intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

PHẦN I CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN

Chia sẻ: Dau Con | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

81
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình hình mới đó? I. Khái Niệm Khái niệm thương mại theo Luật Thương mại 1997 được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14 hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Thậm chí đối tượng của việc mua bán hàng hoá cũng bị giới hạn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: PHẦN I CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN

  1. PHẦN I CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đ ã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình hình mới đó? I. Khái Niệm Khái niệm thương mại theo Luật Thương mại 1997 đ ược hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14 hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Thậm chí đối tượng của việc mua bán hàng hoá c ũng bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác đ ược lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán (Điều 5 Luật Thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình xây dựng (không phải là nhà ở), các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng, thanh toán tiền mua hàng qua hệ thống ngân hàng… c ũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997. Trong khi đó, ở các nước trên thế giới, khái niệm thương mại ngày càng được mở rộng ra với một nội hàm rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Chẳng hạn như, Bộ luật thương mại số 48 của Nhật Bản ngày 9/3/1899, thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm mục đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật Thương mại của Philippin tuy không đưa ra các hành vi thương mại cụ thể mà quy định phạm vi điều chỉnh là các hoạt động nhằm thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận. Ngoài ra Luật Thương mại của Philippin còn đ iều chỉnh các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận chuyển hành khách. Bộ luật thương mại của Thái Lan cũng đưa ra khái niệm thương mại khá rộng không chỉ bao gồm việc mua bán hàng hoá mà cả các hoạt động thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh… Cách hiểu khái niệm thương mại nêu trên cũng tương đồng với cách hiểu trong một số Hiệp định quan trọng của ASEAN, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại quốc tế gồm nhiều Hiệp định cấu thành như Hiệp định GATT, GATS, TRIMP, TRIPS,... Ở Việt Nam thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã hội và trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, Trong một đạo Luật Thương mại. Năm 1990, Quốc hội thông qua hai đạo luật rất quan trọng, đó là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhâ n. Hai luật này đã đưa ra một khái niệm mới trong khoa học pháp lý Việt Nam có liên quan nhiều đến việc áp dụng pháp luật thương mại, đó là khái niệm “kinh doanh”. Khái niệm “kinh doanh” cũng được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp 1999, theo đó “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 3 Điều 2). Khái niệm này trong một chừng mực nhất định có những điểm tương đồng với khái niệm thương mại theo nghĩa rộng được sử dụng phổ biến trên thế
  2. giới hiện nay và cũng được giải thích tại Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL năm 1985. Pháp lệnh trọng tài thương mại ra đời và có hiệu lực ngày 1/7/2003 nêu rõ: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Song có thể nói, khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa rộng này mới chỉ được tồn tại trong một văn bản pháp quy mang tính chất tố tụng (luật hình thức) mà chưa tồn tại trong văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao mang tính nội dung. Sự ra đời khái niệm “kinh doanh” theo Luật Doanh nghiệp 1999, sự tồn tại khái niệm “kinh tế” trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, cũng như khái niệm “thương mại” theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã tạo ra sự nhận thức khác biệt trong cách hiểu về “thương mại” so với Luật Thương mại 1997. Phạm vi điều chỉnh rộng hẹp của khái niệm thương mại trong hệ thống pháp luật nêu trên đã tạo ra sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc áp dụng các quy định pháp luật về luật nội dung (Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989) cũng như luật tố tụng (Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003). Đặc biệt, điều này còn ảnh hưởng đến quá trình Việt Nam thích ứng với các quy định và tập quán thương mại quốc tế. Có thể nói đây là một trong những trở ngại lớn của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Việc xác định phạm vi điều chỉnh theo diện hẹp của Luật Thương mại 1997 trên thực tế đã phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực hiện các giao dịch thương mại mà còn ảnh hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tiếp sau đó là việc công nhận và cho thi hành các bản án, phán quyết của trọng tài nước ngoài. Thực tế cho thấy nhiều bản án của toà án và phán quyết của trọng tài nước ngoài, đặc biệt là các vụ tranh chấp liên quan đến đầu tư, xây dựng… đã không được thực thi ở Việt Nam do nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại. Điển hình là vụ tranh chấp hợp đồng giữa hai công ty xây dựng đố i với hợp đồng được ký kết năm 1995 về việc xây dựng khu nghỉ mát tại miền Trung Việt Nam. Tranh chấp được đưa ra Trọng tài tại Queensland, Australia và phán quyết trọng tài được đưa ra theo hướng có lợi cho Công ty Tyco và sau đó được chuyển sang Việt Nam để đề nghị công nhận và cho thi hành. Ngày 23/5/2002, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận phán quyết trọng tài. Một trong các cơ sở chính được Công ty Leighton đưa ra để không công nhận và thi hành phán quyết trọng tài là quan hệ hợp đồng liên quan đến vụ tranh chấp là quan hệ xây dựng và quan hệ này không phải là quan hệ thương mại theo các quy định của Luật Thương mại 1997. Tháng 1/2003, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử lại vụ việc và bác quyết định của Tòa sơ thẩm bởi lẽ các giao dịch trong hợp đồng 1995 liên quan đến hoạt động xây dựng nhưng hoạt động xây dựng này lại không có bản chất thương mại theo pháp luật Việt Nam thời
  3. điểm đó cũng như theo Luật Thương mại 1997 và do vậy, phán quyết trọng tài không đủ điều kiện để được công nhận và thi hành tại Việt Nam. Như vậy, vấn đề đặt ra là khái niệm thương mại cần phải được quy định rõ và thống nhất trong đạo luật thương mại, theo đó phạm vi điều chỉnh của nó cần được mở rộng phù hợp với các quy định và tập quán thương mại quốc tế. Theo Luật thương mại của quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam số 36/2005/qh11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 quy định: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. II. Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình hình mới đó Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát triển có cùng trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như chúng ta, nhưng họ đã gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt Nam sẽ là đối thủ cạnh tranh với các nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào các thị trường lớn như M ỹ, EU… Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các nước này không muốn chúng ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng ta gia nhập WTO. Vì vậy, trong quá trình đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần khẳng định quyết tâm tham gia một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt là với các đối tác có tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục để họ hiểu thực trạng kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng. Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển. Việt Nam mong muốn giữ nguyên mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với các điều khoản của WTO. Chính vì vậy, việc điều chỉnh hệ thống pháp luật của việt nam, đặc biệt là pháp luật kinh tế làm sao cho phù hợp, thích ứng với su hướng toàn cầu, phù hợp với các điểu khoản trong các hiệp ước quốc tế mà việt nam là thành viên. Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời kinh tế tập trung bao cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến trình hoàn tất các thủ tục và đáp ứng các điều kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu cầu về mở cửa thị trường do các thành viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức đưa ra những cam kết thấp. Song song với việc đưa ra những cam kết trong thương thuyết. Việt nam cần phải gấp rút chỉnh sửa hệ thống pháp lý cho phù hợp với cam kết, một loạt các văn bản pháp luật được ban hành sau khi chỉnh sửa, quy định lại cho phù hợp với tiến bộ và hội nhập. Mặc d ù biết trước những khó khăn mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trước mắt và sau khi gia nhập WTO. Nhưng vì lợi ích lâu dài, bền vững, cho dù có rất nhiều khó khăn, bất lợi.
  4. Nhưng việc Việt Nam thành công sau các vòng đàm phán, việc việt nam được chính thức là thành viên c ủa WTO là một sự thành công lớn, mang nhiều cơ hội, lợi ích dài lâu cho nền kinh tế nước ta. Khi chưa gia nhập WTO, Việt Nam như con thuyền nhỏ loanh quanh trong hệ thống sông ngòi nội địa. Các quan hệ kinh tế thuần túy về buôn bán gói gọn trong quan niệm tiêu thụ hàng hóa đơn thuần của một quốc gia có nền kinh tế đóng, ít các yếu tố luật pháp quốc tế. Chính vì thế hệ thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế cũng thiếu sự bình đẳng, khuyến khích đối với các yếu tố nước ngoài. Điều này là một trở ngại lớn đối với quá trình đàm phán để Việt Nam gia nhập WTO. Sau khi Việt nam thực hiện chính sách kinh tế mở, đổi mới tư duy về quan hệ và phát triển kinh tế, tham gia nhiều hiệp ước quốc tế, là thành viên WTO. Những bất cập về chính sách kinh tế đã bộc lộ sự không phù hợp, hệ thống pháp lý của Việt nam c òn nhiều bật cập. Đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế còn quá nhiều bất ổn, không phù hợp. Không chỉ có sự bất phù hợp giữa pháp luật Việt nam với các điều ước quốc tế, mà giữa các văn bản pháp luật trong nước cũng có những điều khoản của bộ luật này vênh với những quy định trong bộ luật khác có liên quan với nhau trong các hoạt động kinh tế cũng như trong hệ thống pháp lý. Chính điều đó, khi là thành viên WTO, Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất đó là Luật Cạnh tranh; Luật Thương mại; Luật Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi và luật về quyền của nước thành viên như Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh C hống trợ cấp… Những lĩnh vực này cần phải hoặc là điều chỉnh, hoặc là ban hành mới cho phù hợp với các cam kết khi việt nam là thành viên của các tổ chức thương mại quốc tế. Ngoài ra Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO c ho dù các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện hành. Để tham gia WTO, Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị để thích ứng với tình hình mới đó như là :Việt Nam không những phải hoàn thiện khung luật pháp đáp ứng điều kiện của một nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để đáp ứng các yêu cầu trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây d ựng luật pháp để gia nhập WTO với hai phần: luật phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên WTO (bắt buộc) như: Luật Cạnh tranh; Luật Thương mại; Luật Đầu tư (không phân biệt đầu tư trong hay ngoài nước); Sở hữu trí tuệ, Bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi… và luật về quyền của nước thành viên (không bắt buộc) như Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp… Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO cho d ù các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam kết là khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong khi hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua, hoặc mới ban hành nhưng chưa được áp dụng trong thực tiễn. Nhưng việt nam quyết tâm tuân thủ và cải thiện để dáp ứng nhu cầu theo cam kết. Cụ thể như sau: “Việt Nam là thành viên WTO: Việc thừa nhận tác động của những cam kết WTO lên hệ thống pháp luật của Việt Nam thể hiện trước hết trong văn kiện của Quốc Hội: Nghị Quyết số 71/2006/QH 11 ngày 29/11/2006 của Quốc Hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mai thế giới ( WTO) của nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Nghị quyết đề cập đến nguyên tắc
  5. cơ bản trong việc công nhận và thực thi các điều ước quốc tế đã cam kết. Đó là “Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp d ụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm”. Nghị Quyết cũng ghi nhận việc áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam (được ghi tại Phụ lục đính kèm) và các cam kết khác của Việt Nam với WTO nếu những quy định này đủ rõ, chi tiết. Bước đầu thực thi cam kết, Nghị Quyết của Quốc Hội yêu cầu Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: Rà soát các cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO( nhưng chưa được ghi trong Phụ lục đính kèm Nghị quyết )để áp dụng trực tiếp và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO; Trên cơ sở đánh giá những cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn, những tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể và tổ chức triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đẩy mạnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Về luật và pháp lệnh trong lĩnh vực thương mại hàng hoá: cần sửa đổi Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt để thực thi cam kết về thuế đối với rượu, bia; Biểu thuế XNK cũng cần xem xét để có giải pháp phù hợp, đó là ban hành biểu thuế quan tối huệ quốc thay cho biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành, đảm bảo phù hợp với hệ thống hài hoà hoá ( HS) trong cam kết. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ phải có văn bản liên ngành hướng dẫn một số vấn đề trong tố tụng liên quan đến sở hữu trí tuệ; điều chỉnh các quy định trong Bộ Luật Hình sự và Luật Sở hữu trí tuệ để đảm bảo các cam kết về biện pháp chế tài liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cần điều chỉnh các quy định trong Luật Điện ảnh, Pháp lệnh Bưu chính viễn thông, Luật Doanh nghiệp. Về quy định về tính minh bạch, công khai phải điều chỉnh một số quy định trong hai luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật; Về văn bản dưới luật phải ban hành một số văn bản quy định ở cấp bộ để hướng dẫn thi hành các cam kết của VN đối với WTO. Ngoài ra còn các văn bản cần được ban hành để thực thi quyền lợi của thà nh viên trong quan hệ thương mại quốc tế với các nước. Một vấn đề cũng đáng quan tâm trong quá trình hoàn thiện và xây dựng môi trường pháp lý sau WTO là phải sửa đổi một số khái niệm pháp lý. Ví dụ, khái niệm thương mại, lâu nay quan niệm của pháp luật Việt Nam thường hiểu theo nghĩa hẹp, tức là chỉ khu biệt trong các hành vi như mua bán và các tác vụ có liên quan, trong khi đó theo quan niệm và các chuẩn mực quốc tế, khái niệm thương mại được hiểu rất rộng. Luật Thương mại 2005 đã đ ưa ra một khái niệm rộng về
  6. thương mại, theo đó thương mại được hiểu là toàn bộ những hoạt động sản xuất, mua bán, dịch vụ và nói chung là toàn bộ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh cụ thể của Luật Thương mại 2005 cũng còn tương đối hẹp; việc điều chỉnh các hành vi khác như dịch vụ bảo hiểm, bưu chính viễn thông,…vẫn được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành. Quan niệm về hàng hoá, WTO không đưa ra khái niệm hàng hoá nhưng dựa vào quy đ ịnh của công ước của tổ chức hải quan thế giới về hệ thống hài hoà về mã số và mô tả hàng hoá( công ước HS) để xử lý. Việt Nam đã tham gia công ước này, (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2000) theo đó tất cả những sản phẩm cụ thể nào được liệt kê, mã hoá trong danh mục HS thì được gọi là hàng hoá. Như vậy k hái niệm về hàng hoá trong Luật Thương mại và Luật Hải Quan cần phải điều chỉnh theo hướng này chứ không thể mô tả một cách chung chung như hiện nay. Quan niệm về dịch vụ; thương mại dịch vụ hiện nay pháp luật Việt Nam chưa định nghĩa theo cách hiểu chung của WTO, theo đó mọi hoạt động hoặc sản phẩm được liệt kê, mã hoá và mô tả trong bảng phân loại dịch vụ theo mã số đã đề cập đến trong GATS/WTO thì được gọi là dịch vụ.”(1) III. Vụ án kinh tế điển hình tại Việt nam Công ty TNHH Hoàng Long từ 1994 là một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xe tải và các loại xe chuyên dùng khác. Giám đốc của công ty là ông Trần Phi Vân, đồng thời cũng là cổ đông sáng lập và thành viên HĐQT c ủa Tacombank. Trụ sở chính của Tacombank ở đường Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình. Trong kinh doanh, phần lớn các hoạt động nhập khẩu của công ty Hoàng Long được thực hiện thông qua việc mở L/C tại Tacombank để mua hàng trả chậm từ Hàn Quốc. Do ảnh hưởng hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Công ty Hoàng Long đã bị thua lỗ và gánh chịu những khản nợ như sau: Nợ của Công ty Hoàng Long bao gồm nợ trong nước đối với Tacombank và nợ nước ngoài đối với các nhà xuất khẩu Hàn Quốc. Nợ trong nước gồm 290.000 USD tiền bảo lãnh và 6 tỷ đồng nợ vay tín dụng. Nợ nước ngoài là 1.872.093 USD, công ty đang đàm phán với các chủ nợ. Lãnh đạo Tacombank trước đây vào năm 2000 đã đưa vụ việc khởi kiện ra Tòa Kinh tế Tòa án Nhân dân TPHCM. Nhưng khi Tacombank thay tổng giám đốc mới vụ việc đã được đưa ra nhờ luật hình sự xử lý. Tháng 5/2002, khi Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TPHCM ra quyết định khởi tố vụ án tại Tacombank cùng Công ty Hoàng Long, bà Trần Phương Mai, vợ ông Trần Phi Vân và là Phó giám đốc công ty bị bắt tạm giam. Tháng 12 -2003 Viện Kiểm sát Nhân dân TPHCM đã ra cáo trạng truy tố bà Mai với ông Vân về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 11 cán bộ Tacombank về tội “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Cáo trạng đã quy kết hành vi lừa đảo và cố ý làm trái trong vụ án thể hiện ở chỗ: Công ty Hoàng Long đã không thực hiện thế chấp theo quy định mà thế chấp bằng (1) Trích dẫn: “những điều cần biết về luật pháp trong quá trình hội nhập WTO của doanh nghiệp và các nhà quản lý việt nam” của TS LÊ VĂN HƯNG Khoa Luật - ĐH Kinh tế TP. Hồ chí Minh.
  7. các lô hàng nhập khẩu, đồng thời dùng các thủ đoạn gian dối để nhận hàng bán thu tiền và chiếm đoạt. Tổng số tiền mà Công ty Hoàng Long bị quy kết là đã chiế m đoạt của Tacombank lên tới trên 2 triệu USD. Thực tế, tính đến 30-1-2003, các khoản nợ cả USD và VNĐ của Công ty Hoàng Long đối với Tacombank đã được trả xong. Nghĩa vụ trả nợ còn lại của Công ty Hoàng Long đối với chủ nợ nước ngoài là 1.872.093 USD đang tiếp tục được đàm phán, vì các đối tác này, cũng như Hoàng Long, đã bị phá sản do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Theo thư đề nghị ngày 23-7-2003 của chủ nợ là Công ty Kuk Sung (Hàn Quốc) thì tỷ lệ nợ đàm phán mà Hoàng Long còn phải trả cho nước ngoài lúc này chỉ vào khoảng 20%, tương đương 360.000 USD, tức là phía nước ngoài đã giảm 80%, tương đương với 1.500.000 USD. Trong khi đó, tài sản bảo đảm cho khả năng trả nợ nước ngoài của Công ty Hoàng Long lúc này hiện có: tiền mặt 3,5 tỷ đồng, ngoại tệ 26.742 USD, một số tài sản khác đã qua giám định trị giá gần 500 triệu đồng, quyền sử dụng đất trị giá trên 3 tỷ đồng đã có khách hàng ký hợp đồng chuyển nhượng, cổ phần của Công ty Hoàng Long tại Tacombank trên 2 tỷ đồng. Như vậy, riêng tổng giá trị bảo đảm cũng đã suýt soát 10 tỷ đồng, nếu tiến hành đàm phán trả nợ dứt điểm 360.000 USD, thì tài sản của Công ty Hoàng Long rõ ràng hoàn toàn bảo đảm. Tòa án Nhân dân TPHCM đã có quyết định từ 26-8-2004 đưa ra xét xử vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Tân Việt (Tacombank). N hận xét về vụ án:  Đây là một tranh chấp kinh tế và là vụ án kinh tế đơn thuần. Như vậy, cần phải được giải quyết theo các trình tự đã đ ược xác định theo quan điểm của Luật Tố tụng kinh tế. Luật thương mại có quy định Hình thức giải quyết tranh chấp như sau: 1. Thương lượng giữa các bên. 2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải. 3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định. Đ i ề u 29 Bộ lu ật tố tụng dâ n sự quy định Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án 1 . Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau v à đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hoá; b) Cung ứng dịch vụ; c) Phân phối; d) Đại diện, đại lý; đ) Ký gửi; e) Thuê, cho thuê, thuê mua; g) Xây dựng; h) Tư vấn, kỹ thuật;
  8. i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm dò, khai thác. 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Như vậy vụ án trên hoàn toàn có thể được đưa ra giải quyết tại tòa án theo luật dân sự.  Hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” Trong thực tế tài sản bảo đảm cho khả năng trả nợ của Công ty Hoàng Long lúc này hiện có: tiền mặt 3,5 tỷ đồng, ngoại tệ 26.742 USD, một số tài sản khác đã qua giám đ ịnh trị giá gần 500 triệu đồng, quyền sử dụng đất trị giá trên 3 tỷ đồng đã có khách hàng ký hợp đồng chuyển nhượng, cổ phần của Công ty Hoàng Long tại Tacombank trên 2 tỷ đồng. Như vậy, riêng tổng giá trị bảo đảm cũng đã suýt soát 10 tỷ đồng, nếu tiến hành đàm phán trả nợ dứt điểm 360.000 USD tương đương với 5,5 tỷ VNĐ lúc này, thì tài sản của Công ty Hoàng Long rõ ràng hoàn toàn bảo đảm. Theo quy định hiện hành, chỉ khi nào Công ty Hoàng Long không trả đ ược 360.000 USD này thì Tacombank mới trả thay theo trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó, Tacombank chưa dùng một đồng nào trả thay cả, thì sao gọi là bị tổn thất bởi Công ty Hoàng Long được. Như vậy, việc truy tố các cán bộ của Tacombank về tội danh cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng liệu có quá nặng? Công ty Hoàng Long vẫn có khả năng trả hết nợ nước ngoài thì có gọi là lừa đảo không?  Việc đưa vụ án kinh tế này ra truy tố hình s ự có phù hợp không ? Đây là vụ án kinh tế đơn thuần. Bị can đã bị tạm giữ gần 2 năm. Gia đình bị can về cơ bản đã khắc phục xong hậu quả. Theo Bộ luật Hình sự sửa đổi, có thể cho bị can tại ngoại và tiếp tục khắc phục nốt hậu quả”.Trong khi đó, Tacombank chưa phải trả thay một đồng nào cả, vậy thì chưa bị tổn thất bởi Công ty Hoàng Long. Tại sao lại không giải quyết theo tranh chấp thương mại mà lại hình sự hóa một vụ án kinh tế.  Kết Luận về vụ án Tại thời điểm lúc bấy giờ, sau khi vụ án được đưa ra tòa hình s ự để giải quyết. Đã có rất nhiều ý kiến cho rằng “đây là vụ án kinh tế bị hình sự hóa. Điều đó gây ra những băn khoăn trong dư luận, giới doanh nghiệp và cả đội ngũ cán bộ tài chính - ngân hàng” Theo ý kiến cá nhân:
  9. Tranh chấp là đặc trưng tất yếu của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nhưng hầu hết các doanh nghiệp có tâm lý ngại ra toà vì việc giải quyết á n kinh tế phải trải qua nhiều cấp xét xử, trình tự chậm trễ Nguyên nhân gây ra việc đem một vụ án kinh tế ra tòa hình sự như trong vụ án trên là do trình độ cán bộ tố tụng chưa đáp ứng đ ược yêu cầu, nên có thể đã cho rằng giữa tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật dân sự là như nhau. Đây là vụ án kinh tế đơn thuần. bị can đã bị tạm giữ gần 2 năm. Có thể quan điểm giữa Viện Kiểm sát và Cơ quan Điều tra vẫn còn khác nhau ở một số nhận định về chứng cứ buộc tội, trong khi gia đình bị can về cơ bản đã khắc phục xong hậu quả. Đúng ra nên giải quyết vụ việc này theo quan điểm của vụ án dân sự, giải quyết bằng luật trọng tài thương mại thì đúng ý nghĩa hơn. Việt nam đã là thành viên WTO, thiết nghĩ trong quá trình tố tụng, suy cho cùng, bản chất của tố tụng dù nó là tố tụng gì đi nữa cũng là góp phần đi tìm công lý. Bảo vệ công lý chính là việc áp dụng pháp luật đúng lẽ phải và phù hợp với lương tâm, nếu không, chỉ gây ra khổ đau, thiệt hại cho những người bị hàm oan. Sâu xa hơn nữa, việc giải quyết các quan hệ kinh tế – dân sự bằng hình sự sẽ gây tổn hại trầm trọng đến môi trường đầu tư, phát triển của đất nước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2