intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” - Giá trị lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

8
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” - Giá trị lý luận và thực tiễn" tập trung khái quát quan điểm của Người về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” từ đó chỉ ra giá trị lý luận và thực tiễn đối với Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” - Giá trị lý luận và thực tiễn

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TÁC PHẨM “THƯỜNG THỨC CHÍNH TRỊ” - GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Trương Thị Thu Hạnh Học viện Nông nghiệp Việt Nam Tác giả liên hệ: Trương Thị Thu Hạnh, email: ttthanh@vnua.edu.vn Tóm tắt: Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam, với “ham muốn tột bậc” làm cho nước nhà độc lập, nhân dân tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc. Người đặc biệt quan tâm đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, con đường để xây dựng xã hội mới là Đảng lãnh đạo nhân dân: “Kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản.” Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh, bài viết tập trung khái quát quan điểm của Người về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” từ đó chỉ ra giá trị lý luận và thực tiễn đối với Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Từ khóa: Hồ Chí Minh; cộng sản chủ nghĩa; chủ nghĩa xã hội; nền dân chủ mới; nhân dân. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, con người đã luôn thể hiện ước mơ về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, bình đẳng. Từ khi xã hội có đối kháng giai cấp ra đời, nhân loại lại có thêm khát vọng độc lập, tự do, xã hội không có áp bức, bóc lột, bất công. Đặc biệt, trong thời đại chủ nghĩa tư bản phát triển, giai cấp tư sản chiếm đoạt các tư liệu sản xuất và “thuê công nhân sản xuất” (Hồ, 2011c, 248) để bóc lột nên càng làm gia tăng khát vọng về một xã hội hạnh phúc, bình đẳng và no ấm. Những học thuyết về chủ nghĩa xã hội đã được hình thành theo nhiều trào lưu khác nhau dựa trên những ý tưởng tốt đẹp, những mong muốn về một xã hội tương lai không còn tình trạng người bóc lột người. Kế thừa và phát triển tinh hoa tư tưởng 165
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nhân loại vào bối cảnh của xã hội tư bản ở thế kỷ XIX, C. Mác - Ph. Ăngghen đã phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên cơ sở thực tiễn để chỉ ra con đường, lực lượng, phương pháp, chiến lược của cách mạng vô sản nhằm xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Với tư duy chính trị nhạy bén, sự tìm tòi và nghiên cứu lý luận cách mạng nghiêm túc nhằm tìm ra con đường thực hiện khát vọng độc lập cho tổ quốc, tự do cho nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước giác ngộ được chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là “cẩm nang thần kỳ” để giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc. Đồng thời Người xác định con đường cách mạng tất yếu của Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản (Hồ, 2011a, 1). Đây cũng chính là sự lựa chọn đúng đắn nhất phù hợp với xu thế khách quan của thời đại và khát vọng của toàn dân tộc. Sau cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng cộng sản Đông dương tiếp tục lãnh đạo công cuộc vừa kháng chiến chống Pháp xâm lược, vừa xây dựng nền dân chủ mới để kiến thiết đất nước. Trong giai đoạn cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, Người luôn nhận thấy sức mạnh của lý luận trong tập hợp và phát huy động lực cách mạng. Với nhận thức: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.” (Hồ, 2011a, 6) thì mọi người phải hiểu chủ nghĩa xã hội là gì? Mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội? Con đường để xây dựng chủ nghĩa xã hội?. Theo Người, cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân muốn nhận thức được Chủ nghĩa xã hội, từ đó xây dựng thành công xã hội mới tốt đẹp thì phải hiểu và thực hiện lý luận cách mạng, nên trong giai đoạn từ 1945 đến 1969 nhiều tác phẩm lý luận của Hồ Chí Minh được xuất bản để phục vụ công tác giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, trong đó có tác phẩm “ Thường thức chính trị”. “Thường thức chính trị” là tác phẩm gồm 50 bài viết được đăng trên báo Cứu quốc năm 1953 với bút danh Đ.X và nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên năm 1954. Đây là một trong những tác phẩm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày cụ thể, toàn diện những quan điểm về chính trị bao gồm vấn đề giai cấp, động lực cách mạng, chế độ dân chủ cộng hòa, chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, xã hội mới, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, dân chủ mới… Đó là những vấn đề 166
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” có tính lý luận cơ bản về con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới với mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung trình bày những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó chỉ ra giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm đối với công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa 2.1.1. Về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa Xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử và học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra sự phát triển của xã hội loài người là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự ra đời của xã hội mới luôn bắt nguồn từ tất yếu kinh tế và được thai nghén trong lòng xã hội cũ. Căn cứ khoa học trên là cơ sở để hai ông nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và chỉ ra sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là tất yếu như nhau. Tính tất yếu này được bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Theo đó, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển đến trình độ xã hội hóa cao sẽ làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất càng thêm sâu sắc. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản (ngày nay là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động). Qua thực tiễn đấu tranh chống lại sự áp bức của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân đã nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, từng bước tổ chức và thành lập chính đảng cách mạng. Thông qua sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân cùng với các tầng lớp nhân dân đấu tranh lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mở đầu hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 167
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2.1.2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa Khi phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, hình thái này sẽ phát triển từ thấp lên cao, trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp và giai đoạn cao, giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản là thời kỳ quá độ. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Goota (1875), C. Mác đã viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ, sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2004, 47). Về mặt xã hội, thời kỳ quá độ chính là giai đoạn xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó, nên còn mang nhiều dấu vết của xã hội cũ: “... là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2004, 33). Sau này, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V. I. Lênin cũng đã thừa nhận: “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005, 464) để cải tổ sản xuất, để tạo ra những chuyến biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. C. Mác - Ph. Ăngghen cũng đã dự báo xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi con người không còn phụ thuộc có tính chất nô dịch vào sự phân công lao động của họ; không còn sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay; lao động không những trở thành một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là nhu cầu bậc nhất của đời sống; sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên; con người có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản.. (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2004). Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là một tất yếu khách quan và nó trải qua giai hai đoạn phát triển chủ yếu là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội nhất định phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài để cải biến xã hội, xây dựng các tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từ đó từng bước giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, ngày càng được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. 168
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” 2.2.1. Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kinh qua chế độ dân chủ mới Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng “cướp hết quyền kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa”, “ thu hút hết mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta” (Hồ, 2011). Trong “đêm đen nô lệ” ấy, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, hơn ai hết, thấu hiểu sâu sắc đời sống bị áp bức nặng nề của nhân dân, yêu cầu bức thiết cũng như sức mạnh cách mạng to lớn của dân tộc. Vì vậy, ý chí độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân đã trở thành điểm xuất phát của tư tưởng cách mạng sau này của Người. Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận, nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước đã làm giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người không chỉ là nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới, Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011f, 30). Ngay sau ngày 2.9.1945, với tư cách là người đúng đầu chính phủ lâm thời cách mạng, Người đã khẩn trương tập trung xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, chú trọng công tác xây dựng Đảng để tăng cường vai trò lãnh đạo công cuộc kháng chiến, kiến quốc trong điều kiện khó khăn của đất nước. Giai đoạn này, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cũng đang đạt được những thắng lợi lớn, từng bước “tiến mạnh đến chủ nghĩa cộng sản” (Hồ, 2011c, 270) đồng thời với thế lực đế quốc đang bị thu hẹp, phe dân chủ và chủ nghĩa xã hội ngày càng mạnh mẽ, vẻ vang khi các nước Đông Âu, Việt Nam, Trung Quốc đã và đang trở thành những nước dân chủ mới. Những thắng lợi to lớn này chính là kết quả của sự lãnh đạo của các Đảng của giai cấp công nhân, sự hy sinh xương máu và mồ hôi của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc kháng chiến chống áp bức, bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận thức rõ, tùy vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Đối với Việt Nam, Người 169
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG khẳng định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)” (Hồ, 2011c, 293). Lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất để nhân dân được tự do, ấm no và hạnh phúc nhưng xuất phát điểm của nước ta thấp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh nên cần phải trải qua giai đoạn dân chủ mới (thời kỳ quá độ) để khôi phục kinh tế, cải tạo văn hóa, xã hội. Ở thời kỳ này, nền kinh tế với nhiều loại kinh tế khác nhau bao gồm cả kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã, kinh tế của cá nhận, tư bản chủ nghĩa và tư bản nhà nước trong đó kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển nhanh hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời xác định Đảng phải xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ; củng cố chính quyền mới. Nhà nước dân chủ nhân dân có nhiệm vụ xây dựng kinh tế, phát triển nông nghiệp, công nghệ, thủ công nghệ, thương nghiệp nhằm cải thiện đời sống nhân dân; phát huy vai trò của nhân dân; tẩy sạch các bệnh quan liêu, mệnh lệnh, ngăn ngừa và trừng trị mọi hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện nền dân chủ mới, Đảng lao động Việt Nam phải dựa trên nền tảng tư tưởng Mác - Lênin, kiên quyết lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thông qua các đoàn thể cách mạng nhân dân hăng hái thi đua sản xuất, đoàn kết chặt chẽ, kiên trì đấu tranh, xây dựng xã hội thì chủ nghĩa xã hội sẽ thành công. Như vậy, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định nước ta phải kinh qua nền dân chủ mới bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Người cũng chỉ rõ, đây chính là thời kỳ quá độ gián tiếp, là cuộc chiến đấu “khổng lồ” chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi nên phải trải qua một thời gian đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành được thắng lợi trong công cuộc cải biến triển kinh tế và thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm này thì Đảng “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (Hồ, 2011g, 617). 2.2.2. Một số đặc điểm của chủ nghĩa xã hội Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sử dụng cách diễn đạt đơn giản, mộc mạc, dung dị và dễ hiểu về 170
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội thống nhất với mục tiêu phấn đấu là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân; là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh” (Hồ, 2011a, 11). Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa cộng sản với hai giai đoạn, chỉ ra sự giống và khác nhau của hai giai đoạn đó. Từ nhận thức chủ nghĩa xã hội tuy là giai đoạn thấp, nhưng sức sản xuất đã phát triển, tư liệu sản xuất đều là của chung và căn cứ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Về kinh tế: Xuất phát từ mục tiêu chủ nghĩa xã hội là làm cho nhân dân ăn no, mặc ấm, ai nấy được sung sướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng nền kinh tế quốc gia vững mạnh: “Phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới” (Hồ, 2011f, 412) nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Theo Người, bước vào giai đoạn chủ nghĩa xã hội dù vẫn còn “vết tích” xã hội cũ, nhưng nền kinh tế được xây dựng dựa trên sở hữu chung về công cụ sản xuất và tư liệu sản xuất như “nhà máy, xe lửa, ngân hàng,…, làm của chung.” (Hồ, 2011d, 390). Ở nông thôn có nông trường chung để nông dân sản xuất tập thể. Công nghiệp và nông nghiệp là “hai chân” của nền kinh tế phát triển theo hướng hiện đại khi khoa học đã ngày càng phát triển. Máy móc ngày càng nhiều sẽ làm cho sức sản xuất của công nhân và nông dân được thúc đẩy, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế tăng, làm cho của cải xã hội dồi dào từ đó thỏa mãn được nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của nhân dân (theo Hồ Chí Minh, 2011). Không chỉ đề cập đến các ngành kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhận định: chủ nghĩa xã hội kinh tế của cả nước phải có kế hoạch để xác định rõ nhu cầu, mục đích, chỉ tiêu sản xuất nên kinh tế tránh được khủng hoảng, nạn thất nghiệp, sức sản xuất thì phát triển mau chóng, từ đó ngày càng nâng cao đời sống của nhân dân và sức mạnh dân tộc để củng cố quốc phòng của Tổ quốc. Về xã hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Đây là giai đoạn mà xã hội không có chế độ bóc lột người, mọi người đều được bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động, có quyền lao động và có việc làm vì “Tư bản, địa chủ, phú nông không có nữa” (Hồ, 2011c, 290) nên không có ai bóc lột công nhân và nông dân. Khác với xã hội cũ trong khi một số không người 171
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG lao động “ngồi mát ăn bát vàng” thì trong xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thực hiện “Nguyên tắc sinh hoạt là: “Ai không làm thì không được ăn” và “làm nhiều hưởng nhiều”, “làm ít hưởng ít” (Hồ, 2011c, 290) nhưng vẫn đảm bảo: người già yếu hoặc tàn tật sẽ được nhà nước giúp đỡ chăm nom, trẻ em luôn được chăm sóc, bảo vệ. Đó mới là sự bình đẳng thực sự, khi xã hội quan tâm đến những người chưa có hoặc không còn khả năng hay mất dần khả năng lao động. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ có ở trong chủ nghĩa xã hội: “Mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở trường riêng của mình” (Hồ, 2011a, 6). Khi nền kinh tế phát triển mạnh dựa trên nền tảng khoa học kỹ thuật và tinh thần lao động, hợp tác tự nguyện, tự giác của công, nông thì sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động trí óc và lao động chân tay sẽ không còn nữa. Khi đó nông thôn ngày càng văn minh, “công nông ngày càng thông thái” (Hồ, 2011c, 290). Đây thực chất là một quan niệm sâu săc về chủ nghĩa xã hội, thể hiện khát vọng xây dựng xã hội dân chủ và giàu mạnh, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, nghèo đói, đau khổ và dốt nát. Trong quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, dù nói hay viết thế nào thì cũng đều chỉ hướng đến mục tiêu cao nhất là vì con người và cho con người. Nếu ở xã hội có áp bức giai cấp con người bị bóc lột, bị tha hóa thì trong chủ nghĩa xã hội con người lại có văn hóa, đạo đức phát triển cao, có “đầu óc”, tư tưởng xã hội chủ nghĩa và quyết tâm đoàn kết để xây dựng chủ nghĩa cộng sản thắng lợi. Tóm lại, những quan niệm về đặc điểm của chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Thường thức chính trị” nói riêng, trong hệ thống các tác phẩm của Người nói chung thì đều thể hiện rõ sự vận dụng sâu sắc và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về mục tiêu, con đường, và động lực của Chủ nghĩa xã hội vào tình hình cụ thể của đất nước, từ đó nêu lên những mục tiêu, đặc điểm cơ bản, những bước đi và động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2.2.3. Vai trò của Đảng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là một xã hội vì con người, do con người. Với tư cách là một nhà biện chúng, có tầm dự báo chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là rất khó khăn, gian khổ nên cần sự quyết tâm của Đảng và quần chúng nhân dân. Theo Người, muốn xây dựng một xã hội vẻ vang mà ai cũng 172
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” no ấm, sung sướng, tự do, ai cũng thông thái, có đạo đức thì mọi người đều phải hiểu rõ quy luật phát triển của xã hội, phát huy sức mạnh đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ của các nước trong phe dân chủ. Người tin tưởng vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết của quần chúng nhân dân, coi đây là “động lực lớn” để dân tộc Việt Nam chiến thắng các đế quốc và xây dựng thành công chế độ xã hội mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng con người là vốn quý nhất và đoàn kết dân tộc là “lực lượng vô địch” do đó Người thường khẳng định: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, con người cộng sản chủ nghĩa” (Hồ, 2011f, 69). Theo đó, Đảng cần có đường lối đúng đắn để đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, phát huy tốt động lực vĩ đại này thì chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thắng lợi. Ngay từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức vai trò quan trọng của Đảng trong lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Trên cương vị người đứng đầu Đảng và Chính phủ, trong thực tiễn lãnh đạo công cuộc kháng chiến, kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng nhận thức sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Ngay cả khi cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng nhân dân vẫn cần có đảng lãnh đạo vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội; Đảng phải tổ chức, giáo dục toàn dân để đưa nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn. Muốn vậy, theo Người đảng viên luôn phải làm kiểu mẫu: “Ra sức đoàn kết đánh đổ thực dân và phong kiến, kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, ra sức củng cố chính quyền nhân dân” (Hồ, 2011c, 294). Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở đoàn kết toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao mối quan hệ mật thiết, gắn bó của Đảng với nhân dân. Người nhắc nhở cán bộ đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phải toàn tâm, toàn ý phụng sự nhân dân, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên hàng đầu. Như vậy Đảng mới đoàn kết được quần chúng đấu tranh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ xã hội chủ nghĩa là một xã hội tốt đẹp, vẻ vang. Nhưng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì Đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải ra sức: “Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm” (Hồ, 2011c, 295) để xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Người chỉ rõ: trong thực tiễn lãnh đạo, đảng viên sẽ dễ bị quyền lực cám dỗ, dễ suy thoái, dễ mắc phải sai lầm với những 173
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG biểu hiện tiêu cực như cậy thế, trái phép, “quan liêu, tham ô, lãng phí” (Hồ, 2011c, 295). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải luôn coi trọng công tác xây dựng chỉnh đốn, tập trung rèn luyện đảng cách mạng, chân chính. Do đó, mỗi Đảng viên và tổ chức đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình, phải gìn giữ Đảng trong sạch, vững mạnh. Tổ chức Đảng muốn vững mạnh thì mỗi cán bộ đảng viên phải luôn giữ phẩm chất đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải tự trau dồi tư tưởng, lý luận; “nâng cao trình độ văn hóa và giác ngộ chính trị của nhân dân lao động.” (Hồ, 2011c, 295). Vì vậy, công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho đảng viên luôn được Người chú trọng để mỗi cán bộ phải thấm nhuần lý luận, chí khí phải kiên quyết, có óc nhìn xa trông rộng và tránh bị “lạc phương hướng”, xa rời cách mạng. Trong điều kiện thực tiễn, phần đông Đảng viên của Đảng là nông dân và tiểu tư sản trí thức nên Đảng phải chú ý gột rửa những tư tưởng phi vô sản, ra sức: “Cải tạo tư tưởng khiến cho những đồng chí ấy thành những chiến sĩ của giai cấp công nhân” (Hồ, 2011c, 276). Tóm lại, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ thực tiễn cách mạng trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò to lớn của Đảng đối với vận mệnh của nước nhà và dân tộc. Từ đó, Người nêu những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng phải thực hành trong công tác lãnh đạo quần chúng nhân dân kháng chiến và kiến quốc thắng lợi để đi đến chủ nghĩa xã hội. Mặc dù con đường cách mạng có nhiều gian khổ, nhưng có thêm s ự ủng hộ của các nước trong phe xã hội và dân chủ, với quyết tâm vượt mọi khó khăn của Đảng và nhân dân, nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 2.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm trong tình hình hiện nay Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta qua tác phẩm “Thường thức chính trị” nói riêng và hệ thống tư tưởng của Người nói chung có ý nghĩa lý luận lớn đối với Đảng và nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Thứ nhất, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh, và cũng chính là đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi Đảng ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu, lý tưởng của Đảng cộng sản và nhân dân Việt 174
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan và là con đường tất yếu của cách mạng. Trải qua những khó khăn của đất nước, thử thách của thời đại, Đảng cộng sản và nhân dân ta càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng tiếp tục coi đây là quan điểm chỉ đạo để thực hiện đường lối đổi mới: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Điều đó khẳng định quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Thứ hai, những quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là phải kinh qua chế độ dân chủ mới rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở để Đảng quyết tâm thực hiện thời kỳ quá độ xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những chặng đường và bước đi thích hợp. Đặc biệt những chỉ dẫn của Người về năm loại hình kinh tế trong giai đoạn xây dựng chế độ dân chủ mới (thời kỳ quá độ) đã trở thành một trong những lý luận quan trọng để Đảng cộng sản Việt Nam nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, “xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Nhấn mạnh trên của Đảng cũng thể hiện sự tiếp thu tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế gắn với khoa học và công nghệ hiện đại mà Người đã chỉ ra khi trình bày đặc điểm của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn 36 năm đổi mới cho thấy, kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì; doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, tổ chức có hiệu quả; kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế đất nước, quy mô nền kinh tế được nâng lên; vấn đề lao động, việc làm được đảm bảo. Từ đó, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt vật chất và tinh thần. Đó cũng chính là hiện 175
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thực hóa sinh động nhất mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân đang xây dựng. Thứ ba, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân. Nhân dân là động lực cách mạng to lớn, vì vậy Đảng phải tổ chức, giáo dục và dựa vào lực lượng vĩ đại ấy trong công cuộc xây dựng xã hội no ấm, bình đẳng và hạnh phúc. Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, thì đảng phải là một tổ chức vững mạnh; đẩy lùi được những tiêu cực; tẩy sạch tư tưởng “phi vô sản”; phải gắn bó máu thịt với nhân dân. Cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong thực tiễn đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ trước những tác động của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch, đã có không ít cán bộ Đảng viên suy thoái về lối sống đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây mất niềm tin trong nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thông qua việc triển khai và tiếp tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại hội XIII của Đảng chủ trương phải gắn liền xây dựng Đảng với xây dựng hệ thống chính trị. Nhận thức mới này cho thấy, công tác đấu tranh chống tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị có quan hệ mật thiết với nhau. Trong xây dựng chỉnh đốn Đảng, cần tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị; coi trọng sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng; đảng phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; luôn quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân, hết lòng phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Thành tựu của 36 năm đổi mới đã đưa nước ta phát triển, ngày càng khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Những nỗ lực trong tư duy và thực tiễn đổi mới đường lối lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đoàn kết của nhân dân chính là minh chứng rõ nhất cho sự vận dụng và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội. 3. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa lý luận quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt 176
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Nam. Từ năm 1986 đến nay, Đảng luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nhất quán với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những quyết tâm của Đảng và nhân dân đang làm cho vị thế của đất nước ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện lời dạy của Người, phát huy vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng và của Chính phủ với đường lối, chính sách đúng đắn, dựa vào lực lượng vô cùng to lớn của nhân dân nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2004). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [3]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia. [4]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 7). Chính trị quốc gia. [5]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia. [6]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [7]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [9]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia. [10]. Lênin, V. I. (2005). Toàn tập (Vol. 38). Chính trị quốc gia Sự thật. 177
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2