ như các nội dung, chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật; về tổ chức, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án hình sự, sự tồn tại VKS hay viện công tố? vấn đề đào tạo các chức danh tư pháp… 2.1.2. Về mặt lập pháp, Hiến pháp năm 2013 chưa giải thích quyền tư pháp của tòa án là gì, ngay trong các luật như Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, vẫn không giải thích được quyền tư pháp của tòa án là gì, tòa án thực hiện quyền ấy ra sao? Do đó, trên phương diện thực tiễn chưa thực hiện được quyền tư pháp của tòa án như Hiến pháp đã xác lập. Câu hỏi đặt ra là có nên quy định quyền 2 Quy ước viết tắt các thuật ngữ: “Cải cách tư pháp” là “CCTP”, “Viện kiểm sát” là “VKS”, “Viện kiểm sát nhân dân” là “VKSND”, “Tòa án nhân dân” là “TAND”, “Bộ luật tố tụng hình sự” là “BLTTHS”, “Bộ luật hình sự” là “BLHS”. 3 Các Nghị quyết số 48 và Nghị quyết số 49 nêu trên được đề cập rất nhiều trong các công trình khoa học. 3
  4. tư pháp ở Việt Nam hay không, và quyền tư pháp ở Việt Nam được hiểu và vận dụng như thế nào? Quyền tư pháp của tòa án có mối liên hệ bản chất với việc xác định các chức năng cơ bản của TAND, VKSND trong bộ máy nhà nước và trong thực tiễn vận hành mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam. Ở góc độ nghiên cứu, cần phải luận giải có nên quy định quyền tư pháp ở Việt Nam hay không, để có quan điểm định hướng kịp thời, có tính dự báo trong giai đoạn cải cách tư pháp sắp tới4. 2.1.3. Chế định VKSND trong bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay đã hợp lý chưa, là một câu hỏi lớn cần phải được giải quyết kịp thời trong việc định hướng CCTP. Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta ra đời năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960, trở thành một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (còn được gọi là kiểm sát chung) và thực hành quyền công tố. Từ năm 1960 đến năm 2002, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát chung toàn bộ hệ thống bộ máy cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức, đơn vị kinh tế nói chung, đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân từ cấp Bộ trở xuống và các địa phương, nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành thống nhất trên toàn quốc. Khác với các nước cùng hệ thống pháp luật XHCN ở Liên Xô và Đông Âu trước đây, và Trung Quốc, VKSND thực hiện phạm vi kiểm sát rộng lớn hơn, bao gồm đối tượng là lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo Chính phủ5. Từ năm 2002 đến nay, VKSND ở nước ta chỉ được thực hiện hai chức năng, đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong những năm qua, về chức năng của VKSND xảy ra việc tranh luận, đặc biệt là vào thời điểm dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, rằng: 1) Cần chuyển VKS thành viện công tố trực thuộc trực tiếp Chính phủ (hoặc trực thuộc Bộ Tư pháp). 2) Vẫn giữ nguyên chức năng của VKSND như hiện nay. 3) Giao trở lại chức năng kiểm sát chung cho VKSND. Mô hình VKSND ở nước ta hiện nay không còn nguyên nghĩa. Tên gọi là VKSND nhưng chức năng chỉ ở phạm vi của viện công tố. Các khâu công tác kiểm sát gồm: kiểm sát hoạt động điều tra, kiểm sát hoạt động xét xử hình sự, kiểm sát giam giữ cải tạo và thi hành 4 Nó còn có thể làm cho yên tâm về mặt tâm lý và sự thống nhất trong nhận thức của cán bộ tư pháp. 5 VKSND ở Trung Quốc với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trở thành nguồn lực hữu hiệu của Đảng và Nhà nước Trung Quốc trong việc phòng chống tham nhũng, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương .v.v. Ở nước ta với thể chế Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị lãnh đạo duy nhất, thì nhất định phải giao cho VKSND chức năng đúng nguyên lý của nó. 4
  5. án hình sự thực hiện có hiệu quả, còn lại các khâu công tác: kiểm sát giải quyết các loại án dân sự, hôn nhân-gia đình, hành chính, thương mại, lao động, tồn tại mang tính hình thức, vì sự tham gia của VKS là mờ nhạt, trong khi vai trò của tòa án rất lớn trong các loại án này6. Trong lịch sử lập pháp ở nước ta, trước năm 2002, VKSND thực hiện tốt khâu công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, góp phần ngăn ngừa vi phạm hành chính và tội phạm, bảo đảm trật tự, kỷ cương quản lý hành chính. Có thể nói việc bỏ đi khâu công tác này của ngành Kiểm sát là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng vi phạm hành chính gia tăng đáng lo ngại7, bên cạnh đó là tiếp diễn xu hướng quyền lực hành chính lấn án quyền lực tư pháp (ảnh hưởng đến tính độc lập của tòa án và VKS). Đơn cử như xảy ra tranh chấp, khiếu nại nhiều hơn, phức tạp hơn trong hoạt động quản lý nhà nước; hoặc nếu có vụ án hành chính xảy ra thì ít khi chủ tịch huyện thua kiện. Nhiệm vụ của công tác kiểm sát là nhanh chóng phát hiện vi phạm hành chính và đề xuất, kiến nghị thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân các biện pháp xử lý kịp thời. Khi đã ngăn ngừa, xử lý vi phạm hành chính kịp thời, nhất định sẽ tránh được tình trạng vi phạm pháp luật chậm phát hiện, phòng ngừa tội phạm nhỏ và tội phạm ẩn gia tăng, làm kéo theo tội phạm lớn, đặc biệt lớn, có xu hướng nghiêm trọng, như tội phạm trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, giao thông, xây dựng, thuế .v.v. Mặt khác, cơ chế kiểm tra phòng ngừa, uốn nắn vi phạm pháp luật của VKSND rất hữu hiệu. Đó là sau khi tiến hành các cuộc kiểm sát trực tiếp, VKSND ban hành các kiến nghị, phúc tra kiến nghị, đề xuất biện pháp khắc phục trong hoạt động quản lý hành chính. Trong khi đó chức năng thanh tra của cơ quan thanh tra trong lĩnh vực quản lý hành chính không tránh khỏi “vừa đá bóng vừa thổi còi”, không bảo đảm tính khách quan, toàn diện và sự độc lập cần thiết. Trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào thì cơ quan thanh tra không thể làm thay vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Vì chức năng của 6 Hoạt động kiểm sát đối với các loại án này chỉ theo dõi việc thụ lý và thời hạn giải quyết, mỗi năm ban hành 01 đến 02 kháng nghị và 02 kiến nghị là đạt chỉ tiêu. Tuy nhiên vẫn có vụ VKS phát hiện để kháng nghị rất có hiệu quả, nhưng chỉ số ít và chức năng xét xử, giám đốc kiểm tra của tòa án cấp trên có thể phát hiện, giải quyết được khi có khiếu nại, kiểm tra. 7 Đơn cử như trong 6 tháng đầu năm 2019, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã xảy ra 9.964 vụ vi phạm hành chính, với 9.882 đối tượng bị các cơ quan chức năng xử phạt. Trong đó, có 8.097 quyết định đã thi hành xong. Tổng số tiền thu được từ xử phạt vi phạm hành chính là 13,16 tỷ đồng và tiền thu được từ bán thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu hơn 265 triệu đồng (dẫn nguồn: http://baoquangngai.vn/channel/12863/201908/gia-tang-cac-vu-vi-pham-hanh-chinh-2958203/index.htm). 5
  6. VKSND có tính độc lập rất cao; VKSND có đủ nguồn lực với bộ máy làm việc chuyên nghiệp, phương thức kiểm sát bài bản, khoa học, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành thống nhất, tăng cường pháp chế. Việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính không làm suy giảm nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước, mà nó còn hỗ trợ, phối hợp với nhau. Chính VKSND thúc đẩy, giám sát việc ban hành kết luận thanh tra kịp thời, khách quan hơn, giải quyết tốt hơn kiến nghị khởi tố vụ án hình sự của cơ quan thanh tra. Thực trạng vi phạm pháp luật và tội phạm gia tăng nghiêm trọng, có chiều hướng phức tạp trong những năm qua và trước yêu cầu bảo đảm kỷ cương, kỷ luật hành chính, tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện này và thời gian tới thì thiết lập trở lại chức năng kiểm sát chung của VKSND là một yêu cầu tất yếu của hoàn cảnh xã hội. 2.1.4. Hệ thống cơ quan điều tra chuyên trách trực thuộc Bộ Công an bị chi phối bởi thẩm quyền quản lý hành chính. Quyền hạn hành chính đan xen, lấn át thẩm quyền tố tụng. Ví dụ như chức vụ Đội trưởng, Trưởng phòng không phải chức danh tố tụng nhưng vẫn chỉ đạo hoạt động điều tra, quản lý Điều tra viên và Cán bộ điều tra. Thủ trưởng Cơ quan điều tra làm nhiều nhiệm vụ quản lý hành chính làm giảm hiệu quả và tính độc lập của hoạt động điều tra. Do tổ chức của cơ quan điều tra nằm trong cơ quan quản lý hành chính, làm nảy sinh nhiều mối quan hệ chi phối. Bộ Công an chỉ nên làm nhiệm vụ quản lý hành chính, bảo đảm trật tự, trị an. 2.1.5. Cần thay đổi nhận thức một cách căn bản, triệt để theo hướng, hoạt động thi hành án hình sự là hoạt động của xã hội dân sự, với các phương pháp giáo dục mang tính sư phạm nhiều hơn, nhằm đạt được ý nghĩa hoàn lương của người bị kết án; đạt được giá trị đích thực của các quyền căn bản của con người về dân sự, chính trị- xã hội cho người chấp hành án. Công tác cải tạo, giáo dục người chấp hành án là vô cùng quan trọng, cần phải được quan tâm đầu tư đúng mức; coi “tái phạm” là thước đo để đánh giá hoạt động thi hành án phạt tù. 2.1.6. Chế định hình phạt trong BLHS còn nhiều bất cập, nhiều loại hình phạt được quy định mang tính hình thức, thể hiện kỹ năng lập pháp hạn chế. Ở một số nội dung như sau: Một là, duy trì quá lâu kết cấu khung hình phạt giãn rộng trong BLHS vô hình trung tạo ra sự tùy tiện, lạm quyền cho tòa án trong việc áp dụng và làm nảy sinh hiện tượng “chạy 6
  7. án”. Ví dụ, khung hình phạt tù có thời hạn từ 01 năm đến 05 năm, 02 đến 07 năm, 05 năm đến 10 năm, 07 năm đến 15 năm .v.v., hoặc có nhiều loại hình phạt trong một khung, ví dụ như tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Như vậy làm cho hiệu quả, mục đích áp dụng chính sách hình phạt của nhà nước bị giảm sút. Hai là, hệ thống hình phạt nghiêng về trừng trị nhiều hơn giáo dục (nghiêng nặng về phạt tù8), trong khi một số loại hình phạt thay thế hình phạt tù lại mang tính hình thức, kém hiệu quả giáo dục như hình phạt cảnh cáo (áp dụng ngay tại phiên tòa), hình phạt cải tạo không giam giữ (giao cho địa phương quản lý và thực hiện một số nghĩa vụ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20%) để sung quỹ nhà nước; kể cả biện pháp án treo. Thế nhưng lại thiếu hình phạt “Lao động công ích dưới sự giám sát của cán bộ tư pháp” để người chấp hành án hòa nhập cộng đồng, cải tạo mình bằng cách cho họ tham gia vệ sinh môi trường công cộng, đô thị, làm vệ sinh bệnh viện, trường học, trụ sở cơ quan, tổ chức .v.v. Hình phạt này có thể cắt giảm cho ngân sách hàng trăm tỷ đồng mỗi năm do phải chi trả cho các hoạt động lao động nêu trên và chi phí cải tạo, giáo dục và xây buồng giam nếu phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Ba là, theo quy định của BLHS và pháp luật thi hành án hình sự thì một số loại hình phạt, và một số biện pháp tư pháp và án treo được giao cho UBND cấp xã, phường thi hành như là không phù hợp. Bởi vì công tác quản lý, giáo dục người chấp hành án là vô cùng quan trọng, vì bản án dù có công minh, nhưng không được thi hành bài bản, khoa học thì bản án đó cũng chỉ ở trên giấy, người phạm tội không thể hoàn lương và đó cũng là nguyên nhân giải thích cho sự tái phạm. Do vậy, đòi hỏi phải có cơ quan chuyên trách, với các phương pháp giáo dục, cải tạo bài bản; đó không phải là UBND cấp xã, phường làm nhiệm vụ quản lý hành chính lại chịu trách nhiệm tổ chức thi hành hình phạt, các biện pháp và nghĩa vụ của bản án. 2.1.7. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn cũng như pháp lý; có mục đích, ý nghĩa để định tội và định khung hình phạt; nó còn có ý nghĩa chính trị- xã hội, về việc thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của nhà nước ta, cũng 8 Cần phải đổi mới tư duy coi nặng hình phạt tù trong khung hình phạt, cho theo kịp với trình độ phát triển của xã hội. Đã từ lâu và hiện nay ở nhiều nước trên thế giới có rất nhiều loại hình phạt thay cho hình phạt tù rất có hiệu quả, vừa bảo đảm quyền con người, vừa giảm gánh nặng chi phí từ ngân sách. Về chính sách hình phạt ở nước ta vẫn chậm được đổi mới, nguyên nhân là chậm đổi mới tư duy trong việc soạn thảo luật. 7
  8. như chính sách phòng ngừa, xử lý tội phạm trong thời kỳ đổi mới đất nước; trong việc tiết giảm sự nghiêm khắc của hình phạt; và tạo ra sự bình đẳng, công bằng đáng kể cho người tham gia tố tụng nói chung và cho xã hội; góp phần khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và xã hội. Tuy nhiên BLHS đã quy định quá nhiều các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và còn cho phép tòa án coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, tạo ra sự tùy nghi trong việc cân nhắc quyết định hình phạt. Đơn cử như tình tiết “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Có thể nói tình tiết giảm nhẹ này được áp dụng chủ yếu cho đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Để xác định người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác sẽ không bảo đảm tính công bằng. Cán bộ công chức nhà nước (đây là chủ thể được giữ chức vụ quyền hạn) được khen thưởng trong thời gian công tác, học tập, sản xuất được tặng thưởng, sau này phát hiện hành vi tham nhũng hoặc tội phạm khác lại giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là mâu thuẫn với chính sách hình sự là, quy trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với người có chức vụ quyền hạn, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, và đối với người lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức để phạm tội. Đặc biệt là loại tội phạm tham nhũng, chức vụ được áp dụng cho họ nhiều tình tiết giảm nhẹ dẫn đến hình phạt nhẹ, cho hưởng án treo, hình phạt tù có thời hạn ngắn, người bị kết án có điều kiện ra tù sớm, làm cho hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm tham nhũng bị giảm sút9. 2.1.8. Hoàn thiện thủ tục tư pháp hình sự có vai trò quan trọng hàng đầu, là một nội dung lớn của đường lối CCTP. Trong đó BLTTHS và BLHS là nền tảng, trọng tâm nhất. Thế nhưng BLTTHS năm 2015 vẫn chưa thể hiện được nhiều định hướng CCTP của Đảng. Các nội dung cơ bản sau đây của BLTTHS năm 2015 chưa đạt được: - BLTTHS năm 2015 lần đầu thiết lập nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng nhưng vẫn mang tính hình thức. - Thiết lập nguyên tắc và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan điều tra, VKS, tòa án mà lẽ ra chỉ thuộc về cơ quan điều tra và VKS. 9 Xem thêm: Nguyễn Ngọc Kiện (2017), “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (04). 8
  9. - Tòa án làm không đúng chức năng xét xử khi tham gia vào chứng minh tội phạm, như khởi tố vụ án; yêu cầu VKS và cơ quan, tổ chức, cá nhân bổ sung, chứng cứ, tài liệu trước khi xét xử; yêu cầu giám định; yêu cầu VKS truy tố lại; lạm dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung; tòa án có quyền xét xử tội nặng hơn tội VKS truy tố .v.v. - Vai trò của luật sư mờ nhạt trong giai đoạn điều tra. - Tại phiên tòa hội đồng xét xử chủ trì, đảm trách việc xét hỏi, công bố vật chứng, tài liệu để chứng minh, lẽ ra trách nhiệm đó thuộc về bên buộc tội là kiểm sát viên và luật sư. Lẽ ra khi ban hành BLTTHS năm 2015 thủ tục này phải được cải tiến để cho thấy sự đột phá của quá trình cải cách tư pháp với chủ trương của Nghị quyết số 49 đã đề cập về tăng cường tính tranh tụng. - Quan điểm CCTP của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục duy trì mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn truyền thống, tiếp thu giá trị tiến bộ của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng để bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Thế nhưng BLTTHS năm 2015 tiếp thu rất ít tinh thần này. Để một phiên tòa dân chủ, có sự bình đẳng thực sự giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (buộc tội – bào chữa – xét xử), và để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, thì phải hạn chế quyền hạn của thẩm phán chủ tọa, tăng cường vai trò của các Hội thẩm, người bào chữa và kiểm sát viên10. Cần phải đổi mới tư duy theo hướng tòa án nhân danh công lý khi tuyên án. Nếu không thì mô hình tố tụng hình sự chúng ta một bên là các cơ quan nhà nước đứng về một phía buộc tội, đối trọng với bên bị buộc tội là bị can, bị cáo. Đây là một vấn đề rất mới về nhận thức, cần phải có sự chuyển biến cơ bản trong giai đoạn cải cách tư pháp sắp tới. 2.2. Đề xuất những nội dung định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới Một là, cần phải khẳng định rõ trong Nghị quyết của Đảng về chiến lược CCTP mới trong giai đoạn từ năm 2021 về sau rằng: CCTP là một nội dung căn bản nhất của chiến lược, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Hai là, cơ quan có thẩm quyền cần sớm giải thích quy định tòa án thực hiện “quyền tư pháp’’ theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Vì ở Việt Nam không thể giải thích quyền 10 Tại phiên tòa xét xử, luật sư phải kính thưa, kính xin hội đồng xét xử khi tác nghiệp, vì thực tế thẩm phán chủ tọa là người có ảnh hưởng và quyết định tới mức án (do khung hình phạt mức án quá rộng, và có nhiều loại hình phạt trong khung). 9
  10. tư pháp cho riêng mình, và nếu xác định quyền tư pháp cho tòa án sẽ gây ra mâu thuẫn, “rối rắm” trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là mâu thuẫn với chế định VKSND. Ba là, cần thiết phải tổng kết thực tiễn công tác kiểm sát và nghiên cứu tổng thể mô hình VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, và đề xuất đề án theo hướng bổ sung chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính cho VKSND. Thiết lập trở lại chức năng đúng nguyên lý hoạt động của VKSND sẽ khó khăn, đòi hỏi phải có quyết tâm cao, vì bộ phận lực lượng bảo thủ trong xã hội luôn luôn tìm cách kìm hãm. Bốn là, ban hành mới BLTTHS, luật tổ chức VKSND và luật tổ chức TAND và các luật liên quan để đến năm 2025 thành lập hệ thống cơ quan điều tra chuyên trách độc lập trực thuộc Quốc Hội (Có thể đặt tên gọi là Ủy ban điều tra Hình sự), trên cơ sở tách khỏi thẩm quyền quản lý của Bộ Công an (Bộ Công an làm nhiệm vụ quản lý hành chính, bảo đảm trật tự trị an, mà không kiêm chức năng điều tra hình sự). Năm là, giai đoạn từ năm 2025 đến năm 2030 giao công tác thi hành án hình sự do Bộ Công an quản lý sang cho Bộ Tư pháp quản lý, (trên cơ sở thành lập Tổng cục Thi hành án hình sự thuộc Bộ Tư pháp quản lý các trại giam11; ở cấp tỉnh, cập huyện và tương đương thành lập phòng, bộ phận thi hành bản án hình sự thuộc cơ quan Thi hành án dân sự hiện nay, với tên gọi chung là Cơ quan Thi hành án cấp huyện hoặc Cơ quan Thi hành án khu vực). Đồng thời, đến năm 2025 chuyển các loại hình phạt, các biện pháp, nghĩa vụ khác của bản án do UBND cấp xã, phường chịu trách nhiệm thi hành sang cho cơ quan Thi hành án cấp huyện (hoặc khu vực) thuộc bộ máy Bộ Tư pháp quản lý như nêu ở trên. Như vậy về mặt khoa học và thực tiễn sẽ trả lại đúng chức năng quản lý hành chính cho UBND cấp xã phường, bảo đảm trật tự, trị an thuộc về lực lượng Công an cấp xã, phường, chứ không phải làm nhiệm vụ thi hành án. Cuối cùng là, sớm sửa đổi bổ sung BLHS hiện hành, ban hành mới BLTTHS thay thế BLTTHS năm 2015 nhằm đạt được các nội dung cơ bản, đó là, Đối với BLHS: 11 Như vậy Bộ Công an chỉ quản lý trại tạm giam, còn trại giam chuyển về Bộ Tư pháp quản lý. 10
  11. - Đến năm 2025 (hoặc sớm nhất có thể) khắc phục tối đa mức hình phạt giãn rộng và nhiều loại hình phạt trong một điều luật12; loại bỏ các tình tiết giảm nhẹ không hợp lý và bỏ đi quy định mang tính tùy nghi cho phép tòa án được coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ ngoài BLHS, để tránh áp dụng tùy tiện và bảo đảm nghiêm minh của bản án, trong đó có án treo, án tham nhũng. - Để bảo đảm quyền sống của con người trong một xã hội văn mình và theo các chuẩn mực chung của quốc tế, theo xu thế thời đại, dù phạm tội gì đi chăng nữa, vẫn phải giáo dục người phạm tội. Do đó, cần phải loại bỏ dần hình phạt tử hình, cho đến năm 2030 không còn hình phạt này (hiện nay còn 18 tội danh áp dụng hình phạt tử hình), trên cơ sở thiết kế lại hình phạt tù chung thân (đã bị áp dụng tù chung thân thì không được giảm án để trở lại cuộc sống bình thường) và tăng mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn. - Quy định hợp lý hơn các loại hình phạt, trong đó bỏ hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, mở rộng tội danh áp dụng hình phạt tiền và phải có cơ chế bảo đảm thực thi; thiết lập hình phạt “Lao động công ích với sự giám sát của cán bộ tư pháp” với các điều kiện của nó theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội chỉ áp dụng hình phạt chính duy nhất là “hình phạt tiền” và duy nhất biện pháp tư pháp “khắc phục hậu quả” mà không cần nhiều hình chính và hình phạt bổ sung, cũng như nhiều biện pháp tư pháp như quy định của BLHS hiện hành. Vì quá nhiều hình phạt như vậy sẽ lẫn lộn sang cơ chế phá sản doanh nghiệp, lẫn lộn với biện pháp hành chính và ảnh hưởng đến quyền khởi kiện về dân sự. Trong đó biện pháp đình chỉ hoạt động có thời hạn, hoặc đình chỉ vĩnh viễn, cấm huy động vốn, đây là những hình phạt trực tiếp gây thiệt hại cho doanh nghiệp, người lao động, các tổ chức tài chính, tín dụng nhiều hơn là ngăn ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội phạm. Vô hình trung hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội lại gây hậu quả cho xã hội, ảnh hưởng đến quyền kinh doanh, đầu tư- là một nội dung lớn của quyền con người theo tinh thần bản Hiến pháp năm 2013. Đối với BLTTHS: 12 Giải pháp là chi tiết hóa mức độ hình phạt ngay trong khung trên cơ sở định lượng hậu quả của tội phạm, mỗi tội danh có nhiều khung hình phạt để khắc phục ít khung nhưng khung nào cũng giãn rộng mức hình phạt, 11
  12. Đến năm 2025 ban hành BLTTHS mới thay thế BLTTHS năm 2015, phải đạt được tính đột phá, nhằm đạt được mục tiêu của quá trình CCTP. Cụ thể phải đạt được các nội dung cơ bản như sau: - Thiết lập lại các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự tránh ôm đồm, hiện nay có 27 nguyên tắc, nhưng trong đó nhiều nguyên tắc chỉ là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (chỉ nên đặt ra từ 12 đến 15 nguyên tắc). Trong đó cần loại bỏ các nguyên tắc mâu thuẫn với nguyên tắc suy đoán vô tội (ví dụ như nguyên tắc chứng minh tội phạm). Bên cạnh đó trong quan điểm lập pháp cần nhất quán coi nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS là nguyên tắc nền (nguyên tắc nguồn) cho mọi nguyên tắc. Mọi hành động thực tế tố tụng không được làm phương hại đến 02 nguyên tắc nguồn đó. - Thiết lập khái niệm quyền được im lặng của bị can, bị cáo trong BLTTHS, bởi vì nó là một nội dung không thể thiếu trong nguyên tắc suy đoán vô tội, tuy nhiên phải xác định rõ phạm vi của quyền được im lặng trong giai đoạn nào của tố tụng hình sự cho phù hợp với đặc điểm mô hình tố tụng hình sự nước ta. Đồng thời rà soát và loại bỏ những quy phạm và thủ tục cản trở nguyên tắc suy đoán vô tội để loại bỏ. Các quy định làm cản trở hoặc mâu thuẫn với nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, gồm: + Quy định nguyên tắc xác định sự thật vụ án là mâu thuẫn với nguyên tắc suy đoán vô tội. Vì ở các khía cạnh như, cơ quan có thẩm quyền có xu hướng lạm quyền khi bằng mọi nguồn lực để xác định sự thật vụ án, bất chấp có thể gây ra oan sai, và chắc chắn nguyên tắc xác định sự thật vụ án đề cao việc thẩm vấn để thu thập thông tin, do đó nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền được im lặng của người bị buộc tội. + Quy định bắt buộc thẩm phán là người tuyên án chứ không phải là hội thẩm, và hội thẩm không tránh khỏi sự chi phối bởi thẩm phán; + Quy định tòa án được thu thập chứng cứ- cụ thể như quyết định giám định, giám định lại, giám định bổ sung, định giá, yêu cầu cơ quan tổ chức cung cấp vật chứng, đồ vật, tài liệu; + Quy định tòa án quyết định việc triệu tập người làm chứng, còn Kiểm sát viên và người bào chữa, người tham gia tố tụng chỉ được đề nghị; 12
  13. + Chế định về người làm chứng trong pháp luật hình sự và TTHS còn chưa hợp lý; + Tòa án được xét xử tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố (đây là một điều đáng tiếc khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tạo ra quyền này. Nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng độc quyền truy tố của VKS, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền suy đoán vô tội và quyền bào chữa); + Hội đồng xét xử đảm trách việc xét hỏi, mà lẽ ra phải là VKS (chủ thể buộc tội) và Người bào chữa (chủ thể bào chữa- gỡ tội). + Hội đồng xét xử khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự (chỉ nên kiến nghị VKS xem xét). + Hội đồng xét xử công bố vật chứng tài liệu và triệu tập người làm chứng để chứng minh tại phiên tòa. Lẽ ra thủ tục này thuộc về bên buộc tội. + VKS rút quyết định truy tố nhưng Hội đồng xét xử vẫn xét xử. Kết luận và bình luận thêm: Các quy định nêu trên cho thấy tòa án làm không đúng chức năng xét xử, các chức năng cơ bản của TTHS khó phân biệt, và làm suy yếu đến nguyên tắc suy đoán vô tội. Hiện nay pháp luật TTHS nước ta xác định thủ tục TTHS theo hướng áp đặt, mệnh lệnh nhiều hơn là bảo đảm quyền cho người bị buộc tội. Nhà làm luật luôn tìm cách bảo đảm thuận lợi cho cán bộ tư pháp mà quên đi phải có sự cân bằng quyền lực. Sự áp đặt thái quá từ phía nhà nước dẫn đến sự suy đoán vô tội và tranh tụng chỉ tồn tại với vỏ bọc mà thôi. Thiết nghĩ để bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải có nhiều quy phạm pháp luật khác hỗ trợ, trong đó bắt buộc phải quy định quyền được im lặng của người bị buộc tội xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự và phải có quy định Hội đồng xét xử giải thích cho bị cáo có quyền được im lặng khi bắt đầu phiên tòa; bị cáo có quyền nhận tội hoặc không nhận tội khi bước vào phiên tranh tụng; phải có cơ chế bảo đảm cho người làm chứng tích cực tham gia phiên tòa; mở rộng phạm vi tội danh và khung hình phạt đối với quyền yêu cầu khởi tố của bị hại .v.v, và loại bỏ nhiều thủ tục tố tụng mang tính áp đặt của chủ thể có quyền tiến hành tố tụng. - Thiết lập khái niệm người bị tình nghi trong tố tụng hình sự Việt Nam nhằm đổi mới tư duy của cán bộ tiến hành tố tụng và phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội, mà một trong những nội dung cơ bản của nó là không được coi một người là có tội khi chưa được chứng minh theo trình tự và khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị 13
  14. tình nghi được xác định bao gồm người bị mời làm việc13, người bị bắt, người bị tạm giữ. Như vậy cần phải xác định lại khái niệm người bị buộc tội trong tố tụng hình sự ở nước ta, theo đó người bị buộc tội chỉ là bị can, bị cáo mà không bao gồm người bị bắt và người bị tạm giữ. - Hạn chế lạm dụng tạm tạm giam đối đa và giảm tỷ lệ tạm giam xuống thấp nhất có thể. Việc hạn chế tạm giam nhằm tiếp tục thực hiện quan điểm cải cách tư pháp là hạn chế tạm giam thay bằng biện pháp ngăn chặn khác và xây dựng thủ tục tố tụng theo hướng thân thiện, dân chủ và gần dân. Đó cũng là khắc phục hạn chế của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn14, và thực hiện quan điểm cải cách tư pháp là tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng. Theo nghiên cứu giai đoạn từ trước khi BLTTHS năm 2015 ban hành tỷ lệ tạm giam ở mức trung bình trên 90% mỗi năm trên phạm vi toàn quốc; sau thời điểm ngày 1/1/2018 (thời điểm BLTTHS năm 2018 phát sinh hiệu lực) cho đến nay tỷ lệ tạm giam giảm xuống trung bình khoảng 80% mỗi năm15. Tỷ lệ tạm giam tuy giảm nhưng còn ở mức rất cao so với người bị khởi tố bị can. Tỷ lệ tạm giam rất cao, việc tạm giam kéo dài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của người bị tạm giam. Đó là một hạn chế lớn nhất của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. - Mở rộng quyền hạn của luật sư trong giai đoạn điều tra theo hướng thực chất, để khắc phục thực trạng vai trò mờ nhạt của luật sư trong giai đoạn này. - Giao trách nhiệm xét hỏi để chứng minh cho kiểm sát viên và luật sư, thay cho hội đồng xét xử, hội đồng xét xử chỉ hỏi bổ sung nếu thấy cần thiết. Đây là thủ tục rất quan trọng cho thấy sự đổi mới thủ tục xét xử, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, tránh cho tòa án cùng với VKS tham gia chứng minh buộc tội, đẩy bị cáo về một phía đối trọng, bất lợi và làm phương hại đến quyền bào chữa; cũng như thiếu sự phân biệt, bình đẳng giữa các chức 13 Việc xác định người bị tình nghi (hay còn gọi là nghi can) là một vấn đề mới vô cùng quan trọng về mặt nhận thức theo hướng bảo đảm quyền con người theo chuẩn mực chung của nhân loại. Hiện nay BLTTHS chưa xác định người bị mời hoặc bị triệu tập để làm việc là người tham gia tố tụng, do đó chưa bảo đảm về quyền cho họ. 14 Một trong những hạn chế lớn của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là lạm dụng tạm giam trước khi xét xử, với hình thức là tạm giam kéo dài ảnh hưởng đến quyền con người. 15 Nguồn: Đề tài cấp Bộ “Bảo đảm quyền con người khi áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015”, Mã số B2019-DHH-15, Chủ nhiệm Đề tài TS. Nguyễn Ngọc Kiện, tr.94. 14
  15. năng cơ bản của tố tụng hình sự. Lẽ ra thủ tục này phải được đổi mới ngay khi ban hành BLTTHS năm 2015. - Kết cấu bản án và đọc bản án nhân danh công lý, để tránh vô hình trung cơ quan tiến hành tố tụng đứng về một phía buộc tội, đẩy bị cáo về một phía bất lợi16. - Có chính sách khuyến khích cán bộ am hiểu pháp luật đang công tác ngoài cơ quan tiến hành tố tụng hoặc nghỉ hưu tham gia hội thẩm, tăng số lượng hội thẩm ở cấp xét xử sơ thẩm. - Rút ngắn các loại thời hạn trong các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự; hạn chế tạm giam trong các vụ án hình sự thay bằng biện pháp bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, mở rộng biện pháp đặt tiền và phải có cơ chế bảo đảm. - Mở rộng loại tội phạm áp dụng thủ tục rút gọn trong các trường hợp phạm tội quả tang. - Tăng số tội danh và mở rộng khung hình phạt thuộc diện được khởi tố theo yêu cầu của bị hại và diện áp dụng thủ tục rút gọn vụ án hình sự. III. KẾT LUẬN VẤN ĐỀ (i) Trong phạm vi bài viết này, tác giả đã chỉ ra những cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và khoa học cho sự cần thiết cần phải tiếp tục CCTP trong thời gian tới. Bao gồm hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết cấp bách trong định hướng cải cách tư pháp, như hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự ở Việt Nam; (ii) Trong việc nhìn nhận đúng vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hình sự và Luật sư; cùng với xác định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể này, nhằm đạt được hiệu quả đích thực trong hoạt động tư pháp hình sự. Trong đó trọng tâm nhất là thiết lập trở lại chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính của VKSND, nhằm bảo đảm kỹ cương pháp luật, giảm vi phạm hành chính và tội phạm; và chuyển chức năng thi hành án hình sự của Bộ Công an sang Bộ Tư pháp để bảo đảm khoa học và vai trò của công tác thi hành án thuộc về lĩnh vực xã hội dân sự và nhằm bảo đảm tốt hơn quyền của người bị kết án; (iii) Cải cách tư pháp trọng tậm vẫn là xây dựng lại các thủ tục tố tụng hình sự theo hướng thân thiện, hướng thiện, dân chủ và gần dân, 16 Trên thực tế tại phiên tranh tụng, khi tác nghiệp luật sư thường phải kính xin, kinh thưa hội đồng xét xử vì lo ngại bất lợi cho bị cáo. 15
  16. nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Chúng tôi nhấn mạnh đến quan điểm cần xác định: một là, đổi mới thủ tục tố tụng hình sự cần phải có tính đột phá, gắn với nhiệm vụ đổi mới tư duy của cán bộ tư pháp; hai là, hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật thi hành án hình sự cần bảo đảm các đặc tính: cụ thể, tính phù hợp và tính dự báo của pháp luật. Trong đó trọng tâm nhất là xây dựng hợp lý chính sách hình phạt; ba là, các thủ tục tố tụng hình sự và thi hành án hình sự cần dựa trên nền tảng của nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa (đây là hai nguyên tắc nguồn cho mọi nguyên tắc), để đạt được được mục tiêu bảo đảm tốt hơn quyền con người của người tham gia tố tụng và lợi ích công cộng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đề tài cấp Bộ “Bảo đảm quyền con người khi áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015”, Mã số B2019-DHH-15, Chủ nhiệm Đề tài TS. Nguyễn Ngọc Kiện. 2. Đoàn Đức Lương, Nguyễn Ngọc Kiện (2015), “Mô hình tố tụng hình sự với yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (08). 3. Nguyễn Ngọc Kiện (2017), “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (04). 4.http://baoquangngai.vn/channel/12863/201908/gia-tang-cac-vu-vi-pham-hanh- chinh-2958203/index.htm). 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0