Đề bài: Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương<br />
1. Dàn ý mẫu Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế <br />
Xương<br />
I. Mở bài<br />
Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: Được <br />
nhiều tác giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng và niềm cảm thương sâu sắc cho số phận <br />
như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…<br />
Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về hình <br />
tượng người phụ nữ. Bài thơ đã thể hiện thành công hình tượng bà Tú<br />
II. Thân bài<br />
a. Hình tượng bà Tú nổi lên là một người phụ nữ vất vả lam lũ<br />
Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”<br />
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua <br />
năm khác<br />
+ Địa điểm “mom sông”:phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.<br />
⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, <br />
bà không những phỉ nuôi còn mà phải nuôi chồng<br />
Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:<br />
+”Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng<br />
+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân <br />
phận và mang tình khái quát<br />
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy <br />
hiểm lo âu<br />
⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn <br />
dụ<br />
+ Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất <br />
trắc<br />
+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy <br />
những sự nguy hiểm, lo âu<br />
Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian <br />
nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.<br />
⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm <br />
đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.<br />
Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều<br />
⇒ Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú<br />
b. Hình tượng bà Tú với những nét đẹp và phẩm chất đáng quý, đáng trọng<br />
Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :<br />
+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn<br />
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu<br />
⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.<br />
Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn được thể hiện trong sự chăm chỉ, tần tảo đảm <br />
đang<br />
+ “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành <br />
phận”, không than vẫn<br />
+ “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả <br />
sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.<br />
⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà <br />
Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú<br />
⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến<br />
c. Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng bà Tú<br />
Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm.<br />
Vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.<br />
Hình tượng nghệ thuật độc đáo.<br />
Việt hóa thơ Đường<br />
III. Kết bài<br />
Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú<br />
Trình bày suy nghĩ bản thân<br />
2. Bài văn mẫu Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần <br />
Tế Xương<br />
2.1. Bài Mẫu Số 1: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế <br />
Xương<br />
Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình <br />
tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một <br />
người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú <br />
Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người <br />
bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người <br />
chồng dành cho vợ.<br />
Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân <br />
đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình <br />
xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc <br />
được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi <br />
đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu <br />
tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại <br />
càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong <br />
gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa <br />
con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ <br />
nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trở thành một mối bận tấm lo lắng của vợ, mà <br />
nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía <br />
năm đứa con. Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo <br />
cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. <br />
Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì <br />
vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao <br />
cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình <br />
ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội <br />
kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.<br />
Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng <br />
chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu <br />
tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên <br />
vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, <br />
ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, <br />
chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nề hà khó khăn nguy hiểm, không quản <br />
ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm <br />
nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả <br />
đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:<br />
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng<br />
Eo sèo mặt nước buổi đò đông."<br />
Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng <br />
cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh "lặn <br />
lội thận cò", Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt <br />
Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.<br />
Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm <br />
ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay <br />
chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò <br />
đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một <br />
người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một <br />
cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là <br />
giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu <br />
hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.<br />
Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi <br />
sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, <br />
không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. <br />
Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà <br />
Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình Năm nắng mười mưa dám <br />
quân công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông <br />
Tú và những đứa con.<br />
Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình <br />
ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành mội hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những <br />
người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.<br />
2.2. Bài mẫu số 2: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế <br />
Xương<br />
Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, "Thương vợ" được <br />
đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một <br />
cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần <br />
của vợ. Quan trọng hơn từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người <br />
phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình.<br />
Bà Tú tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia "con gái nhà dòng, lấy <br />
chồng kẻ chợ". Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần <br />
cho cuộc đời Tú Xương một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự <br />
nghiệp.<br />
Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú <br />
Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ <br />
thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao <br />
trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành.<br />
Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người <br />
vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú <br />
cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh <br />
thơ mộng "bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ", bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay <br />
của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua :<br />
"Quanh năm buôn bán ở mom sông<br />
Nuôi đủ năm con với một chồng"<br />
Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và <br />
thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô <br />
kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian "mom <br />
sông" vừa có giá trị tả thực là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh <br />
tồn bấp bênh, chông chênh.<br />
Bà Tú phải hằng ngày xuất gia chường mặt ra với đời bởi trên vai bà là cả một <br />
gánh nặng gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Biết bao hàm ý toát lên trong cụm <br />
từ "nuôi đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ <br />
sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một chồng". Nhà thơ đã tự hạ <br />
mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ <br />
con trong gánh nặng của vợ.<br />
Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh <br />
con cò:<br />
"Con cò lặn lội bờ sông<br />
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"<br />
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:<br />
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng<br />
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"<br />
Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc <br />
đáo. Với việc dùng từ "thân cò", tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm <br />
nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ <br />
đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công <br />
việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh "đò đông" thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu <br />
sinh thì từ láy "eo sèo" đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn <br />
trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.<br />
Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong "Thương vợ" của Tú <br />
Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.<br />
Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái <br />
độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh. Hiện lên trong tâm trí người <br />
đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận <br />
than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ "một duyên hai nợ", <br />
"năm nắng mười mưa" làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú <br />
Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà <br />
Tú như càng nổi bật hơn.<br />
Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu <br />
kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa:<br />
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc<br />
Có chồng hờ hững cũng như không"<br />
"Thói đời" ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người <br />
chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể <br />
hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng <br />
bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính <br />
gia đình của mình.<br />
Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh <br />
người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm <br />
đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng <br />
lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với <br />
người vợ thảo hiền.<br />
2.3. Bài mẫu số 3: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế <br />
Xương<br />
Viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng <br />
thơ văn nói lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà thơ <br />
Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ông không phải ai khác mà chính là <br />
người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân thành, mộc mạc, <br />
ông đã khắc họa lại hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" một cách rất chân thực và <br />
giàu cảm xúc.<br />
Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu <br />
lòng yêu thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ <br />
nữ can đảm, chịu thương chịu khó ấy.<br />
"Quanh năm buôn bán ở mom sông<br />
Nuôi đủ năm con với một chồng<br />
Lặn lội thân cò khi quãng vắng<br />
Eo sèo mặt nước buổi đò đông."<br />
Hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả ở mom sông nơi ẩn chứa rất nhiều <br />
mối hiểm nguy, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào đã gợi lên bao cảm xúc cho <br />
người đọc. Trong thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, nuôi được thân <br />
mình thôi đã là vất vả lắm rồi. Vậy mà bà Tú của Tế Xương còn phải "Nuôi đủ năm con <br />
với một chồng". "Đủ" không những đủ ăn mà còn đủ mặc, dù không dư giả hay cao sang <br />
nhưng cũng không thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ "năm con với một chồng" <br />
giống như một chiếc đòn gánh vô hình nhưng rất dài đang đè nặng lên đôi vai gầy của <br />
người phụ nữ đáng thương. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, <br />
hi sinh bằng tất cả tấm lòng nhân ái và yêu thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với <br />
"thân cò" một hình ảnh rất đẹp, rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông <br />
dân lam lũ, vất vả. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại "eo sèo mặt nước buổi đò đông". <br />
Trong hai câu thơ này, tác giả đã cố tình dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ "lặn lội", "eo sèo" <br />
lên đầu câu để nhấn mạnh thêm nữa sự vất vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy <br />
không những yêu chồng, thương còn mà còn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có <br />
thể vững chân làm nghề buôn bán quanh năm được. Nhất là trong lúc khó khăn, ai ai cũng <br />
cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú cũng vậy, bà cũng phải bon <br />
chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể "nuôi đủ năm con với một chồng", cộng thêm cả bản <br />
thân bà nữa bẩy người. Một mình bà nuôi cả bẩy miệng ăn.<br />
Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững và <br />
cam chịu tất cả:<br />
"Một duyên hai nợ âu đành phận<br />
Năm nắng mười mưa dám quản công<br />
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc<br />
Có chồng hờ hững cũng như không."<br />
Duyên nợ long đong lận đận, kiếp sống khổ cực, nhọc nhằn nhưng xuyên suốt cả <br />
bài thơ, không có một từ nào nói lên sự than thở, kêu than của bà Tú. Người phụ nữ ấy có <br />
tấm lòng yêu thương quá lớn. Bà đã hi sinh tất cả cho chồng cho con, hi sinh cả tuổi thanh <br />
xuân đầy khát vọng của mình. Dù "năm nắng" hay "mười mưa" bà nào có "quản công". <br />
Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình. Cũng may, trong thời ấy, dù nhiều người phụ <br />
nữ khác cũng lam lũ, cũng vất vả nhưng chẳng mấy ai được chồng cảm thông và thương <br />
xót như Bà Tú. Chỉ tiếng rằng ngoài tình thương, Tế Xương cũng không thể làm gì giúp <br />
vợ được. Thế nên, ông mới tự nhận "Có chồng hờ hững cũng như không". Bà không cần <br />
nói nhưng những việc bà làm đã khiến Tế Xương chồng bà phải khâm phục và nể trọng.<br />
Bà là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với đức tính <br />
chịu thương chịu khó, hi sinh vất vả và giàu lòng yêu thương. Tuy nhiên, trong cuộc sống <br />
hiện đại, do có quá nhiều thứ bon chen, chi phối, một số người đã không còn gìn giữ <br />
được những phẩm chất tốt đẹp, cao quý ấy nữa. Họ sống vì lợi danh, sống ganh đua, <br />
chua chát. Không ít kẻ đã trà đạp lên nhau, giẫm chân lên nhau mà sống. Ai cũng vì lợi ích <br />
riêng của bản thân mình mà quên đi mất những phẩm giá tốt đẹp vốn có của con người. <br />
Chưa kể đến có những bà lười biếng, thích ăn không ngồi rồi, thích hưởng thụ, thích sai <br />
khiến người khác phải phục tùng mọi ý muốn của mình. Không mấy ai còn phải vất vả <br />
như bà Tú nhưng cũng cũng chẳng có nhiều tấm lòng giàu tình yêu thương và vị tha như <br />
vậy nữa.<br />
Giữa thời thế xô bồ hỗn độn, hình ảnh bà Tú lại xuất hiện với những câu thơ chân <br />
thành, mộc mạc của Tế Xương như một lời động viên, khích lệ và khuyên nhủ những <br />
người phụ nữ hãy nhìn nhận lại bản thân mình, hãy cố gắng vươn lên trong mọi hoàn <br />
cảnh. Đừng vì đồng tiên hay vì bất kỳ một điều gì khác mà làm mất đi danh dự và phẩm <br />
giá cao quý của mình. Mặt khác, những người chồng, người đàn ông cũng hãy cảm thông, <br />
thương yêu và quý trọng người phụ nữ của đời mình, hãy cùng nhau sẻ chia và gánh vác <br />
mọi chuyện trong gia đình, cũng như trong cuộc sống. Tế Xương thương vợ, nhưng ông <br />
không bắt tay làm cùng vợ được. Bởi đó là do thời thế lúc bấy giờ như vậy. Hơn nữa, <br />
nghề của ông là viết văn, làm thơ nên ông cũng không có thời gian để làm cùng vợ. Chỉ <br />
tiếc rằng, cái nghề của ông không mang lại nhiều tiền bạc, của cải để gánh vác gia đình, <br />
để bà Tú bớt vất vả, để thân cò ấy không phải lặn lội hay eo sèo trong những buổi đò <br />
đông.<br />
Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh. <br />
Bà là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính mình.<br />