Những thách thức đối với quản trị địa phương từ thực tiễn áp dụng luật tổ chức chính quyền địa phương ở thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 7
download
Bài viết Những thách thức đối với quản trị địa phương từ thực tiễn áp dụng luật tổ chức chính quyền địa phương ở thành phố Hồ Chí Minh phân tích, đánh giá những vấn đề cơ bản phát sinh đối với công tác quản trị địa phương từ thực tiễn áp dụng Luật tổ chức chính quyền địa phương ở TP. HCM, theo đó đề xuất một số kiến nghị với Trung ương và Thành phố.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Những thách thức đối với quản trị địa phương từ thực tiễn áp dụng luật tổ chức chính quyền địa phương ở thành phố Hồ Chí Minh
- NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI QUẢN TRỊ ĐỊA PHƢƠNG TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TS. Phan ải ồ* Tóm tắt: Công tác quản trị địa phương đối với “siêu đô thị” Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) cần đến hành lang pháp lý đủ rộng, phù hợp với thực tiễn kinh tế, văn h a và xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh những áp lực phải đổi mới cơ chế, cách thức, mô hình quản trị địa phương thì việc triển khai thực hiện Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 (Luật tổ chức chính quyền địa phương) thời gian qua cũng đã tạo ra nhiều thách thức cho Thành phố. Bài viết phân tích, đánh giá những vấn đề cơ bản phát sinh đối với công tác quản trị địa phương từ thực tiễn áp dụng Luật tổ chức chính quyền địa phương ở TP.HCM, theo đ đề xuất một số kiến nghị với Trung ương và Thành phố. Ngày 19/6/2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng gồm 08 chƣơng và 143 điều, tăng 02 chƣơng và 03 điều so với Luật tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003. Theo đó, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng đã đƣợc triển khai trên thực tiễn, tạo nhiều kết quả khả quan trong quản trị địa phƣơng của cả nƣớc. Tuy nhiên, với đô thị đặc biệt có dân số hơn 8.224.000 ngƣời1 nhƣ TP.HCM thì việc thực hiện các quy định về tổ chức bộ máy, thẩm quyền hành chính, chế độ chính sách, biên chế, chức năng, quyền hạn... tại Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng đang là những thách thức lớn đối với quản trị địa phƣơng của chính quyền Thành phố. 1. Những thách thức Trên cơ sở Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng2, ngày 24/4/2017 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2017/NĐ-CP về việc quy định một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù đối với TP.HCM3, theo đó tạo nên một số cơ chế đặc thù nhƣng vẫn chƣa đáp ứng các yêu cầu về quản trị địa phƣơng của Thành phố. Do vậy, sau thời gian áp dụng vào thực tiễn, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng đã và đang tạo ra nhiều thách thức cho thực tiễn công tác quản trị địa phƣơng của Thành phố, cụ thể: Thứ nhất, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng quy định chung « Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức phân quyền, phân cấp‖4. Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh những quyền hạn và nhiệm vụ chung đƣợc phân định thẩm quyền nhƣ các * Trƣởng khoa Quản lý hành chính, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh; 1 https://www.apec2017.vn/ap17-c/vi/venues/h%E1%BB%93-ch%C3%AD-minh. 2 Xem thêm các Điều 2, 3, 4, 5 Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng; 3 - Xem thêm Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của Chính phủ về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho Thành phố Hồ Chí Minh; 4 Xem thêm các Điều 11, 12, 13 Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng; 657
- tỉnh, thành phố khác, Thành phố cũng có các nhiệm vụ, quyền hạn riêng nhƣ5: thực hiện chủ trƣơng, biện pháp tạo nguồn tài chính, huy động vốn để phát triển đô thị; xây dựng và quản lý thống nhất công trình hạ tầng đô thị theo quy định của pháp luật; quyết định cơ chế khuyến khích phát triển công trình hạ tầng đô thị trên địa bàn. Những quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ riêng biệt này hiện chƣa đƣợc quy định, phân cấp rõ ràng, chi tiết nên Thành phố vẫn chƣa có đƣợc cơ chế quản trị đặc thù để phát huy tiềm năng về kinh tế - xã hội. Thứ hai, Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng quy định một số điểm khác biệt về tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc, số lƣợng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp cho Thủ đô Hà Nội và TP.HCM nhƣng thực tế, tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp đều đồng nhất giữa các tỉnh, thành theo Nghị định số 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định về một số cơ chế tài chính ngân sách đặc thù đối với TP.HCM đã làm cho bộ máy hành chính của Thành phố thƣờng xuyên quá tải về công việc, từ đó hiệu quả của việc quản trị địa phƣơng chƣa cao6. Thứ ba, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng quy định những quyền hạn riêng cho Chủ tịch UBND Thành phố thuộc diện đô thị đặc biệt với số lƣợng cấp phó nhiều hơn (tối đa 5 ngƣời)7. Tuy nhiên, trong cách thức quản trị trên một số lĩnh vực, hiện rất khó tách bạch nội dung công việc nào phải do tập thể UBND quyết định, nội dung nào thuộc phạm vi quyết định của Chủ tịch UBND. Bên cạnh đó, việc quản lý hành chính cũng có sự thiếu tập trung, chƣa triệt để trong quan hệ chỉ đạo, điều hành giữa UBND các cấp của Thành phố, dẫn tới có những vấn đề đã có chỉ đạo của cấp trên nhƣng thời gian giải quyết còn chậm trễ, kéo dài; việc phân công theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các cấp, giữa phƣờng (thị trấn) và xã trên một số lĩnh vực cũng chƣa rõ 8. Thứ tư, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng chỉ quy định chung chung, các văn bản dƣới luật sẽ quy định các sở, ngành chuyên môn thực hiện quản trị địa phƣơng theo kiểu hƣớng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho phòng, ban chuyên môn của chính quyền quận, huyện; tƣ vấn các vấn đề chuyên môn khi UBND quận, huyện có thắc mắc, có kiến nghị, đề xuất… Nhƣ thế, dù là cơ quan chuyên môn nhƣng các sở, ngành vẫn thực hiện theo cách thức đƣợc quyền chỉ đạo UBND quận, huyện về công tác chuyên môn. Điều này trên thực tiễn tạo ra những hệ quả pháp lý nhƣ: cùng một vấn đề mà sở chỉ đạo khác, UBND quận (huyện) chỉ đạo khác; các sở, ngành tham mƣu theo cơ chế chuyên biệt, chuyên ngành nên đã có những "khoảng trống" trong cách thức quản trị công việc giữa các sở, ngành chuyên môn với nhau, hoặc giữa sở, ngành chuyên môn với phòng chuyên môn của UBND quận, huyện. 5 Xem thêm các Điều 43, 44, 45, 49 Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng. 6 Tình trạng hạ tầng giao thông đô thị kém phát triển hoặc không theo kịp tốc độ phát triển phƣơng tiện giao thông; các vấn đề về ngập nƣớc, khói bụi ô nhiễm, tệ nạn xã hội… thời gian qua không kiểm soát đƣợc… 7 Xem thêm Điều 41 Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng; 8 Trong quản lý đô thị với diện tích hẹp, mật độ dân số đông, dày đặc nhƣng lại phân theo địa giới lãnh thổ, một con đƣờng nhiều khi bên này là một quận, bên kia là một quận khác, bên này là một phƣờng, bên kia là một phƣờng khác, thậm chí trong hẻm cũng phân ra nhƣ vậy. Mỗi bên là một bộ máy riêng biệt với đủ 3 cấp vừa chồng chéo, vừa lãng phí. Nhiều lĩnh vực quản lý nhƣ: cầu đƣờng, thoát nƣớc, chiếu sáng, cây xanh, trấn áp tội phạm… đang bị cắt khúc, không đồng bộ. Có tình trạng, cùng một việc, quận này làm nhƣng quận kia chƣa có kinh phí để đó nên đô thị luôn chắp vá, bị động, lúc nào cũng thấy ngổn ngang. 658
- Thứ năm, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng đã định khung pháp lý chung cho chính quyền địa phƣơng, không có sự khác biệt về nội dung, tổ chức, thẩm quyền và cơ chế thực hiện việc quản trị; không phân định rõ đặc điểm của cộng đồng dân cƣ ở nông thôn và cộng đồng dân cƣ đô thị. Trong khi đó, công tác quản trị ở địa bàn đô thị có nhiều khác biệt cả về tính chất lẫn nội dung so với địa bàn nông thôn, nhất là ở địa phƣơng có dân số và mật độ dân số cao, tính chất quản lý nhà nƣớc về đô thị phức tạp và khó khăn nhƣ TP.HCM. Thứ sáu, do Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng chỉ quy định chung, không quy định cơ chế đặc thù về nhân sự cho cấp xã tại Thành phố nên các văn bản dƣới luật đã quy định ―tƣơng đối đồng nhất‖ về số lƣợng cán bộ, công chức, số lƣợng, chức danh, tên gọi, chế độ chính sách cho những ngƣời hoạt động không chuyên trách… dẫn đến một vấn đề không xác định đâu là tiêu chí hàng đầu cho việc định biên cán bộ, công chức, ngƣời hoạt động không chuyên trách: diện tích địa bàn (số km/cán bộ quản lý) hay số dân trên địa bàn (số dân/cán bộ quản lý). Điều này gây khó khăn cho Thành phố khi không có đủ nhân sự cho cấp xã để đảm bảo hiệu quả thực hiện cơ chế quản trị tại địa phƣơng. Thứ bảy, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng thể chế hóa quan điểm của Hiến pháp năm 2013 theo hƣớng: ở đâu có cấp chính quyền địa phƣơng, ở đó có HĐND cùng cấp9. Do vậy, Thành phố phải dừng thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng mặc dù trƣớc đó, nhiều vấn đề quản lý đô thị đa diện, phức tạp đã đƣợc phối hợp giải quyết nhanh, hiệu quả khi không có HĐND. Hệ quả của việc lập lại HĐND ở 19 quận và gần 300 phƣờng đã phát sinh thêm hàng ngàn biên chế phải trả lƣơng, thêm bộ máy phục vụ (văn phòng, xe, trụ sở …) mà hiệu quả, hiệu lực không tăng thêm bao nhiêu, lại còn thêm cồng kềnh, lãng phí. Quản trị địa phƣơng theo cơ chế này tiếp tục tăng sức ỳ và gánh nặng sau khi tái lập mô hình tổ chức chính quyền địa phƣơng 3 cấp. Kết quả khảo sát cho thấy, có 65% số ngƣời dân cho rằng, mô hình chính quyền đô thị đƣợc tổ chức theo cách thức có HĐND ở tất cả các cấp chính quyền thành phố là không phù hợp10. Thứ tám, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng đƣợc áp dụng theo nguyên tắc chung cả nƣớc, chƣa quy định rõ mối quan hệ giữa Trung ƣơng và địa phƣơng về phân chia ngân sách đối với thu nhập và đầu tƣ trở lại địa phƣơng nên đã tạo ra xung đột về lợi ích11. Hiện nay, mặc dù đã có Nghị định số 48/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù đối với TP.HCM nhƣng phạm vi, thẩm quyền và các nội dung đƣợc phân cấp, ủy quyền về cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý hành chính đô thị. Có một thực tế là, Thành phố thu ngân sách nhiều nhƣng đƣợc đầu tƣ ít, tỷ lệ thu ngân sách đƣợc giữ lại thấp và giảm dần nên không đáp ứng đƣợc yêu cầu đầu tƣ. Hạ tầng 9 Xem thêm khoản 2 Điều 111 Hiến pháp 2013; 10 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố ―Hoàn thiện cơ chế quản lý thành phố Hồ Chí Minh‖; 11 Luật Ngân sách nhà nƣớc năm 2015 chỉ quy định mang tính nguyên tắc chung cho dự toán ngân sách và tỷ lệ phân chia ngân sách trung ƣơng và địa phƣơng; 659
- đô thị của Thành phố hiện rất thiếu và yếu; nhiều công trình đang thiếu vốn, nhƣng không đáp ứng đƣợc nguồn vốn ngân sách đầu tƣ12. 2. Một số kiến nghị Sự phát triển mạnh mẽ của Thành phố song hành với việc áp dụng Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng đang đặt ra nhiều thách thức cho việc đổi mới cơ chế quản trị của chính quyền đô thị, nhất là những thách thức về việc trích lại tỷ lệ phần trăm tƣơng ứng từ nguồn thu ngân sách để Thành phố đủ tiềm lực tài chính đầu tƣ cơ sở hạ tầng, giảm ô nhiễm môi trƣờng, ùn tắc giao thông, tệ nạn xã hội... Việc xây dựng đƣợc cơ chế quản trị địa phƣơng hiệu quả, bảo đảm phù hợp với mô hình chính quyền địa phƣơng ở đô thị đặc biệt nhƣ TP.HCM đang là vấn đề bức thiết. Do vậy, chúng tôi kiến nghị nhƣ sau: Một là, Trung ƣơng cần tạo điều kiện cho Thành phố xây dựng cơ chế quản trị địa phƣơng theo định hƣớng quản trị phát triển. Theo đó, Trung ƣơng và Thành phố cùng ―chung tay‖ giải quyết những thách thức nêu trên: (1) Những vấn đề nào chƣa phù hợp với đô thị đặc biệt của TP.HCM thì Trung ƣơng tiếp thu, bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện, cụ thể: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật có liên quan đến quản trị địa phƣơng ở đô thị, chú trọng việc ban hành văn bản dƣới luật vừa đảm bảo tính phù hợp với Hiến pháp, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng (trong trƣờng hợp vẫn giữ nguyên các quy định tại Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng), vừa đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn của Thành phố. Hoặc Trung ƣơng có thể sửa đổi một số quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng theo hƣớng: không xem ở các quận, phƣờng là một cấp chính quyền mà là cơ quan đại diện hành chính theo kiểu ―cánh tay nối dài‖ của chính quyền Thành phố nên không cần HĐND cùng cấp; phân định thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể cho từng chủ thể có thẩm quyền quản trị; quy định rõ cơ chế phân cấp, ủy quyền tại các điều luật về tổ chức bộ máy, thẩm quyền, chế độ, chính sách, không nên định một cách chung chung, triển khai khó khăn vì phải thêm các văn bản dƣới luật nên thực tiễn không đồng bộ và thống nhất. (2) Thành phố phải tự thay đổi những điều không còn phù hợp với thực tiễn cơ chế quản trị đô thị (bỏ bớt các cơ quan chuyên môn không phù hợp, nhập một số quận ít ngƣời, diện tích hẹp, phân cấp, ủy quyền mạnh cho chính quyền cấp dƣới…). Cả (1) và (2) phải đồng thời đƣợc thực hiện vì cơ chế quản trị địa phƣơng của Thành phố chỉ có sự đột phá mạnh mẽ nếu có những thay đổi căn bản, đồng bộ, đúng gốc rễ vấn đề. Hai là, việc nghiên cứu, tham mƣu thí điểm của Trung ƣơng về ủy quyền, phân cấp cho Thành phố là điều tất yếu nhƣng phải phát xuất từ yêu cầu thực tiễn phát triển và đúc kết bài học từ quá trình thực thi Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng trong thời gian tới. Do đó, Trung ƣơng nên cụ thể hóa trong các văn bản luật (có thể bằng nghị định của Chính phủ nhƣng phải đảm bảo tính phù hợp với văn bản luật và thực tiễn Thành phố thời gian qua). 12 Thành phố chỉ đƣợc điều tiết 18% tổng thu ngân sách, thấp nhất trong số 5 thành phố trực thuộc Trung ƣơng (Cần Thơ đƣợc điều tiết 91%, Hải Phòng 88%, Hà Nội 42%, Đà Nẵng 85%)... 660
- Ba là, các ý tƣởng và đề xuất về mô hình chính quyền đô thị nếu đƣợc Trung ƣơng khuyến khích, Thành phố cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thành trong thời gian sớm nhất. Thành phố có thể xây dựng cơ chế quản trị địa phƣơng theo mô hình: nội thành chỉ có một cấp chính quyền thành phố, phía dƣới là các đại diện hành chính theo kiểu ―cánh tay nối dài‖, vừa phù hợp với Hiến pháp 2013, Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn (đây là mô hình nhiều thành phố lớn trên thế giới đang áp dụng). ốn là, tập trung hoàn thiện cách thức quản trị đô thị của Thành phố. Trong đó, cần làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp theo hƣớng, phân định những nhiệm vụ thuộc trách nhiệm tập thể thảo luận và biểu quyết, Chủ tịch UBND chịu trách nhiệm cá nhân về các quyết định của mình đối với những nhiệm vụ thuộc thẩm quyền; chú trọng thẩm quyền của cấp trƣởng trong sự liên thông với các luật khác nhƣ Luật Khiếu nại, Luật Xử lý vi phạm hành chính vì hiện nay các Luật này chỉ quy định thẩm quyền cho cấp trƣởng(đặc biệt Luật Khiếu nại không quy định việc ủy quyền giải quyết khiếu nại cho cấp phó). Bên cạnh đó, cần cấu trúc lại các cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền Thành phố, bảo đảm tăng cƣờng vai trò tham mƣu tổng hợp của Văn phòng UBND, xác định rõ trách nhiệm quản trị đối với các ngành chuyên môn. Sắp xếp các cơ quan theo hƣớng gọn nhẹ, quản trị đa ngành, giảm đầu mối, hạn chế cấp trung gian, mỗi nhiệm vụ chỉ có một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính; các ngành, lĩnh vực gần nhau, liên quan thƣờng xuyên, mật thiết với nhau, gắn liền nhau về trách nhiệm, quyền hạn thì nhập lại thành một; các sở, phòng và ban ngành khác phải thực hiện tốt cơ chế liên thông. Các sở, phòng, ban chuyên ngành đƣợc tăng cƣờng vai trò quản trị theo hƣớng xuyên suốt, thống nhất, không bị cắt khúc theo địa bàn, lãnh thổ đối với 13 quận nội thành hiện hữu và các huyện. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn với nhau. Ban hành văn bản cụ thể hóa về cơ chế trách nhiệm và nội dung phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc liên quan trong thực hiện các nhiệm vụ theo hƣớng phối hợp phải đồng bộ, cơ quan chủ trì phải đƣợc giao quyền và thực thi đúng quyền đƣợc giao; có sự phối hợp trên tất cả các lĩnh vực, các giai đoạn. Các cơ quan chuyên ngành là các cơ quan quản trị địa phƣơng theo hệ thống dọc, chịu trách nhiệm toàn bộ về lĩnh vực theo địa bàn. Thủ trƣởng các cơ quan chuyên môn đƣợc Chủ tịch UBND giao chức năng, thẩm quyền và tổ chức bộ máy để thực hiện chức năng đó. Chủ tịch UBND thực hiện việc bổ nhiệm và miễn nhiệm khi thủ trƣởng các cơ quan này không hoàn thành nhiệm vụ. Theo phƣơng thức này, thủ trƣởng các cơ quan chuyên môn là ngƣời có thực quyền đồng thời chịu trách nhiệm cuối cùng về lĩnh vực phụ trách, chứ không phải đóng vai trò tham mƣu nhƣ hiện nay. Bên cạnh đó, tổ chức hệ thống bộ máy các cơ quan chuyên môn phải phù hợp với việc tăng quyền tự quản cho chính quyền các thành phố trực thuộc. Năm là, Chính phủ tiếp tục mở rộng phân cấp, ủy quyền cho Thành phố trên các lĩnh vực, cho phép Thành phố đƣợc quy định một số khoản thu, khoản chi, phí và lệ phí phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phƣơng. Thành phố đƣợc quyền quyết định bộ máy giúp việc và các cơ quan chuyên môn có tính chất đặc thù 661
- của một đô thị lớn hay đặc biệt; quy định chức năng, nhiệm vụ các bộ phận giúp việc và đƣợc phân cấp cho chính quyền cấp dƣới thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của thành phố đƣợc tổ chức các cơ quan chuyên môn phù hợp với đặc thù, không nhất thiết phải theo khuôn mẫu của Trung ƣơng. Thành phố đƣợc quyền quyết định về số lƣợng cán bộ, công chức, viên chức theo khả năng cân đối ngân sách của Thành phố (thay vì Bộ Nội vụ trình Chính phủ quyết định nhƣ hiện nay) theo Đề án vị trí việc làm để bảo đảm hoạt động của bộ máy thuộc đô thị loại đặc biệt; đƣợc chủ động trong tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch công chức chuyển xếp ngạch, chế độ đãi ngộ, hỗ trợ thu nhận phù hợp với nhu cầu, số lƣợng biên chế đƣợc HĐND Thành phố quyết nghị. Thành phố đƣợc quyền tạo nguồn thu mới từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở một đô thị lớn mà pháp luật hiện hành không cấm hoặc đƣợc Trung ƣơng cho phép; đƣợc quyền quy định định mức chi phù hợp với nguồn thu (các nhiệm vụ chi mang tính đặc thù của thành phố phải đƣợc tính đến trong dự toán chi ngân sách của Trung ƣơng cho địa phƣơng). Thành phố đƣợc quyết định trong việc vay nợ để đầu tƣ dựa vào khả năng tự cân đối để trả nợ, Chính phủ quy định một số điều kiện về vay nợ đầu tƣ xây dựng cơ bản phù hợp với đặc thù của Thành phố có tiềm năng phát triển kinh tế mạnh, có nhu cầu huy động lớn và có khả năng trả nợ. Sáu là, hoàn thiện cách thức, cơ chế, mô hình quản trị địa phƣơng của UBND các quận, phƣờng nội thành và UBND các huyện, xã. Tại các quận, phƣờng nội thành, nên thay đổi quản trị địa phƣơng bằng cách đổi mới cách thức, mô hình, cơ chế quản trị theo ranh hành chính. Xây dựng các mô hình quản trị ngành dọc đối với lĩnh vực quy hoạch, đô thị, môi trƣờng, giao thông công chính, y tế, giáo dục, tƣ pháp… theo hƣớng tản quyền, quản trị theo khu vực, không theo ranh giới quận, phƣờng. Tăng cƣờng các kênh thông tin, các kênh giám sát, các kết nối thông tin liên ngành để phục vụ kịp thời và hiệu quả ngƣời dân. Ở các huyện ngoại thành, trong thời gian không xa, do mức độ đô thị hóa tƣơng đối nhanh13, dự kiến đề xuất chuyển thành quận. Khi chuyển huyện thành quận, các xã, thị trấn chuyển thành phƣờng. Do đó, cần tập trung củng cố đội ngũ cán bộ, công chức hành chính xã, thị trấn đủ năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và đảm nhận đƣợc để thực thi công vụ tốt nhất và thực hiện hiệu quả nhất. Thực hiện tuyển chọn cán bộ, công chức hành chính thông qua thi tuyển và áp dụng rộng rãi từ cấp thành phố đến quận, huyện, phƣờng, xã. Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ; nhận xét đánh giá cán bộ, công chức bảo đảm công tâm, khách quan, công khai, minh bạch, công bằng. Tổ chức đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thƣờng xuyên, liên tục, phấn đấu đến giai đoạn 2020 - 2025, đội ngũ cán bộ, công chức Thành phố đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn đã xác định. 13 Bình quân hiện nay trên 220.000 ngƣời/huyện. 662
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Ngọc Anh (2010), ―Nâng cao hiệu quả công tác xây dựng chính sách của Thành phố ồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”. Viện Nghiên cứu phát triển. 2. Phan Xuân Biên (2007), ―Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố ồ Chí Minh”. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),“Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ”. Văn phòng Trung ƣơng Đảng. 4. Nguyễn Trọng Hòa (2015), "Nghiên cứu chính quyền đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị - từ thực tiễn Thành phố ồ Chí Minh". Viện Nghiên cứu phát triển. 5. Quốc hội, “ iến pháp năm 2013”. 6. Quốc hội, “Luật Cán bộ, công chức năm 2008”. 7. Quốc hội, “Luật Tổ chức chính quyền địa phương”. 8. Quốc hội, ―Luật Ngân sách nhà nước năm 2015". 9. Lê Thiên Hƣơng (2009), ―Mô hình tổ chức chính quyền đô thị khi không tổ chức ội đồng nhân dân”. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 163. 10. Đặng Công Luận (2010), “Những vấn đề đặt ra về tổ chức chính quyền đô thị ở thành phố ồ Chí Minh”. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4. 11. Nguyễn Bảo Ngọc, (2006), ―Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị trực thuộc trung ương ở Việt Nam”. 12. Nguyễn Quang Ngọc (2010), “Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù của các đô thị trực thuộc trung ương ở nước ta”. Đề tài cấp nhà nƣớc, mã số KX-02/06-10. 13. Vũ Văn Nhiêm, Tham luận: “Đổi mới mô hình chính quyền đô thị Tp. ồ Chí Minh”. 14. Chính phủ, Nghị định số 48/2017/NĐ-CP về việc quy định một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân sách đặc thù đối với TP. CM. 15. Chính phủ, Nghị định số 93/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho Thành phố ồ Chí Minh. 16. Chính phủ, Nghị định số 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 quy định về một số cơ chế tài chính ngân sách đặc thù đối với Thành phố ồ Chí Minh; 17. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2014), "Đề án thí điểm mô hình Chính quyền đô thị Thành phố ồ Chí Minh.". 18. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2012), "Đặc trưng của chính quyền đô thị và quản lý đô thị: đề xuất mô hình tổ chức chính quyền đô thị và quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn trong chính quyền đô thị.". 663
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phát triển đô thị ra vùng ven: Rủi ro và thách thức đối với thành phố Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường liên quan đến vấn đề tập trung dân cư và đô thị hóa
8 p | 39 | 8
-
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và cơ hội, thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
6 p | 93 | 7
-
Những thách thức về quản lý của các công ty tại Việt Nam
40 p | 90 | 6
-
Công nghệ pháp lý và những thách thức đối với đào tạo luật
10 p | 10 | 6
-
Những thách thức đối với quản lý nước đô thị Hà Nội
11 p | 19 | 6
-
Tự do hóa đầu tư trong Cộng đồng kinh tế ASEAN: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
8 p | 24 | 6
-
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và thách thức đối với xuất khẩu của Việt nam sang hai thị trường này
11 p | 64 | 6
-
Thách thức mới đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam và một số gợi ý chính sách giai đoạn 2011 - 2020
9 p | 83 | 6
-
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) cơ hội và thách thức đối với ngành nông nghiệp Việt Nam
10 p | 18 | 5
-
Luật hôn nhân và gia đình với những thách thức đặt ra từ cuộc sống hiện đại
7 p | 11 | 4
-
Những thách thức đối với giải quyết việc làm cho thanh niên hiện nay trong bối cảnh suy thoái kinh tế: Phần 2
64 p | 7 | 4
-
Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và thách thức đối với ngành thương mại dịch vụ Việt Nam
7 p | 11 | 4
-
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC): Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
8 p | 62 | 3
-
Hiệp định CPTPP cơ hội và thách thức đối với năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam
10 p | 27 | 3
-
Hiệp định TPP và những thách thức đối với hoạt động của dịch vụ tài chính ở Việt Nam sau năm 2015
6 p | 18 | 2
-
Hiệp định TPP - cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ của Việt Nam
9 p | 19 | 2
-
Thị trường bán lẻ cộng đồng kinh tế ASEAN: Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam
7 p | 58 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn