intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật nội soi điều trị nang ruột đôi ở trẻ em

Chia sẻ: Tran Hanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

71
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi trong điều trị nang ruột đôi ở trẻ em. Nghiên cứu tiến hành trên các bệnh nhân có chẩn đoán cuối cùng là nang ruột đôi được phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 3/2009 đến tháng 3/2013.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật nội soi điều trị nang ruột đôi ở trẻ em

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ NANG RUỘT ĐÔI Ở TRẺ EM <br /> Trần Ngọc Sơn*, Vũ Xuân Hoàn* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi trong điều trị nang <br /> ruột đôi ở trẻ em. <br /> Phương  pháp  nghiên  cứu:  Hồi cứu các bệnh nhân có chẩn đoán cuối cùng là nang ruột đôi được phẫu <br /> thuật nội soi tại bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 3/2009 đến tháng 3/2013. Hai phương pháp phẫu thuật <br /> nội soi được ứng dụng: Phẫu thuật nội soi toàn bộ khi toàn bộ ca mổ được thực hiện trong ổ bụng, và Phẫu thuật <br /> nội soi hỗ trợ khi nang ruột đôi được đưa ra ngoài qua đường rạch rốn và thực hiện cắt nang (cùng với cắt ruột <br /> hoặc không) ở ngoài ổ bụng. <br /> Kết quả: Có 29 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu với tuổi trung vị là 24 tháng (dao động 10 ngày đến 9 <br /> tuổi). Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (89,7%), nôn (62,1%), chướng bụng (27,6%). Vị trí của <br /> nang  ruột  đôi  ở  hồi  tràng  là  72,4%,  manh  tràng  (17,2%),  tá  tràng  (3,4%),  hỗng  tràng  (3,4%)  và  đại  tràng <br /> ngang (3,4%). Cắt toàn bộ nang ruột đôi được thực hiện trên 34,5%, mở chỏm nang ở 42,4% và cắt đoạn ruột <br /> cùng với nang ở 24,1%. phẫu thuật nội soi hỗ trợ được thực hiện ở 58,6% và phẫu thuật nội soi toàn bộ – ở <br /> 41,4%. Cắt toàn bộ nang hoặc mở chỏm nang đều được thực hiện tương đương với 2 phương pháp nhưng cắt <br /> ruột chỉ được thực hiện bởi phẫu thuật nội soi phẫu thuật nội soi hỗ trợ. Ở 31% bệnh nhân phẫu thuật được <br /> thực hiện bằng 1 trocar duy nhất. Thời gian mổ trung bình là 64 ± 17,0 phút. Không có biến chứng nào trong và <br /> sau mổ, không có trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Thời gian trung vị nằm viện sau mổ là 4 ngày (giao động <br /> 2 ‐ 6 ngày). Với thời gian theo dõi 1 ‐ 36 tháng (trung vị 12 tháng), tất cả bệnh nhân đều có sức khỏe tốt và <br /> không có tái phát. <br /> Kết luận: Phẫu thuật nội soi có tính khả thi, an toàn, hiệu quả và là lựa chọn hàng đầu trong điều trị nang <br /> ruột đôi ở trẻ em. Cả 2 phương pháp phẫu thuật nội soi toàn bộ và phẫu thuật nội soi hỗ trợ có thể ứng dụng <br /> trong các trường hợp chọn lọc, tuy nhiên phẫu thuật nội soi hỗ trợ có ưu thế hơn trong trường hợp phải cắt ruột. <br /> Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, nang ruột đôi, trẻ em. <br /> <br /> ABSTRACT  <br /> LAPAROSCOPIC MANAGEMENT OF INTESTINAL DUPLICATION CYST IN CHILDREN <br />  Tran Ngoc Son, Vu Xuan Hoan  <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 40 ‐ 44 <br /> Objectives: To investigate the feasibility, safety and efficacy of laparoscopic surgery (LS) in management of <br /> intestinal duplication cyst in children. <br /> Methods: The medical records of all patients diagnosed with intestinal duplication cyst undergoing LS at <br /> our center from March, 2009 to March, 2013 were reviewed. All patients underwent either of the two types of <br /> laparoscopic procedures: complete laparoscopic when the entire operation was carried out inside the abdomen and <br /> laparoscopic‐assisted (LA) when the intestinal duplication cyst was exteriorized through an umbilical incision for <br /> extracorporeal excision.  <br /> Results: 29 patients were identified with a median age of 24 months (range 10 days – 9 years). The most <br /> common clinical presentations were abdominal pain (89.7%), vomiting (62.1%), abdominal distention (27.6%). <br /> * Bệnh viện nhi Trung Ương. <br /> Tác giả liên hệ: TS BS Trần Ngọc Sơn <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi <br /> <br /> ĐT: 0462738854 <br /> <br />  Email: drtranson@yahoo.com <br /> <br /> 41<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br /> <br /> The  locations  of  the  intestinal  duplication  cyst  were  the  ileum  (72.4%),  the  caecum  (17.2  %),  the  jejunum <br /> (3.4%), the transverse colon (3.4%) and the duodenum (3.4%). Complete cyst excision was carried out in 34.5%, <br /> cystic unroofing in 41.4% and intestinal resection in 24.1%. Laparoscopic‐assisted was performed in 58.6% and <br /> complete  laparoscopic  in  41.4%.  Cyst  excision  and  cyst  unroofing  were  equally  performed  through  either <br /> techniques, but all intestinal resections were performed only by the laparoscopic‐assisted approach. In 31%, only <br /> a  single  umbilical  port  was  used.  The  mean  operative  time  was  64  ±  17.0  minutes.  There  were  no  intra‐  or <br /> postoperative complications, no conversion to open surgery. The median postoperative hospital stay was 4 days <br /> (range 2‐6 days). At follow up 1‐ 36 months (median 12 months), all patients were in good health and without <br /> recurrence.  <br /> Conclusions: Laparoscopic management is feasible, safe, effective and should be the treatment of choice for <br /> most  cases  of  intestinal  duplication  cyst  in  children.  Both  complete  laparoscopic  and  laparoscopic‐assisted <br /> approaches  could  be  used  in  selected  cases  but  laparoscopic‐assisted  would  be  preferred  in  case  of  intestinal <br /> resection. <br /> Key words: Laparoscopic surgery, intestinal duplication, children. <br /> thuật  nội  soi  toàn  bộ  (PTNSTB)  khi  toàn  bộ  ca <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ  <br /> mổ được thực hiện trong ổ bụng và phẫu thuật <br /> Dị tật ống tiêu hóa đôi khá hiếm gặp, với tần <br /> nội soi hỗ trợ (PTNSHT) khi NRĐ cùng với quai <br /> suất được báo cáo là 1/4500. Mặc dù dị tật này có <br /> ruột liền kề được đưa ra ngoài ổ  bụng qua  rốn <br /> thể gặp ở mọi vị trí từ hầu họng cho tới hậu môn, <br /> và  cắt  nang  ±  cắt  ruột  được  thực  hiện  ở  bên <br /> nhưng  hay  gặp  nhất  là  ở  hồi  tràng,  hỗng  tràng, <br /> ngoài. Chọc kim qua thành bụng hút dịch nang <br /> đại tràng, dạ dày và tá tràng(2,4,5,7,9,). Ruột đôi hay <br /> dưới  sự  kiểm  soát  của  nội  soi  làm  giảm  tối  đa <br /> gặp ở dạng nang (cystic type) và hiếm khi hơn – ở <br /> thể tích nang và giúp đưa nang ra ngoài dễ dàng <br /> dạng ống (tubular type)(2). Điều trị qui chuẩn đối <br /> hơn. Giải phóng manh tràng được thực hiện cho <br /> với nang ruột đôi (NRĐ) là phẫu thuật cắt nang <br /> đại đa số các trường hợp NRĐ ở góc hồi manh <br /> (có cắt hoặc không cắt ruột) và mổ mở bụng vẫn <br /> tràng,  làm  cho  NRĐ  cùng  manh  tràng  đủ  di <br /> là phương pháp phẫu thuật phổ biến nhất(4,5,9). Vai <br /> động để có thể đưa ra ngoài qua rốn. Ở vị trí này <br /> trò  của  phẫu  thuật  nội  soi  (PTNS)  trong  điều  trị <br /> của NRĐ, chúng tôi cắt ruột thừa thường qui. <br /> thường qui cho NRĐ vẫn còn chưa được xác định <br /> Trong  trường  hợp  cắt  chỏm  nang,  phần <br /> rõ  do  chỉ  có  số  ít  báo  cáo  về  chủ  đề  này(2,3,6,7,10). <br /> thành  nang  tự  do  của  NRĐ  được  cắt  tối  đa  có <br /> Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  báo  cáo  kinh <br /> thể, niêm mạc của thành nang còn lại được đốt <br /> nghiệm của mình trong PTNS điều trị NRĐ ở trẻ <br /> bằng dao điện và khi thành nang phồng ra ngoài <br /> em và đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả <br /> nhiều như túi thừa, chúng tôi khâu xếp nếp lại <br /> của phương pháp này.  <br /> thành nang đó. <br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu <br /> <br /> Nghiên cứu đánh giá tính khả thi, an toàn và <br /> hiệu  quả  của  phẫu  thuật  nội  soi  trong  điều  trị <br /> nang ruột đôi ở trẻ em. <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Chúng  tôi  hồi  cứu  lại  tất  cả  các  bệnh  nhân <br /> với chẩn đoán NRĐ được phẫu thuật nọi soi tại <br /> bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 3/2009 đến <br /> tháng 3/2013. Về kỹ thuật mổ, chúng tôi sử dụng <br /> một  trocar  10  mm  ở  rốn  và  0  –  2  trocar  khác  5 <br /> mm.  Hai  loại  PTNS  được  thực  hiện  là  phẫu <br /> <br /> 42<br /> <br /> Sau  khi  ra  viện,  bệnh  nhân  được  theo  dõi <br /> định kỳ bằng khám lâm sàng và siêu âm bụng. <br /> Các dữ liệu về đặc điểm bệnh nhân, triệu chứng <br /> lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm, mô <br /> tả trong mổ, kỹ thuật mổ, diễn biến  sau  mổ  và <br /> thời gian nằm viện được tập hợp và phân tích. <br /> <br /> KẾT QUẢ  <br /> Có 29 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, 17 <br /> nam (58,6%) và 12 nữ (41,4%), với độ tuổi trung <br /> vị  là  24  tháng  (dao  động  từ  10  ngày  cho  đến  9 <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br /> tuổi). Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau <br /> bụng  (89,7%),  nôn  (62,1%),  chướng  bụng <br /> (27,6%), sốt (13,8%). Siêu âm và CT cho thấy cấu <br /> trúc nang dạng ống tiêu hóa ở đa số các trường <br /> hợp và chẩn đoán trước mổ chính xác đạt được <br /> ở 25 bệnh nhân (86,2%). Các  bệnh  nhân  còn  lại <br /> có  các  chẩn  đoán  không  chính  xác  như  nang <br /> bạch huyết ổ bụng, viêm ruột thừa, nang buồng <br /> trứng  và  nang  ống  mật  chủ.  Kích  thước  trung <br /> bình của NRĐ là 4,2 ± 1,8 cm (dao động từ 2 cm <br /> đến 9 cm). Vị trí của NRĐ phổ biến nhất là ở hồi <br /> tràng  (72,4%  ‐  21  bệnh  nhân)  sau  đó  là  manh <br /> tràng  (17,2%  ‐  5  bệnh  nhân),  tá  tràng  (3,4%  ‐  1 <br /> bệnh nhân), hỗng tràng (3,4% ‐ 1 bệnh nhân) và <br /> đại tràng ngang (3,4% ‐ 1 bệnh nhân). PTNSHT <br /> được  thực  hiện  ở  58,6%  ‐  17  bệnh  nhân)  và <br /> PTNSTB  (41,4%  ‐  12  bệnh  nhân).  Cắt  toàn  bộ <br /> NRĐ được thực hiện trên 34,5%, mở chỏm nang <br /> ở 42,4% và cắt đoạn ruột cùng với nang ở 24,1%. <br /> Ở  31%  bệnh  nhân  phẫu  thuật  được  thực  hiện <br /> bằng  1  trocar  duy  nhất.  Tất  cả  các  trường  hợp <br /> cắt ruột đều được thực hiện bởi PTNSHT.  <br /> Thời  gian  mổ  trung  bình  là  64  ±  17,0  phút <br /> (dao  động  30  ‐  90  phút).  Không  có  biến  chứng <br /> nào trong và sau mổ, không có trường hợp nào <br /> phải  chuyển  mổ  mở.  Thời  gian  trung  vị  nằm <br /> viện sau mổ là 4 ngày (dao động 2 ‐ 6 ngày). Với <br /> thời  gian  theo  dõi  1  ‐  36  tháng  (trung  vị  12 <br /> tháng), tất cả bệnh nhân đều có sức khỏe tốt và <br /> không có tái phát. <br /> <br /> Phẫu thuật nội Phẫu thuật<br /> soi hỗ trợ<br /> nội soi toàn<br /> (n=17)<br /> bộ (n=12)<br /> Phẫu thuật<br /> Cắt toàn bộ NRĐ<br /> 6<br /> 4<br /> Mở chỏm nang<br /> 4<br /> 8<br /> Cắt đoạn ruột với NRĐ*<br /> 7<br /> 0<br /> Cắt ruột thừa<br /> 9<br /> 7<br /> Số lượng trocar trung bình*<br /> 1,9<br /> 3<br /> Thời gian mổ (phút)<br /> 63,8 ± 17,5<br /> 64,6 ± 17,1<br /> Ngày nằm viện sau mổ<br /> 4,0 ± 1,2<br /> 4,4 ± 1,2<br /> Biến nghiên cứu<br /> <br />  Biến nghiên cứu với khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2