intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

14
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Phát triển du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang" nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; nhận thấy tiềm năng phát triển cũng như những hạn chế còn tồn tại, tác giả đã đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm góp phần phát triển du lịch cộng đồng của người Dao trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang

  1. PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI DÂN TỘC DAO TẠI HUYỆN HOÀNG SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG Nguyễn Thị Minh Châu1 Tóm tắt: Xu thế phát triển du lịch trên thế giới hiện nay là hướng tới những khu vực có tiềm năng đặc sắc về mặt thiên nhiên và văn hoá. Chính vì thế, những tour du lịch đến những bản làng xa xôi được khách du lịch quốc tế ưa chuộng. Đó cũng là lý do vì sao du lịch cộng đồng ngày nay là hình thức hấp dẫn khách quốc tế. Người dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang có tiềm năng để làm du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là phát triển du lịch cộng đồng cần hướng tới bảo tồn bản sắc văn hóa, du lịch cộng đồng gắn với phát triển du lịch bền vững; du lịch cộng đồng cần có cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các bên. Từ việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; nhận thấy tiềm năng phát triển cũng như những hạn chế còn tồn tại, tác giả đã đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm góp phần phát triển du lịch cộng đồng của người Dao trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. Từ khóa: Phát triển, Du lịch cộng đồng, người Dao, Hà Giang. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Xuất hiện manh nha từ những năm 1997, trải qua hơn 20 năm phát triển, du lịch cộng đồng (Community Tourism) ngày nay đã trở nên quen thuộc với mọi người yêu thích và quan tâm tới du lịch. Du lịch cộng đồng (DLCĐ) là khái niệm phổ biến được trình bày trong nhiều tài liệu thông dụng về du lịch. Dù quan niệm có khác nhau, nhưng các ý kiến đều thống nhất cho rằng đây là một triển khai cụ thể và rõ ràng nhất của quan điểm phát triển du lịch bền vững vào thực tế. Ở Việt Nam hiện nay, mô hình du lịch cộng đồng đã phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức và cách làm đa dạng khác nhau phân bổ theo từng vùng miền, trong đó phải kể đến khu vực miền núi phía Bắc, nơi có đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số cùng sinh sống, với đời sống văn hóa tinh thần hết sức đa dạng, phong phú như: Hà Giang, Lào Cai, Sơn La... Mô hình này có hiệu quả khá thiết thực, vừa phát huy được hầu hết thế mạnh văn hóa bản địa, vừa góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống của người dân địa phương. Hà Giang - Nơi có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ, là mảnh đất anh hùng giàu truyền thống cách mạng, ghi dấu một thời kỳ khói lửa, đạn bom oai hùng 1 Trường Cao đẳng Thương mại và Du lịch Hà Nội.
  2. 502 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... của dân tộc gắn liền với những địa danh có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc bảo vệ từng tấc đất biên cương thiêng liêng của Tổ quốc. Bên cạnh đó, Hà Giang còn là nơi hội tụ của những sắc màu văn hóa đa sắc tộc với 19 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có những dân tộc thiểu số, với mật độ dân cư tập trung rất ít trong cả nước như Lô Lô, Bố Y, Pu Péo, Cờ Lao... mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng riêng biệt, không bị pha trộn nhưng rất hài hòa trong tổng thể bức tranh chung đa sắc màu, thể hiện bản sắc và giá trị văn hóa của mảnh đất địa đầu Tổ quốc. Trong bức tranh đa sắc màu đó, phải kể đến dân tộc Dao - một trong những dân tộc thiểu số ở Hà Giang. Người Dao với nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc đã và đang được người dân nơi đây gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc Dao nơi đây rất đa dạng, giàu bản sắc, từ tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội, chạm bạc, dệt vải, các bài thuốc dân gian, nghi lễ trong hôn nhân, thờ cúng, quy ước, hương ước của dòng họ, bản làng… Những giá trị văn hóa này gắn liền với cuộc sống của người Dao từ bao đời nay, đó như tài sản quý để truyền lại cho các thế hệ con cháu sau này. Tuy nhiên, nhận thấy việc nghiên cứu về DLCĐ của người Dao vẫn còn chưa đầy đủ, toàn diện, vẫn còn những hạn chế nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, vì vậy nghiên cứu này tác giả tập trung làm rõ thực trạng phát triển du lịch cộng đồng người dân tộc Dao tại huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang; từ đó đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị. 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG 2.1. Những nghiên cứu về du lịch cộng đồng Trên thế giới, du lịch cộng đồng từ lâu đã không còn xa lạ và được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu. Tác giả Sue Beeton (2006) đã hệ thống hóa những lý thuyết căn bản về du lịch và các vấn đề liên quan đến cộng đồng trong việc phát triển du lịch, vì vậy, những nghiên cứu của ông được xem là tài liệu vô cùng cần thiết cho các nghiên cứu về du lịch cộng đồng. Tác giả Rhonda Phillips (2012) lại có hướng tiếp cận khác. Những nghiên cứu của tác giả khẳng định rằng ngoài lợi ích kinh tế, DLCĐ còn giúp nâng cao năng lực cộng đồng, vượt qua các rào cản văn hóa và bảo tồn tài nguyên du lịch tốt hơn. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về DLCĐ và phát triển du lịch dựa vào cộng đồng trên thế giới chủ yếu tập trung làm rõ lợi ích của nó đối với cộng đồng, cùng với sự tham gia của các bên liên quan vào phát triển DLCĐ; hướng vào nhóm cộng đồng yếu thế của điểm đến nhưng lại có sức hấp dẫn lớn về giá trị tài nguyên du lịch. Ở Việt Nam, có rất nhiều công trình nghiên cứu về DLCĐ. Đáng chú ý là đề tài khoa học cấp Bộ của Viện nghiên cứu phát triển Du lịch (2002) do tác giả Phạm Trung Lương làm chủ nhiệm đề tài: “Nghiên cứu xây dựng bảo vệ môi trường du lịch với sự tham gia của cộng đồng góp phần phát triển du lịch bền vững trên đảo Cát Bà - Hải
  3. Phần 2: DU LỊCH BỀN VỮNG 503 Phòng”, đã hệ thống hóa một cách có chọn lọc các khái niệm liên quan giữa du lịch, môi trường và phát triển cộng đồng. Tác giả Phạm Hồng Long (2012) với Local Resi- dents’ Perceptions of Tourism Impacts and Their Support for Tourim Development: the Case of Ha Long Bay, Quang Ninh, Viet Nam (Luận án tiến sỹ, trường đại học Rikkyo, Nhật Bản) đã dựa trên Thuyết trao đổi xã hội để giải thích và xây dựng mô hình về nhận thức và thái độ của người dân địa phương đối với việc phát triển du lịch từ đó khẳng định nhận thức của người dân về tác động của du lịch và thái độ của họ đối với việc phát triển du lịch là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công và bền vững của hoạt động du lịch: nghiên cứu trường hợp vịnh Hạ Long, Việt Nam. Với những công trình nghiên cứu về DLCĐ ở trong nước, các tác giả đã nghiên cứu, đánh giá các điều kiện để phát triển DLCĐ của điểm đến, đánh giá những thuận lợi, khó khăn; thành tựu và hạn chế của mỗi địa phương từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển du lịch cộng đồng địa phương. 2.2. Những nghiên cứu về du lịch cộng đồng ở Hà Giang và huyện Hoàng Su Phì Có thể thấy, tại Hà Giang, với sự phát triển non trẻ của ngành du lịch, các công trình nghiên cứu về du lịch Hà Giang và DLCĐ Hà Giang mới chỉ dừng lại ở một số đề tài của Sở VHTT&DL Hà Giang. Tiêu biểu là đề tài cấp tỉnh: “Xây dựng mô hình làng du lịch cộng đồng ở Hà Giang” (2008); đề án “Xây dựng làng văn hóa du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010- 2020, tầm nhìn 2030” (2011) do Sở VHTT&DL tỉnh Hà Giang thực hiện. Riêng với địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, mặc dù những nghiên cứu về DLCĐ ở Hoàng Su Phì chưa nhiều, nhưng trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Giang đến năm 2020, định hướng 2030, đã quan tâm đến DLCĐ tại huyện và đề cập đến các đề án. Một số đề án của Huyện như: Đề án số 03/DA - UBND Hoàng Su Phì Phát triển văn hóa gắn với du lịch giai đoạn 2016 - 2020. Đề án Xây dựng làng văn hóa du lịch thôn Tân Phong, xã Hồ Thầu, Hoàng Su Phì… đã tạo tiền đề thúc đẩy DLCĐ Hoàng Su Phì nói chung, DLCĐ người Dao nói riêng phát triển trong tương lai. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp: (1) Phương pháp phân tích, tổng hợp nguồn tài liệu; (2) Phương pháp phỏng vấn đối với khách du lịch, người dân địa phương và cán bộ quản lý nhà nước về du lịch; (3) Phương pháp khảo sát thực tế. Khảo sát là phương pháp sử dụng bảng hỏi (phiếu câu hỏi) để thu thập dữ liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng bảng hỏi đối với 2 đối tượng là khách du lịch và cộng đồng địa phương (người dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì). Thời gian khảo sát là tháng 9 - 10 năm 2023 với đối tượng là khách du lịch đối với du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì. Khảo sát đối tượng là cộng đồng người dân địa phương: tác giả lựa chọn phạm vi khảo sát là người dân tộc
  4. 504 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... Dao trên địa bàn Hoàng Su Phì; khảo sát trực tiếp trên 200 người, thời gian tiến hành khảo sát là tháng 9 -10 năm 2023 để đánh giá mức độ tham gia của người Dao vào hoạt động DLCĐ tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang và thái độ của họ. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Các điều kiện phát triển Du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao tại Hoàng Su Phì Hoàng Su Phì là một trong hai huyện cùng cao biên giới phía tây của tỉnh Hà Giang, toàn huyện có 25 xã, thị trấn với tổng diện tích tự nhiên là 63.238,06 ha, dân số 64.991 người. Nằm trên con đường kết nối giữa Hà Giang và Lào Cai nên Hoàng Su Phì là cầu nối quan trọng giữa các địa phương của tỉnh Hà Giang với các tuyến điểm du lịch hấp dẫn của các tỉnh phía bắc, các tỉnh vùng Đông và tây bắc. Với địa hình núi đất, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan đẹp như danh thắng Quốc gia ruộng bậc thang, đỉnh Tây Côn Lĩnh, Chiêu Lầu Thi cao trên 2.400m, những cánh rừng nguyên sinh, rừng chè cổ thụ, khí hậu mát mẻ. Các vốn văn hóa độc đáo và phong phú, kiến trúc nhà ở, trang phục truyền thống được người dân bảo tồn và gìn giữ. Điều kiện về nguồn lực, tài nguyên và nhân văn là sự thuận lợi để Hoàng Su Phì phát triển du lịch sinh thái và DLCĐ nhằm mang lại lợi ích to lớn về kinh tế và văn hóa - xã hội của địa phương. 4.2. Sự tham gia của các bên liên quan Sự tham gia của chính quyền địa phương Các cơ quan quản lý của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để phát triển du lịch. Có thể thấy sự quan tâm của chính quyền các cấp trong phát triển DLCĐ ở Hoàng Su Phì nói chung, DLCĐ của người Dao nói riêng. Tuy nhiên, nguồn lực về kinh tế còn yếu dẫn đến đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng còn nhỏ lẻ, chưa quy hoạch đầu tư tổng thể về CSHT, CSVCKT để phát triển du lịch như hệ thống đường xá, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng… Sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý trong việc triển khai đề án chưa thực sự chặt chẽ, đồng bộ. Sự tham gia của doanh nghiệp du lịch Doanh nghiệp du lịch ở đây bao gồm: các doanh nghiệp lữ hành đưa khách đến Hoàng Su Phì; các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn huyện như khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở kinh doanh ăn uống theo kiểu hộ gia đình… Nhìn chung, sự liên kết giữa các doanh nghiệp này là cần thiết, tuy nhiên còn ở quy mô nhỏ lẻ và chưa chặt chẽ. Sự tham gia của khách du lịch Có thể thấy, đa phần khách đến với Hoàng Su Phì để được đắm mình vào với thiên nhiên hùng vĩ. Khách du lịch cũng vô cùng thích thú khi được tìm hiểu các nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân tộc Dao đỏ, các điệu múa, bản nhạc, lễ hội cùng các bộ trang phục truyền thống.
  5. Phần 2: DU LỊCH BỀN VỮNG 505 Với tư cách là những vị khách được tham gia hoạt động trải nghiệm DLCĐ tại các làng du lịch của người Dao đỏ, tìm hiểu văn hóa; khách du lịch cũng đồng thời cùng người dân nơi đây góp phần chung tay bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và giữ gìn vệ sinh môi trường. Mọi hành vi của khách du lịch tại điểm du lịch có ý nghĩa vô cùng lớn. Sự tham gia của người dân tộc Dao vào phát triển du lịch cộng đồng ở Hoàng Su Phì Mô hình du lịch vẫn mang tính tự phát do người dân học hỏi lẫn nhau và học hỏi cách làm du lịch của các địa phương khác đã thành công về DLCĐ. Về nguồn lực kinh tế vẫn là tự lực của người dân là chính. Chính vì mô hình tự phát chưa được quy hoạch cụ thể nên không tránh khỏi yếu kém về CSHT đường sá, cảnh quan chung… Các hộ làm du lịch đều sử dụng quỹ đất của gia đình và tự tay xây dựng. Về hệ thống phòng ngủ lưu trú, mỗi homestay có khoảng từ 5 đến 10 bunggalow để phục vụ khách lưu trú ở trọ. Phòng thiết kế khá đơn giản mang phong cách gần gũi với thiên nhiên, view đẹp, có thể phóng tầm mắt ra núi non và ruộng bậc thang hùng vĩ. Giá mỗi phòng vào mùa đông khách tháng 9-10 dao động trong khoảng 850.000 - 1000.000 đồng. Ngoài ra, phòng cộng đồng cũng có thể phục vụ nhu cầu lưu trú lên đến 30 - 40 khách. Về ẩm thực, các homestay do tính tự phát cao của người dân nên vẫn thuần là do chủ homestay tự nấu chế biến không qua đào tạo, cách chế biến vẫn khá đơn giản và khó có thể đáp ứng được lượng khách đông. Người Dao đã ý thức được việc cần thiết phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc để phát triển du lịch: các lễ hội truyền thống, các bộ trang phục truyền thống cùng với nghề dệt vải, các nếp nhà xưa truyền thống của người dân tộc Dao, các vật dụng cha truyền con nối… Chính nhờ làm DLCĐ, bản sắc của người dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì được giữ gìn, đặc biệt trong bối cảnh chúng là một nguồn tài nguyên du lịch vô hạn và có dấu hiệu mai một trong những năm gần đây. Lấy văn hóa để phát triển du lịch, lấy du lịch để bảo tồn các giá trị văn hóa là cách làm mà người Dao huyện Hoàng Su Phì đang đẩy mạnh triển khai nhằm tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, khác biệt, có lợi thế cạnh tranh. 4.3. Kết quả phát triển du lịch cộng đồng người Dao tại Hoàng Su Phì 4.3.1. Các làng du lịch cộng đồng của người Dao Làng Văn hóa du lịch (VHDL) thôn Nậm Hồng xã Thông Nguyên Là xã nằm ở trung tâm cụm xã phía nam của huyện Hoàng Su Phì, xã Thông Nguyên có tiềm năng về du lịch do sở hữu những thửa ruộng bậc thang nhiều tầng bậc, cảnh quan thiên nhiên đẹp, những ngôi nhà được xây dựng theo nguyên mẫu truyền thống của các dân tộc Dao đỏ, Dao áo dài được các gia đình bảo tồn. Những năm gần đây, được sự quan tâm của tỉnh và của huyện cũng như các tổ chức, cá nhân tham gia
  6. 506 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... đầu tư, hỗ trợ cho nhân dân trên địa bàn phát triển du lịch, đến nay thôn Nậm Hồng đã trở thành một trong những điểm du lịch được đông đảo du khách trong và ngoài nước biết đến như một điểm đến mới. Tuy nhiên, công tác tuyên tuyền, quảng bá giới thiệu những tiềm năng thế mạnh về du lịch của huyện chưa thực sự được quan tâm đã ảnh hưởng đến việc thu hút khách đến với địa phương. Làng VHDL Phìn Hồ xã Thông Nguyên Do địa bàn cách biệt, giao thông không thuận tiện, việc kết nối giữa thôn Phìn Hồ với các vùng du lịch khác của huyện rất hạn chế nên lượng khách đến thôn ngày càng giảm do hầu hết các công ty lữ hành du lịch đã chuyển sang khai thác tại các thôn bản có vị trí và điều kiện thuận lợi hơn. Vì vậy, năm 2017 UBND huyện đã có văn bản đề nghị tỉnh xem xét và cho phép huyện điều chỉnh kế hoạch không tiếp tục xây dựng Làng VHDL tiêu biểu. Về tình hình kinh doanh: Trước năm 2018 bình quân mỗi năm có trên 100 đoàn khách do Công ty du lịch Khám phá Khánh Hòa thực hiện với hơn 500 lượt khách đến ăn nghỉ tại thôn, tổng doanh thu đạt trên 37 triệu đồng. Trong đó chủ yếu là thu từ hoạt động lưu trú. Từ năm 2020 đến nay lượng khách đến tham quan ăn nghỉ tại thôn đã giảm mạnh, bình quân chỉ đạt 150 lượt/năm và khách đến tham quan chỉ dùng bữa trưa tại thôn và không lưu trú lại qua đêm. Làng VHDL thôn Giàng Thượng, làng văn hóa du lịch Làng Giang xã Thông Nguyên Về tình hình kinh doanh: Trong giai đoạn trước năm 2015 khách đến các làng VHDL thôn Làng Giang, Giàng Thượng xã Thông Nguyên chủ yếu là khách đi bộ trải nghiệm của Công ty du lịch Khám phá Khánh Hòa và một số doanh nghiệp lữ hành khác như Công ty Việt Nam phong tục, công ty GP Hồng Phát... Song số lượng khách không nhiều, bình quân mỗi năm từ 120 - 170 lượt khách. Mặt khác do sản phẩm nghèo nàn chủ yếu là cung cấp dịch vụ ăn nghỉ nên thu nhập từ du lịch tại 02 làng DLCĐ không cao. Từ năm 2016 trở lại đây do một số làng văn hóa du lịch trên địa bàn được thành lập với chất lượng dịch vụ tốt hơn, có cảnh quan thiên nhiên độc đáo nên lượng khách đến 02 làng sụt giảm. Năm 2021 thôn Làng Giang có 73 khách, thôn Giàng Thượng có 64 khách; 6 tháng đầu năm 2022 thôn Làng Giang có 47 khách, thôn Giàng Thượng có 33 khách. Làng VHDL thôn Đoàn Kết xã Hồ Thầu Làng văn hoá du lịch thôn Đoàn Kết xã Hồ Thầu được triển khai xây dựng cùng thời điểm với làng văn hóa du lịch thôn Lê Hồng Phong xã Nam Sơn trên cơ sở kế hoạch phối hợp giữa UBND huyện và Công ty du lịch Khám phá Khánh Hòa nhằm cung cấp các dịch vụ ăn nghỉ cho các đoàn khách trên tuyến du lịch đi bộ của khu du lịch sinh thái Pan Hou thuộc Công ty du lịch Khám phá Khánh Hòa theo tuyến Thông Nguyên - Nam Sơn - Hồ Thầu. Trong quá trình triển khai đã có 06 hộ gia đình được hỗ trợ xây dựng công trình vệ sinh theo định mức 0,5 tấn xi măng/hộ.
  7. Phần 2: DU LỊCH BỀN VỮNG 507 Từ năm 2010, Công ty du lịch Khám phá Khánh Hòa đã chuyển địa điểm ăn nghỉ của khách du lịch trên tuyến đi bộ sang thôn Chiến Thắng xã Hồ Thầu. Vì vậy đến nay do không có khách đến nên làng văn hóa du lịch thôn Đoàn Kết xã Hồ Thầu đã dừng hoạt động đầu tư, khai thác du lịch. Làng VHDL thôn Suối Thầu xã Bản Luốc Về tình hình hoạt động, với lợi thế nằm trong vùng danh thắng Quốc gia ruộng bậc thang, vị trí gần trung tâm huyện nên hàng năm khách du lịch đến thôn Suối Thầu chiếm tỷ lệ cao trong tổng số khách của huyện. Trong các năm 2018 - 2020 bình quân năm làng văn hóa du lịch thôn Suối Thầu đã đón 320 lượt khách. Doanh thu bình quân đạt 272 triệu đồng/năm. Trong giai đoạn dịch Covid-19, lượng khách đến thôn giảm so với trước và ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Tuy nhiên các hộ gia đình vẫn thực hiện đón và cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch. Riêng homestay Đặng Hồng Cánh đã được chuyển nhượng cho Công ty VIETCHARM để tiếp tục đầu tư nâng cấp và phục vụ khách du lịch. Làng VHDL thôn Tân Phong xã Hồ Thầu Hồ Thầu là xã vùng sâu của huyện Hoàng Su Phì, là xã có lợi thế về cảnh quan thiên nhiên đẹp với đỉnh núi Chiêu Lầu Thi, những cánh rừng nguyên sinh và nương chè san tuyết cổ thụ, những thửa ruộng bậc thang được xếp hạng di sản Quốc gia, phong phú về phong tục tập quán. Những năm gần đây, Huyện chủ trương đẩy mạnh các hoạt động phát triển du lịch nhằm khai thác tiềm năng to lớn về du lịch sinh thái và du lịch văn hoá cộng đồng của Huyện trong đó có xã Hồ Thầu. Về tình hình kinh doanh: Năm 2020 có tổng số 330 lượt khách đến thôn, doanh thu 280 triệu đồng. Năm 2021 do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên lượng khách giảm mạnh còn 150 lượt, 6 tháng đầu năm 2022 đã đón tổng số 220 lượt khách, doanh thu 315 triệu đồng. Làng VHDL thôn Nậm Piên xã Nậm Ty Về tình hình kinh doanh: Năm 2020 có tổng số 80 lượt khách đến thôn, doanh thu 68 triệu đồng. Năm 2021 có 40 lượt, năm 2022 do tỉnh đang triển khai thi công tuyến tỉnh lộ 177 nên các công ty du lịch không thực hiện đưa khách đến thôn. 4.3.2. Các sản phẩm du lịch cộng đồng của người Dao đang được khai thác Sản phẩm du lịch ẩm thực Tour ẩm thực Đi chợ lựa chọn nguyên liệu và sau đó mang về dạy nấu ăn các món đặc trưng của Hoàng Su Phì. Các đặc sản rau sạch, cá và thịt cùng với chè San tuyết và rượu Nàng Đôn sẽ là một trải nghiệm ẩm thực thú vị cho du khách khi tới tham quan du lịch và tìm hiểu văn hóa bản địa đặc sắc của người Dao ở Hoàng Su Phì.
  8. 508 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... Thưởng thức văn hóa chè San tuyết Cây chè San tuyết là đặc sản của Hoàng Su Phì. Thêm nữa, các tuyến đi bộ đều có thể đi qua các khu vực có nhiều chè sẽ tạo ra sự kích thích với khách tìm hiểu về loại cây đặc sản và họ nhìn thấy thường xuyên trên đường đi và xung quanh nhà dân. Khách có thể tham gia vào hầu hết các khâu trong quy trình thu hái và chế biến chè bao gồm: hái chè, sao chè, lên hương và đặc biệt là thưởng thức chè ngay sau khi sao xong. Để tăng thêm tính thú vị cho hoạt động này, kết thúc hoạt động sao chè, du khách được thưởng thức 3 loại chè: Chè tươi, chè xanh và chè đen. Thưởng thức đậu nành Có 2 sản phẩm từ đậu nành mà khách có thể tham gia chế biến và thưởng thức ngay tại chỗ là: sữa đậu nành và đậu phụ. Hiện bà con thôn Nậm Hồng vẫn còn giữ được những cối xay đậu bằng đá. Đây chính là điểm hấp dẫn dành cho khách du lịch. Thưởng thức rượu ngô Rượu có thể gọi là phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người dân địa phương. Rất nhiều hộ gia đình trong thôn có nấu rượu để nhà dùng và để bán, bã rượu lại được dùng trong chăn nuôi. Đặc biệt hơn nữa, bà con người Dao tại Hoàng Su Phì lại nấu rượu bằng chõ gỗ, thay vì bằng nồi đồng. Đây chính là điểm hấp dẫn của hoạt động này. Sản phẩm du lịch chữa bệnh của người Dao đỏ Tắm và ngâm chân lá thuốc Lá thuốc của người Dao đỏ nổi tiếng trong việc giúp người mệt mỏi có thể lấy lại sức khỏe sau khi tắm. Với khách đi bộ nhiều ngày, sản phẩm này có thể giúp họ có thêm sức khỏe để tiếp tục trải nghiệm những hoạt động thú vị trong những ngày tiếp theo. Sản phẩm du lịch làng nghề Thăm và thử may/thêu 1 số họa tiết của người Dao đỏ Hợp tác xã thổ cẩm có thể là một điểm đến thú vị dành cho khách. Nỗ lực của hợp tác xã trong việc kết hợp các họa tiết truyền thống vào các sản phẩm hữu dụng hiện đại: túi sách, túi đựng máy tính, ipad, điện thoại… Khách có thể thử thêu một số họa tiết đơn giản hoặc tên của họ trên sản phẩm họ mua. Sản phẩm du lịch thưởng thức nghệ thuật diễn xướng Dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì là một dân tộc giàu bản sắc với các bộ trang phục sặc sỡ đẹp mắt, và những điệu múa đẹp. Vì vậy, phát triển du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao cũng được gắn với các tiết mục văn nghệ truyền thống này. Người Dao đã biết xây dựng các đội văn nghệ cho các thôn bản của mình để phục vụ khách du lịch và mang lại nguồn thu đáng kể.
  9. Phần 2: DU LỊCH BỀN VỮNG 509 Sản phẩm du lịch trải nghiệm bắt cá chép ruộng Chép nuôi tại ruộng của Hoàng Su Phì có rất nhiều đặc điểm khác biệt: mầu sắc đẹp (5 mầu) và tính trung thành với ruộng khi không bơi theo dòng nước chảy qua các ruộng bậc thang. Thêm vào đó, cá chép ruộng bậc thang lại là món ăn ưa thích của người dân địa phương. Chính vì thế, đây có thể là hoạt động khác với hoạt động bắt cá ở các nơi khác: “bắt cá trên núi”. Sản phẩm du lịch lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng Huyện đã tổ chức phục dựng và trình diễn nhiều lễ hội dân gian độc đáo như Lễ hội Quý Hiếng, Lễ cúng Bàn Vương, Lễ hội nhảy lửa… của người dân tộc Dao tại các thôn bản được khách du lịch đánh giá cao. Các tiết mục đã trở thành sản phẩm du lịch được các công ty lữ hành và khách du lịch đặt hàng biểu diễn phục vụ; qua đó đem lại thu nhập cho người dân và tạo sự hấp dẫn đặc biệt để thu hút khách du lịch. Sản phẩm du lịch tham quan danh thắng Đến Hoàng Su Phì, khách sẽ được thưởng thức vẻ đẹp của các cảnh quan tự nhiên, núi Chiêu Lầu Thi, đỉnh Tây Côn Lĩnh, địa hình núi dốc, nhiều thác nước đẹp, cùng với cảnh quan văn hóa ruộng bậc thang và hoa tam giác mạch… sẽ là những trải nghiệm vô cùng hấp dẫn với du khách. 4.4. Thành tựu và hạn chế Người Dao đã có ý thức trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống mang đậm nét bản sắc của dân tộc mình và khá nhạy bén trong việc khai thác các giá trị đó để phát triển loại hình du lịch cộng đồng ở địa phương. Một số làng du lịch cộng đồng của người Dao như thôn Nậm Hồng xã Thông Nguyên, làng du lịch thôn Tân Phong xã Hồ Thầu đã đi vào hoạt động hiệu quả và đem lại nguồn thu cho người dân địa phương. Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số tồn tại nhất định đó là: Việc phát triển du lịch của huyện chưa thực sự đồng đều trên các vùng miền. Đầu tư trong lĩnh vực du lịch chưa cao. Chất lượng các dịch vụ du lịch, các sản phẩm du lịch đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đối với các dòng khách hạng trung và hạng sang. Hoạt động của các làng nghề truyền thống sản xuất, giới thiệu và bán các sản phẩm lưu niệm, ẩm thực truyền thống phục vụ cho du khách chưa phát triển. Trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch từ huyện đến xã chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Công tác dự báo, nắm bắt nhu cầu phát triển lĩnh vực du lịch và thị trường chưa theo kịp với xu thế phát triển, vì vậy việc lập đề án xây dựng làng văn hóa DLCĐ tại một số thôn chưa phù hợp. Là huyện nghèo nên kinh phí đầu tư cho du lịch còn hạn chế. Hoạt động du lịch của huyện có xuất phát điểm thấp, địa bàn tương đối cách biệt, giao thông không thuận
  10. 510 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... tiện, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển. Với dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì, ý thức về công tác du lịch mặc dù đã được nâng lên nhưng chưa phổ biến, cấp uỷ chính quyền cơ sở một số xã thị trấn chưa thực sự quan tâm đối với hoạt động này. Vì vậy, cần có sự đổi mới trong nhận thức và cách làm DLCĐ của người dân tộc Dao. 5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI DAO TẠI HUYỆN HOÀNG SU PHÌ, TỈNH HÀ GIANG 5.1. Định hướng phát triển - Các cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc tổ chức các hoạt động văn hóa gắn với phát triển du lịch theo hướng bền vững, chú trọng khai thác thế mạnh về du lịch sinh thái và du lịch văn hóa cộng đồng. Bảo tồn và phát huy những vốn văn hóa truyền thống độc đáo của người dân tộc Dao. - Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động văn hóa, du lịch, chỉ đạo thực hiện đúng các nội dung trong bản quy hoạch tổng thể về phát triển du lịch huyện Hoàng Su Phì đến năm 2021, định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt. Làm tốt công tác mời gọi thu hút các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực du lịch trên địa bàn huyện. - Từng bước đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch mà dân tộc Dao đang thực hiện, đặc biệt chú trọng các dịch vụ về ăn nghỉ, trải nghiệm. - Chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của các làng văn hóa du lịch cộng đồng và các điểm du lịch, tuyến du lịch. 5.2. Giải pháp phát triển Du lịch cộng đồng của người dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì 5.2.1. Về phát triển hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch cộng đồng của người Dao Nhanh chóng hoàn thiện tuyến đường quốc lộ chính - quốc lộ 177 - đang xây dựng để mở ra con đường huyết mạch đến với du lịch Hoàng Su Phì; tạo mối liên kết giữa các tuyến và vùng du lịch trong huyện. Đầu tư hỗ trợ cho các thôn bản, các hộ gia đình tại tuyến du lịch và các điểm du lịch xây dựng hệ thống CSHT thiết yếu và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch. 5.2.2. Về bảo tồn các giá trị văn hóa gắn với phát triển các dịch vụ văn hóa, giải trí phục vụ du lịch cộng đồng của người Dao Củng cố về tổ chức các đội văn nghệ quần chúng tại các làng VHDL và xây dựng các chương trình văn nghệ dân gian, bảo tồn khai thác và trình diễn các lễ thức, lễ hội văn hóa dân gian truyền thống, các làn điệu dân ca dân vũ tại các thôn bản theo hình thức sân khấu hóa để biểu diễn phục vụ (có thu tiền) cho khách du lịch, trong đó chú trọng việc sưu tầm và biểu diễn các làn điệu dân ca dân vũ và trích đoạn các lễ thức, trò chơi dân gian truyền thống của người Dao.
  11. Phần 2: DU LỊCH BỀN VỮNG 511 Mở rộng quy mô các cơ sở truyền dạy nghề thêu dệt thổ cẩm của dân tộc Dao trên địa bàn huyện. Hỗ trợ cho các hộ gia đình, các hợp tác xã sản xuất chế biến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm phù hợp về giá cả, chất lượng và mẫu mã sản phẩm phục vụ nhu cầu mua sắm của khách gồm: Hợp tác xã thổ cẩm Đoàn Kết xã Hồ Thầu, các cơ sở chế tác chạm khắc bạc, các Hợp tác xã chế biến chè, hàng nông sản... Gắn với đó là việc tổ chức các hoạt động phục vụ, trưng bày và bán sản phẩm, cung cấp các dịch vụ du lịch trải nghiệm (Có thu phí) như: Gặt lúa, chụp ảnh, hái chè, tắm lá thuốc, các lễ thức truyền thống, tham quan ngắm cảnh... tại các điểm du lịch. 5.2.3. Về phát triển sản phẩm, dịch vụ du lịch Từng bước đa dạng hóa các dịch vụ du lịch, sản phẩm du lịch. Ngoài một số sản phẩm du lịch đã được khẳng định và khách du lịch quan tâm ưa thích như đi trải nghiệm cảnh quan thiên nhiên, văn hóa truyền thống, huyện cần tập trung phát triển các loại hình du lịch được đông đảo khách du lịch quan tâm và hiện đang được các doanh nghiệp lữ hành du lịch khai thác như các hoạt động thể thao mạo hiểm gắn với du lịch, đó là các sản phẩm du lịch thu hút đông đảo khách du lịch đến tìm hiểu, khai thác như hoạt động dù lượn, đua xe máy ô tô mạo hiểm, trải nghiệm bản làng, tổ chức các lễ thức, lễ hội văn hóa dân gian truyền thống, ẩm thực địa phương... tìm hiểu văn hóa truyền thống, ẩm thực địa phương, phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm để phục vụ du khách. 5.2.4. Về phát triển thị trường khách du lịch và hoạt động xúc tiến đầu tư quảng bá du lịch cộng đồng của người Dao Cần phối hợp với các đài truyền hình của tỉnh, của Trung ương và các đài truyền hình Quốc tế tuyên truyền quảng bá về du lịch của huyện nói chung, DLCĐ của người Dao nói riêng, đặc biệt các chương trình có chất lượng chuyên môn cao và phát vào các giờ trọng điểm trên sóng phát thanh truyền hình trong nước và quốc tế, cùng các phim tài liệu về DLCĐ người Dao của huyện do Đài Truyền hình Việt Nam VTV, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC thực hiện và phát sóng. In ấn và phát hành sách hướng dẫn du lịch; bản đồ quảng bá du lịch. Sử dụng có hiệu quả các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo, tin nhắn thương hiệu du lịch (Brand name) để quảng bá DLCĐ và các nét đẹp trong bản sắc văn hóa người Dao ở Hoàng Su Phì. Hoàn thiện thiết kế và đưa vào sử dụng trang Web giới thiệu về DLCĐ của người dân tộc Dao ở huyện Hoàng Su Phì. Tiếp tục tổ chức các Tuần văn hóa du lịch ruộng bậc thang theo định kỳ; sưu tầm, phục dựng các lễ hội, lễ thức dân gian truyền thống của người Dao. Tổ chức các hội thi bay dù lượn trên những bậc thang vàng nhằm gắn tổ chức sự kiện với truyền thông để tạo điểm nhấn thu hút khách.
  12. 512 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... 5.2.5. Về đầu tư tài chính và phân chia lợi ích Thu hút và phát triển các dịch vụ hỗ trợ đầu tư để thu hút các nhà đầu tư. Thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư... Thành lập các Ban quản lý phát triển du lịch từ huyện đến xã để quản lý điều hành các hoạt động du lịch theo một quy tắc chung, trong đó chú trọng việc thu các loại phí dịch vụ, phân chia công việc và lợi nhuận... Tại các xã, các thôn bản trong phạm vi tuyến du lịch đã quy hoạch thành lập các tổ, đội dịch vụ du lịch để quản lý điều hành hoạt động kinh doanh du lịch tại cơ sở. Cần có cơ chế chia sẻ lợi ích rõ ràng giữa các bên liên quan như: phân chia quyền sở hữu, các thỏa thuận hợp đồng liên quan đến dịch vụ ăn ở cho khách hoặc các hoạt động du lịch khác… Thiết lập mô hình DLCĐ do cộng đồng cùng sở hữu và điều hành thông qua các Hợp tác xã. 5.3. Một số khuyến Nghị Đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch Để xây dựng thành công mô hình DLCĐ, trước hết cần xây dựng một bộ máy chính quyền và các đoàn thể chính trị thực sự đoàn kết vững mạnh, có năng lực điều hành, triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án xây dựng làng DLCĐ. Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần có những chính sách tạo ra hành lang pháp lý thuận tiện cho văn hóa và DLCĐ phát triển: chính sách về xếp hạng các di tích, bảo tồn và tôn tạo di tích; chính sách về việc đầu tư ngân sách cho việc bảo tồn văn hóa; chính sách về các tiêu chuẩn của các mô hình homestay và bunggalow; cùng với các đề án xây dựng làng văn hóa, làng DLCĐ… Các tổ chức, ban ngành có liên quan như: Phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung tâm xúc tiến du lịch, các tổ chức nghiên cứu về văn hóa cần thường xuyên đưa các cán bộ có khả năng chuyên môn về địa phương để tuyên truyền và giáo dục cho người Dao nhận thấy các giá trị của các nét văn hóa mà họ đang sở hữu. Sự quan tâm của cơ quan quản lý nhà nước, sự sâu sát của các cán bộ chuyên ngành là điều kiện cần thiết để giúp người Dao phát triển DLCĐ. Đối với các doanh nghiệp du lịch Để phát triển du lịch cộng đồng, các doanh nghiệp phải tăng cường nghiên cứu thị trường, định hình sản phẩm và cùng với cộng đồng nghiên cứu tổ chức đầu tư phát triển sản phẩm; tổ chức quản lý khai thác và quảng bá, xúc tiến sản phẩm. Thêm vào đó là sự liên kết để phát triển. Các công ty lữ hành cần giữ đúng cam kết trong hợp đồng dẫn khách tại địa phương, không bỏ tour - tuyến, và giữ chân khách qua đêm tại điểm đến. Đối với người dân tộc Dao Người dân tộc Dao cần có trách nhiệm chung trong việc xây dựng những hình ảnh tốt đẹp về cộng đồng mình tại địa phương, giữ gìn và bảo tồn các nét đẹp truyền
  13. Phần 2: DU LỊCH BỀN VỮNG 513 thống của người Dao trong ẩm thực, trang phục, lối sống, phong tục tập quán, các lễ hội dân gian… nhằm tạo ra tính dị biệt trong các sản phẩm du lịch của mình. Việc người dân tự ý thức được nguồn lợi từ du lịch đem lại từ việc giữ nếp sống hàng ngày, giữ bản sắc văn hóa và giữ chữ tín với du khách là một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của DLCĐ. Người Dao làm du lịch cộng đồng cần được tham gia tập huấn nâng cao năng lực kinh doanh khai thác và quản lý trong lĩnh vực du lịch, trong đó chú trọng các lớp nghiệp vụ hướng dẫn viên nâng cao, nấu ăn, tiếng Anh… Lớp nghiệp vụ hướng dẫn để đào tạo các hướng dẫn viên bản địa vừa am hiểu vùng miền vừa có kỹ năng nghiệp vụ. Lớp nấu ăn để các hộ kinh doanh homestay hay bunggalow có thể tự nấu các món ăn ngon, đa dạng, đặc sản vùng miền nhưng vẫn có thể phù hợp với ẩm thực đa dạng của thực khách. Lớp tiếng Anh để cho các chủ homestay có thể giao tiếp sơ bộ với khách nước ngoài. Đối với khách du lịch Tôn trọng luật pháp và các quy định của điểm đến. Khách du lịch cần ý thức được việc tôn trọng các phong tục tập quán tại điểm đến, có ý thức về bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên và có các hành vi ứng xử phù hợp tránh xung đột, mâu thuẫn xảy ra không đáng có tại điểm đến. Phản hồi và đưa ra những đóng góp ý kiến khách quan về hoạt động du lịch cộng đồng cùng với các sản phẩm và dịch vụ du lịch cộng đồng người dân tộc Dao để người dân biết và điều chỉnh. Nêu lên những cảm tưởng du lịch tốt đẹp để quảng bá, giới thiệu về DLCĐ của người Dao với những nét đặc sắc về văn hóa truyền thống; vẻ đẹp quyến rũ của cảnh quan thiên tạo và nhân tạo. 6. KẾT LUẬN Có thể khẳng định rằng việc xây dựng và phát triển mô hình DLCĐ ở Việt Nam là một sự lựa chọn đúng đắn để khai thác và phát huy hết giá trị của văn hóa bản địa. Du lịch cộng đồng đã rút ngắn khoảng cách về văn hóa giữa bạn bè năm châu với người dân Việt Nam hồn hậu và hiếu khách. Bên cạnh những tác động tích cực mà DLCĐ mang lại vẫn còn đó những hạn chế và khó khăn cần khắc phục để mô hình DLCĐ trở thành mô hình du lịch bền vững ở nước ta. Là một tộc người có tiềm năng làm DLCĐ rất lớn, dân tộc Dao ở Hoàng Su Phì - Hà Giang đã và đang làm DLCĐ tại địa phương và đem lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên sự hạn chế trong nhận thức, sự yếu kém trong quản lý, sự tự phát trong cách làm và sự thiếu hụt về nguồn lực đầu tư khiến cho DLCĐ của người dân tộc Dao tại đây vẫn chưa thực sự khởi sắc để trở thành điểm sáng trong DLCĐ ở Việt Nam.
  14. 514 HỘI THẢO DU LỊCH QUỐC GIA: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ, KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN, PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH... Từ những nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả đã phân tích thực trạng, những thành tựu và hạn chế, những điểm mạnh điểm yếu trong cách làm DLCĐ của người Dao ở Hoàng Su Phì. Trên cơ sở đó, dự báo xu hướng phát triển, định hướng và đề xuất một số giải pháp để góp phần phát triển du lịch cộng đồng của người Dao trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Văn An và cộng sự (2016), Sổ tay hướng dẫn phát triển cộng đồng. NXB Thanh Niên. 2. Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Giang khóa XVII, Nghị quyết số 11-NQ/TƯ về phát triển du lịch Tỉnh Hà Giang đến năm 2021 - 2025. 3. Báo cáo Tổng kết công tác VH, TT&DL năm 2017, 2018, 2019, 2020, 2021. 4. Beeton, S. (2006), Community development through tourism. Australia: Landlinks Press. 5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội. 6. Đoàn Mạnh Cương (2019), Phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững. http:// vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/29392. 7. Nguyễn Phạm Hùng (Chủ biên, 2019), Văn hóa Du lịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 8. Nguyễn Phạm Hùng (Chủ biên, 2022), Văn hóa quản lý và kinh doanh du lịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 9. Phạm Hồng Long (2013), Nhận thức của người dân địa phương về tác động của du lịch và sự ủng hộ của họ cho phát triển du lịch: trường hợp vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, Việt Nam, Luận án Tiến sĩ. 10. Phạm Hồng Long (2012), Tourism impacts and support for tourism development in Ha Long Bay, Vietnam: An examination of residents’ perceptions, Asian Social Science. 11. Phạm Trung Lương (2022), Nghiên cứu xây dựng bảo vệ môi trường du lịch với sự tham gia của cộng đồng góp phần phát triển du lịch bền vững trên đảo Cát Bà - Hải Phòng, đề tài cấp Bộ. 12. Sở VHTT&DL Hà Giang (2008), Xây dựng mô hình làng du lịch cộng đồng ở Hà Giang 13. Sở VHTT&DL Hà Giang (2011), Xây dựng làng văn hóa du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn 2030. 14. Rhonda Phillips, Sherma Roberts (2012), Community Development - Current Issues Series Tourism, Planningm and Community Development, Routledge.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0