NHỮNG VÙNG THẨM MỸ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ BÍCH THÚY<br />
NGUYỄN THỊ THU HÀ - LÊ THỊ HƯỜNG<br />
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Tiểu thuyết chính là thể loại khẳng định được tài năng, phong cách<br />
và bản lĩnh nghệ thuật của Đỗ Bích Thúy. Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Đỗ<br />
Bích Thúy được khơi gạn từ suối nguồn cảm xúc mãnh liệt về những vùng<br />
thẩm mỹ đặc trưng. Trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn, những vùng thẩm<br />
mỹ đã chi phối cách xử lí đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, các thủ<br />
pháp nghệ thuật... Tác giả cũng thể hiện chân xác, sinh động ngôn ngữ đặc<br />
trưng của những vùng thẩm mỹ thông qua ngôn ngữ người kể chuyện và<br />
ngôn ngữ nhân vật. Những vùng thẩm mỹ trong tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy<br />
cho thấy tình yêu quê hương xứ sở và nỗi niềm trăn trở của “người đàn bà<br />
viết văn bước ra từ dòng sông Nho Quế”.<br />
Từ khóa: vùng thẩm mỹ, Đỗ Bích Thúy, tiểu thuyết Đỗ Bích Thúy, cảm<br />
hứng sáng tạo<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Trong dàn hợp xướng các nhà văn nữ, Đỗ Bích Thúy đã góp một “tiếng đàn môi”. Ngòi<br />
bút Đỗ Bích Thuý lấp lánh tài hoa ở nhiều thể loại. Với tiểu thuyết, Đỗ Bích Thuý đã<br />
khẳng định được tài năng, phong cách và bản lĩnh nghệ thuật của mình. Bóng của cây<br />
sồi, Cánh chim kiêu hãnh, Cửa hiệu giặt là mở ra một thế giới nghệ thuật đa dạng, hòa<br />
kết bởi nhiều thanh âm của cuộc sống. Ở lĩnh vực tiểu thuyết, Đỗ Bích Thuý đóng góp<br />
không nhỏ cho thành tựu đa dạng của văn học Việt Nam đương đại.<br />
Nhìn lại hành trình sáng tạo, có thể thấy Đỗ Bích Thuý đã tạo nên một khuôn mặt văn<br />
chương. Những trang viết của chị luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung<br />
cảnh thiên nhiên, đời sống sinh hoạt đến tâm hồn, nếp nghĩ suy của đồng bào dân tộc<br />
sống trên núi đá, trở thành một di sản nho nhỏ, không thể thiếu khi người ta nhắc đến<br />
Hà Giang. Nhà văn cũng mở rộng biên độ cảm hứng bằng cách viết nhiều về cuộc sống<br />
đô thị Hà Nội hôm nay với bao trăn trở, suy ngẫm. Dù viết về đề tài nào, văn Đỗ Bích<br />
Thuý cũng mềm mại, dung dị, khéo và đẹp. Đó là những trang viết vừa mộc mạc, vừa<br />
tinh tế, giọng văn da diết, trầm buồn chất chứa nỗi lòng ưu tư và những rung cảm chân<br />
thành của một nhà văn luôn gắn bó với đời.<br />
2. NHỮNG VÙNG MIỀN THẨM MỸ TRONG CẢM HỨNG SÁNG TẠO<br />
Trong thế giới văn chương, các nhà văn thường có một “vùng sáng tác” nhất định. Giá<br />
trị vùng thẩm mỹ chỉ thực sự được nảy sinh khi nhà văn đó gắn bó máu thịt hoặc có một<br />
xúc cảm thẩm mỹ đặc biệt để viết nên những tác phẩm mang dấu ấn đặc trưng riêng biệt<br />
cho mình. Ở Thạch Lam là phố huyện nghèo nàn, xơ xác, buồn vắng hoặc vùng ngoại ô<br />
tối tăm của Hà Nội; ở Nguyên Hồng là phố cảng Hải Phòng chói chang màu phượng vĩ;<br />
Hoàng Cầm với vùng văn hoá Kinh Bắc; Nguyễn Ngọc Tư đi về trên mảnh đất miền<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 01(37)/2016: tr. 26-35<br />
<br />
NHỮNG VÙNG THẨM MỸ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ BÍCH THÚY<br />
<br />
27<br />
<br />
Tây Nam bộ... Trên hành trình sáng tạo, Đỗ Bích Thúy đã định vị được những vùng<br />
thẩm mỹ riêng của mình, đó là quê hương Hà Giang và chốn đô thành Hà Nội.<br />
2.1. Hà Giang - từ quê hương máu thịt đến những trang văn<br />
Nói đến vùng thẩm mỹ trong sáng tác Đỗ Bích Thuý trước hết phải nói đến Hà Giangnơi có thiên nhiên, văn hoá và con người với những dấu ấn riêng biệt, không thể trộn<br />
lẫn với vùng khác. Vùng thẩm mỹ này đã góp phần tạo nên dấu ấn trong phong cách<br />
sáng tạo của Đỗ Bích Thuý.<br />
Cảm hứng sáng tạo của Đỗ Bích Thúy được khơi nguồn từ vương quốc tuổi thơ (Freud).<br />
Có một miền Hà Giang gắn liền với tuổi thơ và luôn sống động trên những trang văn<br />
của Đỗ Bích Thúy. Sinh ra, lớn lên, trải đời mình với những năm tháng tinh khôi nhất ở<br />
miền sơn cước, Đỗ Bích Thúy thông thuộc từng cánh rừng, thung lũng, vách đá, hiểu<br />
cặn kẽ cách sống, nếp nghĩ của đồng bào dân tộc nơi đây. Yêu tha thiết quê mình,<br />
“người con của núi” đã miệt mài viết, trải lòng trên trang sách và trở thành một trong<br />
những nhà văn viết về miền núi hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Vùng<br />
thẩm mỹ Hà Giang trở đi trở lại trên trang viết trong nỗi nhớ khôn nguôi, nỗi trăn trở,<br />
ưu lo của người con xa xứ. “Đỗ Bích Thúy đã tạo nên một khuôn mặt văn chương viết<br />
về Tây Bắc không lẫn với bất kì cây bút nào..., là đóa hoa văn Tây Bắc trong bàng bạc<br />
sương mù tháng Ba núi non địa đầu Tổ quốc” [6].<br />
So với các tác giả văn xuôi miền núi đương đại, Đỗ Bích Thúy đã tìm được “lối riêng”<br />
và mang đến cho văn xuôi miền núi một “hương vị lạ”. Nếu Cao Duy Sơn viết nhiều về<br />
lũng Cô Sầu (Trùng Khánh - Cao Bằng), Phạm Duy Nghĩa mở rộng đường biên khắp<br />
núi rừng Tây Bắc thì Đỗ Bích Thúy gắn liền với Hà Giang. Núi rừng trùng trùng điệp<br />
điệp bao quanh mảnh đất Hà Giang đã phủ bóng xuống trang văn Đỗ Bích Thúy. Không<br />
gian đại ngàn ấy trở thành nền cảnh để những câu chuyện về lịch sử, văn hoá, cuộc<br />
sống, con người Hà Giang được kể một cách chân thực, tinh tế và sâu sắc. Cảm xúc văn<br />
chương của Đỗ Bích Thuý được khơi gạn từ vùng thẩm mỹ ấy. Chị đã viết về thiên<br />
nhiên, lịch sử, văn hoá, con người Hà Giang trong tâm thế của người trong cuộc. Cùng<br />
viết về Việt Bắc và Tây Bắc - “hai miền đất vàng của văn chương miền núi, nơi ngưng<br />
tụ nguồn mạch chính của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam” [2] nhưng nếu Tô<br />
Hoài, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp là người miền xuôi đi thực tế, kiếm tìm cảm<br />
hứng và vốn sống, tư liệu để viết; Cao Duy Sơn, Vi Hồng là nhà văn dân tộc Tày viết<br />
cuộc sống của đồng bào mình thì Đỗ Bích Thúy là người miền xuôi nhưng sinh ra, lớn<br />
lên, trải nghiệm cùng cuộc sống của đồng bào nên chị viết về miền núi với những cảm<br />
xúc riêng, không trộn lỗn với bất cứ nhà văn nào. Miền núi Hà Giang mãi mãi là một<br />
phần quan trọng trong đời người và đời văn Đỗ Bích Thuý: “Sở dĩ tôi không ngừng viết<br />
về miền núi vì đó là mảnh đất của tôi, mỗi khi viết về nó, đắm chìm trong thế giới ấy,<br />
tôi lại như người đi xa được trở về nhà... Cái tâm trạng ấy, nói thực lòng, tôi chưa bao<br />
giờ cảm thấy khi viết về một đề tài khác, mảnh đất khác” [1].<br />
Hiện thực đời thường ở miền núi xuất hiện dày đặc trong văn xuôi Đỗ Bích Thúy như<br />
một dấu ấn đặc biệt làm nên phong cách của nhà văn. Các truyện ngắn như Vết chân<br />
<br />
28<br />
<br />
NGUYỄN THỊ THU HÀ – LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
ngựa trên đường mòn, Gió lùa qua cửa, Con dê bốn mắt, Váy ướt cuốn vào bắp<br />
chân,v.v...đã khắc họa đời sống miền núi trước những tác động của nền kinh tế thị<br />
trường ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Ở thể loại tiểu thuyết, nhà văn dành<br />
nguyên Bóng của cây sồi để tái hiện rõ nét, đầy đủ hơn những mảng màu sáng tối của<br />
cuộc sống đời thường. Sau bức tranh hiện thực đời thường ấy là bài ca đầy nhân văn về<br />
tình đời, tình người.<br />
Vẫn tiếp tục mạch nguồn sáng tạo về đề tài dân tộc, miền núi, Đỗ Bích Thúy đã khai thác<br />
đề tài chiến tranh, lí giải con đường đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc Hà<br />
Giang với những sắc thái đa dạng. Ngược dòng lịch sử, với Cánh chim kiêu hãnh, nhà văn<br />
hào sảng cất tiếng ca tri ân quá khứ và mảnh đất Hà Giang máu thịt của mình. Kết cấu<br />
tuyến tính góp phần không nhỏ trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tiểu thuyết Cánh<br />
chim kiêu hãnh. Các sự kiện lịch sử, những thăng trầm trong số phận nhân vật lần lượt<br />
được mở ra, đưa người đọc ngược chiều lịch sử, đến với đồng bào các dân tộc Hà Giang<br />
trong chiến tranh để hiểu thấu những đau thương mất mát nhưng cũng muôn phần đẹp đẽ<br />
trong cuộc sống, tính cách và phẩm giá của con người nơi đây. Dẫu chưa thoát khỏi lối<br />
viết truyền thống nhưng kết cấu của Cánh chim kiêu hãnh không đơn thuần là kết cấu sự<br />
kiện. Cách sắp đặt thời gian và các sự kiện, tình tiết không theo tuần tự, cách kể linh hoạt,<br />
đa dạng nên ít nhiều tránh được sự nhàm chán và cũng tạo ra cái mới trong hình thức.<br />
Đằng sau những sự kiện lịch sử là chiều sâu tâm lí. Lịch sử - chiến tranh khúc xạ qua<br />
trường nhìn của một nhà văn nữ giàu ý nghĩa nhân bản, nhân văn.<br />
Viết về miền núi, Đỗ Bích Thúy quan tâm đến số phận người phụ nữ. Những người đàn<br />
bà miền núi đi vào trang văn Đỗ Bích Thúy với những gì chân thật nhất. Căn nguyên<br />
sâu xa xô đẩy cuộc đời người phụ nữ bất hạnh đến bi kịch nghiệt ngã chính là những<br />
định kiến hẹp hòi và tập tục, lề thói đáng sợ ngay chính trong ngôi nhà của mình. Đàn<br />
bà ở Lao Chải chịu áp lực ghê gớm khi lấy chồng thì phải sinh cho gia đình chồng một<br />
đứa con trai. Bà Mẩy lấy chồng, đẻ liên tiếp mười hai đứa con gái. “Mỗi lần mẹ đẻ một<br />
chị gái là bố lại chém vào cột nhà một nhát, đến khi có Phù cây cột không bị chém nữa”<br />
[7, tr. 37]. Cuộc đời của những người đàn bà miền núi chỉ lẩn quẩn sau cái bóng của<br />
người đàn ông. Hình ảnh những người đàn bà cam chịu, nhẫn nhịn ngay chính trong<br />
ngôi nhà của mình không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi mà còn tạo<br />
thành “ma trận đàn bà miền núi” trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy nói chung: Mai<br />
(Cạnh bếp có cái muôi gỗ), Nhẻo (Như một con chim nhỏ), Kía (Gió không ngừng thổi),<br />
mẹ già (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá)...<br />
Viết về những người phụ nữ miền núi, Đỗ Bích Thúy đi vào thế giới bên trong nhiều<br />
khát vọng của họ. Để khơi sâu vào chiều sâu tâm hồn, nhà văn thường xóa nhòa các<br />
chiều thời gian, quá khứ- hiện tại đồng hiện nhằm bộc lộ rõ tâm trạng của nhân vật.<br />
Thời gian đồng hiện có khi đi liền với những trường đoạn độc thoại nội tâm, qua đó,<br />
nhà văn có thể lấn sâu vào thế giới bên trong nhân vật để miêu tả chân thực những diễn<br />
biến tâm lí cũng như mong ước, khát vọng của họ. Đoạn cuối của tiểu thuyết Cánh chim<br />
kiêu hãnh thể hiện rõ tài năng của Đỗ Bích Thúy trong việc sử dụng kiểu thời gian đồng<br />
hiện để khắc họa một cách tinh tế, sâu sắc tâm lí của nhân vật Mai trong những giây<br />
<br />
NHỮNG VÙNG THẨM MỸ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ BÍCH THÚY<br />
<br />
29<br />
<br />
phút cuối đời. Trong khoảnh khắc chập chờn giữa đôi bờ sinh tử, hồn của Mai đuổi theo<br />
chuỗi dài những hình ảnh trong quá khứ và hiện tại. Ước muốn ngày nào được là con<br />
chim kiêu hãnh bay trên trời cao trở lại, Mai cảm thấy mình trôi bồng bềnh trên cao<br />
cùng sải cánh của con chim lớn. Đám mây dưới lưng vỡ vụn, Mai rơi xuống và cảm<br />
nhận hơi ấm của rừng, nghe cả tiếng dòng sông Gâm. Tiếng gọi của đứa con thơ từ<br />
miền xa thẳm nào đó vọng lại trong tưởng tượng như dao cứa trái tim. Mai cố quay lại<br />
với con nhưng không thể: “Thằng Dí mỗi lúc một xa dần, nhỏ tí như một cái chấm phía<br />
sau, phía sau nữa là một cái chấm khác lớn hơn. Cái chấm ấy đứng bên cửa chuồng<br />
ngựa, có một đôi mắt đã da diết nhìn theo Mai khi Mai vĩnh viễn rời khỏi căn bếp sặc<br />
mùi men rượu và những trận đòn không nương tay. Và đôi mắt ấy, sẽ còn da diết mỗi<br />
khi nghĩ về Mai sau này”[8, tr.168]. Vậy là, quá khứ, hiện tại và tương lai cùng đồng<br />
hiện, soi chiếu vào nhau, gói ghém được tất cả nỗi niềm của Mai trước khi đi về cõi<br />
khác. Sử dụng kiểu thời gian hồi ức, Đỗ Bích Thúy đã tạo ra những áng văn đẹp biểu<br />
hiện dòng cảm xúc dâng trào trong tình cảm của nhân vật. Qua những dòng kí ức miên<br />
man, những trường thương nhớ, nhân vật tự phơi bày thế giới nội tâm phức tạp, đầy<br />
biến động của mình. Nhà văn chiếm lĩnh mọi ngõ ngách tâm trạng của nhân vật và biểu<br />
hiện nó một cách tinh tế, giàu cảm xúc, có khả năng khơi gợi niềm đồng cảm của người<br />
đọc. Vì thế, kiểu thời gian hồi ức vừa là phương tiện hữu hiệu soi tỏ chiều sâu nội tâm<br />
nhân vật vừa thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.<br />
Có thể nói, lịch sử, văn hóa, thiên nhiên, con người Hà Giang đã gây cảm hứng, cảm<br />
xúc mãnh liệt trong suối nguồn sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Chính vùng thẩm mỹ này<br />
góp phần tạo nên thế giới hình tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng trong các tác phẩm<br />
và tự thân đã góp phần quan trọng tạo nên tư tưởng nghệ thuật và phong cách Đỗ Bích<br />
Thúy. Vùng thẩm mỹ Hà Giang là minh chứng cho tình yêu vô bờ mà nhà văn dành<br />
riêng cho quê hương của mình.<br />
2.2. Hà Nội - từ chốn ngụ cư đến những trang văn “hóa tâm hồn”<br />
Hà Nội- mảnh đất ngàn năm văn hiến đã, đang và sẽ là nguồn cảm hứng bất tận trong<br />
suối nguồn sáng tác của các nghệ sĩ, trong đó có các nhà văn. Trong số những nhà văn<br />
đương đại viết về Hà Nội, Đỗ Bích Thuý là cái tên mới nhưng đã để lại dấu ấn trên văn<br />
đàn. Bằng độ lùi nhất định về không gian, thời gian cộng với những quan sát giàu trực<br />
cảm, những trải nghiệm quý giá, Đỗ Bích Thuý, nhà văn xuất thân từ miền núi đã phân<br />
thân bản ngã văn chương, vừa viết về quê hương máu thịt, vừa viết về chốn ngụ cư<br />
thương nhớ. Đỗ Bích Thuý khẳng định ngọn nguồn cảm xúc của những tác phẩm viết<br />
về Hà Nội chính là tình yêu với cuộc sống và con người chốn nơi đây: “Nhưng tôi yêu<br />
Hà Nội và tôi sẽ viết về nó với tình yêu ấy, với nỗi xúc động run rẩy khi nghĩ về nó, như<br />
khi người đàn ông đem lòng yêu một cô gái, anh ta nhất định phải tìm cách thổ lộ” [3].<br />
Một số truyện ngắn (Chiếc hộp khảm trai, Sương khói mịt mờ, Đàn bà đẹp, Trong đám<br />
đông có một ánh mắt), tản văn (Nhớ Hà Nội, Chuyển nhà, Dâu da xoan, Hồn nhiên và<br />
thanh bình....) và đặc biệt là tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là của chị đã mang đến một bức<br />
tranh đời sống phố thị đa dạng, những mảng màu trong quá trình đô thị hóa có lúc chói<br />
gắt, có lúc xám xịt nhưng vẫn ẩn chứa những nốt trầm truyền thống đáng quý.<br />
<br />
30<br />
<br />
NGUYỄN THỊ THU HÀ – LÊ THỊ HƯỜNG<br />
<br />
Trong Cửa hiệu giặt là, Đỗ Bích Thuý viết về phần đời đã qua bằng tất cả cảm xúc đắm<br />
say của một người đã biết thế nào là tình yêu Hà Nội. Cũng là kí ức về phố phường Hà<br />
Nội nhưng nếu Phố vẫn gió (Lê Minh Hà), Dằng dặc triền sông mưa (Đỗ Phấn) chất<br />
chứa kỷ niệm về Hà Nội thời thơ ấu; Ba ngôi của người(Nguyễn Việt Hà) xuyên thời<br />
gian để cảm nhận sự đổi thay của thành phố thì Cửa hiệu giặt là ánh lên cái nhìn hài<br />
hước, hóm hỉnh qua tình yêu với một góc phố nhỏ Hà Nội. Lại nữa, cũng viết Hà Nội<br />
thời đô thị hóa nhưng nếu Đỗ Phấn nhìn nhận các vấn đề của đô thị một cách thấu triệt<br />
để thấy một Hà Nội đang rệu rã, những giá trị văn hóa của mảnh đất ngàn năm đang bị<br />
xâm lấn, dồn đuổi một cách quyết liệt và thô bạo (Chảy qua bóng tối, Rừng người) thì<br />
Đỗ Bích Thúy viết về sự nhốn nháo, thay đổi của Hà Nội từ góc nhìn nữ giới, nhẹ<br />
nhàng, trầm lắng. Hà Nội của Thúy dẫu có xô bồ, đứt gãy các giá trị văn hóa nhưng tận<br />
sâu vẫn cất giữ những vẻ đẹp trầm mặc, bình yên.<br />
Cũng như nhiều tác phẩm viết về đô thị khác, nhân vật chủ yếu của Cửa hiệu giặt là là<br />
tầng lớp thị dân gồm cả người Hà Nội gốc và dân nhập cư với muôn hình vạn trạng<br />
cuộc đời, số phận, tính cách cùng xuất hiện. Bằng kết cấu lắp ghép, Đỗ Bích Thúy đã<br />
ghép những mảnh đời cạnh nhau, vừa tương hợp vừa đối lập để làm nên một góc nhỏ<br />
Hà Nội vừa xô bồ, vừa trầm lắng. Chừng ấy con người, chừng ấy mảnh đời cứ mặc<br />
nhiên sống, làm việc, vui buồn sướng khổ dựa vào nhau, gắn với nhau, tạo nên một góc<br />
Hà thành thu nhỏ. Từ một không gian hẹp, một ô cửa nhỏ, nhà văn đã phóng chiếu cái<br />
nhìn toàn cảnh quá trình chuyển dịch nội tại trong đời sống phố thị. Quá trình đô thị hóa<br />
đã, đang tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến quan niệm, lối sống của người dân cũng như<br />
để lại nhiều hệ lụy đáng buồn. Cùng với Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Phong Điệp và<br />
nhiều nhà văn khác, Đỗ Bích Thúy đã góp tiếng nói để cùng truyền đi thông điệp về tính<br />
bền vững trong quá trình phát triển của Hà Nội hôm nay. Đọc Cửa hiệu giặt là, người<br />
đọc hẳn sẽ ngạc nhiên khi vẫn gặp đâu đó những điều tinh tế, xưa cũ như trong văn<br />
Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Khải. Bằng cái nhìn nữ tính, Đỗ Bích Thúy đã lồng ghép<br />
vào bức tranh phố thị trong quá trình đô thị hóa một Hà Nội xưa lắm, bình yên, trầm<br />
mặc với những nốt trầm truyền thống. Nếu Hà Nội của Vũ Bằng hiện lên đậm đặc bản<br />
sắc văn hóa từ không gian thiên nhiên đẹp đẽ, tinh tế chuyển mình qua mười hai tháng<br />
trong một năm đến không gian sinh hoạt văn hóa cổ truyền (Thương nhớ mười hai);<br />
Thạch Lam ấm cúng với những món ăn tinh tế, những ký ức ấm áp về phố cổ Hà<br />
thành(Hà Nội băm sáu phố phường); Tô Hoài là 36 phố phường rộn ràng tiếng leng<br />
keng tàu điện với tà áo dài tha thướt của thiếu nữ Hà Nội (Chuyện cũ Hà Nội) thì Hà<br />
Nội của Đỗ Bích Thúy cũng có những khoảnh khắc nên thơ, trầm mặc. Hà Nội thanh<br />
tịnh, bình an, thảnh thơi đến lạ lùng khi nắng sớm xiên qua ô cửa nhỏ, soi vào tận đáy<br />
chén nước chè trong vắt, những tiếng kinh vẳng trong những buổi sớm mùa đông hay<br />
trong đêm vắng, khói trà vẩn trong sương sớm, những chiếc lá long não khô xác quẹt<br />
trên hè phố lẹt xẹt; khi gặp đâu đó những cái ban thờ nhỏ sau cây đa có những rễ dài,<br />
buông xuống như tấm mành mà người nhang khói là bà hàng nước hay ông cắt tóc...<br />
Kết cấu lắp ghép của tiểu thuyết Cửa hiệu giặt là thể hiện quan niệm mới về hiện thực<br />
của Đỗ Bích Thúy. Đó là một hiện thực không toàn vẹn, một hiện thực rời rạc, một cuộc<br />
sống đang ngổn ngang, bừa bộn. Mỗi mảnh vụn hiện thực tự nó là một câu chuyện, một<br />
<br />