VĂN MẪU LỚP 11<br />
PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN TRONG BÀI THƠ TRÀNG GIANG<br />
CỦA HUY CẬN<br />
BÀI MẪU SỐ 1:<br />
1. Khái niệm<br />
Vẻ đẹp (của một bài thơ): Sức hấp dẫn, khả năng tạo những rung động thẩm mỹ<br />
Cổ điển: Thuộc về thời xưa đã trở thành mẫu mực.<br />
Vẻ đẹp cổ điển (của một bài thơ): vẻ hấp dẫn của những yếu tố đã trở thành chuẩn<br />
mực thẩm mỹ trong thơ ca cổ điển phương Đông – tiêu biểu là thơ Đường, thơ Tống và<br />
thơ ca trung đại Việt Nam.<br />
2. Cơ sở tạo nên vẻ đẹp cổ điển trong thơ Huy Cận<br />
Thơ mới tuy cách tân mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực nhưng không cắt đứt với cái cũ<br />
mà vẫn kế thừa và phát triển những vẻ đẹp trong nội dung và hình thức nghệ thuật của<br />
thơ ca trung đại.<br />
Thơ mới là thơ lãng mạn. Quay lưng với hiện Lại và tìm lối thoát về tinh thần, các<br />
nhà thơ lãng mạn có xu hướng tìm về với những gì xưa cũ.<br />
Thơ mới có nhiều trường phái. Có nhà thơ tìm về chân quê, có nhà thơ chịu ảnh<br />
hưởng mạnh mẽ của thơ ca phương Tây, Huy Cận bên cạnh ảnh hưởng của thơ lãng mạn<br />
Pháp vẫn kế thừa thi pháp thơ cổ điển phương Đông.<br />
Phong cách thơ Huy Cận: “Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đóng Á, người đã<br />
khơi lại cái mạch sầu mấy ngàn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thanh)…<br />
3. Biểu hiện<br />
Ở cả hai phương diện nội dung và hình thức (khi phân tích có thể không tách nhưng<br />
cần đủ).<br />
a. Hình thức<br />
Thế thơ thất ngôn trường thiên cổ kính nghiêm trang (so sánh với thơ tự do của Xuân<br />
Diệu, lục bát của Nguyễn Bính).<br />
Chất nhạc cố điển: 4/3; 2/2/3 (quen thuộc trong Thơ Dường), phối hợp thanh điệu hài<br />
hòa, sử dụng chủ yếu vần bằng tạo âm diệu trầm buồn, những từ láy, điệp âm tạo nên<br />
dòng chảy của dòng sông cũng Như dòng chảy miên viễn của tâm trạng buồn thương tạo<br />
cho thơ chất nhạc sầu da diết.<br />
Nghệ thuật tả cảnh:<br />
<br />
+ Lối vẽ chấm phá như thu lấy linh hồn của tạo vật<br />
+ Kết hợp miêu tả điểm và diện; màu sắc thanh nhã.<br />
+ Thủ pháp vẽ mây nẩy trăng – lấy động để tả tĩnh (tiếng làng xa văn chợ chiều).<br />
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:<br />
+ Tạo những cặp hình ảnh hô ứng với nhau (sóng nước – sóng lông; dòng sông dòng<br />
đời; bến cô liêu, cồn nhỏ, cành củi, cánh bèo – con người, kiếp sống…).<br />
+ Sử dụng thi liệu cổ (điển tích): Bức tranh hoàng hôn gợi nhớ câu thơ “Lạc hà dữ cô<br />
vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.<br />
Khói sóng gợi nhớ câu thơ “Quê hương khuất bóng hoàng hôn /Trên sông khói sóng<br />
cho buồn lòng ai” (Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu).<br />
+ Biện pháp tương phản, thường thấy trong văn học văn học trung đại (cấp độ câu:<br />
củi – một – cành -khô – lạc – mấy dòng; cấp độ bài: khổ 1 gợi nỗi cô đơn qua cái nhỏ<br />
nhoi vô nghĩa của một cành củi; khổ 2 gợi cảm xúc ấy qua cách cảm nhận về không gian<br />
ba chiều bát ngát, rợn ngợp; khổ 3 mở ra một không gian đã đứt gãy các mối dây liên hệ;<br />
khổ 4 lại gợi ra hình ảnh sừng sững của vũ trụ – đối thể của tồn tại cá nhân nhỏ bé, đơn<br />
côi).<br />
+ Ngôn ngữ: sử dụng nhiều từ Hán Việt (tràng giang, cô liêu…), sử dụng lối biểu đạt<br />
hàm súc (“lạc”: vừa là lạc lõng, bơ vơ vừa gợi sự mất phương hướng… Câu hỏi: “Đâu<br />
tiếng làng xa vãn chợ chiều” có hai cách hiểu: có tiếng nhưng mơ hồ, phủ nhận hoàn toàn<br />
không có âm thanh vang lên trong tâm tưởng).<br />
b. Nội dung<br />
Đề tài: thiên nhiên – cảnh sông nước, hoàng hôn<br />
Cảm hứng: được khơi nguồn từ thiên nhiên, thể hiện tình yêu thiên nhiên – lại là<br />
thiên nhiên thanh tĩnh, vắng vẻ (thanh, vắng là một trong những yếu tố thuộc cảm hứng<br />
thẩm mỹ của thơ xưa – kiểu “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/Người khôn người đến chốn lao<br />
xao”- Nguyễn Binh Khiêm, hoặc cảnh cày nhàn, câu vắng nơi suối rừng, thôn dã trong<br />
thơ xưa).<br />
Hình tượng:<br />
+ Thiên nhiên đẹp như một bức cổ họa: không gian tràng giang bát ngát, rợn ngợp<br />
với con thuyền xuôi mái, cánh bèo lênh đênh, bầu trời cao rộng với mây đùn thành núi và<br />
cánh chim chiều cô lẻ…<br />
+ Nhân vật trữ tình hiện lên như một lữ khách tha hương khắc khoải trong về bóng<br />
quê hương trong mênh mang sóng nước (liên hộ: Thôi Hiệu, Đỗ Phủ…).<br />
+ Mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người: con người không xuất hiện trực tiếp<br />
mà ẩn sau thiên nhiên (khác với một số thơ của các nhà Thơ mới. nhân vật trữ tình lộ<br />
<br />
diện trực tiếp); thiên nhiên dường như đã chiếm vị trí chủ đạo (thơ Xuân Diệu: hình ảnh<br />
trung tâm là con người), đến tận cuối bài thơ con người mới hiện diện thấp thoáng qua<br />
một tâm trạng, một nỗi lòng.<br />
Nội dung trữ tình:<br />
+ Cảm xúc cô đơn nhỏ bé trước thiên nhiên vô hạn.<br />
+ Nỗi buồn, niềm khao khát tình người lúc chiều tà bóng xế cũng là những cảm xúc<br />
thường gặp trong thơ ca viết về hoàng hôn (liên hệ).<br />
+ Nỗi buồn, nỗi sầu xuất phát từ thân phận vong quốc và lòng yêu nước thầm kín là<br />
nguồn mạch cảm xúc luôn có trong chiều sâu tâm hồn người Việt – được thể hiện trong<br />
văn mạch dân tộc từ ca dao, thơ cổ điển đến thơ hiện đại.<br />
4. Đóng góp<br />
Làm mới chất cổ điển<br />
Tạo nên nét đẹp phong cách Huy Cận<br />
Tạo nên nét đa dạng cho Thơ mới<br />
Khẳng định Thơ mới không đoạn tuyệt truyền thống.<br />
<br />
BÀI MẪU SỐ 2:<br />
Phong trào Thơ mới đi qua dã đế lại cho nền văn học Việt Nam một hơi thở riêng,<br />
một phong cách riêng, và cả một vẻ đẹp riêng. Thơ mới là sự kết hợp nhịp nhàng và hài<br />
hoà giữa cái thiết tha, băn khoăn nồng nan của Xuân Diệu, là nét sầu muộn điên cuồng<br />
của Hàn Mạc Tử, là vẻ mơ màng và hồn hậu của Lưu Trọng Lư và là nét thê lương, u<br />
hoài của Huy Cận.<br />
Nổi bật lên trong số những nhà Thơ mới ấy chính là Huy Cận. Nhà thơ có trái tim<br />
trĩu nặng với những nhịp đập u uất, người đã khơi dạy mạch buồn Đông Á và đồng thời<br />
cũng là một bậc liền sì mang phong thái đa tình lãng tử. Bài thơ Tràng giang trích trong<br />
tập Lửa thiêng của chàng thi sĩ trẻ tuổi này là nốt nhạc mở màn ngân lên những tiếng<br />
lòng tuyệt diệu, la người thiếu nữ mang nét đẹp hiện đại của Tây phương pha trộn nét<br />
trầm lắng,cố điểncủa phong cách thơ ca Đỏng phương.<br />
Trang giang là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất của thơ ca lãng mạn, gửi gắm<br />
tấm lòng buồn thương của nhà thư trước cuộc đời. Bài thơ chính là sự kết hợp nhuần<br />
nhuyễn của bút pháp cổ điển và hiện dại, vừa cỏ nét thâm trầm của Đường thi vừa có nét<br />
tươi tắn của Thơ mới. Băng cách sử dụng phong phú các hình ảnh giàu giá trị miêu tá<br />
cùng với cách khai thác triệt dế tác dụng của các biện pháp tu từ, Huy Cận dã tạo ra cho<br />
Trùng giang một giá trị thám mỹ cao, gà ấn tượng mạnh với người đọc. Ngay từ nhan đề<br />
và lời đề từ của bài thơ, người ta đã có thế hình dung ra trước mát mình là bức tranh vỏ<br />
tạn của không gian trời nước mênh mỏng. “Tràng giang” nghĩa là sòng dài. Hai tiếng<br />
Tràng giangcó cách gieo áỉi“ang” độc đáo với thanh bằng đi liền nhau tạo ra đỏủm vang<br />
cho câu chữ. Dường như con sông càng được kéo dài ra hơn, không gian được mở rộng<br />
và người đọc như nhìn thay dòng chảy miên man và bất tận cua nó. Tràng giang là một từ<br />
Hán Việt mang sác thái trang trọng, nó gợi nét đẹp cổ kính, trầm mặc của dòng sông,<br />
“tràng giang” khùng nhất thiết là sông Hoàng Hà, sông Cứu Long, dó cũng có thể là sông<br />
Trường Giang, là sông Hồng... Thế nhưng, cho dù là bất cứ con sông nào chăng nữa thì<br />
khi dứng trước cái rợn ngợp của non sông trời nước, ngay củ những người hững hờ nhất<br />
cung không tránh khỏi cám giác bơ vơ, lạc lõng và cỏ đơn. Bởi thế mà bài thơ mang nang<br />
tâm sự hoài cổ và đạm dấu ấn cổ điển của Đường thi:<br />
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp<br />
Con thuyên xuôi mái nước song song.<br />
Thuyên về nước lại, sáu trăm ngả;<br />
Củi một cành khô lạc mấydỏng.<br />
Những hình anh sống động cứa thế giới mênh mong vô tận được mở ra ngay từ<br />
những câu thơ đáu. Khố thơ mang cấu trúc rất cổ, rất xa đưa ta về lại dòng sông mênh<br />
mông song nước với con thuyền màu xám quạnh hiu. Từng đợt sóng gợn hên tiếp và<br />
<br />
chồng chất tạo ra trạng thái “điệp điệp” của những con sóng gối lên nhau cuộn vào nhau<br />
như những nỗi buồn trong lòng người. Có lẽ trên sông có bao nhiêu con sóng là bấ nhiêu<br />
nỗi buồn đang dâng lên từ từ trong lòng tác giá. Hình ảnh “con thuyền xuôi mai” xuất<br />
hiện giữa dòng nước mênh mông gợi ra sự nhỏ bé, lạc lõng và bơ vơ, con sóng cứ đẩy và<br />
con thuyền cứ trôi. “Thuyền” và “nước” vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng khổng phái<br />
bao giờ cũng gán bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi trôi, như kiếp người trong cuộc đời<br />
cũ. Nhát là ớ day con thuyền thả mái lênh đênh và như có một nỗi buồn chia ly, xa cách<br />
đang đón đợi nơi xa xôi và vỏ tạn kia. Nổi buồn ấy chính là “nỗi sầu trăm ngả”. Bao<br />
nhiêu nga nước là bấy nhiêu ngảsầu. Có vẻ như nỗi buồn đã lan toả và trải rộng ra khắp<br />
không gian sóng nước tràng giang. Dòng sông và không gian bao la và tâm trạng cụ<br />
thểvốn có của tứ thơ cổ điển được vận dụng linh hoạt. Ba câu thơ mở đầu bài thơ thật đạc<br />
sắc. Kết thúc khổ đầu, nhà thơ đã chọn lọc một hình ảnh thơ thật độc đáo “củi một cành<br />
khỏ lạc mấy dòng” nhằm nhấn mạnh vào nỗi cô đơn, lẻ chiếc. Nghệ thuật đảo ngữ kết<br />
hợp với bút pháp đối lập tương phản làm cho câu thơ mang ý nghĩa, ẩn dụ sâu sắc. Hình<br />
ảnh “củi một cành khồ“ khiến người đọc hên tưởng với cái tôi của người nghệsĩ lãng mạn<br />
trước cuộc đời lúc bấy giờ: một cái tồi hoàn toàn bế tắc buồn thương, lạc lõng và cô đơn.<br />
Huy Cận đã nắm bắt rất trúng nỗi lòng chung của các nghệsĩ đương thời. Nổi buồn giờ<br />
đây không còn là của riêng cá nhân thi sĩ nữa mà nó là nỗi buồn của cả một thời đại, một<br />
thế hệ:<br />
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu<br />
Đáu tiếng làng xa văn chợ chiều.<br />
Nắng xuống, trời lênsau chót vót;<br />
Sông dài, trời rộng,bến cô liêu.<br />
Không gian hiện thực được mở ra rộng hơn, nó không chỉ tập trung ở sóng nước<br />
“tràng giang” mà được mở rộng ra xung quanh. Với đôi mắt cô đơn và âu sầu, Huy Cận<br />
thấy trên sông những cồn nhỏ lơ thơ và gió đìu hiu, ông nghe trong không gian văng vẳng<br />
đâu đây là tiếng chợ văn khi chiều xuống. Chỉ là “lơ thơ”, “đìu hiu”, những từ lấy giản dị<br />
thỏi nhưng lại có khả năng tạo ra xúc cảm lạ lùng. Ngôn ngữ thơ có sự cộng hưởng. Cái<br />
quạnh quẽ, cô đơn như thu lại trong sự nhỏ bé rồi cất lên thành tiếng thơ dài u uất chỉ sau<br />
có mấy từláy. Phải có một sự sáng tạo độc đáo thì nhà thơ mới có thể thổi vào cả miền<br />
không gian từng ngọn gió nhẹ nhàng và hiu quạnh đến vậy. Cảnh vật lúc này thật vắng<br />
vẻ, tiếng lao xao của buổi tan chợ làm cho không gian rộng lớn của tràng giang bỗng trở<br />
nên ngột ngạt hơn. Từ “đâu” đạt ở đầu câu có thể hiểu là từ chỉ nơi chốn, cũng có nghĩa<br />
là từ phủ định. Nếu coi âm thanh của buổi chợ làng xa là tín liệu của sựsống, sựsống ở<br />
đây rất mờ nhạt và mơ hồ. Dường như cái nét tươi tắn, tràn đầy sức sống chỉ còn là hoài<br />
niệm, là chí trong lòng nhà thơ mà thôi:<br />
<br />