intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Pháp luật Việt Nam về chuyển đổi số vận dụng trong ngành logistics

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Pháp luật Việt Nam về chuyển đổi số vận dụng trong ngành logistics" nghiên cứu pháp luật Việt Nam về chuyển đổi số vận dụng cho các doanh nghiệp có tác động sâu sắc đến hiệu quả hoạt động dịch vụ logistics tại Việt Nam. Thực tế cho thấy, hiện đang có những rào cản trong quá trình này như: Nhận thức và thông báo về tính cấp thiết của chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp logistics chỉ sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin mới ở mức độ cơ bản, rời rạc;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Pháp luật Việt Nam về chuyển đổi số vận dụng trong ngành logistics

  1. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ VẬN DỤNG TRONG NGÀNH LOGISTICS Vũ Thu Hằng, Phạm Thị Việt Hà1 Tóm tắt: Chuyển đổi số là cần thiết cho hoạt động logistics nếu doanh nghiệp muốn tồn tại trong thị trường luôn thay đổi. Vì vậy, pháp luật Việt Nam về chuyển đổi số vận dụng cho các doanh nghiệp có tác động sâu sắc đến hiệu quả hoạt động dịch vụ logistics tại Việt Nam. Thực tế cho thấy, hiện đang có những rào cản trong quá trình này như: Nhận thức và thông báo về tính cấp thiết của chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp logistics chỉ sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin mới ở mức độ cơ bản, rời rạc; Chuyển đổi kỹ thuật số vượt quá tiềm năng kinh tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực hậu cần; Thiếu cơ sở hạ tầng cho kỹ thuật số chuyển đổi; Thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao để tiếp cận chuyển đổi số; Nguy cơ rò rỉ dữ liệu, thông tin từ doanh nghiệp, khách hàng; Nhiều doanh nghiệp lo ngại rủi ro pháp lý; các rào cản khác như thông tin mới nhất về công nghệ số, khó khăn trong việc thay đổi tập quán kinh doanh truyền thống. Từ khóa: Chuyển đổi số, doanh nghiệp logistics Việt Nam 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Chuyển đổi số Chuyển đổi số trong doanh nghiệp được hiểu là “sự tích hợp và ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và tạo ra những giá trị mới”. Quá trình chuyển đổi số của các doanh nghiệp hướng tới mục tiêu thay đổi tình trạng trì trệ, tạo đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí, tăng trưởng nhanh và đạt lợi nhuận tối ưu. Trên thực tế, Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi nhanh chóng sang xã hội số. Hiện nay, khoảng 70% người dân có thể truy cập Internet thông qua máy tính hoặc điện thoại thông minh với chi phí thuận tiện nhưng chất lượng cao và ổn định. Ngoài ra, ngành logistics là ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, tham gia ngày càng sâu hơn vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, xã hội. Chính phủ đặt ra mục tiêu cụ thể như sau: “Đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào GDP có thể đạt 5%-6%; 15%-20% đối với tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics, 50%-60% đối với tỷ lệ thuê ngoài (dịch vụ logistics); tổng chi phí logistics dự kiến sẽ giảm xuống còn 16%-20% GDP và đứng thứ 50 trong chỉ số LPI toàn cầu hoặc thậm chí giành được vị trí cao hơn”. Trong bối cảnh cạnh tranh và bùng nổ của nền kinh tế số, cùng với thương mại điện tử ngày càng nhanh, các doanh nghiệp logistics đã phần nào nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số và thành tựu công nghệ vào hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, tối ưu hóa chuỗi sản xuất, cung ứng. Đáng nói, sau khi trải qua tình hình dịch bệnh Covid-19 phức tạp và căng thẳng, thói quen tiêu dùng, cách thức hoạt động, trao đổi thương mại đều có sự thay đổi. Thương mại điện tử phát triển mạnh kéo theo hoạt động logistics góp phần vào cuộc chiến chống lại sự bùng phát 1 Học Viện Tài chính
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 401 của virus Corona bằng cách đảm bảo hoạt động vận chuyển, giao nhận và kho bãi hiệu quả phục vụ lưu thông hàng hóa, phục vụ nhu cầu tiêu dùng, xuất nhập khẩu. Chính những thách thức từ dịch bệnh đã thúc đẩy quá trình tự động hóa, số hóa trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam phát triển và trở thành xu hướng chủ đạo trong thời gian tới. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số hiện nay vẫn đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Do đây là lĩnh vực mới nên hầu hết khung pháp lý phục vụ chuyển đổi số còn rất hạn chế. Quy định pháp luật về định danh điện tử và xác thực danh tính của mỗi cá nhân khi tham gia giao dịch điện tử, giao dịch số còn chưa đầy đủ, còn nhiều bất cập, nảy sinh nhiều vướng mắc dẫn đến hậu quả về an ninh, trật tự xã hội, các hành vi lừa đảo, gian lận trong hoạt động kinh doanh, dịch vụ hoặc các mặt khác của đời sống xã hội. Thực trạng chuyển đổi số của các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam Những năm gần đây, logistics là ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, có vai trò hỗ trợ, kết nối, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Hoạt động logistics giúp đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics của các công ty ở Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, như: Chưa khai thác hết lợi thế kinh tế, địa lý của từng địa phương; Cơ sở hạ tầng cho hoạt động logistics cũng như sự kết nối giữa hạ tầng phục vụ thương mại, vận tải, công nghệ thông tin... trong nước chưa phát huy hết tiềm năng nên hiệu quả hoạt động logistics còn thấp, chi phí logistics còn cao so với nước khác do nhiều nguyên nhân. Ví dụ: hạn chế về quy mô, vốn, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, trình độ nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hoạt động, hạn chế về hạ tầng logistics và chi phí vận tải đường bộ, phụ phí cảng biển. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ và đột phá của nền kinh tế số, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử, các doanh nghiệp logistics đã phần nào nhận thấy sự cần thiết phải đẩy nhanh chuyển đổi số và ứng dụng tiến bộ công nghệ vào hoạt động kinh doanh để tăng cường hiệu quả kinh tế, cũng như tối ưu hóa hoạt động kinh doanh của mình. Chuyển đổi số trở nên cấp thiết để doanh nghiệp logistics Việt Nam nắm bắt lợi thế sân nhà và cạnh tranh sòng phẳng với doanh nghiệp nước ngoài. Hoạt động chuyển đổi số bao gồm các nội dung sau: “Số hóa dữ liệu quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp; Ứng dụng công nghệ số để tự động hóa; Tối ưu hóa quy trình kinh doanh, quản lý, sản xuất và báo cáo, phối hợp cho đến khi toàn bộ mô hình kinh doanh được chuyển đổi, tạo ra giá trị mới cho doanh nghiệp” Chuyển đổi số mang lại những lợi ích như cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, đưa ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo kịp thời. Các bộ phận trong doanh nghiệp khi ứng dụng chuyển đổi số tạo ra một nền tảng kết nối tất cả các bộ phận của doanh nghiệp và mỗi bộ phận kinh doanh vẫn có những công cụ để không chỉ phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ mà còn giao tiếp với các bộ phận khác. Bên cạnh đó cũng nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để phục vụ khách hàng tốt hơn nhiều.
  3. 402 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Hơn nữa, hoạt động logistics còn bị ảnh hưởng bởi nhiều ngành liên quan, doanh nghiệp không thể tự mình hoạt động mà phải kết nối với hải quan, các hãng tàu, cùng với nhiều khách hàng và nhiều loại hình dịch vụ. Hiện nay, theo lộ trình chuyển đổi số cho các doanh nghiệp ở Việt Nam, nên trải qua các giai đoạn chung sau: Giai đoạn chuẩn bị và ba giai đoạn để thực hiện quá trình chuyển đổi từng bước từ “làm số” sang “là số”. Các khâu này chỉ mang tính tương đối (không hoàn toàn chính xác), nên tùy theo tình hình thực tế, mục tiêu, tiềm năng của mỗi doanh nghiệp mà có thể thực hiện song song hoặc kế tiếp nhau. Giai đoạn chuẩn bị: Các doanh nghiệp logistics đặt ra các mục tiêu và chiến lược chuyển đổi kỹ thuật số phù hợp nhất cho lĩnh vực kinh doanh của họ. Giai đoạn 1: Ứng dụng chuyển đổi số vào mô hình kinh doanh: Ứng dụng công nghệ số để mở rộng kênh phân phối và từng bước quản lý tồn kho, dịch vụ kho bãi, phân phối hàng hóa; Ứng dụng công nghệ số trong hoạt động tài chính kế toán; Xây dựng cơ sở dữ liệu chung về hoạt động kinh doanh, cung ứng hàng hóa, kế toán, tài chính; Xây dựng chính sách kinh doanh và bảo mật dữ liệu và áp dụng các công cụ bảo mật… Giai đoạn 2: Tập trung chuyển đổi số cho mô hình quản lý Hoàn thiện mô hình quản trị và xác định các yêu cầu dữ liệu tích hợp cho các bước tiếp theo; Xây dựng và hoàn thiện mô hình quản trị, cơ cấu tổ chức, con người, chính sách, quy trình cho mọi hoạt động chức năng của doanh nghiệp; Xây dựng các tiêu chí quản trị, hệ thống báo cáo quản lý và yêu cầu về cơ sở dữ liệu; Xác định yêu cầu cho mục đích chuyển đổi, tích hợp số toàn diện; Ứng dụng chuyển đổi số vào hệ thống báo cáo hành chính;… Giai đoạn 3: Kết nối kinh doanh và quản trị; đổi mới sản phẩm và dịch vụ mới Ứng dụng chuyển đổi số để từng bước kết nối các hệ thống hiện có thành hệ thống thông tin xuyên suốt từ hoạt động kinh doanh đến quản trị, xây dựng cơ sở dữ liệu chung cho toàn doanh nghiệp; Đầu tư đổi mới sản phẩm, dịch vụ, không ngừng nâng cấp hệ thống hiện có; Ứng dụng công nghệ số mới đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng cho dữ liệu của toàn doanh nghiệp. Mặc dù chuyển đổi số trải qua ba giai đoạn như trên nhưng quá trình này rất đa dạng. Không có con đường và mô hình chung để theo đuổi, vì vậy các doanh nghiệp logistics cần xác định lộ trình riêng phù hợp với hoàn cảnh của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay đang có những rào cản trong quá trình này như: Thứ nhất, nhận thức về sự cấp thiết của việc chuyển đổi kỹ thuật số đối với dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp logistics. Thực tế, các doanh nghiệp logistics đã quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh của mình. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu nhận thức và ứng dụng công nghệ vào các khâu như quản lý nội bộ, mua hàng, logistics, sản xuất, tiếp thị, bán hàng và thanh toán. Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics chưa nhận thức đúng vai trò của chuyển đổi số. Một số doanh nghiệp tin rằng chỉ cần đầu tư tiền vào thiết bị công nghệ và đào tạo, họ có thể hoàn thành quá trình chuyển đổi số và mong đợi kết quả.
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 403 Thứ hai, doanh nghiệp logistics chỉ sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin mới ở mức độ cơ bản và rời rạc. Các doanh nghiệp đang áp dụng các loại phần mềm, ứng dụng độc lập, riêng biệt cho từng dịch vụ quản lý, vận chuyển, kho bãi, phân phối, kế toán dẫn đến không thể kết nối để đạt hiệu quả tối ưu, chi phí cao, lãng phí thời gian, gián đoạn cung cầu dịch vụ. Khoảng 40% ứng dụng công nghệ thông tin hiện đang được sử dụng trong các doanh nghiệp logistics là cơ bản, như quản lý giao nhận quốc tế, quản lý kho bãi và vận tải, trao đổi dữ liệu điện tử và khai báo hải quan. Không nhiều doanh nghiệp áp dụng giải pháp tích hợp cao. Vấn đề đặt ra là thiếu sự liên kết giữa các cửa hàng trực tuyến và cửa hàng truyền thống; giữa hệ thống vận tải và thanh toán; thiếu hệ thống quản lý vận đơn trung gian của các công ty vận đơn, thiếu thông tin theo dõi vận đơn theo thời gian thực. Bên cạnh đó, cần tối ưu lộ trình xe, giảm tải rỗng trên đường về, xác định điểm giao hàng gần nhất, kiểm soát đội xe và các chi phí liên quan, minh bạch về thời gian… Việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số có thể tối ưu hóa hoạt động logistics. Thứ ba, chuyển đổi số vượt quá tiềm năng kinh tế của các doanh nghiệp logistics: Bởi phần lớn doanh nghiệp logistics là doanh nghiệp vừa và nhỏ với ngân sách tài chính hạn chế. Những người được hỏi cho rằng, chi phí ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, vận hành sản xuất tương đối cao so với khả năng sẵn sàng tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguồn tài chính cho đầu tư chuyển đổi số trở thành một trong những bài toán khó nhất hiện nay nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng. Thứ tư, thiếu hạ tầng cho chuyển đổi số: Do logistics có mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống giao thông vận tải nên khi thực hiện chuyển đổi số cũng cần tập trung phát triển hệ thống giao thông thông minh, tập trung vào hệ thống giao thông đô thị, đường cao tốc và các tuyến quốc lộ, đồng thời chuyển đổi cơ sở hạ tầng logistics như cảng biển, cảng thủy nội địa, sân bay, đường sắt, logistics... Thứ năm, thiếu nguồn nhân lực trình độ cao để tiếp cận chuyển đổi số: Doanh nghiệp logistics gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, lĩnh vực mà hoạt động logistics ở Việt Nam hiện đang phải đối mặt là thiếu nguồn nhân lực về số lượng, yếu về trình độ và tính chuyên nghiệp. Khi tiếp cận và thực hiện chuyển đổi số, đó sẽ là trở ngại đối với các doanh nghiệp. Báo cáo Logistics Việt Nam 2022 cho biết, số lao động được đào tạo bài bản về dịch vụ logistics chỉ chiếm khoảng 5-7% số lao động đang làm trong lĩnh vực này. Một khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh cũng cho thấy, có đến 53,3% số doanh nghiệp thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức về logistics, 30% số doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên, chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng với chuyên môn của nhân viên. Thứ sáu, nguy cơ rò rỉ dữ liệu, thông tin của doanh nghiệp hoặc khách hàng. Doanh nghiệp thường lo ngại các giao dịch, hợp đồng điện tử không đảm bảo an toàn như hình thức truyền thống. Ngoài vấn đề an ninh, an ninh mạng, nhiều người bất ngờ khi biết doanh nghiệp lưu trữ rất nhiều thông tin của mình. Trên thực tế, dữ liệu từ khách hàng đã được doanh nghiệp thu thập và lưu trữ từ lâu bằng nhiều cách khác nhau. Bảo mật dữ liệu của doanh nghiệp luôn gặp khó khăn về hạ tầng thông tin, nguồn nhân lực và cách thức quản lý.
  5. 404 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Thứ bảy, nhiều doanh nghiệp lo ngại rủi ro pháp lý: Tranh chấp liên quan đến giao dịch điện tử, hợp đồng, dữ liệu dễ xảy ra và mất nhiều thời gian giải quyết khiến doanh nghiệp bất an, chưa thực sự quan tâm đến ứng dụng số. Ngoài ra, lĩnh vực logistics còn gặp phải những quy định, chính sách mới, nếu không nắm rõ, doanh nghiệp sẽ bị thiệt thòi. Thứ tám, các rào cản khác như thông tin mới nhất về công nghệ số, khó khăn trong việc thay đổi tập quán kinh doanh truyền thống… Tính đến thời điểm hiện tại, ngành logistics Việt Nam chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của nền kinh tế. Các doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam nói chung vẫn chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của chuyển đổi số trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Việc chuyển đổi phải được thực hiện chắc chắn, có lộ trình phù hợp với năng lực tài chính của doanh nghiệp nhưng phải có tầm nhìn dài hạn. Khi hoạch định chiến lược, doanh nghiệp cần xem xét ngành nghề mình đang hoạt động, đối thủ cạnh tranh, quy mô doanh nghiệp, các ưu tiên kinh doanh, văn hóa kinh doanh cũng như sự quyết tâm và nhất quán của người lãnh đạo. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực tế trên là do các chính sách, pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp logistics chưa tập trung mà còn phân tán trong quá nhiều văn bản, các quy định chưa đề cập đến các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics. Vì vậy, cần tiếp tục triển khai theo hướng tập trung, có mục tiêu và thực chất hơn, bám sát nhu cầu của doanh nghiệp trong từng lĩnh vực, từng loại hình kinh doanh với ngành dịch vụ logistics. 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ VẬN DỤNG TRONG NGÀNH LOGISTICS Trong những năm gần đây, nhằm đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển nền kinh tế số, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đặc biệt ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52/NQ- TW về một số chủ trương, chính sách tích cực tham gia Cách mạng lần thứ tư. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký và ban hành Quyết định số 749/QD-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trên cơ sở xác định chuyển đổi số không phải là cuộc cách mạng công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước, linh hoạt điều chỉnh để chấp nhận những vấn đề mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Cùng với đó, nhà nước đã nỗ lực tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế số; ban hành, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng, Luật thương mại, Luật Các tổ chức tín dụng, Công nghệ thông tin, Quản lý thuế, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự... và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Theo số liệu thống kế hiện nay, Việt Nam đang có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics. Thị trường logistics có sự tham gia của hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics 3PL. Trong đó, chiếm 89% là doanh nghiệp trong nước, 10%
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 405 là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia. Cho dù các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ lớn nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, ở cả chiều mua và chiều bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về “sân chơi”… Thời gian qua, Chính phủ đã tập trung ban hành các quy định pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy các doanh nghiệp logistics phát triển về số lượng, quy mô, trình độ nhân lực cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Quyết định 221/QĐ-TTg ngày 22/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ cũng đề cập đến 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tổng thể hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics nhằm nâng cao: cơ sở hạ tầng logistics, khả năng cạnh tranh và chất lượng dịch vụ; phát triển thị trường dịch vụ logistics; đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ logistics đối với sự phát triển của đất nước… Gần đây, chính phủ đã ban hành các chính sách và quy định để hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp logistics chuyển đổi kỹ thuật số. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn có những trở ngại có thể kể đến như: Thứ nhất, Nhà nước có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp logistics nghiên cứu, đổi mới, tiếp nhận, cải tiến, hoàn thiện và làm chủ công nghệ thông qua các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, giải mã và chuyển giao công nghệ. Quá trình thiết lập, khai thác, quản lý, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà nước khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp một số ngành áp dụng mô hình quản lý chuỗi tiên tiến. Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ công nghệ, kỹ thuật, đẩy mạnh tái tổ chức số hóa trong dịch vụ logistics. Trong đó, ưu tiên bố trí ngân sách hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến trong quản lý, vận hành, đào tạo về chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics. Đồng thời, xã hội hóa các nguồn lực để phát triển ngành logistics. Thứ ba, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện hành đưa ra các ưu đãi hỗ trợ đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi và cụm giá trị. Các chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo chủ yếu tập trung vào các biện pháp từ phía cung, ít quan tâm đến việc xây dựng năng lực đổi mới ở cấp doanh nghiệp nhằm tăng cường năng lực tiếp thu đổi mới của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. công nghệ bên ngoài (phía cầu). Các hỗ trợ cụ thể như: Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia vào các vườn ươm và khu làm việc chung; hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; Hỗ trợ đào tạo, đào tạo chuyên sâu về xây dựng và phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; Thứ tư, quy định hỗ trợ tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp logistics thực hiện chuyển đổi số. Chính phủ cũng thành lập Quỹ phát triển để cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  7. 406 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản vay, viện trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác; phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro; quản lý tài chính… Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có hướng dẫn hay khung pháp lý nào hỗ trợ thẩm định khoản vay, nhận tài sản đảm bảo và trích lập dự phòng rủi ro. Nguyên tắc hoạt động của quỹ tín dụng và quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là đảm bảo an toàn vốn, để tiếp cận được nguồn vốn này vẫn cần có tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, doanh nghiệp logistics không có tài sản thế chấp nên rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng. Thứ năm, các quy định pháp luật hiện hành chưa khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, vận hành, đào tạo chuỗi cung ứng logistics, tích hợp dịch vụ logistics với các ngành xuất nhập khẩu khác để nâng cao năng lực quản lý và chất lượng dịch vụ. Các quy định chưa đồng bộ, cụ thể là về xác thực cá nhân, tổ chức trong giao dịch điện tử cũng như các quy định pháp luật về hồ sơ, lưu trữ điện tử. Tranh chấp liên quan đến giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử dễ xảy ra, mất nhiều thời gian giải quyết khiến các doanh nghiệp logistics lo lắng, chưa chủ động chuyển đổi số. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG NGÀNH LOGISTICS Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt khi đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp logistics nhằm nhanh chóng tạo lợi thế cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Nhà nước cần quan tâm ban hành các quy định về các vấn đề như: Một là, rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên công nghệ số, Internet và không gian mạng. Phát triển hạ tầng số, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng giám sát, bảo đảm an toàn, bảo mật mạng được tích hợp ngay từ khâu thiết kế, xây dựng. Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ mới, tiến bộ kỹ thuật trong quản lý, vận hành, đào tạo về chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics. Khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng các mô hình quản lý chuỗi cung ứng tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai hoạt động logistics trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ mới trong logistics. Hai là, hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, kiểm soát dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo lập, kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu đảm bảo an toàn, an ninh mạng. Đẩy mạnh mạnh mẽ việc xác định danh tính điện tử cá nhân để phục vụ chuyển đổi số. Rà soát và tập trung vào các vấn đề trọng tâm như giao dịch và chữ ký điện tử, bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư, bảo vệ người tiêu dùng, tội phạm mạng, quyền sở hữu trí tuệ, khả năng cạnh tranh, thuế và bảo mật thông tin… Ba là, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về tài chính, tiền tệ, thanh toán trực tuyến, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với phát triển kinh tế số. Tạo cơ sở pháp
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 407 lý cho việc triển khai các mô hình lao động, việc làm mới trên nền tảng công nghệ số và phúc lợi xã hội hoàn chỉnh phù hợp với Cách mạng công nghiệp 4.0. Bốn là, ban hành và hướng dẫn cụ thể các chính sách, quy định hiện hành nhằm khuyến khích chuyển đổi số, hỗ trợ các khoản vay với lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp logistics. Doanh nghiệp cần được hỗ trợ tài chính trong việc ứng dụng công nghệ số. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp logistics có thể mua hoặc thuê giải pháp từ các nhà cung cấp phần mềm khi chưa đủ năng lực tài chính. Năm là, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Hướng dẫn quá trình chuyển đổi số của các doanh nghiệp logistics về các hoạt động như: vận tải và kho bãi, dữ liệu thông minh, không cần giấy tờ hoặc tối ưu hóa quy trình logistics giao hàng chặng cuối, giao hàng tự động logistics đô thị, công nghệ tiếp cận, nhận dạng hoặc giao dịch giữa nhà nước và doanh nghiệp thông qua công cộng trực tuyến dịch vụ. Sáu là, ban hành chính sách khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp trong một số ngành áp dụng các mô hình quản lý chuỗi cung ứng tiên tiến vào quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó trọng tâm triển khai hoạt động logistics trên Internet, nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ mới trong logistics. Phát triển hạ tầng số, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối, xử lý dữ liệu, các chức năng giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp ngay từ khâu thiết kế, xây dựng. Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ mới, tiến bộ kỹ thuật trong quản lý, vận hành, đào tạo về chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics. Bảy là, hoàn thiện khung pháp lý cho chuyển đổi số, đặc biệt là an toàn thông tin của khách hàng và doanh nghiệp logistics. Trong hoạt động logistics cho thương mại điện tử như mua hàng và giao hàng trực tuyến, dịch vụ logistics end-to-end cũng phát triển mạnh. Để theo kịp sự phát triển của thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ logistics cần tập trung vào chuyển đổi số, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin và phục vụ khách hàng kịp thời hơn. Tám là, ban hành và hướng dẫn các quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý của các chuyên gia và cơ quan có thẩm quyền trước khi doanh nghiệp logistics bắt đầu ứng dụng các công cụ số hóa vào hoạt động kinh doanh của mình. Bởi lĩnh vực logistics phải chịu nhiều quy định pháp luật, chính sách mới nên nếu không hiểu rõ, doanh nghiệp sẽ là người chịu thiệt. Đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp logistics khi xảy ra tranh chấp liên quan đến giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử. Cần tập trung hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh tế số giữa doanh nghiệp số với người tiêu dùng, người lao động..., đặc biệt là giữa doanh nghiệp truyền thống và doanh nghiệp số,… Chín là, trong quá trình thực thi pháp luật, chủ trương chuyển đổi số cho doanh nghiệp logistics cần giải pháp đồng bộ, toàn diện như: Chính phủ cũng cần liên kết doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp có nền tảng lớn, có trung tâm liên kết với doanh nghiệp nhỏ để tận dụng lợi thế nguồn lực của mỗi doanh nghiệp. Có những dự án, giải pháp thực sự mang tính đột phá cho doanh nghiệp logistics trong việc chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ: Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai chương trình hỗ trợ doanh nghiệp logistics chuyển đổi số nhằm hướng tới mục tiêu kép là góp phần phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch
  9. 408 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CHUYỂN ĐỔI SỐ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Covid-19, vừa phát triển được lực lượng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và vươn ra toàn cầu. Tất cả những khuyến nghị trên cần được xem xét một cách toàn diện và tổng thể nhằm tạo sự đột phá về chính sách cho doanh nghiệp logistics trong giai đoạn phát triển hiện nay, khi các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam vừa lớn về quy mô hoạt động vừa có tiềm lực tài chính. Qua đó, sự chú trọng của nhà nước vào hoạt động dịch vụ là rất quan trọng trong nền kinh tế này. 4. KẾT LUẬN Chuyển đổi số là cần thiết cho hoạt động logistics nếu không muốn bị loại khỏi thị trường. Mục đích của chuyển đổi số là để doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng rộng hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Bên cạnh sự quyết tâm, tập trung nguồn lực của doanh nghiệp trong chuyển đổi số, các doanh nghiệp cần có sự đóng góp, liên kết chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp logistics, hiệp hội khác để tạo ra hiệu quả tốt nhất trong nỗ lực chuyển đổi số. Pháp luật hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp logistics có tác động sâu sắc đến hiệu quả của hoạt động dịch vụ logistics tại Việt Nam. Những hiệu quả này đã và đang xảy ra cùng với sự phổ biến và phát triển nhanh chóng của cuộc sống số. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ để nhà đầu tư tiếp cận vốn, công nghệ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp logistics đi đầu trong chuyển đổi số. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Công Thương (2022), Báo cáo Logistics Việt Nam 2022, Hà Nội. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Hướng dẫn chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội 3. VCCI (2020), Chuyển đổi số: Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua đại dịch Covid-19 để phát triển, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông 4. Lưu Lan Hương, Trần Trung Hiếu, Phạm Tăng, Lê Chí Thành (2023), Logistics Chặng đường nước rút đến 2030, Nhân dân cuối tuần 5. Trần Thanh Bình (2021), Chuyển đổi số trong ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam: Cơ hội đột phá, thực trạng và thách thức, Tạp chí Thông tin và Truyền thông 6. Hồ Tú Bảo (2020), Chuyển đổi số trong thời đại Covid-19, Tia sáng 7. Cao Cẩm Linh (2020), Chuyển đổi số trong ngành Logistics tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính số 2
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2