Phân tích các yêu cầu đối với tư vấn pháp luật bằng lời nói
lượt xem 6
download
Tài liệu "Phân tích các yêu cầu đối với tư vấn pháp luật bằng lời nói" gồm có những ý chính như: Khái niệm Tư vấn pháp luật; Tư vấn pháp luật bằng lời nói; Các yêu cầu đối với tư vấn pháp luật bằng lời nói; Đánh giá hoạt động tư vấn pháp luật bằng lời nói. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích các yêu cầu đối với tư vấn pháp luật bằng lời nói
- PHÂN TÍCH CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI TƯ VẤN PHÁP LUẬT BẰNG LỜI NÓI 1. Khái niệm Tư vấn pháp luật Đối với hoạt động tư vấn pháp luật, hiện nay có rất nhiều quan niệm, định nghĩa được đưa ra. Trong cuốn Sổ tay kỹ năng tư vấn pháp luật, tác giả định nghĩa: “Tư vấn pháp luật là một dịch vụ nghề nghiệp đặc biệt, có hợp đồng, do những cán bộ có trình độ và được đào tạo chuyên sâu về pháp luật với những kinh nghiệm đặc biệt, thực hiện một cách khách quan, độc lập cho tổ chức của khách hàng để xác định rõ các vấn đề pháp luật, phân tích và kiến nghị các giải pháp giải quyết vấn đề đó, đồng thời giúp đỡ thực hiện các vấn đề này khi được yêu cầu”. Tại điều 28 Luật luật sư đưa ra khái niệm: “tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ”. Như vậy, tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn khách hàng xử sự đúng pháp luật, cung cấp các loại dịch vụ giúp khách hàng thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, tư vấn pháp luật chỉ là cung cấp thông tin, đưa ra giải pháp còn quyết định cuối cùng vẫn thuộc về người được tư vấn, người tư vấn viên không được và không thể quyết định thay cho khách hàng. Tùy thuộc vào cách thức mà chúng ta có tư vấn pháp luật bằng lời nói và tư vấn pháp luật bằng văn bản. 2. Tư vấn pháp luật bằng lời nói 2.1. Khái niệm Theo từ điển tiếng Việt, “nói” là phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung nhất định trong giao tiếp. Từ điển Bách khoa toàn thư đưa ra định nghĩa: “Nói là phát ra những âm thanh mang ý nghĩa thông tin, tâm tư tình cảm, diễn đạt kiến thức bằng lời, từ ngữ”. Như vậy, nói chính là một hoạt động của con người, là phương tiện để giao tiếp giữa con người với nhau. Do đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm tư vấn pháp luật bằng 1
- lời nói như sau: Tư vấn pháp luật bằng lời nói là việc người tư vấn pháp luật sử dụng ngôn từ trong hoạt động nghề nghiệp để truyền đạt thông tin tới người được tư vấn nhằm cung cấp ý kiến pháp lý về các vấn đề liên quan đến pháp luật hoặc trong quá trình thực hiện các công việc chuyên môn khác ngoài tố tụng theo yêu cầu của khách hàng. Trong quá trình tư vấn bằng lời nói, tùy vào tình huống mà chúng ta có thể tư vấn trực tiếp; tư vấn qua điện thoại, tổng đài; tư vấn qua đài phát thanh, truyền hình hoặc tư vấn trực tiếp. 2.2. Các yêu cầu đối với tư vấn pháp luật bằng lời nói 2.2.1. Yêu cầu về nội dung a. Nói đúng pháp luật Đây là yêu cầu quan trọng nhất trong hoạt động tư vấn pháp luật. Mọi nội dung người tư vấn pháp luật trình bày với khách hàng phải đúng pháp luật. Nói đúng pháp luật là việc người tư vấn khi phân tích vấn đề, hồ sơ vụ việc, trình bày phương án tư vấn,.. phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật. Điều đó có nghĩa là trong các bước trình bày giải pháp tư vấn, người tư vấn phải viện dẫn đúng văn bản, điều luật, khoản, điểm liên quan đến vấn đề của khách hàng, pháp luật quy định cụ thể như thế nào để từ đó hướng dẫn khách hàng áp dụng quy định của pháp luật đúng và hiệu quả. Như vậy, muốn tư vấn đúng pháp luật, trước tiên, người tư vấn phải có kiến thức pháp luật sâu rộng, có kinh nghiệm áp dụng pháp luật để giải quyết từng tình huống thực tiễn. Quy định pháp luật phải đặt trong cả hệ thống pháp luật. Ví dụ: để xác định một người có quyền đầu tư thành lập doanh nghiệp hay không, người tư vấn không chỉ cần nắm rõ Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành, mà có thể tùy từng trường hợp cần áp dụng cả Luật Viên chức hay Luật cán bộ, công chức,… Việc nói đúng pháp luật là một yêu cầu vô cùng quan trọng đối với người tư vấn pháp luật. Trong trường hợp tư vấn không đúng pháp luật, người tư vấn còn phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. b. Nói đầy đủ nội dung Khi tư vấn pháp luật bằng lời nói, người tư vấn phải nói đủ những nội dung liên quan đến vụ việc mà khách hàng yêu cầu tư vấn. Ví dụ: Khi khách hàng muốn tư vấn về 2
- việc góp vốn thành lập doanh nghiệp, nhiệm vụ của người tư vấn không chỉ xác định những tài sản nào có thể góp vốn, thủ tục như thế nào mà còn cần phải chỉ rõ cho khách hàng: nếu góp vốn bằng những tài sản cần phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở,.. thì những rủi ro nào có thể xảy ra đối với người góp vốn và liệu có phương án thay thế nào hay không? Như vậy, nói đầy đủ nội dung khi thực hiện tư vấn pháp luật có nghĩa là phải đề cập toàn bộ các khía cạnh của vấn đề, bao gồm cả những lợi thế và hạn chế đối với khách hàng, tránh tư vấn phiến diện, thiếu nội dung dẫn đến việc khách hàng không lường hết những khó khăn, bất lợi có thể gặp phải theo phương án tư vấn. c. Nói một cách khách quan, không tùy tiện, không suy diễn Khi tư vấn pháp luật bằng lời nói, người tư vấn phải nói một cách khách quan. Nói một cách khách quan là việc trình bày những diễn biến, trạng thái chân thực của sự việc diễn ra và đánh giá, nhận định sự việc dựa trên sự thật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của người tư vấn. Để có được sự thật khách quan, người tư vấn cần thông qua việc nghe, quan sát khách hàng trình bày vụ việc; qua việc tìm kiếm, khai thác thông tin, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu của vụ việc. d. Nói có căn cứ Khi người tư vấn nêu vấn đề, phân tích vấn đề hay lập luận vấn đề đều phải căn cứ vào cơ sở pháp lý và thực tiễn. Đây là hau căn cứ tồn tại song song và có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Căn cứ thực tế để có thể áp dụng chuẩn xác quy định của pháp luật, căn cứ pháp lý là cơ sở để giải quyết vấn đề của thực tế. Do khách hàng đa số là những người đang gặp vấn đề vướng mắc liên quan đến pháp luật nên điều họ cần ở người tư vấn là chỉ rõ cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề và vụ việc của họ được giải quyết thế nào theo quy định của pháp luật. Để thuyết phục khách hàng, người tư vấn cần đưa ra các căn cứ để từ đó phân tích vụ việc chứ không được đưa ra theo trí nhớ, ý hiểu, cảm tính mà không chỉ ra được căn cứ. e. Nói có lập luận chặt chẽ Lập luận là quá trình tư duy logic để đưa ra kết luận hay phán xét về một vấn đề. Đây là khả năng của trí óc có thể suy nghĩ và hiểu vấn để một cách hợp lý. Từ sự thật 3
- khách quan, người tư vấn dùng tư duy logic, lý lẽ xác đáng để nhận diện và đưa ra kết luận về vấn đề. Hay nói một cách khác, người tư vấn nêu luận cứ, luận chứng để làm rõ luận điểm. Luận cứ, luận chứng, luận điểm có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, luận điểm thể hiện quan điểm của người tư vấn, luận cứ là lý lẽ để làm rõ luận điểm, còn luận chứng là chứng cứ kết hợp với lý lẽ để minh họa, làm rõ vấn đề cần chứng minh, khẳng định hay bác bỏ. f. Nói có chất lượng Đây là yêu cầu mà khách hàng đặt ra cho bất cứ người tư vấn nào. Nói có chất lượng là nói phải có kết quả cụ thể trả lời cho câu hỏi mà khách hàng đặt ra. Với những thông tin mà khách hàng cung cấp, người tư vấn phải trả lời thẳng vào vấn đề, không vòng vo, chung chung. Câu trả lời chất lượng phải là câu trả lời đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình mafk hông nhất thiết phải là câu trả lời đúng ý khách hàng. Điều này có thể khiến khách hàng không hài lòng nhưng đó là trách nhiệm của người tư vấn. Tư vấn pháp luật bằng lời nói không có chất lượng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín và thương hiệu của chính các nhân người tư vấn và tổ chức hành nghề tư vấn pháp luật. Nhưu vậy, để tư vấn pháp luật bằng lời nói có chất lượng, đòi hỏi người tư vấn trong quá trình thực hiện tư vấn phải chuẩn bị các tư liệu, luận cứ cần thiết và luôn có thái độ nghiêm túc đối với khách hàng và những vấn đề cần tư vấn. 2.2.2. Yêu cầu về hình thức a. Ngôn ngữ chuẩn xác, ngắn gọn, dễ hiểu Ngôn ngữ chuân xác thể hiện qua việc người tư vấn khi nói sử udngj ngôn ngữ chuyên môn chính xác. Tuy nhiên không nên lạm dụng nhiều thuật ngữ chuyên môn bởi các đối tượng khách hàng thường không có nhiều kiến thức pháp luật, họ không thể hiểu hết được những thuật ngữ pháp lý. Để cách nói của người tư vấn vừa chuẩn xác lại dễ hiểu, người tư vấn sau khi nêu thuật ngữ pháp lý thì cần diễn đạt, giải thích những thuật ngữ pháp lý đó bằng những từ cùng nghĩa được sử dụng nhiều trong đời sống. Ngôn ngữ chuẩn xác còn thể hiện qua việc pháp âm chuẩn, chính xác và không có những tiếng ậm ừ trong quá trình trao đổi. 4
- Khi tư vấn pháp luật cho khách hàng, người tư vấn không chỉ cần nói chuẩn xác mà còn cần nói dễ hiểu, dễ nhớ, súc tích và cô đọng. Quan trọng nhất là khách hàng hiểu được lời tư vấn và có thể áp dụng phương án tư vấn đó vào thực tế. b. Trình bày rành mạch, rõ ràng và có logic Người tư vấn trình bày mạch lạc, rõ ràng khiến người nghe dễ bị thuyết phục, cuốn hút, đồng thời dễ hình dung, hiểu ngay ý tưởng, nội dung, mục đích của người tư vấn. Đây là nghệ thuật của người tư vấn và mang nhìu màu sắc cá nhân của từng người. Có người giỏi chuyên môn nhưng nếu khi trình bày không rõ ràng, rành mạch dễ khiến khách hàng nghi ngờ về chuyên môn, thiếu tin tưởng. c. Trình bày có tóm tắt, kết luận Người tư vấn có thể trình bày với khách hàng một cách dễ hiểu, dễ nhớ, súc tích và cô đọng, rành mạch, logic nhưng nếu không có tóm tắt, kết luận thì khách hàng khó có thể nắm bắt được những vấn đề quan trọng. Bởi vì nếu không phải là người chuyên môn về pháp luật thì việc ghi nhớ những lời tư vấn là không hề đơn giản. Vì thế, sau khi phân tích để khách hàng hiểu vấn đề và phương án tư vấn thì người tư vấn cần tóm tắt lại nội dung tư vấn. Chỉ khi khách hàng nắm bắt được những điều quan trọng của phương án tư vấn thì quá trình tư vấn mới được coi là hiệu quả. d. Cách nói phù hợp với từng đối tượng được tư vấn Khách hàng yêu cầu tư vấn pháp luật rất đa dạng, mỗi người có những tính cách, quan điểm, học thức,.. khác nhau do đó người tư vấn viên cần nhận diện để có cách nói chuyện phù hợp. Ví dụ, đối với người có hiểu biết pháp luật, khi nói, viện dẫn điều luật, người tư vấn có thể chỉ cần nêu tên điều luật và giải thích ngắn gọn; nhưng đối với những người không có hiểu biết nhiều về pháp luật, người tư vấn phải đọc lại điều luật đó cho khách hàng, giải thích cặn kẽ điều luật đó để khách hàng có thể hiểu và áp dụng được. e. Nói hay, hấp dẫn Nói hay tức là âm lượng, tốc độ phải phù hợp với đồi tượng, khách hàng, hoàn cảnh, nội dung, nói phải có điểm nhấn, phải chú ý đến đặc điểm tâm lý của khách hàng; nói có so sánh, dùng hình tượng, biện pháp tu từ,… 5
- Muốn nói hay, hấp dẫn, cuốn hút, người tư vấn bên việc cạnh cần có giọng nói hay, có cảm xúc thì khi nói cần phải thể hiện sự nhiệt huyết, sử dụng ánh mắt, ngôn ngữ cơ thể một cách hợp lý và ấn tượng để có thể truyền đạt được cảm hứng cho người nghe, khiến họ chăm chú lắng nghe. Về cơ bản, sự tự tin, lời nói mạch lạc, rõ ràng, phong thái chững chạc là tổng hòa những yếu tố giúp những lời nói của người có tư vấn pháp luật trở nên hấp dẫn, cuốn hút hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý dù nói hay, hấp dẫn cũng cần phải đảm bảo chất lượng tư vấn. Bên cạnh đó, người tư vấn cần phải biết điều chỉnh, bỏ qua những ý không cần thiết, chú trọng ý chính và có sức thuyết phục cao; sắp xếp luận cứ theo một bố cục hợp lý, rõ ràng, mạch lạc, các ý phụ bổ sung cho ý chính và có mối quan hệ tự nhiên với nhau tạo thành phương án tư vấn hoàn chỉnh. Đặc biệt, người tư vấn muốn tạo được sự hứng thú ở người nghe thì quan trọng phải tạo được niềm tin và hướng khách hàng đến mục tiêu chính là bảo vệ được lợi ích cho khách hàng. Niềm tin và mục tiêu là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình người tư vấn trình bày với khách hàng. Trong hoạt động tư vấn pháp luật, nói là một kỹ năng vô cùng quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong khả năng thành công của vụ việc tư vấn pháp luật bằng lời nói. Không phải bất cứ ai bẩm sinh đã có “khiếu nói”, đa phần là do rèn luyện mà nên. Vì vậy, những người tư vấn pháp luật cần phải chú ý rèn luyện kỹ năng nói sao cho khi tư vấn bằng lời nói với khách hàng cần đảm bảo được các điều kiện: có sự chuẩn bị chu đáo, giàu tính thuyết phục, bố cục hợp lý, tạo được phong thái tự tin, thoải mái nhưng không kém phần nghiêm túc, trịnh trọng. 3. Đánh giá hoạt động tư vấn pháp luật bằng lời nói 3.1. Điểm mạnh của hoạt động tư vấn pháp luật bằng lời nói Qua thực tế hoạt động tư vấn pháp luật, chúng ta nhận thấy hoạt động tư vấn bằng lời nói có những điểm ưu việt, thuận tiện cho cả phía người tư vấn và phía khách hàng. Một số ưu điểm của cách tư vấn trên có thể tổng hợp lại như sau: 6
- Thứ nhất, người tư vấn có thể quan sát trực tiếp cử chỉ, tâm lý khách hàng để hiểu rõ hơn về tâm lý khách hàng, có thể tương tác với khách hàng một cách tích cực để tìm ra giải pháp phù hợp. Thứ hai, khi người tư vấn tư vấn trực tiếp bằng lời nói: những thắc mắc của khách hàng sẽ được giải đáp cặn kẽ, chi tiết nhất. Được gặp và trao đổi trực tiếp với người tư vấn, khách hàng có thể có được câu trả lời nhanh nhất. Hơn nữa, khách hàng cũng có thể đưa ra các yêu cầu của mình dễ dàng hơn. Trực tiếp đến gặp người tư vấn, khách hàng sẽ trao đổi được nhiều hơn, nhận được sự tư vấn rõ ràng hơn. Đây là hình thức được sử dụng nhiều và mang lại hiệu quả cao nhất. Với hình thức tư vấn bằng lời nói qua điện thoại: hình thức này rất tiện lợi cho khách hàng ở xa hay bận rộn không thể đến gặp trực tiếp người tư vấn. Người tư vấn có thể nghe khách hàng trình bày thắc mắc cũng như đưa ra cho khách hàng lời khuyên qua điện thoại. Hình thức này thực hiện nhanh chóng nhưng chỉ giải quyết được các tranh chấp, vấn đề không liên quan đến thủ tục. Hình thức tư vấn này ngày càng phổ biến vì hiện tại, điện thoại là phương tiện liên lạc nhanh và hữu hiệu. Khách hàng có thể có được số điện thoại của người tư vấn qua người quen, qua khách hàng cũ của người tư vấn hay họ thấy thông tin của chúng ta trên báo chí, trên mạng internet. 3.2. Điểm yếu của hoạt động tư vấn pháp luật bằng lời nói Tuy có nhiều ưu thế như vậy, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận một điều rằng: không có gì là hoàn hảo và phương pháp tư vấn bằng lời nói cũng có những điểm hạn chế. Thứ nhất, hình thức này không chỉ đòi hỏi người tư vấn phải am hiểu pháp luật mà còn phải có các kỹ năng giao tiếp với khách hàng, như các kỹ năng: tạo niềm tin cho khách hàng, đồng cảm, thuyết phục, tự chủ cảm xúc,.. Ngoài ra, người tư vấn cũng cần phải am hiểu xã hội, tâm lý khách hàng. Thứ hai, đối với hình thức tư vấn bằng lời nói qua điện thoại: những vấn đề liên quan đến thủ tục, giấy tờ thì hình thức này không đạt được hiệu quả cao. Bởi, người tư vấn không thể giới thiệu, tư vấn, hướng dẫn khách hàng một cách tỷ mỉ, khoa học và chính xác. 7
- Ngoài ra, khách hàng sẽ mất khá nhiều thời gian để gặp gỡ, tiếp xúc với người tư vấn. Phí tư vấn cũng khá cao, chưa kể chi phí cho việc đi lại,… Như vậy, tư vấn pháp luật bằng lời nói là một trong các hình thức tư vấn pháp luật. Với những yêu cầu và đánh giá như đã trình bày ở trên, hoạt động tư vấn bằng lời nói có những yêu cầu riêng và cũng có những ưu, nhược điểm riêng so với hình thức tư vấn pháp luật bằng văn bản. Do đó, để hoạt động tư vấn pháp luật bằng lời nói đạt hiệu quả cao, người tư vấn không chỉ cần trau dồi kĩ năng cứng (kĩ năng chuyên môn) mà còn cần bổ sung kĩ năng mềm (kĩ năng giao tiếp và những kỹ năng bổ trợ khác), kết hợp với các kiến thức xã hội để có cách tiếp cận với từng loại khách hàng cho phù hợp, tránh để những khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa, tín ngưỡng,… trở thành rào cản trong quá trình tư vấn. 8
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc đổi mới mô hình bộ máy nhà nước
20 p | 482 | 129
-
Bài giảng Hoạch định và phân tích chính sách công: Chương 3 - ThS. Nguyễn Xuân Tiến
90 p | 231 | 60
-
Các tiêu chuẩn đánh giá dự án
34 p | 187 | 47
-
Thực thi quyền lực nhà nước và hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội ở Việt Nam hiện nay: Phần 1
183 p | 79 | 18
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
5 p | 646 | 13
-
Một số yêu cầu nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo ngành luật của các cơ sở đào tạo trong bối cảnh chuyển đổi số tại Việt Nam
11 p | 15 | 9
-
Bài giảng Phân tích chính sách kinh tế, thương mại - Chương 4: Phân tích tác động của một số chính sách kinh tế chủ yếu
10 p | 30 | 9
-
Các hình thức tích tụ, tập trung đất nông nghiệp: Yêu cầu đổi mới phương thức quản lý
5 p | 55 | 8
-
Đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững
4 p | 72 | 5
-
Đề cương môn học Phân tích và định giá doanh nghiệp
13 p | 4 | 3
-
Các hình thức đại diện lao động trong bộ luật lao động năm 2019 đáp ứng yêu cầu hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
10 p | 8 | 3
-
Phân tích điều kiện phát triển vùng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
6 p | 34 | 3
-
Đề cương chi tiết học phần Luật hình sự 1 (Mã học phần: LUA103024)
15 p | 8 | 3
-
Những yêu cầu về việc xây dựng và giải quyết các tình huống pháp luật của học phần tư pháp quốc tế
5 p | 15 | 2
-
Hoạt động giáo dục và tư vấn pháp luật cho phạm nhân - Thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế: Phần 2 - PGS.TS Đoàn Đức Lương và ThS. Lý Nam Hải
66 p | 17 | 2
-
Các nhân tố tác động đến chuyển đổi số tại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh
10 p | 5 | 2
-
Bảo đảm quyền giám sát của công dân đối với việc lập, công bố và thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện
7 p | 49 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn