intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng, thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong giai đoạn sắp tới của nền kinh tế Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu đặt ra của Chính phủ và nền kinh tế - xã hội như đã đề cập ở trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam hiện nay

  1. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 185 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC SỐ LĨNH VỰC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ThS. Phạm Thị Mai Hương(1) TÓM TẮT: Nhu cầu về nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng để đáp ứng cho nền kinh tế số tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết nhằm thực hiện công cuộc chuyển đổi số nền kinh tế. Cần phải có sự thay đổi về cơ cấu nguồn nhân lực trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng, mà theo đó nguồn nhân lực số phải được chú trọng phát triển. Từ thực trạng về nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng đang thiếu hụt như hiện nay, cần có các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực này nhằm đạt mục tiêu phát triển nền kinh tế số của quốc gia trong giai đoạn tới. Từ khóa: Nguồn nhân lực, nguồn nhân lực số, tài chính - ngân hàng. ABSTRACT: The need for digital human resources in the financial - banking sector to meet the digital economy in Vietnam is becoming urgent in the current period in order to carry out the digital transformation of the economy. There needs to be a change in the structure of human resources in organizations and enterprises in the financial - banking sector, in which digital human resources must be focused on development. From the current situation of digital human resources in the financial - banking sector, which is lacking, it is necessary to have solutions to develop digital human resources in this field in order to achieve the goal of developing the digital economy of the country. country in the near future. Keywords: Human resources, digital human resources, finance - banking. 1. Đặt vấn đề Nền kinh tế Việt Nam đang trong xu thế chuyển đổi sang nền kinh tế số, thay thế dần nền kinh tế truyền thống dựa trên nền tảng tri thức với trụ cột là các thành tựu của 1. Trường Đại học Kinh tế Nghệ An.
  2. 186 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, với nội dung: Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế. Theo đó, Chính phủ đã đặt ra các mục tiêu cụ thể cho phát triển kinh tế số, trong đó, tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP vào năm 2025 và đạt 30% GDP vào năm 2030. Để đạt được các mục tiêu đó, phát triển nguồn nhân lực số là một trong các nhiệm vụ để tạo nền móng để phát triển nền kinh tế số. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, để phát triển nền kinh tế số, trong đó giải quyết vấn đề về nguồn nhân lực số; Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã đặt mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của lãnh đạo và cán bộ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để thúc đẩy thực hiện chuyển đổi số; phổ cập kỹ năng số cho các đối tượng tham gia vào quá trình chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương (Thủ tướng Chính phủ, 2022). Trong quá trình chuyển đổi số, vấn đề cốt lõi để thực hiện thành công đó là đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực số ở tất cả các lĩnh vực, trong đó nhu cầu về nhân lực số cho lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng là một vấn đề thiết yếu cần tập trung giải quyết. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đã tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng, thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong giai đoạn sắp tới của nền kinh tế Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu đặt ra của Chính phủ và nền kinh tế - xã hội như đã đề cập ở trên. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng 2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực số và nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra nhiều sự thay đổi to lớn trong các nền kinh tế - xã hội trên thế giới. Sự chuyển đổi về mô hình kinh tế từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên sang nền kinh tế dựa vào nền tảng tri thức với trụ cột là các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 không ngừng được áp dụng, vì vậy nền kinh tế số ra đời đã từng bước thay thế nền kinh tế truyền thống. Khi internet và công nghệ số bùng nổ, có thể dễ dàng tìm thấy những công cụ tự động hóa tiện lợi, thông minh giúp các doanh nghiệp nhanh chóng hội nhập vào chuỗi công nghệ toàn cầu. Nền kinh tế số vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử
  3. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 187 tiến hành thông qua internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistics, tài chính - ngân hàng,...) mà công nghệ số được áp dụng (Tô Trung Thành, 2021). Do đó, nền kinh tế số buộc các doanh nghiệp phải đổi mới quy trình sản xuất kinh doanh truyền thống, giúp cải thiện năng suất, nâng cao hiệu quả công việc, phát triển nhanh và bền vững. Lịch sử phát triển và thực tế đã chứng minh, trong một nền kinh tế nói chung hay một ngành, lĩnh vực nói riêng, yếu tố tiên quyết để vận hành và phát triển là nguồn nhân lực. Đối với nền kinh tế số thì chắc chắn phải có nguồn nhân lực số. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông (2022), nhân lực số là lực lượng lao động kỹ thuật chuyên nghiệp, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin, an toàn thông tin,... Nguồn nhân lực số được xác định là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định tới thành công của chuyển đổi số quốc gia. Nguồn nhân lực số là tổng thể số lượng, chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và nền kinh tế số đang và sẽ cần để huy động vào quá trình lao động, sáng tạo (Nguyễn Hải Hoàng, 2020). Như vậy, nguồn nhân lực số là lực lượng chủ yếu để triển khai và hiện thực hóa, quyết định sự tồn tại của nền kinh tế số, có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số, vận hành nó trong quá trình sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của nền kinh tế. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng, nguồn nhân lực số ngành tài chính - ngân hàng là lực lượng lao động thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng, có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số, vận hành nó trong quá trình tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế số. 2.2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng Từ khái niệm ở trên, nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng có những đặc điểm cơ bản như sau: - Có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng khi tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế số. - Có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường lao động và tiến bộ khoa học công nghệ mới. - Có khả năng tư duy đột phá và có tính sáng tạo trong công việc (đây được xem là đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực số). - Có tác phong kỷ luật, đạo đức và trách nhiệm trong công việc.
  4. 188 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng để đáp ứng được các đặc điểm trên, nhất thiết đòi hỏi phải được đào tạo bài bản qua các khóa học tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành và liên tục được đào tạo, bồi dưỡng và bổ sung mới. 2.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng và sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng - Vai trò nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng Ngành tài chính - ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, được coi là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, là ngành đóng vai trò chủ động, kiến tạo và tiên phong trong quá trình phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam. Vì vậy, nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng luôn đóng vai trò chủ đạo trong phát triển nền kinh tế số, được thể hiện ở các khía cạnh sau: + Là nhân tố quan trọng góp phần trực tiếp tham gia vào quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh doanh số hóa, là nền tảng định hướng cho toàn bộ các hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. + Là những chủ thể vận hành hệ thống, điều khiển hạ tầng công nghệ số, thực thi các kế hoạch theo quy trình đã được số hóa trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. + Góp phần tạo ra các ý tưởng mới, các sáng kiến trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng giúp các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, ngân hàng ngày càng hoàn thiện quy trình nghiệp vụ, từ đó nâng cao hiệu suất hệ thống, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng thương mại trong quá trình số hóa. + Hội tụ và kết tinh những giá trị văn hóa của doanh nghiệp, tổ chức,... góp phần quan trọng vào việc xây dựng bản sắc thương hiệu, hiện thực hóa tầm nhìn và nâng tầm sứ mạng phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức đó. + Sự thích ứng cao của nguồn nhân lực số trong quá trình hoạt động tiếp cận với sự đổi mới liên tục của công nghệ mới làm gia tăng giá trị và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hay ngân hàng trước những thách thức của thực tiễn về nhu cầu xã hội đối với nền kinh tế số. Có thể thấy, cũng giống như ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề khác của xã hội, nguồn nhân lực số là động lực, mục tiêu cho sự phát triển của các doanh nghiệp, ngân hàng. - Sự cần thiết phát triển nguồn nhân lực số ngành tài chính - ngân hàng Chuyển đổi số trong phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của quốc gia. Trong đó, chuyển đổi số nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực số có chất lượng, kỹ năng cao cần được xem là ưu tiên trước tiên để đảm bảo cho thành công của chuyển đổi số của rất nhiều lĩnh vực như tài chính - ngân hàng, giáo dục đào tạo, giao thông vận tải và logistics, y tế, năng lượng,... của toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn tới.
  5. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 189 Theo đó, lĩnh vực tài chính - ngân hàng là 1 trong 8 ngành, lĩnh vực ưu tiên trong chuyển đổi số của Chính phủ Việt Nam. Các nội dung trong mục tiêu chuyển đổi số lĩnh vực tài chính - ngân hàng bao gồm: xây dựng tài chính điện tử và thiết lập nền tảng tài chính số hiện đại, bền vững; triển khai ứng dụng toàn diện công nghệ số trong các ngành thuế, hải quan, kho bạc, chứng khoán; chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại để cung cấp dịch vụ ngân hàng số theo hướng phát triển đa dạng các kênh phân phối, đổi mới sáng tạo, tự động hóa quy trình, thúc đẩy hợp tác với các công ty công nghệ tài chính (Fintech) và trung gian thanh toán trong việc xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính ngân hàng (Thủ tướng Chính phủ, 2020). Bên cạnh đó, cùng với xu thế chuyển đổi số của nền kinh tế, trong kế hoạch chuyển đổi số của ngành đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ngành ngân hàng đã xác định mục tiêu tổng quát là phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ (Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2021). Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế truyền thông sang nền kinh tế số là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động trong nền kinh tế, tức là tồn tại nền kinh tế số thì phải có nguồn nhân lực số. Nguồn nhân lực số phải ngày càng phát triển, chiếm vai trò chủ đạo trong tổng số lực lượng lao động xã hội thì nền kinh tế số mới phát triển và bền vững như mục tiêu của Chính phủ đặt ra. Sự chuyển đổi cơ cấu lao động trong ngành tài chính - ngân hàng do tác động của chuyển đổi số cho thấy rõ như sự xuất hiện thêm nhiều vị trí công việc liên quan tới công nghệ; các công việc có tính lặp lại cao sẽ bị thay thế bởi robot và hệ thống tự động hóa; nhiều vị trí công việc sẽ chuyển hóa, gia tăng hàm lượng công nghệ trong nghiệp vụ, quy trình xử lý. Theo McKinsey, sự chuyển dịch cơ cấu lao động làm gia tăng khoảng 8 - 9% nhu cầu về chất lượng, số lượng nguồn nhân lực số ngành tài chính - ngân hàng đến năm 2030. Khoảng 65% công việc mới xuất hiện liên quan tới chuyển đổi số (WEF, 2020) và khoảng 56% số lao động tại Đông Nam Á có nguy cơ mất việc nếu không được trang bị kỹ năng, không đáp ứng được nhu cầu mới. Đặc biệt, năm 2021, ngành ngân hàng ở Việt Nam được đánh giá có mức độ ứng dụng ngân hàng số nhanh nhất trong khu vực, cao hơn mức tăng bình quân của toàn khu vực và thậm chí cao hơn mức tăng bình quân của thị trường mới nổi (McKinsey, 2022). Với sự phát triển quá nhanh của công nghệ hiện nay đang làm thay đổi cách quản lý, điều hành cũng như quá trình phát triển của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp. Nó có thể phá vỡ thị trường lao động bởi khi tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI) dần thay thế con người khiến hàng triệu lao động thất nghiệp. Bên cạnh đó, các ngành nghề thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng sẽ phát sinh thêm nhiều chức danh và công việc mới, trong khi các tổ chức, doanh nghiệp hiện nay ngày càng chú trọng vào mục
  6. 190 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA tiêu và chất lượng đối với mỗi chức danh, đồng thời muốn thực hiện hóa khát vọng vươn ra hoạt động tại các thị trường khu vực và quốc tế. Do đó, nhiều công việc, chức danh sẽ có thể do người nước ngoài đảm nhận. Tại Việt Nam, đang có khoảng cách lớn giữa cung - cầu lao động cho quá trình chuyển đổi số nói chung, lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng. Nguy cơ mất việc làm do quá trình chuyển đổi số đang là mối lo ngại hàng đầu của lao động ngành tài chính - ngân hàng. Theo PwC (2020), có khoảng 49% nhân viên được khảo sát cho rằng cần nâng cao kiến thức, kỹ năng tài chính công nghệ nếu không muốn bị mất việc. Bên cạnh đó, các ngân hàng có kế hoạch cắt giảm 20 - 30% nhân viên nhờ vào việc số hóa quy trình và giảm số lượng công việc vào năm 2022 (Earn&Young, 2018). Ngoài ra, Việt Nam còn gặp sự cạnh tranh lớn từ các nước trong khu vực ASEAN trong thu hút và giữ chân lao động chất lượng cao, khi mức lương trung bình của những ngành nghề về công nghệ tài chính tại Thái Lan, Singapore đã tăng lên gấp đôi trong năm 2021. Trong bối cảnh các ngân hàng truyền thống đang chuyển đổi số, các tập đoàn công nghệ tham gia vào mảng thị trường tài chính, cạnh tranh trong việc tuyển dụng, giữ chân nguồn nhân sự chất lượng cao lại càng trở nên gay gắt hơn. Theo dữ liệu của Công ty tuyển dụng Michael Page, những người chuyển việc yêu cầu tăng lương từ 15 - 20% tại Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Những yếu tố trên đây đã tác động trực tiếp đến xu hướng phát triển nguồn nhân lực số của các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong khi đó, nền kinh tế số vận hành trên ứng dụng công nghệ số, tri thức và sự sáng tạo của con người là động lực chính, vì vậy nguồn nhân lực số phải có đầy đủ năng lực về trí tuệ, tri thức và văn hóa để tổ chức, quản lý và vận hành nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực số là yếu tố quyết định sự thành công việc xây dựng nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, luôn là một trong các nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức, doanh nghiệp. Vì vậy, trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, phát triển nguồn nhân lực số cũng là một tất yếu trong bối cảnh hiện nay. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam hiện nay Nền kinh tế Việt Nam đã và đang trong quá trình chuyển đổi số và hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030. Trong quá trình này, nguồn nhân lực số đóng vai trò trọng yếu và cốt lõi, quyết định sự thành công của chuyển đổi số. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động sâu rộng đến tất cả các ngành nghề. Nền kinh tế số của Việt Nam được dự báo sẽ phát triển mạnh mẽ, có thể đạt 74 tỷ USD vào năm 2030, nhưng sẽ khó đạt được nếu không đáp ứng được nguồn nhân lực số. Theo đó, cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực số ngày càng nhiều, dự tính sẽ có khoảng 65% công việc mới xuất hiện trong tương lai liên quan đến những ngành nghề sản sinh từ
  7. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 191 cách mạng công nghiệp 4.0 và tài chính công nghệ (World Economic Forum - WEF, 2018), trong khi nguồn nhân lực cung ứng bị thiếu hụt gây ra sự lãng phí rất lớn. Theo Thông cáo báo chí về tình hình lao động việc làm quý II/2023 (Tổng cục Thống kê, 2023), tính đến tháng 7/2023, dân số của Việt Nam có hơn 99,4 triệu người, đứng thứ 15 trên thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II là 52,3 triệu người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ trong quý II là 26,8%, trong đó lao động có trình độ đào tạo sơ cấp trở lên, nhân lực có trình độ từ đại học trở lên chiếm khoảng 40,43%. Đây là yếu tố quan trọng để nguồn nhân lực chuyển đổi và thích ứng với công nghệ số. Bên cạnh đó, cũng theo thống kê của Cục Thống kê, đến quý II/2023, có 38,3 triệu người lao động chưa qua đào tạo. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tăng, tình trạng lao động buộc nghỉ giãn việc, thôi việc, mất việc ở các doanh nghiệp, tổ chức, ngân hàng vẫn tiếp diễn, chủ yếu do các công việc không phù hợp. Mặt khác, theo số liệu trong Báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF (2018), Việt Nam xếp thứ 70/100 về nguồn nhân lực, trong đó các chỉ số về lao động có chuyên môn cao, chất lượng đại học lần lượt xếp thứ 81/100 và 75/100; xếp hạng 90/100 về công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó, xếp hạng 92/100 về công nghệ nền (Technology Platform), xếp hạng 77/100 về năng lực sáng tạo. Đây cũng là thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp, tổ chức khi tiếp cận với nền kinh tế số về thiếu hụt nguồn nhân lực số có trình độ chuyên môn cao, đòi hỏi phải phát triển và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động, xây dựng các chương trình chính sách đào tạo, tuyển dụng cụ thể về nguồn nhân lực trong thời gian tới. Trong khi đó, thực tế cho thấy, nguồn nhân lực số tại các cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng đang rất thiếu. Theo dự báo của Navigos Group (2022), nhu cầu nhân lực lĩnh vực tài chính - ngân hàng tiếp tục tăng cao trong những năm tới, luôn nằm trong top đầu do tính chất rộng lớn của ngành này gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngân hàng, tài chính doanh nghiệp, tài chính bảo hiểm, tài chính thuế, hải quan, chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản,... Các cơ quan, doanh nghiệp này không ngừng tuyển dụng nhân sự về cả số lượng và chất lượng, nhất là những vị trí liên quan đến công nghệ số và chuyển đổi số. Theo các chuyên gia, nhu cầu nhân lực cấp cao cho lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong giai đoạn 2020 - 2025 được dự báo tăng 20% mỗi năm. Tại các thành phố lớn, nhu cầu tuyển dụng của nhóm ngành này chiếm 5% (khoảng 15.000 lao động) tổng số việc làm cần tuyển hằng năm, trong đó lao động có trình độ đại học và cao đẳng chiếm hơn 80% nhu cầu tuyển dụng.
  8. 192 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Đặc biệt, lĩnh vực ngân hàng đã và đang có những chiến lược tái cấu trúc về mặt số hóa hệ thống, từ việc vận dụng nền tảng số vào giao dịch và quản trị. Vì vậy đã có nhiều ngân hàng sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, dữ liệu lớn (Big Data) - Crypto và Chuỗi khối (Blockchain) như hệ thống LiveBank (TPBank), Nam Á Bank, ... đang dần thay thế các giao dịch viên truyền thống. Theo đó, nguy cơ mất việc của rất nhiều người lao động diễn ra. Một số ngân hàng đã cắt giảm 20 - 30% số lao động trong năm 2022, bởi vì xu hướng chuyển đổi số trong ngân hàng đòi hỏi nhu cầu nhân lực số trong tương lai phải có trình độ cao, đáp ứng kỹ năng về công nghệ và khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Do đó, các ngân hàng liên tục tuyển dụng các vị trí thuộc về ngân hàng giao dịch, ngân hàng doanh nghiệp lớn, quản trị rủi ro, tuyển các ứng viên có kinh nghiệm triển khai tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ truyền thống đang đẩy mạnh các dịch vụ số và các kênh liên kết với nhu cầu tuyển dụng các vị trí marketing, sản phẩm số (Digital Product) và Digital Sales. Đối với ngành kiểm toán, nhu cầu tuyển dụng các vị trí liên quan đến tư vấn thuế và hải quan tăng cao. Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực số cho nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng, đó chính là các tổ chức, doanh nghiệp cung ứng về nguồn nhân lực cho xã hội, mà xuất phát điểm đó chính là các cơ sở đào tạo và giáo dục, bởi vì đây là nguồn nhân lực phải qua đào tạo và đào tạo có chất lượng cao về công nghệ số, chuyên về các chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu. Vì vậy, các cơ sở đào tạo chuyên ngành là những chủ thể chính có trách nhiệm đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực số cho nền kinh tế. Theo số liệu của Viet Nam’s University Rankings (VNUR, 2023) và của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện nay Việt Nam có 237 trường đại học, trong đó gần 160 trường có chuyên ngành đào tạo kỹ thuật và tài chính - ngân hàng: công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, an toàn thông tin, tài chính - ngân hàng, công nghệ tài chính. Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này vào khoảng hơn 53.000 sinh viên (khoảng 65.000 sinh viên nếu tính cả đào tạo cao đẳng, trung cấp). Với năng lực đào tạo này, trong những năm gần đây, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật cao để thực hiện chuyển đổi số, trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ngày càng cao để thực hiện chuyển đổi số. Theo báo cáo tháng 8/2022 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, tỷ lệ nhân lực thuộc lĩnh vực công nghệ số ước đạt 1% trong tổng số hơn 51 triệu lao động tại Việt Nam, trong khi đó tỷ lệ này ở Mỹ là 4%, Hàn Quốc là 2,5%, Ấn Độ là 1,78% (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2022). Về chất lượng, chỉ có khoảng 30% kỹ sư, cử nhân mới ra trường đáp ứng yêu cầu thực tế của công việc. Mặc dù nhu cầu tuyển dụng cao nhưng không có nghĩa là sinh viên nào tốt nghiệp và có bằng đại học cũng dễ dàng xin việc. Theo các khảo sát về tình hình việc làm sau tốt nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin và tài chính -
  9. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 193 ngân hàng cho thấy, chỉ có 1/30 tân cử nhân có thể ứng tuyển thành công vào lĩnh vực này. Nguyên nhân là do ngoài tốt nghiệp đúng chuyên ngành, sinh viên cần phải trang bị cho bản thân khả năng ngoại ngữ, kỹ năng mềm và biết cách ứng dụng công nghệ trong quá trình làm việc. Thực tế, không phải ứng viên nào cũng đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này. Cũng theo khảo sát của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, chỉ 40% doanh nghiệp có đủ kỹ năng về công nghệ thông tin và truyền thông để duy trì, khai thác hệ thống công nghệ số. Theo dự báo, trong năm 2023, toàn ngành sẽ thiếu hụt khoảng 1 triệu lao động, trong những năm tới sẽ thiếu hụt rất nhiều với tốc độ phát triển của nền kinh tế số, trong khi nguồn nhân lực được đào tạo ra không đủ về số lượng và chất lượng. Từ những phân tích kể trên, cho thấy rằng, để đáp ứng nhu cầu nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong nền kinh tế số thời gian tới, cần chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số đối với lĩnh vực này. Điều này đòi hỏi phải có các giải pháp chiến lược và cụ thể, có sự kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chuyên ngành và các cơ sở đào tạo, các trường đại học, để vừa đáp ứng đủ về số lượng, vừa phải đáp ứng về chất lượng nguồn nhân lực số. 3.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam hiện nay Trong quá trình phát triển nền kinh tế số, việc đào tạo kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực số là yếu tố then chốt trong việc xây dựng lực lượng nòng cốt, hình thành mạng lưới chuyên gia sử dụng công nghệ số trong cả nước nhằm chuyển đổi số mang tính hiệu quả, bền vững và thành công, đây là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam hiện nay. Để phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực số đối với nền kinh tế số nói chung, lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng, Chính phủ và cơ quan chức năng đã có các chương trình và đề án triển khai từ các năm trước đó, tầm nhìn đến năm 2030. Nếu như ở các nước châu Âu đặt mục tiêu số lượng nguồn nhân lực số đến năm 2030 là 5% dân số, thì Việt Nam cũng đưa ra mục tiêu về nhân lực công nghệ thông tin đạt 2 - 3% dân số, nhân lực số khoảng 2 - 3 triệu người (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2022). Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp sau đây: - Về phía Chính phủ và các cơ quan chủ quản của Nhà nước: + Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình và cách thức áp dụng công nghệ số trong quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội; từng bước xây dựng hoàn thiện và chuyển đổi mọi hoạt động quản lý của Chính phủ sang Chính phủ điện tử trên nền tảng công nghệ số ở tất cả các lĩnh vực như dịch vụ công trực tuyến, hạ tầng viễn thông, và nguồn nhân lực, kinh tế,... với mục tiêu “đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ
  10. 194 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn; nâng vị trí của Việt Nam về Chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc; công khai minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng”. Trong thời gian tới, nhằm thúc đẩy kinh tế số, Chính phủ cần quyết liệt hơn nữa trong việc thực hiện các nhiệm vụ, các hạng mục ứng dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tiến tới xây dựng Chính phủ điện tử thành công và chuyển sang Chính phủ số trong mọi hoạt động. + Hoàn thiện thể chế để tạo cơ sở pháp lý phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Xây dựng và bổ sung các quy định và chính sách, khung pháp lý đồng bộ về xây dựng Chính phủ điện tử. + Ban hành chiến lược quốc gia về kinh tế số, xã hội số; chính sách về chuyển đổi từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số, bao gồm quy định về: chia sẻ dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân, xác thực điện tử, an toàn thông tin, chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước, đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với đặc thù của lĩnh vực trong tình hình mới; các dịch vụ, chính sách về đào tạo nhân lực số, đầu tư kinh doanh số, chủ quyền số và sở hữu trí tuệ; đề xuất xây dựng hệ thống hành lang pháp lý phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. + Tích cực xây dựng và sớm hoàn thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ số, bao gồm hạ tầng cứng và mạng lưới viễn thông làm nền tảng để tạo ra hạ tầng mềm là dịch vụ số giúp tối ưu các hoạt động của nền kinh tế; đẩy mạnh hơn nữa tốc độ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và tri thức mở. + Cần ủng hộ, khuyến khích các mô hình kinh doanh mới, các công nghệ mới làm thay đổi, thúc đẩy sự sáng tạo và có hiệu quả cao đối với ngành, lĩnh vực. Khuyến khích, ủng hộ các cơ quan, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số để trở thành doanh nghiệp số; Chính phủ tập trung xây dựng môi trường pháp lý cho phép các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ mới, sáng tạo, đồng thời tạo không gian thử nghiệm đi đôi với hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển nền kinh tế số. Đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp nói chung và hướng mạnh vào phát triển phong trào khởi nghiệp đối với mô hình kinh doanh số của các tổ chức, doanh nghiệp. + Đẩy mạnh và triển khai đồng bộ nâng cao nhận thức toàn xã hội về nền kinh tế số. Hệ thống cơ quan báo chí, truyền thông cần thông tin thường xuyên, đầy đủ về nền kinh tế số tới cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, người dân và toàn xã hội, hình thành tâm thế chủ động thích ứng với xu hướng phát triển của toàn nền kinh tế - xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các đề án về bồi dưỡng và chuyển đổi số cho các công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhất là đối với các đối tượng cán bộ, công chức các cấp ở các địa phương.
  11. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 195 + Có các chính sách và giải pháp phù hợp để ổn định và củng cố thị trường lao động, giải quyết những khó khăn, thách thức hiện nay từ các rủi ro kinh tế như khủng hoảng và suy thoái kinh tế do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng từ tình hình an ninh, chính trị trên thế giới,... làm cho lạm phát, lãi suất và nợ công tăng cao, nếu không sẽ ảnh hưởng tiêu cực kéo dài đến tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. + Cần xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kinh tế kỹ thuật số. - Về phía các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp: + Cần phát huy vai trò chủ động, tích cực của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận và chuyển đổi số; từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch nguồn nhân lực số. Các doanh nghiệp cần mạnh dạn chuyển đổi số trong hoạt động để phù hợp với định hướng phát triển chung của nền kinh tế, chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với sự thay đổi của công nghệ, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng, tài chính, logistics, chứng khoán, bảo hiểm, thuế, hải quan,... vì các đơn vị thuộc lĩnh vực này đã và đang ứng dụng mạnh công nghệ số trong hiện đại hóa quy trình hoạt động và kinh doanh (các công nghệ số ứng dụng như trí tuệ nhân tạo; phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây hiện đang được các doanh nghiệp đưa vào ứng dụng tại Việt Nam). + Tăng cường tổ chức các hội thảo thường niên về các vấn đề chuyên ngành liên quan đến công nghệ số và chuyển đổi số; tham quan thực tế, trao đổi, làm việc tại các tổ chức, doanh nghiệp số có quy mô và hiệu quả cao trong và ngoài nước để cán bộ, nhân viên, người lao động có sự kết nối, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, trau dồi kỹ năng số để hoàn thiện năng lực số của bản thân, giúp họ thấy được vai trò của mình trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của tổ chức mình. + Cần tạo môi trường làm việc thuận lợi để phát triển các năng lực số và kỹ năng số cho cán bộ, nhân viên, người lao động. Các tổ chức thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng cần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số một cách toàn diện, tạo điều kiện cho nhân viên có cơ hội cọ xát với các sản phẩm số, các ứng dụng số hay môi trường làm việc số. Trên cơ sở đó tạo cho họ một động lực (áp lực) cần thiết phải thay đổi, phải trau dồi kiến thức, kỹ năng số để đảm bảo bản thân họ có thể tiếp tục tham gia vào hoạt động của tổ chức mình. + Tổ chức đào tạo và cập nhật kiến thức kỹ năng số thường xuyên: Việc đào tạo kỹ năng số cần phải được tổ chức nhanh chóng, kịp thời và liên tục, đảm bảo cho cán bộ, nhân viên, người lao động có thể tiếp cận ngay lập tức các sản phẩm số, ứng dụng số mới thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Việc đào tạo phải được diễn ra thường xuyên, liên tục, đáp ứng kỹ năng số của từng giai đoạn chuyển đổi hay từng phần chuyển đổi số của tổ chức.
  12. 196 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA + Có chế độ đãi ngộ và phúc lợi cho cán bộ, nhân viên, người lao động được đào tạo: Quá trình học tập này đòi hỏi sự nỗ lực của cán bộ, nhân viên, người lao động trong tổ chức, vì họ phải vừa học, vừa làm (làm việc với hệ thống cũ và vừa làm việc với hệ thống mới có chuyển đổi số). Vì vậy, tổ chức, doanh nghiệp cần có kế hoạch, chế độ đãi ngộ cán bộ, nhân viên, người lao động phù hợp. Bên cạnh đó, cần có chính sách nhân sự hợp lý để giữ chân cán bộ, nhân viên và người lao động. Do đó, ngoài duy trì các chế độ phúc lợi tốt, doanh nghiệp cần hình thành hệ thống phân quyền, ủy quyền để các cấp quản lý tự chủ trong công việc. + Cần xây dựng lộ trình và chương trình đào tạo phù hợp: Tùy theo trình độ, yêu cầu vị trí công việc của cán bộ, nhân viên, người lao động. Trước khi đào tạo cần thực hiện khảo sát trình độ năng lực số của người được đào tạo, xác định năng lực số tương ứng với các vị trí việc làm, phân khúc, phân nhóm để đào tạo. Quá trình đào tạo nên kết hợp với trao đổi nhân lực giữa các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp số để người được đào tạo có cơ hội thực hành, thực nghiệm ngay. + Liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo, các trường đại học chuyên đào tạo nhân lực lĩnh vực tài chính - ngân hàng để đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực số cho chính tổ chức mình và cho xã hội qua nhiều hình thức khác nhau: tham gia đào tạo, thỉnh giảng, xây dựng chương trình đào đào, nhận sinh viên thực tế, thực tập, góp ý trong các diễn đàn, hội thảo khoa học chuyên ngành, tham gia tuyển dụng, đánh giá năng lực người học, hỗ trợ kinh phí, đặt hàng nhân sự, định hướng nghề nghiệp cho người học,... - Về phía các cơ sở đào tạo và trường đại học: + Xây dựng đề án liên kết, hợp tác giữa cơ sở đào tạo, trường đại học với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng để tạo tiền đề, cơ sở pháp lý cho hoạt động đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực số, tiếp đến thể hiện được trách nhiệm và ràng buộc của các bên trong việc cung ứng nguồn nhân lực số cho tổ chức và xã hội, thực hiện được các mục tiêu phát triển nền kinh tế số dựa trên các yêu cầu và nội dung của các bên đưa ra. + Nâng cao chất lượng giảng dạy, ứng dụng tốt công nghệ trong đào tạo và kết nối tốt hơn với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để sinh viên có cơ hội tiếp cận với thực tế về các hoạt động nghiệp vụ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. + Đổi mới chương trình đào tạo: Phát triển các chương trình đào tạo mới, thường xuyên cập nhật kiến thức thực tế cho các học phần, chương trình đào tạo đã có. Ngoài kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng số, kỹ năng mềm sẽ là các yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên hiện nay. Đặc biệt với tính tất yếu của chuyển đổi số thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng thì điều này tác động đến chuẩn đầu ra của sinh viên. Sinh viên khi ra trường phải bắt tay vào làm việc ngay chứ không thể trông chờ vào việc được đào tạo lại, đào tạo tiếp. Do đó, chương trình
  13. Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 197 giảng dạy cần phải được rà soát, chỉnh sửa, cập nhật, bổ sung cho phù hợp với thực tế và nhu cầu của xã hội, nhất là chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo và các học phần đào tạo năng lực số và kỹ năng số cho sinh viên cần phải được xây dựng, cập nhật và bổ sung thường xuyên, đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức. + Cần xây dựng hệ thống học liệu số, thư viện số giúp phát huy khả năng tự học, tiếp cận thông tin tri thức của người học, người cần nghiên cứu. + Tăng cường trao đổi, nghiên cứu, làm việc giữa khoa chuyên ngành, trường đại học với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng: Nhà trường cần tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên đi tham quan thực tế, học tập, làm việc và thâm nhập tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp. Từ đó họ có thêm kinh nghiệm, kiến thức thực tế cho hoạt động đào tạo của trường, khoa, đem lại nguồn lực tốt cho tổ chức trong tương lai. Không chỉ vậy, các tổ chức tài chính - ngân hàng cũng tạo điều kiện cho sinh viên tham gia các hoạt động kiến tập, thực tập sớm tại tổ chức, giúp sinh viên thấy được công việc thực tế và kỹ năng số cần thiết phải hoàn thiện khi ra trường và tham gia vào tổ chức. + Cần có các quy định, quy chế về kỹ năng số cần thiết đối với sinh viên ngành tài chính - ngân hàng, coi đó là chuẩn đầu ra để đảm bảo chất lượng đầu vào cho các tổ chức tài chính - ngân hàng. Bằng cách đề xuất các khung đánh giá năng lực số đối với sinh viên ngành tài chính - ngân hàng như đảm bảo các kiến thức nền tảng về công nghệ thông tin; các kiến thức chuyên sâu về khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ các nhà quản lý trong việc lập dự báo, kế hoạch, điều hành và đưa ra quyết định tối ưu, xây dựng kế hoạch hoạch định chiến lược cho tổ chức. + Cần nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ đào tạo trong cơ sở giáo dục đào tạo và chuyển đổi số cơ sở giáo dục đào tạo nhằm tạo ra môi trường và động lực chuyển đổi số, hoàn thiện năng lực số cho người học. 4. Kết luận Để phát triển nguồn nhân lực số trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng, cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cấp, ngành, từ Chính phủ, cơ quan chủ quản nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp, các cơ sở giáo dục đào tạo và các tổ chức cá nhân có liên quan. Trong đó, Chính phủ cần tạo ra môi trường, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực số; các tổ chức, doanh nghiệp cần phải chủ động, linh hoạt, tích cực thích ứng với công nghệ số và chuyển đổi số trong mọi hoạt động của tổ chức; các cơ sở đào tạo và cá nhân mỗi người lao động chủ động, hòa nhập, có năng lực làm chủ các công nghệ số và nhanh chóng thích ứng với sự biến đổi của công nghệ. Từ đó, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế số của quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
  14. 198 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2022), Báo cáo chuyên đề Tuần 20 về tài liệu tham khảo phục vụ Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số. 2. Earn & Young (2018) The future of talent in banking: workforce evolution in the digital era. 3. Nguyễn Hải Hoàng (2020), “Phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu của kinh tế số”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước. 4. MCKinsey, 2020, Asias digital banking race. 5. MCKinsey, 2022, Mgi jobs lost jobs gained executive summary december-6-2017.pdf 6. Navigos Group, 2022, Báo cáo “Cơ hội và thách thức đối với nhà tuyển dụng và ứng viên ngành ngân hàng trong thời kỳ chuyển đổi số”. 7. Navigos Group, 2022, Báo cáo “Nhu cầu tuyển dụng nhân sự trung và cao cấp tại thị trường Việt Nam năm 2022”. 8. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định 749/QĐ-TTg, ngày 3/6/2020 về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 9. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022 về phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 10. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2021), Quyết định số 810/QĐ- NHNN, ngày 11/5/2021 về phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 11. Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.12. 12. Tổng cục Thống kê, 2023, Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý II và 6 tháng đầu năm 2023. 13. PWC (2021), Báo cáo mức độ sẵn sàng về kỹ năng số Việt Nam: Khảo sát của PwC Việt Nam về công nghệ, việc làm và kỹ năng số. 14. WEF - Diễn đàn Kinh tế thế giới (2018), Báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2