Đề bài: Phân tích nhân vật ông Tám trong truyện “Đất” của nhà văn Anh Đức<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Anh Đức là nhà văn Nam Bộ. Cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc; năm 1962, ông trở lại <br />
chiến trường miền Nam. Anh Đức viết truyện “Đất” vào tháng 3 1964 kể chuyện bà con <br />
nông dân Xẻo Đước chống phá quốc sách lập ấp chiến lược của Mỹ ngụy, quyết tử giữ <br />
làng, giữ từng tấc đất của ông cha, thể hiện một tấm lòng kiên trung với Đảng và Cách <br />
mạng. Ông Tám là hình ảnh tuyệt đẹp tiêu biểu cho khí phách anh hùng của bà con nông <br />
dân và các chiến sĩ du kích Xẻo Đước trong những tháng ngày đen tối và bi hùng ấy.<br />
<br />
Ông Tám là “một cuốn trong bộ sử biên niên của xứ U Minh Hạ”. Ông đã ngót bảy mươi, <br />
thân hình "gân guốc", là người duy nhất ở Xeo Đước “còn để đầu tóc”. Nghĩa là ông Tám <br />
vẫn còn giữ nếp sống dân dã cổ xưa. Ông là một trong những người đầu tiên đến Xẻo <br />
Đước khai hoang lập ấp, khi “heo rừng còn vô ỉa trong chòi, lúc cọp còn rình rập những <br />
người tới khẩn đất, và con chim đi theo cọp đêm đêm, cứ kêu nghe boong boong... <br />
krỏi...krỏi". Ông Tám là một lão nông cần cù, làm ăn giỏi. Cái mũi ông rất "tinh nhạy", <br />
đúng là “Trời ban cho", nên “chỉ cần ngửi nước rạch buổi sáng ông cũng biết ngay là có <br />
heo rừng hoặc chồn đến đây uống nước buổi đêm”. Ông là một tay bẫy heo rừng và chồn <br />
cáo "thật kì tài". Con người ông là biểu tượng của sức sống và bao phẩm chất tốt đẹp <br />
của người nông dân miệt vườn như dũng cảm, mạnh mẽ, dẻo dai, bộc trực, chất phác, và <br />
tình nghĩa thuỷ chung. Lúc nào ở con người ông cũng toát ra “mùi vị của rừng nê địa, của <br />
cây đước, dòng kinh điển, ngọn lửa không bao giờ tắt dưới đất xốp màu mỡ".<br />
<br />
Giữa thời kì đen tối, dưới ách kìm kẹp của giặc, ông Tám và gia đình cũng như hàng triệu <br />
dân ấp dân lân vùng đồng bằng sông Cửu Long "quyết không rời bỏ Đảng và Cách <br />
mạng".<br />
<br />
Bức chân dung ông Tám được Anh Đức khắc họa bằng một số nét cổ kính, gân guốc đậm <br />
chất thơ và chất tạo hình, tiêu biểu cho bao phẩm chất cao quý của người nông dân Nam <br />
Bộ xưa và nay.<br />
Lúc nào, ông Tám và gia đình cũng gắn bó mật thiết với Cách mạng, cũng dành cho cán bộ <br />
bao tình cảm quý mến đặc biệt. Trong hoàn cảnh xẻo Đước bị Mỹ ngụy "đóng thêm <br />
bốt, đồng bào bị giặc vây ép gắt gao hơn", nhưng khi gặp chú Bảy cán bộ, ông Tám đã <br />
"ôm chầm lấy”.. Và trong bóng tối khi nghe nói đến chuyện mượn xuồng, ông đã sốt sắng <br />
bảo: "Được, được, cứ việc lấy đi!”. Giữa đêm trừ tịch đó, ỏng Tám đã không quên bỏ vào <br />
dưới sạp phía sau lái xuồng bốn đòn bánh tét lớn và hai gói trà “Thiết La Hán" món quà <br />
tết đầy tình nghĩa của gia đình ông gửi tặng anh em đang hoạt động bí mật trong cứ. Tình <br />
quân dân, tình cảm cách mạng lúc nào cũng nồng cháy trong tâm hồn ông Tám, trong lòng <br />
bà con cô bác Xẻo Đước; ngọn lửa ấy đã tỏa sáng và bùng lên khắp các xóm làng, dòng <br />
kênh thời đồng khởi.<br />
<br />
3. Đọc truyện "Đất" của Anh Đức, chúng ta vô cùng ngưỡng mộ và kính phục khí phách <br />
hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám. Giặc dồn dân lập ấp chiến lược, âm mưu "tát cạn <br />
nước bắt cá" vô cùng thâm độc. Trước hành động điên cuồng của lũ giặc, ông Tám dặn <br />
vợ con: "Nhà mình ở đầu xóm mà núng thế thì không làm gương được cho lối xóm". Năm <br />
lần bảy lượt, bị giặc o ép, ông Tám đều mưu trí, dũng cảm “kiếm cách lướt qua hết”. Khi <br />
bọn lính tráng kéo tới "hùng hổ dỡ nhà", ông Tám nói cho chúng biết “tôi không đi đâu!", <br />
rồi ông đem cây mác dài bén ngót ra “phóng cắm giữa nhà", nói một cách tỉnh khô: "Tôi <br />
nói thiệt chứ không phải giỡn đâu. Chú nào leo lên rút một cọng lá tôi chém cho coi!". <br />
Hành động kiên quyết ấy đã làm cho bọn giặc tuy súng đạn lăm lăm trong tay mà "không <br />
thằng nào dám leo lên dỡ nhà”. Hành động kiên quyết ấy của ông Tám đã làm gương cho <br />
mẹ con thím Sáu Ơn chống lại quyết liệt bọn lính, buộc chúng "buông mồi lửa, ngẩn <br />
ngơ" bó tay kéo về đồn.<br />
<br />
Để giữ đất, bà con Xẻo Đước cũng như hàng triệu người nông dân Nam Bộ đã dũng cảm, <br />
kiên cường chống lại súng đạn bọn cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Để giữ đất, ông <br />
Tám đã đem máu xương và tính mạng của mình để chống lại thằng quận trường Sông <br />
Đốc, thằng Đởm, "chánh cống ác ôn”.<br />
<br />
Cuộc đối đầu giữa thằng Đởm thằng gian ác có tiếng với cha con ông Tám, với bà con <br />
cô bác Xẻo Đước là vô cùng ác liệt, khốc liệt, dữ dội. Mới bước vào sân nhà ông Tám, <br />
thằng Đởm nổ súng, "nó kề miệng thổi phù phù vô cây nòng côn 12” rồi thét: "Ai là chủ <br />
nhà đây?". Hắn xộc vô, ngó quanh quất, ngó ông Tám, đoạn vẫy súng. Hắn hách dịch hỏi <br />
ông Tám về lí do hắn tới nhà ông. Hắn hung hăng tự đắc, “ngó mấy tên lính, nháy mắt". <br />
Hắn ngồi lên ván, "trẻo ngoảy chân, đốt thuốc thơm hút". Hắn giục ông Tám "lo cụ bị đồ <br />
đạc đi". Hắn quyết dùng súng đạn uy hiếp ông Tám và người dân Xẻo Đước để lập ấp <br />
chiến lược.<br />
<br />
Trái lại, ông Tám rất bình tĩnh, đĩnh đạc, ung dung. Ông mở tủ thờ lấy cái áo dài bằng <br />
xuyến đen ra mặc, vừa bận áo vừa vuốt từng nếp nhăn. Chiếc áo dài ấy, ông Tám chỉ <br />
mặc khi có giỗ kị. Ông "xồ đầu tóc, xõa ra”. Ông không thèm ngó ngàng đến thằng ác ôn. <br />
Ông trang trọng rút mấy nén nhang, sai con trai đốt đèn lên. Ông Tám thắp nhang, quỳ <br />
xuống trước bàn thờ, lầm rầm khấn. Tiếng khấn của ông Tám là lời nguyền thiêng liêng <br />
quyết nối chí tổ tiên ông cha, quyết "xin chết” để giữ đất, để "cha mẹ và cá vị liệt sĩ ngó <br />
thấy”. Đọc truyện "Đất”, ta vô cùng xúc động khi nghe ông Tám khấn nguyền. Ta tưởng <br />
như đó là tiếng của các nghĩa sĩ Cần Giuộc, của Trương Công Định... một trăm năm mươi <br />
năm về trước vọng về: “Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai <br />
đây là của ông bà, cha mẹ và cách mạng đã tạo lập cho con. Bữa nay người ta tới ép buộc <br />
con phải bỏ đi. Con không thể phụ bạc công ơn cha mẹ, công ơn cách mạng. Vậy con xin <br />
chết cho cha mẹ và các vị liệt sĩ ngó thấy. Khấu đầu xin cha mẹ và các vị chứng miêng <br />
cho...”.<br />
<br />
Sau đó là những giây phút rùng rợn. Thằng Đờm ác ôn kêu lên: “Ông già câm miệng". Ông <br />
Tám khấn vái xong, bước tới góc nhà “chụp cây mác”, bước tới trước mặt thằng giặc <br />
khát máu hỏi hắn "muốn gì?". Súng thằng Đởm chĩa vô ngực ông Tám. ông Tám chĩa mũi <br />
mác nhọn hoắt về phía tên ác ôn. Anh Hai Cần "vớ ngay cây búa bửa củi giấu sau cánh <br />
cửa”. Bọn lính "lên đạn rốp rốp”. Ông Tám “nhích mũi mác tới”. Thằng đồn trưởng "lùi <br />
lại", tay súng nó "run lẩy bẩy”. Phút giây quyết liệt, dữ dội. Cái gì sẽ xảy ra? Thằng <br />
Đởm nổ súng "đùng”. Ông Tám vẫn đi tới khi máu chảy xuống mặt. Ông vẫn đi tới, mũi <br />
mác chĩa lên, thằng đồn trưởng cứ lùi, buông rơi khẩu súng, rú lên bỏ chạy. Và cây búa <br />
trong tay anh Hai Cần người con trai ông Tám "đã bay theo". Đây là cái chết thằng ác ôn, <br />
tên giặc đi cướp đất: "Lưỡi búa cắm ngập vô gáy thằng đồn trưởng". “Nó kêu trời ơi" rồi <br />
té sấp, hai tay vã xuống nền nhà”. Kẻ đã bán linh hồn cho quỷ dữ phải đền tội, đúng như <br />
hắn đã thề độc khi bước chân tới Xẻo Đước: “Tôi không lừa được dân Xẻo Đước thì tôi <br />
chết sao?”<br />
<br />
Anh Đức đã tái hiện cuộc chiến đấu giữ đất vô cùng tráng liệt. Lời thề thiêng liêng và tư <br />
thế hiên ngang, lẫm liệt của ông Tám, mũi mác nhọn hoắt và lưỡi búa của hai cha con ông <br />
Tám đã chĩa thẳng vào mặt, đã bay theo và cắm phập vào gáy tên ác ôn. Máu ông Tám đã <br />
đổ xuống, để giữ đất, để nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất của người nông dân <br />
Nam Bộ. Khuynh hướng sử thi, âm điệu anh hùng ca và cảm hứng lãng mạn dào dạt trên <br />
trang văn của Anh Đức.<br />
<br />
"Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu", "Lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí <br />
chung câu quân hành”, đó là những vần thơ của Tố Hữu mà nhiều người trong chúng ta <br />
chợt nhớ khi đọc truyện "Đất" của Anh Đức, khi nghĩ về tư thế chiến đấu hiên ngang, <br />
lẫm liệt anh hùng của ông Tám, của anh Hai Cần.<br />
<br />
Ông Tám là một nhân vật tuyệt đẹp mang tính chất điển hình cho những phẩm chất cao <br />
quý của người nông dân Nam Bộ: lao động cần cù giỏi giang, tình nghĩa thủy chung, dũng <br />
cảm hi sinh chiến đấu, để giữ làng giữ đất. Lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu Cách mạng <br />
của ông Tám son sắt và chói lọi.<br />
<br />
Anh Đức đã sáng tạo nên một tác phẩm đặc sắc: có sức khái quát cao, chủ đề sâu sắc, cốt <br />
truyện hấp dần, giọng kể đậm đà, xúc động, ngôn ngữ và nhân vật đậm chất Nam Bộ <br />
đầy ấn tượng. Tình huống của truyện rất hấp dẫn, nhất là trong cảnh ông Tám đối mặt <br />
với tên ác ôn, khi lưỡi búa trong tay anh Hai Cần bay cắm phập vào gáy tên giặc khát máu.<br />
<br />
Máu ông Tám đã đổ xuống, máu của hàng ngàn, hàng vạn người nông dân Nam Bộ đã đổ <br />
xuống, để đất nở hoa, xanh tươi cây trái bốn mùa. Chỉ có máu và mồ hôi mới làm cho đất <br />
màu mỡ, làm cho giang sơn gấm vóc tươi đẹp và bền vững đời đời.<br />
<br />
Truyện "Đất” của Anh Đức còn mang ý nghĩa là khúc tráng ca Tự do như anh Bảy, một <br />
cán bộ kháng chiến nằm vùng khi trở lại Xẻo Đước đã nói: “Tự do như có thể sờ nắm <br />
được... Tự do ở bước chân tôi đặt lên con đường đất. Và tự do được đánh dấu chỗ cổng <br />
nhà mà ngày trước bọn giặc vẫn thường rậm rịch kéo qua”..<br />