intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phần 2: Tài nguyên năng lượng

Chia sẻ: Nguyễn Văn Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:21

154
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trình bày về các tài nguyên năng lượng như: than, đá dầu, Uran, khí đốt và trình bày về tiềm năng địa nhiệt. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phần 2: Tài nguyên năng lượng

  1. Phần 2­ TÀI NGUYÊN NĂNG LƯỢNG 2.1. Than Tài nguyên khoáng sản năng lượng than đã được biết đến từ lâu ở nước ta. Tuy nhiên, mãi tới  đầu thế kỷ 19 một số mỏ ở Đông Triều, Mạo Khê mới bắt đầu được khai thác. Trong thời kỳ Pháp thuộc, năm 1888, vùng mỏ than Đông Triều, Mạo Khê, Quảng Ninh hoàn  toàn thuộc tập đoàn tư  bản Pháp Marty sau hiệp  ước triều đình nhà Nguyễn nhượng bán với giá 9  triệu franc trong thời hạn 99 năm. Từ 1900 đến 1913, Pháp đã “bình định” xong Đông Dương. Chính quyền Pháp đề ra chính sách   ưu tiên được quyền làm chủ mỏ (nếu muốn) cho những người được cấp giấy phép đi tìm mỏ mà phát   hiện ra mỏ. Do đó đến cuối năm 1906, các điểm than ở thượng du Bắc kỳ đều đã được phát hiện và tổ  chức khai thác như Đồng Đỏ  (Hà Tĩnh), Khe Bố  (Nghệ An), Đầm Đùn (Nho Quan, Ninh Bình), Làng   Cẩm, Quán Triều (Thái Nguyên), Bố Hạ (Bắc Giang)….   Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 cho đến nay, công tác tìm kiếm thăm dò khai   thác than được tập trung chủ yếu ở bể than Quảng Ninh, và các vùng khác trên cả nước. 2.1.1. Các bể than Trên cơ sở các tài liệu hiện có, các nhà nghiên cứu than Việt Nam đã phân chia và khoanh định  10 khu vực chứa than (Hình  3.18) gồm các bể và dải than sau:
  2. Hình 3.18. Sơ đồ vị trí các bể than ở Việt Nam (Nguồn: Trần Văn Tri, Tài nguyên địa chất Việt Nam 2010)
  3. Bể than Quảng Ninh  Bể  than Quảng Ninh có dạng cung, kéo dài trên 250 km từ  Linh Đức  ở  rìa tây dãy Tam Đảo   (Tuyên Quang) qua Đông Triều đến Hòn Gai, Cẩm Phả, Kế Bào (Quảng Ninh), được lấp đầy bởi các   trầm tích chứa than thuộc hệ tầng Hòn Gai tuổi Nori­Ret. Cấu trúc­kiến tạo của bể than rất  phức tạp,  gồm hai địa hào là Bảo Đài ở phía bắc và Hòn Gai ở phía nam, có nhiều nếp uốn và đứt gãy (hình 3.19).  Các vỉa than ở bể than Quảng Ninh có nhiều hình dạng, từ dạng lớp, dạng vỉa đơn giản, tương đối   ổn định, đến dạng vỉa phức tạp, dạng thấu kính, đặc biệt có dạng vỉa phân nhánh đuôi ngựa rất phức tạp   như vỉa Dày và vỉa G ở Lộ Trí (hình 3.20). Theo thống kê ở 35 tụ khoáng than, 568 vỉa than được khảo sát có  3,3 %  vỉa dạng thấu kính; 64,4 % vỉa   dạng rất phức tạp­không ổn định chiều dày;  25,9 % vỉa dạng phức tạp­tương đối ổn định chiều dày; và 6,4 % vỉa  dạng đơn giản­ổn định chiều dày.                Dự  báo tài nguyên than được thực hiện theo các chỉ  tiêu cơ  bản sau: Độ  tro tối đa của mẫu   đơn và độ tro kể cả độ làm bẩn của vỉa than (Akmax) ≤ 45 %. Bề dày tối thiểu của vỉa than kể cả các  lớp kẹp (có bề dày ≤ 50 % tổng bề dày các lớp than) ≥ 0,4 m. Độ sâu dự báo tài nguyên đến ­1500 m.   Độ sâu tính trữ lượng tối đa đến ­400 m.  Hình 3.19. Sơ đồ phân khối cấu trúc bể than Quảng Ninh  Chỉ dẫn: 1) Địa hào Bảo Đài;  2) Địa hào Hòn Gai;  3) Đứt gãy phân khối kiến trúc.                                                   (Nguồn: Trần Văn Trivà nnk, Tài nguyên địa chất Việt Nam 2010) Tổng trữ lượng và tài nguyên các cấp 111+121+122+333   (tương  ứng cấp A+B+C1+C2): 4,1 tỷ  tấn. Tổng tài nguyên dự báo  ở bể than Quảng Ninh: 10,5 tỷ tấn [Trần Văn Tri và nnk, 2005]
  4. Hình 3.20. Than dạng vỉa phân nhánh đuôi ngựa rất phức tạp ở  tụ khoáng Lộ Trí (vỉa Dày và vỉa G) (Nguồn: Trần Văn Tri và nnk, Tài nguyên địa chất Việt am 2010) Bể than Thái Nguyên­An Châu Bể than Thái Nguyên­An Châu kéo dài khoảng 150 km theo phương ĐB­TN, phân bố trong các trầm   tích lục nguyên – carbonat hệ tầng Văn Lãng tuổi Nori­Ret, có bề 200­600 m, trung bình 300 m. Số lượng vỉa   than nhiều nhất lên đến 10 vỉa, trong đó số vỉa đạt chiều dày công nghiệp là 5 vỉa. Bể than thái Nguyên­An   Châu tồn tại hai loại than: antracit và bitum Trữ lượng và tài nguyên:  Than bitum có tổng trữ lượng và tài nguyên các cấp 111+121+122+333 (A+B+C 1+C2): khoảng 5  triệu tấn (2006); tài nguyên (334): 7 triệu tấn. Than anthracit có tổng trữ lượng các cấp 111+121+122+333 (A+B+C1+C2): 85 triệu tấn (2006); tài  nguyên (334): 70 triệu tấn. Bể than Sông Đà  Bể Sông Đà thuộc miền Tây Bắc Bộ, phân bố trong các trầm tích kiểu paralic được xếp vào  các hệ tầng Yên Duyệt tuổi Permi muộn, Suối Bàng tuổi Trias muộn, bậc Nori­Ret và trầm tích kiểu   limnic được xếp vào hệ tầng Hang Mon tuổi Oligocen­Miocen gi ữa. Trong bể than Sông Đà có mắt 3  loại than: antracit (biến chất cao); bitum (bi ến chất trung bình) và lignit (biến chất thấp).    Tổng bề dày than toàn vỉa từ 1,97 đến 2,60 m. Số lượng các vỉa than từ 2 đến 27 vỉa, trong đó, số vỉa   đạt bề dày công nghiệp từ 2 đến 12 vỉa. Số lượng các vỉa than lignit từ 3 đến 5 vỉa.   Tài nguyên, trữ lượng: Than lignit­á bitum có tổng trữ lượng cấp 122+333 (C 1+C2) gần 2 triệu  tấn.  Than bitum có tổng trữ lượng các cấp 121+122+333 (B+C1+C2) hơn 8 triệu tấn, tài nguyên (334):  63 triệu tấn. Than anthracit có tổng trữ lượng các cấp 122+333 (C 1+C2): 1,3 triêu tấn, tài nguyên 334  (P1+P2): 2 triệu tấn. Bể than Sông Hồng  Bể than Sông Hồng trong phần đất liền thuộc miền võng Hà Nội và kéo dài ra vịnh Bắc Bộ,   gồm các trầm tích Đệ tam tướng sông, hồ và đầm lầy ven biển. Ở phần đất liền, các vỉa than thuộc bể than Sông Hồng tập trung chủ yếu trong hệ tầng Tiên Hưng   tuổi Miocen muộn; ngoài ra, còn gặp một vài vỉa than mỏng trong hệ tầng Phù Cừ tuổi Miocen giữa.  Ở phần thềm lục địa của bể than, đến năm 2007 đã có 16 lỗ khoan thăm dò dầu khí, trong đó ở  nhiều lỗ khoan đã gặp than và sét than dưới độ  sâu 350­3500 m. Các vỉa than phân bố  trong các trầm   tích Oligocen và Miocen trung­thượng. Tổng bề dày các vỉa than: 3­53 m.
  5.  Tài nguyên than: Trên phần đất liền (trũng Hà Nội), diện tích phân bố  khoảng 3500 km 2, có  tổng tài nguyên: 37 tỷ tấn (đến ­1700 m); trong đó, thuộc phạm vi khối Khoái Châu­Phủ Cừ  là 5,7 tỷ  tấn, phạm vi khối Tiên Hưng­Kiến Xương là hơn 31 tỷ tấn.  Bể than Nghệ­Tĩnh Bể  than Nghệ­Tĩnh phân bố  hạn chế   ở Bắc Trung Bộ gồm các trầm tích chứa than chủ yếu   tướng   lục   địa   được   xếp   vào   các   hệ   tầng   Đồng   Đỏ   tuổi   Trias   muộn,   Nori­Ret   và   Khe   Bố   tuổi   Oligocen­Miocen giữa. Bể  than Nghệ  Tĩnh có mắt 3 loại than: antracit (biến chất cao); bitum (biến   chất trung bình) và lignit (biến chất thấp).    Tổng tài nguyên, trữ lượng than ở bể Nghệ­Tĩnh phân theo các nhãn than như sau: than lignit­á  bitum: 122+333 (C1+C2) là 0,8 triệu tấn; tài nguyên dự  báo 334 (P 1+P2) là 0,5 triệu tấn; than bitum:   122+333 (C1+C2) là 0,8 triệu tấn; than anthracit: 333 (C 2) là 2,2 triệu tấn; tài nguyên dự báo 334 (P 1) là  9,5 triệu tấn. Bể than Nông Sơn Bể  than Nông Sơn phân bố   ở  tỉnh Quảng Nam, có dạng địa hào, đặc trưng bởi các trầm tích  lục địa chứa than, được xếp vào hệ tầng Sườn Giữa tuổi Trias muộn, bậc Ret. Bể  than Nông Sơn có trên 10 vỉa than, chủ  yếu dạng thấu kính hoặc dạng vỉa tụ  khoángng.   Các vỉa than phân bố ở tụ khoáng Nông Sơn có 5 vỉa, tụ khoáng Ngọc Kinh có 5 vỉa, tụ khoáng Sườn  Giữa có 8 vỉa. Chiều dày các vỉa than từ 0,42 đến 41,30 m. Than thuộc loại antracit (biến chất cao). Tổng trữ lượng và tài nguyên các cấp 121+122+333 (B+C 1+C2) là 11,3 triệu tấn (đến ­200 m);  tài nguyên dự báo (334) khoảng 13,5 triệu tấn. Dải than Cao Bằng­Lạng Sơn  Dải than Cao Bằng  Lạng Sơn gồm các thành tạo chứa than Đệ tam phân bố dọc theo đứt gãy  Cao Bằng­Tiên Yên, còn gọi là đứt gãy Quốc lộ  4. Dải này không liên tục, kéo dài từ  Hoà An, Thất   Khê (Cao Bằng), đến Lộc Bình (Lạng Sơn). Các trầm tích chứa than được xếp vào hệ tầng Nà Dương  tuổi Oligocen. Tụ khoáng điển hình là Na Dương, có 9 vỉa than lignit­á bitum, bề dày các vỉa từ 0,4 đến 16,5 m.  Trữ lượng các cấp (2006) đã tính khoảng  97 nghìn tấn, trong đó 99 % thuộc tụ khoáng Na Dương. Bể than Đệ tam Cửu Long   Bể  trầm tích Đệ  tam Cửu Long có diện tích khoảng 50.000 km2, nằm trên thềm lục địa ĐN  Việt Nam. Nhiều lỗ khoan thăm dò dầu khí đã phát hiện trong các trầm tích Oligocen­Miocen có chứa  than lignit đến á bitum. Diện tích phân bố trầm tích chứa than gần 22.000  km2, có dạng elip, nằm dọc  theo bờ biển từ  Phan Rang, Phan Thiết đến mũi Cà Mau. Các vỉa than nằm  ở  chiều sâu từ  ­726 đến  ­2.592 m.   Tài nguyên suy đoán (334b) theo các tài liệu thăm dò dầu khí khoảng 142 tỷ tấn (?), trong đó,   đến ­1000 m là 45 tỷ tấn và dưới ­1000 m là 97 tỷ tấn [VITE, 2007].  Bể than Đệ tam Nam Côn Sơn   Bể  trầm tích Đệ  tam Nam Côn Sơn nằm  ở  thềm lục địa ĐN Việt Nam, thuộc khu vực quần   đảo Phú Quốc. Diện tích của bể  khoảng 100.000 km 2. Trong nhiều lỗ  khoan gặp các vỉa than và sét   than trong trầm tích Oligocen­Miocen ở độ sâu từ ­1200 đến hơn ­4460 m. Diện tích phân bố trầm tích  chứa than là 53.240 km2.  Bề dày các vỉa than từ 0,5 đến 6 m, trung bình 1,37 m. Tổng bề dày các vỉa than thay đổi từ 3  đến 153 m, trung bình 37 m. 
  6. Tài nguyên suy đoán (334b) theo các tài liệu thăm dò dầu khí khoảng 647 tỷ tấn than (?)  ở độ  sâu dưới ­1000 m [VITE, 2007]. Bể than Đệ tam Mã Lai­Thổ Chu Bể Mã Lai­Thổ Chu phân bố ở thềm lục địa TN Việt Nam, thuộc khu vực giáp ranh với lãnh hải   Thái Lan và Indonesia. Phần diện tích thuộc lãnh hải Việt Nam khoảng 40.000 km2. Các vỉa than được  phát hiện từ chiều sâu ­179 đến hơn ­3.202 m, trong các trầm tích Oligocen­Miocen.  Số lượng các vỉa than khá lớn, có chỗ tới 100 vỉa (lô 50). Bề dày các vỉa than từ 13 đến 165 m,   trung bình 43,72 m, trong đó các lớp than phân bố ở chiều sâu dưới ­1000 m, có tổng bề dày từ 5 đến   37 m, trung bình 18 m; còn ở chiều sâu trên ­1000 m, tổng bề dày các vỉa than từ 19,64 đến 153 m, trung   bình 37 m.  Tài nguyên suy đoán (334b) theo các tài liệu thăm dò dầu khí khoảng 1.482 tỷ tấn (?), trong đó,  đến ­1000 m là 728 tỷ tấn và dưới ­1000 m là 754 tỷ tấn [VITE, 2007]. 2.1.2. Phân loại than khoáng Dựa vào đặc điểm và tính chất của than ph ục v ụ  cho các mục đích khác nhau của nền   kinh tế  than khoáng đượ c phân chia thành các nhóm: antracit, bitum và lignit. Cho đế n nay đã có  136 t ụ  khoáng đượ c điều tra, thăm dò, khai thác, trong đó 82 tụ  khoáng, antracit; 37 t ụ  khoáng   bitum; và 17 tụ khoáng lignit. Nhóm than antracit (than biến chất cao). Nhóm than antracit v ới gi ới h ạn V chg từ 17% trở xuống và không kết dính, y: 0 mm. Chúng  đượ c tập trung ch ủ y ếu v ới tài nguyên lớn trong các bồn trầm tích Trias muộn­Jura sớm  ở  Đông  Bắc, Tây Bắ c Bộ, bắc Trung B ộ ; và Trung Trung Bộ. Ngoài ra than biến chất cao nh ưng quy mô   nhỏ bé còn gặ p rải rác trong các bồn trầm tích Permi mu ộn ở Bắc B ộ.  Đã ghi nhận antracit có mặt trong các bể  Quảng Ninh, Thái Nguyên – An Châu, Nghệ  Tĩnh, và Nông Sơn Trong s ố các vùng nêu trên, bể than Quảng Ninh có tiềm năng than antracit l ớn   nhất. Ở  bể  than Quảng Ninh, than antracit có chất lượng cao, nổi tiếng trên thế  giới từ thời Pháp.   Đặc điểm chính các khối địa chất­cấ u trúc chứa than đượ c thể  hiện trong bảng 3.2 Đặc điểm chính các khối địa chất­cấ u trúc chứa than ở bể than Quảng Ninh     Bảng 3.2    Đặc ĐỊA điểm HÀO ĐỊA HÀO HÒN GAI chính BẢO các ĐÀI khối Mạo Địa Hồ Yên Đồng Phả Đông Khê- Uông Yên Hòn Cẩm chất- Kế Bào Thiên Tử Vông Lại Triều Tràn Bí Lập Gai Phả cấu Bạch trúc Diện tích chứa 48,6 73 10,1 133 180,5 152,3 92 87,3 210,9 127,1 76 than, km 2 Chiều dày tầng 200- 300- 600- 2000- 150- 500- 500- 300- 450 500 2000 sản 250 700 800 2900 800 1400 1500 1300 phẩm, m Số Chung 6-7 6-15 13 5-6 8-20 22-61 6-12 8-26 2-20 4-26 27 lượng
  7. vỉa Công 1-2 3-13 4-6 4 4-11 15-27 2-9 2-13 2-14 3-19 2-16 than, m nghiệp Chiều dày vỉa 11,5 24,8 6,5 1,8 18,3 31 12,2 11,8 56 92 5 lớn nhất, m 9- 12,4- 23,7- 127,5- 11,2- 8,3- 26,5- Chiều Chung 18,7 - 24-82 27 10,8 38,5 30,6 166,6 28 41 150 dày vỉa than, m Công 3,8- 6,7- 68,9- 3,1- 1,6- 20,5- 25- 10,9 - 20,9 15,7 nghiệp 7,2 25,8 92,4 11 18,4 82 107,3 Trữ A+B+C1 9,8 518,5 80,1 - 26,5 541,6 19,3 19,6 387,3 845,3 42,4 lượng địa C2 16,8 194,8 - 50 19,5 26,7 18,7 172,1 252,8 749,0 73,0 chất, triệu Tổng tấn 26,6 713,3 80,1 50 46 568,3 38,0 191,7 640,1 1644,3 115,4 cọng Tổng tài nguyê 281 1451 177 128,4 388 1621 64 948 1941 3133 367 n, triệu tấn Mật độ chứa Địa chất 0,55 9,77 7,93 0,37 0,25 3,73 0,21 2,19 3,03 12,94 1,52 than, triệu Dự báo 5,78 19,87 17,56 0,96 2,15 10,64 0,70 10,86 9,20 24,64 4,83 tấn/km 2 (Nguồn: Trần Văn Tri và nnk, Tài nguyên khoáng sảnt Việt Nam 2005) Than antracit  ở Qu ảng Ninh ch ủ y ếu là là than Claren chi ếm 85­100% chi ều dày vỉa than,   tiếp đế n là than đuren­claren: 8­10% chi ều dày vỉa than, còn lại các loại than khác chiếm vài phần  trăm chiều dày vỉa là những l ớp m ỏng hay th ấu kính. Than có hàm lượ ng và thành phầ n nhóm   vitrinit chi ếm 85­100% v ới các nhãn hi ệu t ừ bán antracit đế n antracit phân bố   ở  đị a hào Hòn Gai;   than biến chất cao th ể  hi ện rõ  ở  khối Mạ o Khê­Tràng Bạch; trong khi đó than antracit và siêu  antracit tập trung ch ủ y ếu trong địa hào Bảo Đài. Ở Bể than Thái nguyên­An Châu đã có công tác thăm dò khai thác xác nhậ n than có quy mô  nhỏ  và chất lượ ng không đều. Trầm tích chứa than l ục nguyên ­carbonat đượ c xếp vào hệ  tầng  Vân Lãng (T3vl) chứa các hóa thạch biển nông ven b ờ  hoặc cửa sông đầ m lầy nướ c lợ  cũng có  tuổi Nori­Ret v ới chi ều dày khoảng 700 m vùng Thái Nguyên đến 2400 m vùng An Châu, đồng  thời số lượ ng vỉa than cũng giảm dần. Tụ khoáng Đông Nam Chũ   thuộc huyện L ục Ng ạn, t ỉnh B ắc Giang, có 5 vỉa than cấu tạo   t ươ ng  đối  đơn giả n,  trong  đó  có  3  vỉa   đạt  chiều dày  công nghi ệp.  Tr ữ   lượ ng 257,4  ngàn tấ n   antracit, độ tro trung bình 8­16% và độ lưu huỳnh thấp. Tụ khoáng Bố  Hạ   thuộc huyện Yên Thế, t ỉnh Bắc Giang, đã đượ c khai thác từ  trướ c năm   1945 và sau này đã thăm dò lại. Tụ  khoáng có 8 vỉa than, trong đó 4 vỉa chiều dày thay đổ i từ  0,5   m đến 25,8 m cấu trúc phức tạp. Tr ữ l ượ ng 4,5 tri ệu t ấn antracit. Nhóm tụ  khoáng Bắc Thái Nguyên,  gồm 3 tụ  khoáng Ba Sơn­Quán Triều, Núi Hồng chứa  than antracit, còn tụ  khoáng Phấn Mễ  ch ứa than bitum (than bi ến ch ất trung bình) sẽ  đượ c mô tả  ở phần sau
  8. Tụ  khoáng Ba Sơn­Quán Triều  cách TP Thái Nguyên chừng 6 km về  phía tây bắc, với 6   vỉa than cấu trúc phức tạp trong đó 4 vỉa than công nghiệp có trữ  lượ ng các cấ p (B+C 1+C2) là  64.986 ngàn tấn (B+C 1) là 44.689 ngàn tấn. Than bi ến ch ất cao  ở đây thuộc loại than gầy, độ  tro  trung bình và l ưu huỳnh từ trung bình đến cao. Tụ khoáng Núi Hồng  cách TP Thái Nguyên chừng 50 km về phía tây­tây bắc, thuộc huyện   Văn Lãng, t ỉnh Thái Nguyên, nơi có mặt cắt chuẩn của h ệ t ầng Văn Lãng (T 3n­r vl) chứa đế n 20  vỉa hoặc thấu kính than có nơi dày đế n 33 m, cấu trúc phức tạp, không  ổn đị nh. Trữ  lượ ng đã   thăm dò đế n 15 triệu tấn. Than Núi Hồng có độ  tro trung bình 13,89%, chất b ốc 8%, l ưu hu ỳnh   1,84%, nhi ệt năng 8.250 kcal/kg,  đặc biệt hàm lượ ng Ge, Ga khá cao ..., cần l ưu  ý công nghệ  tuyển, thu h ồi tăng hiệu quả s ử dụng. Bể  than Sông Đà . Than antracit  ở  b ể  than Sông Đà chất l ượ ng không cao, do vậy có văn   liệu cho là than bán antracit. Đặc trưng là tụ  khoáng Chiềng Ken thuộc huy ện Văn Bàn tỉnh Lào   Cai   đã   đượ c   điều   tra  đánh  giá,   than   có  các   chỉ   tiêu  kỹ   thuật   sau:   Q=7716 cal/g; V=3,14­5,52%;  W=4,46­6,95%; A=33,67%; N=0,57­2,13%; S=0,26­3,87%. Bể  than Nghệ  Tĩnh. Các bồn trầm tích Nori­Ret  ở  Bắc và Trung Trung Bộ  ch ủ  y ếu là  t ướ ng l ục địa lẫn ven biển có các tụ  khoáng hoặc vùng than tách biệt nhau nh ư  Pù Sạ ng, Đồ ng   Đỏ và Nông Sơn. Vùng than Pù Sạng , huyện M ườ ng Xén, t ỉnh Ngh ệ An, n ằm trong h ệ t ầng Đồ ng Đỏ  (T 3n­ r đđ) với 3 v ỉa than đều không ổn định, trong đó có 2 vỉa dày 0,6 và 1,9 m. Tài nguyên dự báo khoảng 21 tri ệu t ấn antracit có độ tro và lưu huỳnh cao. Bể  than Nông Sơn   thuộc các huyện Đại Lộc, Quế  S ơn, t ỉnh Qu ảng Nam  đã dượ c khai   thác t ừ  trướ c năm 1945, nằm trong lo ạt Nông Sơn tạo thành nếp lõm lớn thoải, dạng trũng địa   hào, nằm không chỉnh h ợp trên các đá không đồng nhất c ổ  h ơn. Loạt Nông Sơn gồm hai hệ  tầng   An Điềm (T3n ađ)  ở  dướ i và Sườ n Gi ữa (T 3r sg)  ở  trên, chứa than có phức hệ  thực vật ki ểu Hòn  Gai. Bể  than Nông Sơn có 10 vỉa cấu tạo đơn giả n, nhưng chỉ  có 3­5 vỉa đạ t chiề u dày từ  0,6   đế n 25,7 m  ở  các t ụ  khoáng Nông Sơn, Ng ọc Kinh và Sườ n Giữa có trữ  lượ ng chung là 10 triệu  tấn antracit, mã hiệu 100B có độ  tro trên 25%, l ưu huỳnh trên 2,5%. Đáng chú ý là trong trầm tích   chứa than ở đây đã phát hiện đượ c quặng urani xâm nhiễm, tích tụ theo lớp đang đượ c đánh giá. Ngoài những tụ  khoáng hoặ c nhóm tụ  khoáng than khoáng nêu trên, còn gặ p rải rác than   antracit tu ổi Permi mu ộn v ới quy mô rất nhỏ  nh ư   ở  các vùng Thanh Hóa, Hòa Bình, Hà Tây, Hà   Giang, Thái Nguyên, Lạng S ơn, Quảng Ninh và than tuổi Trias gi ữa cũng có quy mô rất nhỏ. Tóm lại, tổng tr ữ  l ượ ng xác định và dự  tính cấ p 121+122+333 (A+B+C 1+C2) c ủa 82 t ụ  khoáng trong số  136 t ụ  khoáng than antracit (than bi ến ch ất cao)  ở  Vi ệt Nam là 4,2 t ỷ  tấn; tài   nguyên dự báo 334 khoảng 10,6 t ỷ t ấn. Nhóm than bitum (than biến chất trung bình). Nhóm than bitum g ồm các nhãn than kết dính (than không có độ  kết dính đượ c xếp vào   nhóm than biến chất thấp hoặc nhóm than biến chất cao); đó là các nhãn than kết dính (kd), than cốc   (k), than cốc­mỡ (km), than mỡ (m), than khí­mỡ (khm) và than khí (kh).   Nhóm than bitum phần lớn nằm trong các bồn trầm tích Trias muộn thuộc các bể  than Sông  Đà (Tây Bắc Bộ), Thái Nguyên­An Châu và Nghệ Tĩnh.
  9. Bể  than Thái Nguyên­An Châu: than bitum được biết đến từ  lâu  ở  tụ  khoáng thuộc mỏ  than   Phấn Mễ. Than  ở  đây thu ộc loại c ốc­m ỡ, độ  tro và lưu huỳnh trung bình, trữ  lượ ng 2.100 ngàn   tấn, hiện tại đang khai thác gần hết. Bể  than Sông Đà:   Nhóm tụ  khoáng Qu ỳnh Nhai   thuộc huyên Quỳnh Nhai, t ỉnh S ơn La,   gồm các tụ khoáng nhỏ Bản Mứn, Nà Sung và các điể m than khoáng Pom Khem, Co C ủ, Hu ổi La. Tụ  khoáng Bả n M ứn đã đượ c tìm kiế m, khảo sát xác định đượ c 5 vỉa than có chiều dày  0,5­1,1 m, không ổn định theo cả đườ ng phươ ng và hướ ng dốc , với tài nguyên tính đượ c 10 triệ u   tấn đến độ  sâu 300 m. Tuy nhiên sau này đã thăm dò 3 vỉa tính tr ữ  lượ ng ch ỉ  có 173 ngàn tấn.   Than khoáng ở đây chủ yếu là than ánh claren­fusinit ki ểu colinit h ỗn h ợp, nhãn khí­mỡ, độ tro và  l ưu huỳnh cao, nhi ệt năng trung bình 7.627 kcal/kg. Tụ khoáng Nà Sung có 5 vỉa than v ới chi ều dày thay đổi rất nhanh t ừ 0 đế n 7,2 m, cấu tạo   phức tạp, tr ữ lượ ng 168 ngàn tấn, thu ộc loại than ánh, nhãn khí­mỡ. Nhìn chung than nhóm tụ  khoáng Qu ỳnh Nhai có chất l ượ ng t ốt nh ưng phân bố  trên diệ n  hẹp, quy mô nhỏ, độ  chứa than không  ổn định, với nhiều đứt gãy phá hủy, các vỉ a than uốn nếp,   cắm dốc. Tuy nhiên cần xem xét sớm hướ ng s ử dụng tr ướ c khi thi công đậ p thủy điệ n Sơn La. Nhóm tụ  khoáng Yên Châu  phân bố   ở  huyện Yên Châu, t ỉnh Sơn La, hình thành trong địa   hào hẹp kéo dài gần 100 km, gi ới h ạn b ới các đứt gãy rìa phươ ng TB­ĐN, nhiều nơi cấu tạo   chờm ngh ịch, g ồm các tụ khoáng Tô Pan, Ke Lay, Mườ ng L ựm ... Tụ khoáng M ườ ng L ượ m nằm cách thị trấn Yên Châu 20 km về phía đông­đông nam, có 5  vỉa than với cấu t ạo và chi ều dày rất biến đổi, trong đó 3 vỉa đã thăm dò tính trữ  lượ ng cấ p C 1 là  70,1 ngàn tấn, cấp 333 (C 2) là 102,5 ngàn tấn. Than M ườ ng L ựm có thể  luyện côc tốt với độ  ẩ m   trung   bình   4,62%,   độ   tro   19,74%,   chất   bốc   cháy   33,15%,   lưu   huỳnh   2,16%,   nhi ệt   năng   7.562  kcal/kg, X=33­37 mm, Y=9­12 mm thu ộc lo ại claren­colinit h ỗn h ợp v ới vi thành phầ n vitrinit 80­ 85%, fusinit 5­15%, leipitit 0­5%. Tụ  khoáng Kẻ  Lay nằm về  phía bắ c cùng xã Mườ ng Lựm, có 5 vỉa than mỏng với tài   nguyên khoảng 1,2 tri ệu t ấn, trong đó cấp 122+333 (C 2+P1) là 237 ngàn tấn, có thành phần gần  gi ống than M ườ ng L ượ m, nh ưng pyrit xâm nhiễm nhiều hơn. Tụ  khoáng Tô Pan cách thị  trấn Yên Châu khoảng 4,5 km về  phía tây bắc, vỉa than thay   đổi nhiều v ề chi ều dày, đườ ng phươ ng, tr ữ lượ ng dự tính 122+333 (C 1+C2) khoảng 500 ngàn tấn  than khí­mỡ vitrinit, chất b ốc: 38,83%; độ tro: 16,95%; lưu huỳnh khá cao. Nhóm tụ  khoáng Vạn Yên  thu ộc huyện V ạn Yên, t ỉnh Sơn La, nằm trong địa hào hẹ p kéo  dài hơn 80 km, bị các đứt gãy dọc và ngang chia cắt thành các khối với số lượ ng các vỉa than tăng   dầ n vào trung tâm, từ  4­6 v ỉa  ở Núi Tọ, Suối Lúa đến 27 vỉa  ở  Suối Bàng, rồi lại giảm còn 4 vỉ a   ở  Tốc Lộc. T ổng tài nguyên 6.264 ngàn tấn, trong đó cấp C 1  là 332 ngàn tấn. Than Su ối Bàng  thuộc nhóm than bitum, độ  tro cao, l ưu hu ỳnh nhi ều, có thể  luyện cốc tr ực tiếp hoặc ph ối li ệu   với than Hòn Gai. M ức độ  biến chất tăng dần từ  nam lên bắc, tươ ng  ứng từ  than mỡ, cốc, c ốc­ kết dính, sang phía bắc sông Đà là than gầy­kết dính. Nhóm   tụ   khoáng  Hòa   Bình­Nho   Quan     nằm   trong  cánh   cung   Ninh   Bình,   gồm   nhi ều   tụ  khoáng nhỏ  và điểm than khoáng mà đặ c tr ưng là các tụ  khoáng Đồi Hoa, Đầ m Đùn, Vũ Lâm và   Hòa Mục. Số  lượ ng v ỉa than thay đổ i từ  1­6 như   ở  Định Giao, Vũ Lâm, Mườ ng Cọ  ... đế n 16 vỉ a   ở  Đồi Hoa và 26 vỉa  ở Đầm Đùn. Các vỉa than có chiề u dày thay đổ i lớn, cấu tạo phức tạp, phần   l ớn than có độ tro và lưu huỳnh cao. Tổng tài nguyên 23.963 ngàn tấn, trong đó trữ lượ ng là 8.935   ngàn tấn [61].
  10. Nhóm tụ  khoáng Điện Biên   thuộc  huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu, nằm trong hệ  t ầng   Suối Bàng (T3n­r sb) có cấu tạo nếp lõm thoải ph ươ ng TB­ĐN kéo tới biên giới Việt­Lào, gồm 7  khối địa chất­cấu trúc: Thanh An, Khâu Lệ nh, Tia Mông­Nà Sang, Noọng U­Sam M ần, Khao Keo   Lom, Pa Sa, Hu ổi Sa. Các vỉa than thườ ng có chiều dày mỏng 0,1­1,5 m; s ố  l ượ ng các vỉa có nơi   đế n 18, trong đó có 1­8 vỉa có giá tr ị. Than thu ộc loại khí­mỡ, độ  tro và lưu huỳnh thay đổi lớ n.  Tổng tài nguyên của nhóm tụ  khoáng Điện Biên là 76.570 ngàn tấn, trong đó trữ  lượ ng là 4.224  ngàn tấn. Tiếp về phía Mườ ng Lay, Mườ ng Tè phía tây bắ c còn có các điểm than khoáng Huổi Xay­ Nậm Pi ềng, Vàng Sâm, Nậm Thín, Mườ ng Pồn, Nậm U v ới quy mô nhỏ. Bể  than Nghệ  Tĩnh  đã ghi nhận t ụ  khoáng than Khe B ố  T ươ ng D ươ ng, Ngh ệ  An thu ộc   loại than bitum.  Than phân bố trong trầm tích Neogen thuộc hệ tầng Khe Bố. Các vỉa than phân bố ở  2 khu: ­ Khu A (bờ trái sông Cả) có 2 vỉa than. Chiều dày 0,47­7m. Chất lượng than: W pt: 2,49%; Ach:  16,94%; Vch: 26,49%; Sk: 1,65%; Pk: 0,03; Qk: 5757kcal/kg.  ­ Khu B (bờ phải sông Cả) có 3 vỉa than. Vỉa 1 dày  TB 3m, vỉa 2 và 3 ≤0,5m. Chất lượng than:   W : 1,45%; Ach: 19,24%; Vch: 24%; Qk: 6889kcal/kg; S: 1,66. pt Trữ  lượng: cấp 122 (C1): 1.320 ngàn tấn; cấp 333 (C2): 898 ngàn tấn; Tổng trữ  lượng cấp   122+333 (C1+C2): 2.218 ngàn tấn.  Tổng trữ  l ượ ng đượ c xác định cấp  111+121+122+333  (A+B+C1+C2)  của nhóm than bitum  (biến chất trung bình)  ở  Việt Nam kho ảng 17 tri ệu t ấn, tài nguyên dự  báo cấp 334 khoảng 79,5   triệu tấn.  Nhóm than lignit (than biến chất thấp). Thuộc nhóm lignit là các loại than không có độ  kết dính (phân chia của Mỹ, Canada và   Liên Xô tr ướ c đây) gồm than l ửa dài, than nâu các loại. Than c ủa nhóm này hoàn toàn thuộc tuổi   Neogen. Theo các tài liệu l ỗ khoan điều tra dầu mỏ khí đốt, than Neogen tu ổi Miocen gi ữa­mu ộn   [148]  ở  vùng trũng Hà Nội là nguồn tài nguyên lớn nhất về  than hi ện nay  ở  Vi ệt Nam.  Ở  đồ ng  bằ ng Sông Cửu Long, và thềm l ục địa cũng gặp các vỉa than xen trong các tầng chứa dầ u m ỏ  khí  đốt,  nh ưng ch ưa  đượ c đánh giá.  Các tụ  khoáng than nâu phân bố   ở  dọc   đớ i đứt  gẫ y sâu Cao  Bằng­Lạng S ơn nh ư  t ụ  khoáng Nà Dươ ng, đớ i đứt gẫy Sông Hồng, Sông Chả y, Sông Cả , Sông   Ba, Di Linh­B ảo L ộc...   đã đượ c khai  thác.  Sau  đây là phần mô tả  tóm  tắt tụ  khoáng than Nà   Dươ ng thu ộc dải Cao Bằng­L ạng S ơn và tụ  khoáng than Bình Minh Khoái châu thuộc bể  than  Sông Hồng  Tụ khoáng Nà Dươ ng   thu ộc huyện L ộc Bình, t ỉnh Lạng Sơn, cách thị xã Lạ ng Sơn 25 km   về  phía đông­đông nam, đã đượ c khai thác từ  lâu, nằm trong tr ầm tích sông­hồ  Miocen của hệ  tầng Nà Dươ ng (N 1 nd), tạo thành một n ếp lõm có 9 vỉa than chiều dày 0,4­23,7 m, cấu t ạo t ươ ng   đối phức tạp và ít ổn định. Kết quả  thăm dò đã tính trữ  l ượ ng cấp  111+121+122+333 (A+B+C1) là  103,9 triệu t ấn than lignit lo ại l ửa dài, trong đó cấp A là 10,5 triệu tấn, B là 43,6 triệu tấn. Than   có độ  tro cao: 37,20%, l ưu hu ỳnh: 6,20%, ch ất b ốc: 46,3%, nhi ệt năng: 7.280 kcal/kg, đặ c biệt   hi ện tượ ng bốc cháy tự nhiên thườ ng xảy ra. Tụ khoáng Bình Minh­Khoái Châu  phân bố  trong rift Đệ  tam Hà Nội có sự  khống chế  c ủa   các hệ  th ống đứt gãy sâu Sông Hồng, Sông Chảy, Sông Lô, than tập trung nhi ều  ở d ải trung tâm   Khóai Châu­Tiền Hải kéo ra vịnh Bắc B ộ. Qua m ạng l ưới khoan thăm dò dầu­khí, than đượ c phát  hi ện t ừ độ sâu 110 đế n hơn 4.000 m, có 115 vỉa, trong đó 90 vỉa có chiều dày 0,8­10 m, có nơ i đế n  21 m nh ư   ở  Khoái Châu phần tây bắc của dải, trong tr ầm tích Neogen mà chủ  yế u là hệ  tầng  
  11. Tiên Hưng (N 13  th) thu ộc Miocen th ượ ng. Than  ở  đây thuộc loại lignit  ở  ph ần nông và á bitum   (sub­bituminous)  ở ph ần sâu , độ  tro: 14,2%, chất b ốc cháy: 40,5%, l ưu huỳnh: 0,95%, nhi ệt năng   xấ p xỉ  7.000 kcal/kg. Tài nguyên tin cậy 122 (C 1) là 2,3 tỷ  tấn, tài nguyên dự  tính 333 (C 2) là 8,8  tỷ tấn trong t ổng tài nguyên dự báo đến 252 tỷ tấn nhưng phần l ớn n ằm d ướ i.sâu, điề u kiện khai   thác có nhiều khó khăn.  2.2. Đá dầu Đá đầu gặp ở một số nơi trong đá vôi Đevon ở Núi Lịch, Yên Bái, đá phiến sét đen ở Nậm Ú, Sơn   La, trong trầm tích Đệ tam ở Đồng Ho, Tiêu Giao và Thống Nhất (Quảng Ninh) phân bố ở vùng trũng ven   vịnh Cửa Lục (Quảng Ninh) và dọc theo các thung lũng sông đổ ra vịnh này, nhưng phần lớn chưa được đánh  giá đầy đủ. Trong số đó chỉ có tụ khoáng đá dầu Đồng Ho đã được thăm dò. Tụ  khoáng đá dầu Đồng Ho  thuộc huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, nằm trong trầm tích  Miocen hệ  tầng Đồng Ho (N1  đh). Trầm tích này có cấu tạo đơn nghiêng cắm về  đông bắc với góc  dốc 10­200, gồm: ­ Phần dưới có chiều dày 170 m: sét kết, cát kết nằm trên mặt bào mòn trầm tích Trias;   khoảng giữa của phần dưới này dày 22 m là lớp đá dầu, cát kết ngậm dầu và đá asphal. ­ Phần trên dày 210 m: cuội kết, sỏi kết  ở trên, cát kết , sét kết màu xám thỉnh thoảng xen lớp   cuội sỏi dày 1 m.  Các lớp đá dầu lộ trên mặt đất dài 840 m, góc dốc 15­200, theo hướng cắm các vỉa đá dầu dài  300­500 m rồi vát mỏng dần. Phần đá chứa dầu được chia thành 3 lớp: lớp dưới gồm cát kết ngậm   dầu, asphal, chiều dày 0­11 m, trung bình 4,1 m; lớp giữa là lớp đá dầu chiều dày 3,2­9,9 m, trung bình  6,5 m; lớp trên là cát kết ngậm dầu chiều dày 0­1,5 m, trung bình 0,6 m. Kết quả  xác định chất lượng đá dầu Đồng Ho của Bộ  Địa chất Trung Quốc: nước=2,14%;   tro=77,45%; chất bốc=17,2%. Kết quả thăm dò tính trữ lượng cấp 121+122 (B+C1) là 4.204 ngàn tấn, trong đó đá dầu 3.876   ngàn tấn với hàm lượng dầu 9,37%; asphal: 178 ngàn tấn với hàm lượng dầu: 12,65%; cát kết ngậm   dầu: 151 ngàn tấn với hàm lượng dầu: 5,7%.  Chất lượng đá dầu được thể  hiện trong bảng 3.3, theo kết quả  phân tích của Bộ  Địa chất   Trung Quốc (1959­1960) Chất lượng đá dầu Đồng Ho Bảng 3.3 Lưu  Nhiệt  Các loại  Hàm lượng  Độ ẩm  Độ tro Ao,  Chất bốc  huỳnh S  năng Q,  đá dầu dầu, % Wa, (%) (%) Vo, (%) (%) kcal/jkg Đá phiến  4 ,6­12,4 4,0­4,6 65,6­ 77,0 14,8­25,7 1 1160­2257 dầu Asphal 4,6­21,5 10 22,5 44,5 0,7 2345­5165 Cát bột kết  2,0­4,5 4,1 79,8 14,4 0,34 ­ ngậm dầu   2.3. Uran Ở Việt Nam Quặng urani được phát hiện ở các khu vực Việt Bắc, Tây Bắc, Trung trung Bộ.  Theo cách phân loại của Uỷ ban Năng lượng nguyên tử Quốc tế các tụ khoáng urani của Việt Nam có   thể xếp vào 6 kiểu gồm: Urani trong cát kết; Urani dạng mạch hoặc gần dạng mạch; Urani trong đá   phun trào; Urani trong đá biến chất; Urani trong than; Urani trong trầm tích Đệ tứ.
  12. a. Urani trong cát kết. Theo tài liệu hiện có, kiểu quặng urani trong cát kết là có triển vọng  hơn cả, tập trung chủ yếu ở trũng Nông Sơn (Quảng Nam) thành các khu khác nhau. Hàm lượng urani   dao động từ 0,05 đến 0,5%. Có 5 khu đã được điều tra chi tiết gồm: Khe Hoa­Khe Cao, Pà Rồng, Pà   lừa, Đông nam Bến Giằng và An Điềm. Khu Pà lừa. Kết quả điều tra đánh giá ở  tỉ lệ 1:2000 đã ghi nhận 3 lớp đá chứa quặng, trong  đó đã khoanh được các thân quặng có hàm lượng U3O8 thay đổi từ 0,031 đến 0,095 %, chiều dày thay  đổi từ  1 đến 3,5m. Thành phần khoáng vật chủ  yếu là nasturan và nasturan ngậm nước, coffinit,  uranophan, soddyit, uranocircit­metauranocircit, autunit, metaautunit, phosphuranylit và basselit [Nguyễn  Quang Hưng, Nguyễn Phương, Bùi Tất Hợp 2008]. . b. Urani dạng mạch hoặc gần dạng mạch.  Ở Việt Nam, các tụ  khoáng và điểm quặng thuộc  kiểu này gồm có urani trong tụ khoáng đất hiếm Nậm Xe (Lai Châu); urani đi với đồng  ở  tu khoáng  Sin Quyền. Đây là loại quặng nhiệt dịch có liên quan đến granit sáng màu thuộc vành đai tạo núi  . c. Urani trong đá phun trào. Cho đến nay đã phát hiện các biểu hiện khoáng hoá  ở  Tòng Bá  (Hà Giang), Định An (Lâm Đồng), Bình Liêu (Quảng Ninh), điển hình hơn cả  là  ở  đới Tú Lệ  (khu   Tiang, Trạm Tấu Yên Bái). Đá chưa urani chủ yếu là đa phun trào, trầm tích phun trào có thành phần   axit­kiềm   có   hàm   lượng   thay   đổi   từ   0,01   đến   1%.   Các   khoáng   vật   quặng   chủ   yếu   là   uraninit,  uranophan, molybdat urani đi cùng với molybdenit. d. Urani trong đá biến chất. Trong thời gian gần đây, công tác điều tra đã phát hiện các biệu   hiện khoáng hóa urani­thori nằm trong đá biến chất trao đổi (tremolit, actinolit) và trong pegmatit  ở  Thạch Khoán, Thanh Sơn, Phú Thọ; trong pegmatit­migmatit  ở Sa Huỳnh, Ba Tơ  Quảng Ngãi; trong đá  hoa Làng Nhẽo, Yên Bái và đặc biệt là urani trong đá phiến và graphit Tiên An e. Urani trong than. Trên thế  giới, đã phát hiện trong than nâu chứa urani.  Ở Việt Nam, than   chứa urani là than antracit. Đã phát hiện 2 khu vực than antracit chưa urani đó là Nông Sơn (Quảng  Nam) và Núi Hồng (Thái Nguyên) Urani trong than Nông Sơn. Urani không hình thành thân quặng độc lập mà đi cùng với than   dưới dạng nguyên tố  có ích đi kèm với hàm lượng U3O8  trung bình 0,01% [Nguyễn Quang Hưng,  Nguyễn Phương, Bùi Tất Hợp 2008]. f. Urani trong trầm tích Đệ tứ . Đã phát hiện 3 tụ khoáng gồm: Mường hum (Lao cai), urani đi   với đất hiếm và thori; Bình Đường (Cao Bằng) urani đi với phosphat; và khu Đầm Mây (Thái Nguyên). Tụ khoáng Mường Hum gồm 9 thân quặng phân bố trong tầng đá dăm, cuội, cát. Urani ở dạng  đồng  hình trong các  khoáng  vật  đất  hiếm  như  monazit,  oxinit,  orangit,  basnaesit,  chechit,  lanatnit,   samarskit....[Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Phương, Bùi Tất Hợp 2008]. 2.4. Dầu mỏ và khí đốt Các bể trầm tích Kainozoi nối liền với nhau thành một dải từ Bắc xuống Nam và chiếm phần   thềm lục địa của Việt Nam và một phần biển sâu trên Biển Đông, và hai vịnh lớn trên cùng biển là   Vịnh Bắc Bộ  và Vịnh Thái Lan. Ngoài ra còn nằm dọc theo hai đồng bằng lớn  ở  phía Bắc là đồng   bằng sông Hồng và phía Nam là đồng bằng sông Cửu Long. Hầu hết các bể  trầm tích nói trên đều có một lịch sử  phát triển địa chất tương tự với các bể  khác  ở  Đông Nam Á, từ  Eocen đến ngày nay. Trong Paleogen xu hướng tách giãn chiếm  ưu thế  cho   đến Miocen giữa chúng đều có một mặt cắt địa tầng gồm những loạt lớn (megasequence) bắt đầu   bằng trầm tích lục địa, chuyển dần sang ven bờ  (paralic), rồi đến các trầm tích biển nông có thềm   cacbonat, cho đến sét kết (mudstone) biển sâu. Từ Miocen giữa muộn đến muộn, các bể Đông Nam á   trải qua một sự ép nén nhẹ đến rõ nét, và ở nhiều nơi dẫn đến một sự nghịch đảo (inversion) của các   trung tâm lắng đọng (depocenter). Tuy nhiên mỗi bể  trầm tích đều có một lịch sử  phát triển địa chất  riêng biệt của mình do đó tất cả các bể rất khác nhau, tùy thuộc vào vị trí địa lý và các yếu tố kiến tạo  (tectonic factors) và do đó chúng cũng có hệ thống dầu khí và tiềm năng dầu khí rất khác biệt nhau.
  13. Từ Bắc xuống Nam, thềm lục địa Việt Nam có thể phân chia thành bốn khu vực và có các bể   sau: Phần thềm lục địa Bắc Bộ (vịnh Bắc Bộ) có hành lang rộng và thoải. Đới bờ phá hủy ở phía   Bắc Đồ Sơn, nơi đó các trầm tích Kainozoi thường mỏng hoặc vắng mặt. Phần phía Nam Đồ  Sơn là  thềm kết cấu,  ở đó móng trước Kainozoi bị phủ bởi các trầm tích Kainozoi dày (5000­18000m) ngay  cả trong phần đất liền, đặc biệt là trầm tích Pliocen­Đệ tứ rất dày ở khu vực trung tâm vịnh Bắc Bộ.  Trên phần thềm này có hàng loạt các bể trầm tích như: Bể Sông Hồng bao gồm miền võng Hà Nội ở  phần đất liền và Địa hào Quảng Ngãi ở phía Nam bể. Bể Hoàng Sa là bể nằm ở vùng nước sâu, nằm   ngoài và có phương cấu trúc vuông góc với địa lũy Tri Tôn. Phía Bắc­Đông Bắc bể Sông Hồng còn có   đới Bạch Long Vĩ, về kiến tạo thuộc bể Bắc Vịnh Bắc Bộ (Beibu Wan), còn về phía Đông Nam, phía  Nam đảo Hải Nam là bể Nam Hải Nam, bể này có phương gần vuông góc với bể Sông Hồng và giữa  chúng không có ranh giới bể, tạo nên một đới phủ trầm tích hình chữ Y. Thềm lục địa Trung Bộ  có hành lang hẹp và dốc do sự  khống chế  của hệ  thống đứt gãy Á   kinh tuyến. Đới bờ   ưu thế  là quá trình hủy hoại, vì vậy thường lộ  ra các thành tạo trước Kainozoi.   Ngoài khơi các trầm tích Kainozoi có chiều dày tăng nhanh và các bể trầm tích nhỏ như phần Nam của   địa hào Quảng Ngãi, bể Phú Khánh, ở đây lớp phủ Pliocen­Đệ  tứ mỏng ở phía đất liền và chiều dày  tăng nhanh về phía biển. Bể Phú Khánh đến đới cắt Tuy Hòa (Tuy Hoa Shear zone) bao gồm cả phần   sâu dưới chân sườn lục địa. Phần thềm lục địa Đông Nam Bộ có hành lang rất rộng và rất thoải với xu thế phát triển của   động thái kết cấu. Các trầm tích Kanozoi phân bố rộng với các bể trầm tích có diện tích rộng và trầm   tích dày như bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Khu vực Tư Chính­Vũng Mây, nằm xa hơn trong vùng nước   sâu, nhóm bể Trường Sa có chiều dày trầm tích mỏng phân bố  trong các trũng nhỏ hẹp, khu vực này   có các bể sau: bể Cửu Long, bể Nam Côn Sơn, nhóm bể Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa. Phần thềm lục địa Tây Nam Bộ  có hành lang rộng và thoải thuộc vịnh Thái Lan. Một số  nơi   thuộc khu vực Hòn Chuông đến Hà Tiên quá trình hủy hoại chiếm ưu thế nên các thành tạo Paleozoi  và Mesozoi thường được lộ rõ, các trầm tích Pliocen­Đệ tứ đới ven bờ không dày. Phần lãnh hải Việt   Nam thuộc cánh Đông­Đông Bắc của bể Malay – Thổ Chu. Tất cả các bể của Việt Nam kể trên đều nằm trên vỏ lục địa và vỏ chuyển tiếp.  Bể Sông Hồng: Đây là bể trầm tích Đệ tam có diện tích phân bố lớn nhất ở Việt nam và cũng   là bể trầm tích có cấu trúc địa chất phức tạp, môi trường trầm tích đa dạng và hệ  thống dầu khí thay   đổi mạnh từ  Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Bể  Sông Hồng có thể  chia ra thành bốn đới khác   nhau, từ Bắc xuống Nam, là Đới Bạch Long Vĩ, Đới Bắc, Đới Trung tâm và Đới Nam, các đới này có   lịch sử phát triển địa chất khá khác nhau, nhưng có sự  gắn bó, tương hỗ nhau, nhất là không có ranh  giới rõ nét giữa các đới, nên về  mặt không gian có thể  xếp chung bốn đới này vào cùng một bể  (tuy  nhiên, về kiến tạo, Đới Bạch Long Vĩ thuộc bể Bắc Vịnh Bắc Bộ hay Beibu Wan). Đới Bạch Long Vĩ có hai pha tách giãn vào Eocen và Miocen sớm và hai pha nén ép vào   Oligocen muộn và Miocen muộn, chỉ  vào Pliocen­Đệ  tứ  đới này mới nhập chung vào Đới Bắc trong  tổng thể  Bể  Sông Hồng.   Nguồn trầm tích đến từ  nhiều hướng, trong môi trường từ  lục địa đến  chuyển tiếp, chủ yếu là đầm hồ, vũng vịnh với tốc độ trầm tích vừa phải nên có sự phân dị cát sét khá  tốt, các tập cát có độ chọn lọc khá tốt.  Ba đới Bắc, Trung tâm và Nam có sự  phát triển gắn bó và tương hỗ  nhau về  nguồn gốc địa  động lực, chung nhau pha tách giãn vào Oligocen dạng kéo toác (pull­apart) kéo dài đến Miocen sớm và  có không gian trầm tích hình thoi từ Bắc xuống Nam.  Tuy nhiên, do bản chất đá móng thay đổi khác   nhau, nên dọc theo bờ  Tây của bể  này, có sự  phân dị  cao thấp tạo ra một số trũng địa phương nằm   trong Đới Trung tâm và Đới Nam. Vào cuối Miocen muộn, do chuyển động đảo chiều của hệ  thống   đứt gãy Sông Hồng, đới Bắc bể bị thúc vào lục địa tạo ra sự nén ép với cường độ  giảm dần từ Bắc 
  14. xuống Nam, trong khi đó ở nam Đới Trung tâm và Đới Nam quá trình tách giãn vẫn tiếp tục, tạo điều   kiện cho sự  hình thành dải diapir sét dọc theo trục trung tâm bể  cho đến tận Pliocen trong đới có áp   suất cao. Về trầm tích, môi trường trầm tích có tính biển xuất hiện sớm nhất ở Đới Nam, chuyển dần  về  Đới Trung tâm và Đới Bắc, nhưng về  nguồn trầm tích phần lớn lại đổ  từ  Đới Bắc, từ  bờ  Tây   xuống Đới Nam, vì thế có sự phân dị khác nhau về thành phần trầm tích, đa phần là lục nguyên ở Đới   Bắc, xen kẹp lục nguyên với cacbonat ở Đới Trung tâm và nhiều cacbonat ở Đới Nam.  Mặt khác, do   khối lượng nguồn trầm tích từ  phía Đông lớn hơn rất nhiều so với phía Tây (từ  đảo Hải Nam) nên   không gian trầm tích trong Đới Trung tâm vào Miocen muộn, Pliocen là một không gian không đối  xứng, thoải ở sườn Đông và dốc ở sườn Tây, tạo điều kiện cho trầm tích turbidit hình thành từ sườn   lục địa phía Tây. Về hệ thống dầu khí, do có lịch sử phát triển địa chất khác nhau, môi trường trầm tích phân dị  khác nhau nên có thể chia không gian Bể Sông Hồng thành nhiều hệ thống dầu khí khác nhau theo các  tiêu chí như đá mẹ Oligocen hay Miocen, đá mẹ sinh dầu hay sinh khí, không bị ảnh hưởng hay có ảnh  hưởng giao thoa với hệ thống khí CO2 như sau: i) hệ thống dầu khí sinh dầu (và khí) Đới Bạch Long  Vĩ; ii) hệ thống dầu khí sinh khí Đới Bắc; iii) hệ thống dầu khí sinh khí có ảnh hưởng mạnh của hệ  thống khí CO2 Đới Trung tâm và iv) hệ thống dầu khí sinh khí có giao thoa với hệ thống khí CO 2 Đới  Nam. Bể  Hoàng Sa: Đây là diện tích khu vực quần đảo Hoàng Sa, nằm  ở  phía Đông Đới nâng Tri   Tôn của Nam bể  Sông Hồng và kẹp giữa Trũng Nam Hải Nam và Trũng Phú Yên.  Về  cấu trúc địa  chất bao gồm một dải nâng ở phía Bắc (Đới phân dị Bắc Hoàng Sa) và một dải các địa hào nhỏ hẹp ở  phía Nam (Đới phân dị Nam Hoàng Sa), đây có thể là một phần lục địa sót trước Giãn đáy Biển Đông  tương tự như khu vực Trường Sa, nhưng có khoảng cách xa hơn so với vỏ đại dương và có thể nằm   trên vỏ  lục địa.  Về lịch sử địa chất, khu vực này bị  đập vỡ  hình thành các bán địa hào vào Paleogen  với trầm tích tướng lục địa, vào cuối Oligocen bị cố kết thành một khối và lún chìm dưới mực nước   biển, có mặt cả  hai loại trầm tích cacbonat trên các đới nâng (Đới phân dị  Bắc Hoàng Sa) và lục   nguyên tướng biển trong các trũng nhỏ hẹp (Đới phân dị Nam Hoàng Sa). Về hệ thống dầu khí, khu vực này có hệ thống dầu khí chưa rõ ràng, tồn tại các dạng bẫy với  các loại đá chứa lục nguyên và cacbonat cùng với tầng chắn khu vực Miocen thượng, Pliocen, nhưng   việc có tồn tại tầng đá mẹ không và có sinh thành được một lượng dầu khí đủ lớn không vẫn chưa rõ   do mức độ nghiên cứu và thăm dò còn hạn chế.  Tuy nhiên do khu vực này nằm kẹp giữa các bể Sông   Hồng, Nam Hải Nam và Phú Khánh nên vẫn có khả  năng một số bẫy được nạp dầu khí di cư  từ đá   mẹ từ các bể lân cận. Bể  Phú Khánh: Đây là bể  trầm tích ngoài khơi miền Trung Việt Nam, có vùng thềm rất hẹp   dọc theo bờ  biển, còn phần lớn diện tích bể  nằm  ở  sườn thềm và nước sâu, nằm trong vỏ  chuyển   tiếp và kề áp vào vỏ  đại dương của tách giãn Biển Đông. Bể  Phú Khánh có thể  chia thành hai thành   phần chính, là Trũng Phú Yên ở phía Tây và Đới nâng Khánh Hòa  ở phía Đông.  Xét về phương diện   tiềm năng dầu khí, thì Bể Phú Khánh là Trũng Phú Yên và ngược lại. Trũng Phú Yên được hình thành cùng và đồng thời với giai đoạn dập vỡ (breakup) vỏ trái đất   trước giãn đáy Biển Đông, móng của trũng Phú Yên hiện rất khó minh giải qua tài liệu địa chấn do   không có sự khác biệt về kháng trở âm học, cho thấy có thể  móng trước Đệ  tam là các trầm tích lục  nguyên Creta, các trầm tích syn­rift có thể  là Eocen?­Oligocen có tướng lục địa đầm hồ, tiếp theo là  các trầm tích chuyển tiếp từ lục địa sang tướng biển bắt đầu từ Miocen sớm đến hiện nay với trầm   tích lục nguyên ở các địa hào hẹp và cacbonat trên các địa lũy nằm xen kẹp giữa các địa hào.  Các trầm   tích cacbonat kết thúc sự phát triển khi có nguồn trầm tích lục nguyên từ phía Tây phủ chồng lên trên  dưới dạng các nêm lấn.
  15. Về hệ thống dầu khí, bể Phú Khánh nói chung và trũng Phú Yên nói riêng có hệ thống dầu khí  chư rõ ràng, chưa thể khảng định bể  thiên về  sinh dầu hay sinh khí và do việc minh giải móng ở  bể   này rất khó nên khối lượng tiềm năng sinh của đá mẹ  còn sai số  lớn.  Tuy nhiên vẫn có thể  khảng  định, tại khu vực này tồn tại ít nhất hai hệ thống dầu khí, một sinh dầu, một sinh khí có kèm theo ảnh   hưởng của CO2 với mức độ khác nhau. Bể Cửu Long:  Là bể trầm tích khép kín, dạng rift lục địa, có diện tích nhỏ nhất, nhưng lại là  bể dầu khí quan trọng nhất của Việt Nam.  Bể Cửu Long có hình bầu dục, lồi về phía Đông dạng hạt   đỗ thể hiện sự giao nhập của hai khối cấu trúc, Đông Bắc (có hệ thống đứt gãy ĐB­TN) và Tây Nam   (có hệ  thống đứt gãy Đ­T, B­N) và thể  hiện pha tạo rift có hai hướng khác nhau cùng xảy ra trong  Eocen?­Oligocen. Giai đoạn đầu của pha tạo rift hình thành các trũng nhỏ hẹp và cục bộ, lấp đầy bởi   các trầm tích alluvi (tập địa chấn F, E), có thành phần thạch học rất khác nhau và khó xác định tuổi,  tiếp theo là giai đoạn tách giãn mở rộng (Oligocen muộn) tạo thành một bể trầm tích có ranh giới bốn   phía, ít chịu ảnh hưởng của biển, như là một hồ lớn, trầm tích (tập địa chấn D) có nhiều sét ở  trung   tâm các trũng sâu và thô dần về phía các đới cao và ven bờ.  Vào cuối Oligocen, cả bể Cửu Long chịu   một pha nén ép, có sự oằn võng, phân dị các đới cao thấp cùng với sự bào mòn đới cao và lắng đọng ở  đới thấp (tập địa chấn C), tạo ra một bất chỉnh hợp khu vực trong toàn bể, sau đó là pha sụt lún nhiệt   và bắt đầu bị ảnh hưởng của biển từ Miocen sớm (tập địa chấn B), biển tiến vào mạnh mẽ  nhất vào  Miocen trung, tiếp theo là biển lùi dần từ Miocen muộn đến nay. Về  hệ  thống dầu khí, bể  Cửu Long có hệ  thống dầu khí đơn giản và tối ưu nhất về  thứ  tự  hình thành các tập sinh, chứa, chắn cũng như quá trình chôn vùi, trưởng thành nhiệt của đá mẹ so với   thời điểm hình thành bẫy dầu khí.  Đá mẹ  là các tầng sét đầm hồ  Oligocen, đá chứa bao gồm móng   nứt nẻ, các đá cát kết khác nhau từ Oligocen đến Miocen trung và có tầng chắn khu vực Miocen hạ, về  phía Đông Bắc bể  có tầng chắn Miocen trung. Bẫy chủ  yếu là dạng cấu trúc, khép kín bốn chiều,   được hình thành chủ yếu kế thừa địa hình móng như những khối phân dị nhô cao trong bể kết hợp với   pha nén ép vào cuối Oilgocen. Đặc điểm khác biệt nhất trong hệ  thống dầu khí của bể  Cửu Long là   đối tượng triển vọng trong móng granotoid nứt nẻ  do có ba điều kiện tiên quyết đồng thời xảy ra là   khối móng có nứt nẻ (có độ rỗng, độ thấm), có tầng đá chắn hiệu dụng ngay trên nóc móng và có một  khối lượng dầu lớn sinh thoát từ đá mẹ kề áp. Bể  Nam Côn Sơn:  Là bể trầm tích có diện tích khá lớn và về  phía Đông, phía Nam không có   ranh giới rõ ràng dạng rìa bể, có sự  liên thông về  môi trường trầm tích, về  cấu kiến tạo với các bể  Đông Natuna và Bắc Sarawak.   Lịch sử phát triển địa chất bể Nam Côn Sơn có sự khác biệt giữa hai khu vực Đông và Tây bể.   Khu vực Tây bể chỉ có một pha tạo rift trong Oligocen, còn khu vực Đông bể có hai pha tạo rift trong   Oligocen và Miocen trung chồng lên nhau do bị   ảnh hưởng trực tiếp của Tách giãn Biển Đông.  Về  cấu trúc, khu vực Đông bể lại phân dị ra thành Trũng Bắc, Nâng Mãng Cầu và Trũng Đông Nam tạo ra  những không gian trầm tích khá khác nhau.  Ở Trũng Bắc, do nguồn trầm tích lục nguyên khá dồi dào  nên có tỷ trọng trầm tích cacbonat nhỏ và do vị trí ở phía Bắc nên ít bị ảnh hưởng của pha nén ép cuối   Miocen trung.  Nâng Mãng Cầu luôn nổi cao nên trầm tich cacbonat Miocen trung, muộn rất phát triển   ở đây.  Ở Trũng Đông Nam, vào Miocen trung, muộn, nguồn trầm tích lục nguyên chỉ dồi dào về phía  Đông và thiếu vắng  ở  phía Tây nên tạo điều kiện cho trầm tích cacbonat phát triển trên những dải   nâng.  Vào cuối Miocen trung, cả Trũng Đông Nam bị nén ép nhẹ và sau đó lún chìm dần và được phủ  lên trên một tập trầm tích sét Miocen muộn, tướng biển sâu, đóng vai trò tầng chắn khu vực.   Từ  Miocen muộn đến nay, trầm tích lục nguyên phát triển từ  Tây sang Đông dưới dạng nêm lấn tạo ra  thềm lục địa ở phía Tây, Sườn và biển thẳm ở phía Đông với tốc độ trầm tích cao ở khu vực thềm và   sườn thềm, tốc độ trầm tích thấp ở khu vực biển thẳm, là nguyên nhân tạo ra đới áp suất cao ở dưới   thềm và đới áp suất bình thường ở khu vực biển thẳm.
  16. Về  hệ  thống dầu khí  ở  Bể  Nam Côn Sơn có sự  phân dị  khác nhau cho các đới cấu trúc khác  nhau và hai nguyên nhân chính tạo ra sự khác biệt là đá mẹ và chế độ áp suất khác nhau trong bể.  Vì  Bể Nam Côn Sơn có thể coi là một tập hợp các trũng nhỏ nên đá mẹ có tính địa phương cao, rất khó   nhận dạng được quy luật phân bố đá mẹ đầm hồ hay đá mẹ paralic, tuy nhiên đối với chế độ áp suất   có tính quy luật cao là trong vùng dị thường áp suất cao pha của hidrocacbua là khí và condensate, còn   dầu thường phân bố xung quanh đới áp suất cao và trong khu vực có áp suất bình thường. Nhóm bể Tư Chính – Vũng Mây: Là một diện tích rộng lớn thuộc lãnh hải Việt Nam nằm giữa   bể Nam Côn Sơn và Quần đảo Trường Sa, hoàn toàn nằm trong vùng nước sâu.  Về cấu trúc địa chất,   khu vực Tư Chính­Vũng Mây bao gồm một dải nâng ở phía Bắc (gọi là Nâng Tư Chính­Phúc Nguyên   và Nâng Đá Lát­đá Tây), ôm quanh đầu mũi của Tách giãn Biển Đông và một đới trũng ở phía Nam gọi   là Trũng Vũng Mây. Khu vực này phần lớn nằm trên vỏ chuyển tiếp và phát triển như dạng bể rìa thụ động, vì thế  hoạt động núi lửa xảy ra rất mạnh mẽ, đặc biệt trên các dải nâng, còn diện tích Trũng Vũng Mây nằm   trên vỏ chuyển tiếp và vỏ lục địa.  Trũng Vũng Mây có lịch sử phát triển địa chất trong điều kiện kiến  tạo chung với Bể  Nam Côn Sơn, có sự  khác biệt là Trũng Vũng Mây có kiểu bể  dạng rìa thụ  động,  còn Bể Nam Côn Sơn có kiểu bể dạng rift, ngoài ra, nguồn trầm tích đổ vào Trũng Vũng Mây có thêm  nguồn từ  phía Nam và đặc biệt Trũng Vũng Mây bị   ảnh hưởng mạnh của pha nén ép cuối Miocen  trung, đầu Miocen muộn tạo ra các cấu trúc nén ép rất rõ và khác biệt. Về hệ thống dầu khí, trũng Vũng Mây có hệ thống dầu khí tương tự như bể Nam Côn Sơn và  các trũng khác khu vực Bắc Sarawak bao gồm đá mẹ  chủ  yếu là Miocen hạ, đá chứa gồm cát kết  Oligocen, Miocen hạ và đá cacbonat Miocen trung, thượng; tầng chắn khu vực là các tập sét biển sâu  Miocen trung, thượng và Pliocen.  Các bẫy trũng Vũng Mây bao gồm bẫy cấu trúc dạng roll­over, bẫy   nén ép khép kín ba chiều, reef cacbonat và địa tầng dạng turbidit. Nhóm bể  Trường Sa:  Là diện tích rộng lớn khu vực quần đảo Trường Sa, về  cấu trúc bao   gồm hai dải nâng ở hai rìa Đông (Nâng Nam Yết­Sơn Ca) và Tây (Nâng Vành Khăn­Bình Nguyên) và  một đới trũng ở giữa (Trũng Nam Sinh Tồn­Bình Nguyên).  Về cấu trúc địa chất, đây là phần lục địa   sót trước Giãn đáy Biển Đông và nằm kề áp vào Giãn đáy Biển Đông trong đới rìa thụ động, có móng  là các trầm tích lục địa tuổi Creta và bị dập vỡ tạo các bán địa hào vào Paleocen­Eocen và mở rộng giai   đoạn syn­rift đến cuối Oligocen.  Cuối và sau Oligocen, cả khu vực gần như cố kết thành một khối,   lún chìm dưới mực nước biển và có mặt cả hai loại trầm tích cacbonat trên các đới nâng và lục nguyên  tướng biển trong các trũng nhỏ hẹp. Về hệ thống dầu khí, nhóm bể này có hệ thống dầu khí chưa rõ ràng, song thiên về khả năng   kém do không có tầng đá mẹ hoặc đá mẹ có khả năng sinh kém và chưa trưởng thành. Bể Mã Lai – Thổ Chu:  Là diện tích trầm tích thuộc Vịnh Thái Lan nằm trong lãnh hải Việt   Nam, bao gồm ph ần Nam c ủa Trũng Pattani và rìa Đông Bắc c ủa Bể  Mã Lai.  Trong văn liệu của   Việt Nam thì phần Nam của Trũng Pattani đượ c gọi là Đới phân dị  Thổ  Chu, còn rìa Đông Bắc   của Bể  Mã Lai đượ c gọi là Đơn nghiêng Đông Nam.  Cả  hai đơn vị  cấu trúc trên đề u có pha tách  giãn trong Oligocen và kéo dài đến Miocen sớm nhưng có trục tách giãn khác nhau, Đới phân dị  Thổ Chu có trục tách giãn á Bắc­Nam, còn Đơn nghiêng Đông Nam (thuộc bể Mã Lai) có trục tách  giãn TB­ĐN.   Ảnh hưởng c ủa biển b ắt đầu từ  Miocen sớm bắt đầ u từ  phía Nam, biển tiến mạnh  vào Miocen trung và lùi dần từ Miocen mu ộn đến ngày nay.  Môi trườ ng trầm tích trong Oligocen  có sự  khác biệt trong hai đơn vị  cấu trúc do không gian trầm tích có quy mô khác nhau cũng như  khoảng cách đến nguồn trầm tích khác nhau nên trong bể Mã Lai có môi trườ ng đầm hồ, còn trong   đới phân dị  Thổ  Chu có môi trườ ng alluvi và sông ngòi.   Vào Miocen, các đơn vị  cấu trúc riêng  trong Oligocen h ợp l ại v ới nhau thành một bể  trầm tích lớn, cùng chia sẻ  chế  độ  kiến tạo và môi  trườ ng trầm tích.
  17. Về hệ thống dầu khí, bể Mã Lai­Thổ Chu bao gồm hai hệ thống dầu khí, một của bể Mã Lai   sinh dầu khí và một của trũng Pattani sinh khí và condensat. Tiềm năng dầu khí Tổng tiềm năng dầu khí co ́kha năng thu hôi ch ̉ ̀ ưa phát hiện còn lại của các bể trầm tích Đệ  Tam  Việt Nam được dự  báo khoảng   3300  triệu m3  quy dầu. Tiềm năng dầu khí trong các bể  được thể  hiện ở hình  3.21 và 3.22. 1200 Đã phá t hiệ n Chưa phát hiện 1000 Tổng tiềm năng dầu khí 800 (Triệu m3 quy dầu) 600 400 200 0 Sông hồ ng Phú Khánh Cửu long Nam Côn Tư Chính- Malay-Thổ Sơn Vũng Mây Chu Hình 3.21. Trư l ̃ ượng va tiêm năng dâu khi tai cac bê trâm tich Đê tam Viêt Nam ̀ ̀ ̀ ́ ̣ ́ ̉ ̀ ́ ̣ ̣ 950 860 160 370 720 320 Sông Hồng Phú Khánh Cửu long Nam Côn Sơn Malay-Thổ Chu Tư Chính-Vũng Mây Hình 3.22. Tiêm năng thu h ̀ ồi dự bao ch ́ ưa phat hiên  ́ ̣ ở cac bê trâm tich Đê tam Viêt Nam. ́ ̉ ̀ ́ ̣ ̣
  18. 2.5. Tiềm năng địa nhiệt Công tác nghiên cứu địa nhiệt đã bắt đầu từ  đầu những năm 60, song việc nghiên cứu có hệ  thống chỉ từ năm 1982 ở các bể trầm tích Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn. Công tác này đã được  tiến hành trong nhiệm vụ của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt  Nam và có sự trợ  giúp của  Ủy ban điều phối các chương trình địa chất ngoài khơi và đới duyên hải   Đông và Đông nam Á (CCOP), Nhật Bản và Newzealand. Cac ban đô đô dân nhiêt, gradient nhiêt đô va ́ ̉ ̀ ̣ ̃ ̣ ̣ ̣ ̀  ̣ ́ ̉ ̀ ́ ̉ dong nhiêt cac bê trâm tich bê Sông Hông, C ̀ ̀ ửu Long, Nam Côn Sơn va tai nguyên đia nhiêt cua cac tâng ̀ ̀ ̣ ̣ ̉ ́ ̀   trâm tich Neogen, Paleogen va đa mong phong hoa n ̀ ́ ̀ ́ ́ ́ ưt ne b ́ ̉ ươt đâu đa đ ́ ̀ ̃ ược tinh toan xây d ́ ́ ựng.  1. Hiện trạng tài nguyên địa nhiệt trong các bể trầm tích dầu khí Độ dẫn nhiệt: Độ dẫn nhiệt của mẫu lõi giêng khoan tăng d ́ ần theo độ sâu với các giá trị thay đổi   trong khoảng 1,5­2,0 W/mK tương đương với độ sâu từ 1000m đến 4500m. Độ  dẫn nhiệt trung bình các bể  trầm tích thay đổi trong khoảng 2,28­3,37 W/mK, biểu hiện khả  năng truyền dẫn nhiệt tốt từ phần sâu hơn cua móng đ ̉ ến các bê tr ̉ ầm tích. Sự  phân bố  độ  dẫn nhiệt không đều trong không gian, cao  ở  phía Bắc bê Sông H ̉ ồng và thấp  ở  phía Nam bê C̉ ửu Long và Nam Côn Sơn. Ở trong mỗi bê, s ̉ ự phân bố độ dẫn nhiệt cũng không đồng  đều, liên quan mật thiết với sự phân bố  các đá có độ  hạt mịn, hạt thô, độ  rỗng và mật độ  và thành  phần thạch hóa của đá. Cac khu v ́ ực Nam bê Sông Hông, bê Phu Khanh va phia Đông bê Nam Côn S ̉ ̀ ̉ ́ ́ ̀ ́ ̉ ơn   phát triển các thành tạo cacbonat có độ dẫn nhiệt đặc biệt thấp. Gradient nhiệt độ: Đặc điểm chung về gradient nhiệt độ  thêm l ̀ ục địa Việt Nam là có giá trị cao,   thay đổi trong khoảng 2,87­3,59 C/100m va có s o ̀ ự phân dị theo không gian trong toan th̀ ềm. Dòng nhiệt: Với các giá trị dòng nhiệt trung bình giêng khoan là 119 mW/m ́ 2 , thể hiện chế độ địa  nhiệt cao của thềm lục địa Việt Nam cao hơn khu vực biển thẳm của Biển Đông, khu vực Philipin và   Thái Bình Dương và có giá trị tương đương so với các bể chưa d ́ ầu khí của Malaysia, Indonesia, Thái   Lan. Dòng nhiệt biến đổi theo đặc điểm cấu trúc địa chất, giá trị cao ở bể sông Hồng, Nam Côn Sơn và  thấp hơn ở bể Cửu Long, Malay­Thổ Chu.  2. Đánh giá tiềm năng tài nguyên địa nhiệt Việt Nam Xác định tài nguyên địa nhiệt dựa trên cơ  sở  tính nguồn năng lượng nhiệt chứa trong nước   nóng địa nhiệt (geothermal water). Tr ữ lượng nước nóng của tích tụ nước tại vỉa được đánh giá theo   phương pháp thể tích.  Do đặc điểm địa chất và điều kiện thăm do nghiên c ̀ ứu địa chất của từng vùng thềm lục địa   Việt Nam nên tiềm năng tại chỗ và năng lượng địa nhiệt được tinh cho t ́ ưng lô trong các b ̀ ể trầm tích.  Diện tích mỗi lô lấy từ hệ quản trị dữ liệu địa lý GIS [2], chiều dày các tập chứa (các kết, carbonat).   Trữ  lượng tại chỗ  của nước địa nhiệt được tính riêng cho từng bể  theo các hệ  Neogen, Paleogen và   móng phong hóa nứt nẻ . ­ Tài nguyên nước địa nhiệt trong trầm tích hệ Neogen: Với bể Sông Hồng đáy Neogen khoảng từ 1000m đến 3650m và chiều dày trầm tích từ 500m tới   3000m. Với bể Cửu Long đáy Neogen từ 1700m đến 2800m với chiều dày 1200m đến 2300m. Với bể Nam Côn Sơn đáy Neogen từ 620m đến 3900 chiều dày 1400m­2700m ­ Tài nguyên  địa nhiệt trong trầm tích hệ Paleogen
  19. Bể sông Hồng do điều kiện địa chất kiến tạo rất phức tạp, mật độ giếng khoan chưa cao nên   các trầm tích Paleogen chưa được nghiên cứu kỹ.  Ngược lại các bể  trâm tích phía Nam th ̀ ềm lục địa Việt Nam trầm tích hệ  Paleogen hầu như  phủ rộng khắp trên toàn bể, ở bể Cửu Long chiều sâu trầm tích hệ Paleogen từ 1850m đến 4300m với   chiều dày từ  100m đến 1400m.  Ở  bể  Nam Côn Sơn chiều sâu trầm tích hệ  Paleogen từ  1850 đến  4300m với chiều dày từ 100m đến 1400m. Tầng chứa nước bao gồm các lớp cát kết, thể  phun trào, trầm tích vụn núi lửa với chiều dày   từ vài chục mét tới hàng trăm mét. Nhiệt độ của nước từ 80oC đến 155oC ­ Tài nguyên  địa nhiệt trong móng phong hóa nứt nẻ. Ở  bể  sông Hồng móng có tuổi trước Kainozoi gặp  ở  một số  giếng khoan. Thành phần chủ  yếu của đá móng bao gồm doloimit, dolomite­cacbonat, sikiceous, limestone và trầm tích lục nguyên  với độ rỗng trung bình, tổng chiều dày phần phong hóa đạt tới hàng ngàn mét. Ở bể Cửu Long móng  gặp ở các đới nâng như Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Ruby, Ba Vì với thành phần chủ yếu là granite,  grano­diorite, phung trào, núi lửa. Chiều dày khối nứt nẻ, phong hóa khoảng hơn 1500m. Do nứt nẻ  trong móng có phương chủ yếu là thẳng đứng và gần như thẳng đứng nên các chất lỏng từ dưới sâu đi  lên với nhiệt độ cao rất có thể  hình thành những mỏ nước nóng mang tính chất địa phương ở  những   đới móng nhô cổ. Số liệu tính toán trữ lượng tài nguyên năng lượng địa nhiệt cho từng bể trầm tích và toàn thềm  như trong băng sau: ̉   Trữ lượng năng lượng địa nhiệt của các bể trầm tích  Việt Nam Bảng 3.4 Bể trầm tích Năng lượng địa nhiệt tại chỗ (quy đổi ra Jun) Bể sông Hồng 8.771,8 x 1018J Bể Cửu Long 1.544,2 x 1018J Bể Nam Côn Sơn 7.542,2 x 1018J Toàn thềm 17.858 x 1018J Xét về trữ lượng, bể Sông Hồng có tiềm năng hàng đầu với năng lượng, địa nhiệt tại chỗ quy   đổi ra Jun đạt 87.1020J, bể Nam Côn Sơn đạt 75.1020J và bể Cửu Long ít có tiềm năng 15.10oC. Nhận xét chung Chế độ địa nhiệt ở các bể  trầm tích là khác nhau. Bể  sông Hồng có các chỉ số  địa nhiệt cao nhất   (độ dẫn nhiệt đến 4,5 W/mk, gradient nhiệt đến 4,5oC/100m, dòng nhiệt đến 150mW/m2); tiếp đến  là bể Nam Côn Sơn (4.0W/mK, 4.2oC/100m, 110mW/m2) và thấp nhất là bể  Cửu Long (3.4W/mK,   2.6oC/100m, 110mW/m2) . Do chế độ địa nhiệt khác nhau, sự phân bố năng lượng địa nhiệt trên toàn thềm lục địa cũng khác  nhau. Tổng năng lượng đo nhiệt ở bể sông Hồng được xác định là 8.771.1018Jun, ở bể Cửu Long là  1545.1018Jun và ở bể Nam Côn Sơn là 7543.1018Jun.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2