intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật dẫn lưu dịch trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn thương ở trẻ em - nhân 3 trường hợp

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

78
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phẫu thuật dẫn lưu dịch là một trong những phương pháp được sử dụng để điều trị tụ dịch dưới màng cứng ở trẻ em. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về phương pháp này. Nghiên cứu nhằm khảo sát kết quả bước đầu của loại phẫu thuật này trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn thương ở trẻ em.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật dẫn lưu dịch trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn thương ở trẻ em - nhân 3 trường hợp

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> <br /> PHẪU THUẬT DẪN LƯU DỊCH TRONG ĐIỀU TRỊ TỤ DỊCH  <br /> DƯỚI MÀNG CỨNG MẠN TÍNH DO CHẤN THƯƠNG Ở TRẺ EM – <br /> NHÂN 3 TRƯỜNG HỢP <br /> Nguyễn Phong* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Phẫu thuật dẫn lưu dịch là một trong những phương pháp được sử dụng để điều trị tụ dịch dưới <br /> màng cứng ở trẻ em. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về phương pháp này. Nghiên cứu nhằm <br /> khảo sát kết quả bước đầu của loại phẫu thuật này trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn <br /> thương ở trẻ em. <br /> Phương  pháp:  Mô tả tiến cứu hàng loạt ca. Từ 01/01/2012 đến 01/05/2014, tại bệnh viện Chợ Rẫy có 3 <br /> bệnh nhân tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn thương được điều trị bằng phương pháp dẫn lưu dịch. <br /> Kết quả: 3 bệnh nhân trong nghiên cứu, có 2 bệnh nhân 12 tháng tuổi và 1 bệnh nhân 34 tháng tuổi, cả 3 <br /> bệnh nhân đều có tiền căn chấn thương đầu cách 1‐5 tháng. Triệu chứng lâm sàng trước phẫu thuật là: mờ mắt <br /> (1BN), quấy khóc, kích thích (2BN), động kinh (1BN), đầu to (1BN), thóp căng (1BN). Cả 3 bệnh nhân có hình <br /> hình ảnh CLVT và MRI trước mổ tụ dịch dưới màng cứng 2 bán cầu. Các bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật <br /> dẫn lưu dịch tổng cộng 7 lần, thời gian lưu dẫn lưu từ 5‐7 ngày. Kết quả có 1 bệnh nhân thành công sau 1 lần <br /> phẫu thuật, 2 bệnh nhân tái phát cần phẫu thuật dẫn lưu dịch, mỗi bệnh nhân 3 lần. Không biến chứng sau phẫu <br /> thuật. Thời gian theo dõi sau phẫu thuật 5‐10 tháng, cả 3 trường hợp triệu chứng lâm sàng đều cải thiện, phát <br /> triển bình thường.  <br /> Kết luận: Tuy với tỉ lệ tái phát khá cao, nhưng phương pháp dẫn lưu dịch là phương pháp điều trị đơn giản, <br /> ít biến chứng, cần được xem xét chọn lựa trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn do chấn thương ở trẻ em.  <br /> Từ khóa: tụ dịch dưới màng cứng mạn tính, tụ máu dưới màng cứng mạn tính, trẻ em, chấn thương, dẫn <br /> lưu dịch. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> SUBDURAL DRAINAGE SURGERY IN TREATMENT FOR THE CHILDREN WITH TRAUMATIC <br /> CHRONIC SUBDURAL HYGROMA‐ REPORT OF 3 CASES <br /> Nguyen Phong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 247 – 252 <br /> Objective:  Subdural drainage surgery is one of the treatment options for the children with traumatic <br /> chronic subdural hygroma and there are only a few reports about that in Vietnam. The goal of this research is <br /> to evaluate the initial results of this surgery in the treatment of the children with traumatic chronic subdural <br /> hygroma. <br /> Methods: Prospective case series. Three patients with traumatic chronic subdural hygroma underwent <br /> the subdural drainage operations at Cho Ray hospital between January 2012 and May 2014.  <br /> Results: In three patients, there are two 12 months old infants and one 34 months old child, all have the <br /> history  of  head  trauma  1‐5  months  before.  Pre‐operation  clinical  manifestations  are  visual  deficit  (1pts), <br /> Irritability  (2pts),  seizure  (1pts),  macrocrania  (1pts),  bulging  fontanel  (1pts).  CLVT  and  MR  imaging <br /> demonstrate  bilateral  subdural  hydgroma  in  all  three  patients.  They  have  received  7  subdural  external <br /> drainage procedures, which were maintained 5‐7 days. It was effective in one patients, where as in another 2 <br /> * Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Chợ Rẫy <br /> Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Phong;  ĐT: 0903 744 085;  <br /> <br /> Bệnh Lý Sọ Não  <br /> <br />  <br /> <br /> Email: drnguyenphong@gmail.com  <br /> <br /> 247 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> it needs to perform 2 more subdural drainage procedures. There was no post‐operation complication. All the <br /> patients have good clinical outcomes within 5‐10 months follow up. <br /> Conclusion: Despite of the relatively high recurrence rate, subdural drainage is a simple procedure, less <br /> of  complications.  Therefore,  this  method  should  be  considered  in  initial  treatment  for  the  children  with <br /> traumatic chronic subdural hygroma.  <br /> Keywords:  Chronic  subdural  hygroma,  chronic  subdural  hematoma,  children,  trauma,  subdural <br /> drainage <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Ở trẻ em, thuật ngữ tụ dịch dưới màng cứng <br /> mạn  tính  để  chỉ  một nhóm  bệnh  bao  gồm  máu <br /> tụ dưới màng cứng mạn tính và tụ dịch não tủy <br /> dưới màng cứng mạn tính. Tụ dịch não tủy dưới <br /> màng cứng mạn tính có thể diễn tiến thành máu <br /> tụ  dưới  màng  cứng  mạn  tính  sau  3‐  4  tuần,  có <br /> thể  gây  khó  khăn  trong  việc  chẩn  đoán(5).  Tỉ  lệ <br /> tiến  triển  từ  tụ  dịch  não  tủy  dưới  màng  cứng <br /> mạn  tính  thành  máu  tụ  dưới  màng  cứng  ở  trẻ <br /> em  và  người  lớn  khoảng  33%(7),  chưa  có  tỉ  lệ <br /> riêng  cho  trẻ  em.  90%  trường  hợp tụ  dịch  dưới <br /> màng  cứng  mạn  tính  xảy  ra  ở  trẻ  em  dưới  hai <br /> tuổi,  độ  tuổi  trung  bình  là  10  tháng(2).  Hai <br /> nguyên nhân hàng đầu là chấn thương và viêm <br /> màng  não  vi  trùng,  các  nguyên  nhân  hiếm  gặp <br /> hơn như biến chứng của đặt shunt và ở một số <br /> trường hợp không tìm thấy nguyên nhân(2,3). Tụ <br /> dịch dưới màng cứng mạn tính có thể biểu hiện <br /> lâm sàng ở 2 nhóm có triệu chứng và không có <br /> triệu  chứng.  Lâm  sàng  của  tụ  dịch  dưới  màng <br /> cứng  bao  gồm  triệu  chứng  tăng  áp  lực  nội  sọ <br /> (đau  đầu,  nôn  ói,  thóp  trán  phồng),  dấu  thần <br /> kinh  khu  trú,  động  kinh,  chậm  phát  triển.  Việc <br /> chẩn đoán thường được dựa vào hình ảnh trên <br /> CLVT  sọ  não  có  hoặc  không  có  cản  quang  và <br /> MRI  sọ  não.  Về  phương  diện  điều  trị,  hiện  nay <br /> vẫn chưa có sự thống nhất. Phần lớn các trường <br /> hợp tụ dịch dưới màng cứng mạn tính lành tính <br /> không triệu chứng ở trẻ nhũ nhi sẽ tự hấp thu, <br /> thường trong khoảng 8‐9 tháng. Thủ thuật chọc <br /> xuyên  thóp  có  thể  sử  dụng  với  mục  đích  chẩn <br /> đoán  (loại  trừ  trường  hợp  teo  não  và  nhiễm <br /> trùng) và có thể làm tăng thêm tỉ lệ tự hấp thu <br /> dịch.  Khi  điều  trị  bảo  tồn,  bệnh  nhân  cần  được <br /> theo dõi chu vi vòng đầu mỗi 3‐6 tháng, siêu âm <br /> <br /> 248<br /> <br /> xuyên  thóp,  CLVT  hoặc  MRI  kiểm  tra.  Đối  với <br /> các trường hợp tụ dịch dưới màng cứng có triệu <br /> chứng,  cần  phải  điều  trị.  Các  phương  pháp  có <br /> thể  chọn  lựa  là:  (1)  chọc  xuyên  thóp  nhiều  lần, <br /> hiệu  quả  của  phương  pháp  này  còn  chưa  được <br /> kiểm  chứng  đầy  đủ,  kết  quả  chưa  được  thống <br /> nhất  giữa  các  nghiên  cứu.  (2)  khoan  sọ  một  lỗ <br /> dẫn  lưu,  phương  pháp  này  có  ưu  điểm  là  đơn <br /> giản tuy nhiên không hiệu quả trong các trường <br /> hợp mất cân xứng sọ và nhu mô não nặng, nhu <br /> mô não không giãn nở được. (3) Đặt shunt dưới <br /> màng cứng – màng bụng, đặt shunt một bên có <br /> thể dẫn lưu tụ dịch hai bên. Áp lực rất thấp được <br /> sử dụng, và shunt được rút bỏ sau 2‐3 tháng một <br /> khi mục đích dẫn lưu đã đạt được để giảm khả <br /> năng  biến  chứng  vôi  hóa  shunt,  nguy  cơ  động <br /> kinh  sau  này(3).  Tuy  nhiên  bất  lợi  là  nhiều  biến <br /> chứng  hơn:  nhiễm  trùng  shunt,  tắc  shunt,  thay <br /> đổi nhu động ruột. Năm 2005, trong nghiên cứu <br /> trên  25  trường  hợp  tụ  dịch  dưới  màng  cứng <br /> mạn, Jun Beom Cho và cộng sự đã kết luận khi <br /> chỉ  định  phẫu  thuật,  phương  pháp  nên  chọn  là <br /> khoan  sọ  một  lỗ  dẫn  lưu  vì  phương  pháp  này <br /> đơn giản hơn đặt shunt dưới màng cứng –màng <br /> bụng và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống <br /> kê  về  thời  gian  tái  phát  tụ  dịch  giữa  hai  nhóm <br /> khoan sọ một lỗ và đặt shunt(5). Năm 2011,Klimo <br /> P  Jr  và  cộng  sự  đã  nghiên  cứu  phẫu  thuật  26 <br /> trường hợp tụ dịch dưới màng cứng mạn, và kết <br /> luận mở sọ nhỏ có ưu thế hơn khoan sọ một lỗ, tỉ <br /> lệ  thành  công  ở  nhóm  mở  sọ  nhỏ  và  nhóm <br /> khoan sọ một lỗ lần lượt là 80% và 70%(6).Ở Việt <br /> Nam, hiện tại có rất ít công trình nghiên cứu về <br /> tụ  dịch  dưới  màng  cứng  mạn  tính  do  chấn <br /> thương ở trẻ em. Kết quả điều trị bằng phương <br /> pháp khoan sọ một lỗ dẫn lưu dịch còn chưa rõ <br /> <br /> Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> ràng.  Vì  vậy,  chúng  tôi  tiến  hành  thực  hiện <br /> nghiên cứu khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm <br /> sàng và điều trị phẫu thuật dẫn lưu dịch ở bệnh <br /> nhi  tụ  dịch  dưới  màng  cứng  mạn  tính  do  chấn <br /> thương tại bệnh viện Chợ Rẫy. <br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu <br /> Mô tả đặc điểm lâm sàng tụ dịch dưới màng <br /> cứng do chấn thương ở trẻ em.  <br /> Khảo sát kết quả điều trị tụ dịch dưới màng <br /> cứng  do  chấn  thương  ở  trẻ  em  bằng  phương <br /> pháp phẫu thuật dẫn lưu dịch. <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Đối tượng nghiên cứu  <br /> Tất  cả  các  trường  hợp  trẻ  em  được  chẩn <br /> đoán  tụ  dịch  dưới  màng  cứng  do  chấn  thương <br /> và được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật <br /> dẫn  lưu  dịch  tại  khoa  ngoại  Thần  Kinh  bệnh <br /> viện Chợ Rẫy từ 01/01/2012 đến 01/05/2014. <br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu <br /> Mô tả tiền cứu hàng loạt ca. <br /> <br /> Cách chọn mẫu <br /> Chọn mẫu thuận tiện. <br /> <br /> ngoài,  lưu  thời  gian  5‐7  ngày,  bình  dẫn  lưu <br /> được đặt thấp dưới đầu.  <br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU <br /> Trong  thời  gian  2,5  năm,  có  3  trường  hợp <br /> bệnh nhân tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do <br /> chấn thương được phẫu thuật dẫn lưu dịch. Cả 3 <br /> bệnh nhân đều là nam, tuổi từ 12‐34 tháng. <br /> <br /> Trường hợp 1 <br /> Bệnh  nhân  nam  34  tháng  có  tiền  căn  chấn <br /> thương  đầu  cách  1  tháng,  được  điều  trị  nội <br /> khoa, chụp CLVT đầu kiểm tra sau 1 tháng có <br /> hình ảnh tụ dịch dưới màng cứng hai bán cầu <br /> (Hình  1).  Lâm  sàng  trước  phẫu  thuật,  bệnh <br /> nhân biểu hiện mờ 2 mắt. Kết quả soi đáy mắt: <br /> teo gai thứ phát sau phù gai. Bệnh nhân được <br /> phẫu  thuật  dẫn  lưu  tụ  dịch  dưới  màng  cứng <br /> mạn 2 bán cầu. Tính chất dịch trong lúc phẫu <br /> thuật: dịch màu vàng chanh, áp lực cao, không <br /> có bao fibrin. Dẫn lưu được rút sau 6 ngày. Kết <br /> quả  sau  phẫu  thuật  tốt,  không  biến  chứng. <br /> CLVT đầu kiểm tra: nhu mô não nở tốt, hết tụ <br /> dịch.  Theo  dõi  sau  5  tháng,  bệnh  nhân  phát <br /> triển tốt, không triệu chứng lâm sàng. <br /> <br /> Cách thức tiến hành <br /> Thu thập các dữ liệu lâm sàng và cận lâm <br /> sàng, kết quả phẫu thuật và theo dõi diễn tiến <br /> theo mẫu bệnh án có sẵn cho tất cả bệnh nhân. <br /> Các biến số nghiên cứu bao gồm: tuổi, giới, lý <br /> do  nhập  viện,  thời  gian  bệnh  sử,  triệu  chứng <br /> lâm  sàng,  hình  thái  tụ  dịch  dựa  trên  CT  và <br /> MRI, biến chứng sau phẫu thuật. Triệu chứng <br /> lâm  sàng  được  so  sánh  trước  và  sau  phẫu <br /> thuật.  Chỉ  định  phẫu  thuật  dẫn  lưu  dịch  cho <br /> các  bệnh  nhân  có  triệu  chứng  tăng  áp  lực  nội <br /> sọ,  tăng  kích  thước  vòng  đầu,  động  kinh,  có <br /> dấu thần kinh khu trú, chậm phát triển trí tuệ <br /> và khi bề dày lớp dịch trên 7mm. Kỹ thuật mổ: <br /> Bệnh  nhân  nằm  ngữa,  mê  nội  khí  quản,  rạch <br /> da  đường  thẳng  nhỏ  ở  trán,  khoan  sọ  một  lỗ, <br /> xẻ,  đốt  màng  cứng  và  bao  máu  tụ,  bơm  rữa <br /> bằng  ống  dẫn  lưu  mềm,  ống  dẫn  lưu  được <br /> luồn  dưới  da  và  nối  với  hệ  thống  dẫn  lưu <br /> <br /> Bệnh Lý Sọ Não  <br /> <br />  <br /> <br />  <br /> Hình 1: Trường hợp 1,A,B: hình ảnh CLVT đầu <br /> trước mổ, C,D: hình ảnh CLVT đầu sau mổ <br /> <br /> 249 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> Trường hợp 2 <br /> Bệnh  nhân  nam  12  tháng  tuổi  có  tiền  căn <br /> chấn  thương  cách  5  tháng,  nhập  viện  vì  quấy <br /> khóc, kích thích. Lâm sàng bệnh nhân trước mổ: <br /> thóp  căng,  đầu  to  (vòng  đầu  49  cm,  Percentile <br /> 97,2),  không  động  kinh,  không  dấu  thần  kinh <br /> định  vị.  Hình  ảnh  CLVT  và  MRI  trước  mổ:  tụ <br /> dịch  dưới  màng  cứng  mạn  2  bán  cầu  kèm  teo <br /> não (Hình 2A). Bệnh nhân được phẫu thuật dẫn <br /> lưu  dịch  dưới  màng  cứng  bán  cầu  bên  trái  và <br /> dẫn  lưu  máu  tụ  bán  cầu  bên  phải  1  tuần  sau <br /> (Hình 2B).  Tính  chất  dịch trong  lúc phẫu thuật: <br /> bán  cầu  trái  dịch  vàng  chanh,  áp  lực  cao,  bên <br /> phải dịch hồng có bao fibrin. Sau phẫu thuật lâm <br /> <br /> sàng bệnh nhân cải thiện, được xuất viện. Sau 2 <br /> tháng, bệnh nhân biểu hiện quấy khóc, bú kém <br /> được  chụp  MRI  sọ  não  kiểm  tra,  có  hình  ảnh <br /> máu  tụ  dưới  màng  cứng  2  bán  cầu  (Hình  2C), <br /> bệnh nhân được mổ dẫn lưu máu tụ dưới màng <br /> cứng 2 bán cầu lần 2. 2 tháng sau, bệnh nhân tái <br /> khám được chụp MRI sọ não kiểm tra, còn máu <br /> tụ  dưới  màng  cứng  mạn  bán  cầu  phải,  tiếp  tục <br /> được  phẫu  thuật  dẫn  lưu  máu  tụ  dưới  màng <br /> cứng  bán  cầu  phải  (Hình  2  D).  Sau  phẫu  thuật <br /> không biến chứng. Hình ảnh CLVT đầu kiểm tra <br /> sau 1 tháng, nhu mô não nở tốt, hết tụ dịch. Lâm <br /> sàng  theo  dõi  sau  10  tháng,  Bệnh  nhân  không <br /> triệu chứng, phát triển bình thường. <br /> <br />  <br /> Hình 2: trường hợp 2, A: MRI sọ não trước mổ lần 1, B: CLVT sọ não sau mổ lần 1, C: MRI sọ não trước mổ lần 2, C: <br /> hình ảnh CLVT não sau mổ lần 2, E: MRI sọ não trước mổ lần 3, F: hình ảnh CLVT đầu kiểm tra sau 3 tháng <br /> tụ  dưới  màng  cứng  2  bán  cầu  (Hình  3E).  Bệnh <br /> Trường hợp 3 <br /> nhân  được  phẫu  thuật  dẫn  lưu  máu  tụ  dưới <br /> Bệnh  nhân  nam  12  tháng  tuổi  có  tiền  căn <br /> màng cứng 2 bán cầu lần 2, tính chất dịch vàng <br /> chấn  thương  đầu  cách  2  tháng,  nhập  viện  vì <br /> chanh  có  bao  fibrin.  Sau  1  tháng,  Bệnh  nhân <br /> động kinh. Lâm sàng trước mổ không ghi nhận <br /> được  chụp  MRI  sọ  não  kiểm  tra,  còn  máu  tụ <br /> triệu  chứng  tăng  áp  lực  nội  sọ,  dấu  thần  kinh <br /> dưới màng cứng 2 bán cầu (Hình 3F), bệnh nhân <br /> khu trú. Bệnh nhân được chọc xuyên thóp rút ra <br /> được phẫu thuật dẫn lưu dịch dưới màng cứng 2 <br /> 50ml  máu  đen  loãng.  Bệnh  nhân  được  phẫu <br /> bán cầu lần 3. Tính chất dịch màu vàng chanh có <br /> thuật dẫn lưu máu tụ dưới màng cứng hai bán <br /> bao  fibrin  dày.  Sau  phẫu  thuật  không  biến <br /> cầu  (  Hình  3A).  Lâm  sàng  ổn  xuất  viện,  sau  2 <br /> chứng.  Lâm  sàng  theo  dõi  sau  10  tháng,  bệnh <br /> tháng  bệnh  nhân  có  những  cơn  gồng  người, <br /> nhân hết triệu chứng, phát triển bình thường. <br /> quấy khóc, hình ảnh chụp CLVT sọ não có máu <br /> <br /> 250<br /> <br /> Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> <br />  <br /> Hình 3: trường hợp 3, A: Hình CLVT đầu lúc nhập viên, B: Hình CLVT đầu sau chọc thóp, C,D: Hình CLVT <br /> đầu trước và sau phẫu thuật lần 1. E: hình CLVT đầu trước phẫu thuật dẫn lưu dịch lần 2, F: hình MRI não <br /> trước phẫu thuật dẫn lưu dịch lần 3 <br /> (bao gồm:khoan sọ một lỗ có kèm dẫn lưu dưới <br /> BÀN LUẬN  <br /> màng cứng hoặc không, khoan sọ 2 lỗ, mở sọ…) <br /> Tụ dịch dưới màng cứng mạn tính ở trẻ em là <br /> tuy <br /> nhiên  vai  trò  của  dẫn  lưu  dưới  màng  cứng <br /> thương tổn hiếm gặp, tần suất khoảng 21/100000 <br /> luôn được nhấn mạnh, làm giảm đáng kể tỉ lệ tái <br /> trẻ(4), 90% xảy ra ở độ tuổi dưới 2 tuổi, trung bình <br /> phát. Ở trẻ em, các phương pháp điều trị hiện nay <br /> là 10 tháng tuổi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, <br /> bao gồm (i) chọc xuyên thóp, (ii) khoan sọ một lỗ, <br /> có 2 bệnh nhân 12 tháng tuổi và 1 bệnh nhân 34 <br /> đặt dẫn lưu dưới màng cứng, (iii) đặt shunt dưới <br /> tháng tuổi, cả 3 bệnh nhân đều là nam, có tiền căn <br /> màng  cứng‐  ổ  bụng.  Mỗi  phương  pháp  đều  có <br /> chấn thương đầu cách 1‐5 tháng. Triệu chứng lâm <br /> ưu,  nhược  điểm  riêng.  Chọc  hút  xuyên  thóp  là <br /> sàng  trước  phẫu  thuật  là:  mờ  mắt  (1BN),  quấy <br /> phường <br /> pháp  ít  xâm  lấn  nhất,  có  thể  thực  hiện <br /> khóc,  kích  thích  (2BN),  động  kinh  (1BN),  đầu  to <br /> nhanh,tại  giường  bệnh,  có  thể  lặp  lại,  tuy  nhiên <br /> (1BN),  thóp  căng  (1BN).  Triệu  chứng  lâm  sàng <br /> chỉ  có  thể  áp  dụng  trong  khoảng  thời  gian  giới <br /> tương  tự  như  trong  các  nghiên  cứu  khác  của <br /> hạn (thường dưới 2 tuần) có thể kèm các nguy cơ <br /> Caldarelli M, Jun Beom Cho(1,5). Về phương diện <br /> nhiễm trùng, xuất huyết nội sọ, tổn thương nhu <br /> chẩn  đoán  hình  ảnh,  hình  ảnh  CLVT  và  MRI  sẽ <br /> mô  tăng  lên  theo  số  lần  chọc  hút.  Phương  pháp <br /> giúp chẩn đoán phân biệt với tụ dịch dưới màng <br /> này  không  thể  áp  dụng  cho  trường  hợp  tụ  dịch <br /> nhện  lành  tính  ở  trẻ  em  (đầu  nước  bên <br /> dưới màng cứng nhiều ổ, hoặc khu trú. Tỉ lệ thất <br /> ngoài),thương  tổn  không  cần  phẫu  thuật.  Cả  3 <br /> bại  của  phương  pháp  này  là  78%  trong  nghiên <br /> bệnh nhân trong nghiên cứu đều có tụ dịch dưới <br /> cứu của Litofsky(8), là 42 % trong nghiên cứu của <br /> màng  cứng  2  bán  cầu.  Về  phương  diện  điều  trị, <br /> của Tolias và 25 % bệnh nhân sẽ có biến chứng tụ <br /> điều trị tụ dịch dưới màng cứng ở trẻ em có rất ít <br /> mủ  dưới  màng  cứng(9).  Do  đó,  hiện  tại  phương <br /> nghiên  cứu  so  với  tụ  máu  dưới  màng  cứng  ở <br /> pháp này ít được sử dụng.  <br /> người  lớn.  Ở  người  lớn,  hiệu  quả  của  nhiều <br /> phương  pháp  phẫu  thuật  đã  được  nghiên  cứu <br /> <br /> Bệnh Lý Sọ Não  <br /> <br />  <br /> <br /> 251 <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2