3
thừa các nguyên liệu đầu vào (con giống, thức ăn thủy sản) của các
hộ nuôi đã được nhiều tác giả thừa nhận từ các nghiên cứu của mình
(Khoi, L.N.D và Son, N.P, 2012; Khoi. L.N.D và ctv, 2008; Võ Thị
Thanh Lộc, 2009; Nguyễn văn Thuận và Võ Thành Danh, 2014).
Trong thực tế, để đo lường đánh giá vấn đề này, một số tác giả,
thường là những nhà khoa học trong lĩnh vực kỹ thuật, đã sử dụng
phương pháp phân tích hiệu quả tài chính, hoặc một số nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực kinh tế đã sử dụng phương pháp phân tích bao
phủ dữ liệu (Data Envelopment Analysis – DEA) để đo lường và
đánh giá HQSX của các hộ nuôi thủy sản nói chung và nuôi cá tra
nói riêng. Mặc dù những phương pháp này cũng phản ảnh được phần
nào HQSX của các hộ nuôi, nhưng những phương pháp này chưa chỉ
ra được khả năng các hộ nuôi có thể tiết kiệm được bao nhiêu chi phí
cho việc sử dụng các yếu tố đầu vào, với kỹ thuật và giá cả đầu vào
sẵn có, mà vẫn duy trì được mức sản lượng không đổi (trong trường
hợp sử dụng phương pháp phân tích tài chính của Phương và ctv,
2007; Nguyễn Thanh Long, 2015; Phạm Thị Thu Hồng và ctv, 2015).
Cũng vậy, một số nghiên cứu trong và ngoài nước không chỉ ra được
mức độ hiệu quả đích thực của các hộ nuôi trong bối cảnh phải chịu
tác động của các yếu tố phi ngẫu nhiên không kiểm soát được, đi
cùng với tính phi hiệu quả do chính những hạn chế trong kỹ thuật
nuôi của các hộ nuôi (trong trường hợp sử dụng phương pháp DEA
của , Sharma và ctv, 1999; Kaliba và Angle, 2004; Cinamre, 2006;
Bùi Lê Thái Hạnh, 2009; Nguyễn Phú Son, 2010; Đặng Hoàng Xuân
Huy, 2011). Do vậy, cũng có những tác giả khác đã sử dụng phương
pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA-Stochastic Frontier Analysis)
để khắc phục những hạn chế của DEA. Mặc dù cách phân tích dựa
vào phương pháp này đã được sử dụng khá phổ biến ở nước ngoài