Đề bài: Phân tích bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của Nguyễn Duy<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Nguyễn Duy quê ở Thanh Hóa; anh viết bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” tại Thành <br />
phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ gồm có 28 câu lục bát, chia thành 6 khổ thơ; <br />
khổ thứ tư có 8 câu, năm khổ còn lại, mỗi khổ có 4 câu thơ.<br />
<br />
Chữ đầu mỗi khổ thơ đều viết hoa; các chữ đầu mỗi câu thơ còn lại không viết hoa. Toàn <br />
bài thơ chỉ có 4 dấu chấm lửng và một dấu gạch ngang mà thôi, không hề có dấu chấm, <br />
dấu phẩy... nào cả. Phải chăng đó là sự cách tân về hình thức nghệ thuật thơ lục bát của <br />
Nguyễn Duy? Tác giả đã vận dụng sáng tạo ca dao, tục ngữ để tạo nên những vần thơ <br />
trữ tình giàu âm điệu và nhạc điệu thiết tha ngọt ngào.<br />
<br />
Mở đầu bài thơ là một không gian nghệ thuật thiêng liêng cổ kính, nhiều man mác bâng <br />
khuâng. Đứa con đứng bên bàn thờ mẹ, trong hương huệ thơm ngát, thành kính thắp nén <br />
nhang thầm khấn cầu mong hương hồn mẹ được siêu thoát lên cõi niết bàn:<br />
<br />
“Bần thần hương huệ thơm đêm<br />
<br />
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.<br />
<br />
Nhìn khói nhang tỏa, nhìn chân nhang “lấm láp tro tàn”, đứa con cảm thấy người mẹ hiền <br />
đang hiển hiện giữa cõi đời, đang tất tả ngược xuôi:<br />
<br />
“chân nhang lấm láp tro tàn<br />
<br />
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào ”,<br />
<br />
Các từ láy “bần thần ”, “lấm láp“,“xăm xăm” là những nét vẽ tài hoa làm cho vần thơ giàu <br />
hình tượng và gợi cảm.<br />
<br />
Khổ thơ thứ hai gợi tả hình ảnh người mẹ hiền ngày xưa. Người mẹ nghèo khổ, vất vả. <br />
Thời con gái chẳng có yếm đào, chẳng có nón quai thao mà chỉ có nón mê; áo quần chỉ <br />
một màu nâu nhuộm bùn:<br />
<br />
“Mẹ ta không có yếm đào<br />
<br />
nón mê thay nón quai thao đội đầu”.<br />
<br />
Hai tiểu đối: “tay bí // tay bầu”,“váy nhuộm bùn // áo nhuộm nâu” nói lên thật hay, thật <br />
cảm động sự tần tảo vất vả và đời sống nghèo khổ của mẹ:<br />
<br />
“Rối ren tay bí tay bầu<br />
<br />
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa ”.<br />
<br />
Suốt đời mẹ sống mộc mạc, giản dị như thế. Quanh năm bốn mùa mẹ vẫn sống và ăn <br />
mặc như thế!<br />
<br />
Khổ thơ thứ ba, lời ru của mẹ hiền ngày xưa vẫn còn vang vọng trong hoài niệm. Ca dao <br />
đã nhập hồn vào thơ Nguyễn Duy:<br />
<br />
“Cái cò...sung chát đào chua...<br />
<br />
câu ca mẹ hát gió đưa về trời”.<br />
<br />
Câu ca dao “Cái cò đậu cọc cầu ao Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua” đã được nhà thơ <br />
vận dụng tài tình sáng tạo gợi lên bao thương nhớ người mẹ hiền nay đã đi xa…<br />
<br />
Hai câu thơ: “Ta đi trọn kiếp con người – cũng không đi hết những lời mẹ ru” hàm chứa <br />
chất triết lí sâu sắc. Lòng mẹ bao la. Tinh thương của mẹ mênh mông đào dạt. Suốt đời <br />
con cũng không thấu hiểu, hiểu hết lời ru của mẹ. “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ ...Năm <br />
canh chày thức đủ năm canh... ”. Mỗi giấc ngủ của con được nâng niu bằng lời ru của mẹ <br />
vô cùng sâu nặng với biết bao tình đời và tình người. Mọi đứa con từ bé thơ đến trưởng <br />
thành, không bao giờ có thể “đi hết mấy lời mẹ ru". Hai chữ “đi” trong vần thơ của <br />
Nguyễn Duy được chuyển nghĩa một cách thần tình.<br />
<br />
Điệp ngữ “bao giờ cho tới” trong khổ thơ thứ tư đã làm sống lại tuổi thơ với bao kỉ niệm <br />
đẹp. Ước mong được sống lại đêm rằm trung thu để phá cỗ. Ước mong được sống lại <br />
những đêm tháng năm đẹp trời để “nằm đếm sao” giữa sân nhà:<br />
<br />
“Bao giờ cho tới mùa thu<br />
<br />
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm<br />
<br />
bao giờ cho tới tháng năm<br />
<br />
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”.<br />
<br />
Hai chữ “đánh đu “ đã nhân hóa trái hồng trái bưởi, món quà trung thu, tạo nên sự ngộ <br />
nghĩnh hồn nhiên. Cái giây phút thần tiên “mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao” là giây phút <br />
hạnh phúc nhất của tuổi thơ. Kỷ niệm ấy, Nguyễn Duy có bao giờ quên; mỗi chúng ta có <br />
bao giờ quên.<br />
<br />
Các từ láy:“nghêu ngao ”,“chập chờn ", “leo lẻo”, “xa xôi” trong bốn câu thơ tiếp theo vừa <br />
nêu lên sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa nói lên mơ ước được sống lại trong khung cảnh <br />
thần tiên nơi quê nhà. Đứa con có bao giờ quên những kỉ niệm đẹp, đầy hạnh phúc ấy:<br />
<br />
“Ngân Hà chảy ngược lên cao<br />
<br />
quai mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...<br />
<br />
bờ ao đom đóm chập chờn<br />
<br />
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”.<br />
<br />
Ký ức tuổi thơ đã trôi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn chập chờn trong tâm hồn yêu thương <br />
với “những vui buồn xa xôi”. Đứa con càng thương nhớ mẹ, càng biết ơn mẹ không thể <br />
nào kể xiết!<br />
<br />
Tiếp theo là những suy ngẫm về lời ru của mẹ, về công ơn trời bể của mẹ. Mẹ ru con, ru <br />
“cái lẽ đời", ru cái đạo lí làm con, ru cái đạo lý làm người. Con lớn lên từng ngày từng <br />
tháng nhờ dòng sữa ngọt ngào của mẹ, bằng lời ru thiết tha êm đềm của mẹ. Điệp ngữ <br />
“nuôi” trong hai tiểu đối đã nói lên công ơn to lớn của mẹ hiền:<br />
<br />
“Mẹ ru cái lẽ ở đời<br />
<br />
sữa nuôi phần xác // hát nuôi phần hồn”<br />
<br />
Các thế hệ sẽ nối tiếp sinh ra, rồi lớn lên theo lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Điệu ru <br />
của bà, của mẹ sẽ được những thế hệ mai sau nâng niu, giữ gìn. Điệu ru tiếng hát của bà, <br />
của mẹ trong mỗi gia đình Việt Nam là dân ca, là tâm hồn dân tộc sẽ sống mãi đến muôn <br />
đời mai sau. Câu hỏi tu từ làm cho vần thơ trở nên thiết tha, lay động hồn người:<br />
<br />
"Bà ru mẹ...mẹ ru con<br />
<br />
liệu mai sau các con còn nhớ chăng”.<br />
<br />
Nhớ mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, đứa con ly hương đêm ngày đăm đắm “Trông về quê <br />
mẹ ruột đau chín chiều”. Càng "nhìn về” càng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ đức hy sinh cao cả, <br />
tình thương con bao la của người mẹ nay đã khuất núi. Câu tục ngữ "Chỗ ướt mẹ nằm, <br />
chỗ ráo nhường con" được tác giả vận dụng sáng tạo:<br />
<br />
"Nhìn về quê mẹ xa xăm<br />
<br />
lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”.<br />
<br />
Tác giả khép lại bài thơ bằng hai câu thơ mang âm điệu ca dao trữ tình thể hiện bao nỗi <br />
ân tình sâu nặng của đứa con đối với người mẹ hiền thương yêu:<br />
<br />
"Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa<br />
<br />
miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.<br />
<br />
Dù mẹ đã mất, nhưng những kỉ niệm ân tình sâu sắc ấy của mẹ, đứa con mãi mãi ghi sâu <br />
trong lòng. Lòng hiếu thảo là một trong những tình cảm đẹp nhất của con người Việt <br />
Nam chúng ta. Thơ Nguyễn Duy man mác như điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ sau lũy tre <br />
xanh, bên bờ dâu ruộng lúa đang vọng về năm tháng. Những suy tư triết lí của tác giả làm <br />
cho tư tưởng tình cảm trong bài thơ trở nên sâu sắc, mang tính chất dân tộc và hiện đại.<br />
<br />
"Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa..." là một bài thơ rất hay, tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách <br />
nghệ thuật của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thời chống <br />
Mỹ. Quả vậy, thơ Nguyễn Duy đẹp như ca dao, đậm đà như dân ca, man mác như lời hát <br />
ru.<br />