intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan điểm nghiên cứu về loại từ và cách nhìn mới trong nghiên cứu loại từ tiếng Hán hiện đại

Chia sẻ: ViMoscow2711 ViMoscow2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

48
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vấn đề phân định giữa loại từ và lượng từ, đến nay đã được giải quyết phần nào. Những ngộ nhận và tranh cãi xung quanh thuật ngữ ‘loại từ’ trong suốt mấy thập kỷ qua cho thấy sự phức tạp của vấn đề. Dưới ánh sáng của Ngữ pháp chức năng từ vựng (LFG) và Loại hình học (Typology), những kết quả nghiên cứu gần đây đã giúp làm rõ thêm những điểm chung trong các ngôn ngữ có loại từ, điển hình như tiếng Hán hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan điểm nghiên cứu về loại từ và cách nhìn mới trong nghiên cứu loại từ tiếng Hán hiện đại

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00014 Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 3, pp. 81-88 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU VỀ ‘LOẠI TỪ’ VÀ CÁCH NHÌN MỚI TRONG NGHIÊN CỨU LOẠI TỪ TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI Đỗ Thị Kim Cương Phòng Quan hệ Quốc tế, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Vấn đề phân định giữa loại từ và lượng từ, đến nay đã được giải quyết phần nào. Những ngộ nhận và tranh cãi xung quanh thuật ngữ ‘loại từ’ trong suốt mấy thập kỷ qua cho thấy sự phức tạp của vấn đề. Dưới ánh sáng của Ngữ pháp chức năng từ vựng (LFG) và Loại hình học (Typology), những kết quả nghiên cứu gần đây đã giúp làm rõ thêm những điểm chung trong các ngôn ngữ có loại từ, điển hình như tiếng Hán hiện đại. Lớp từ nằm ở vị trí giữa số từ và danh từ được dán nhãn là ‘lượng từ’ đều xuất hiện trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Loại từ (loại từ số) chỉ có trong một số ngôn ngữ được cho là ngôn ngữ có loại từ (kể cả tiếng Việt). Kết quả nghiên cứu này đã khẳng định sự tồn tại của ‘loại từ’ trong tiếng Hán, một ngôn ngữ được cho là cùng loại hình đơn lập với tiếng Việt, hữu ích cho việc khảo sát tiếp theo về bản chất của lớp từ này. Từ khóa: Loại từ, loại từ số, ngôn ngữ có loại từ, tiếng Hán hiện đại. 1. Mở đầu Loại từ (classifier) được giới ngôn ngữ học chú ý từ lâu bởi tính chất vừa hấp dẫn vừa phức tạp của nó. Cùng với những thành tựu của lí luận ngôn ngữ học và những cứ liệu mới phát hiện trong nhiều ngôn ngữ của thế giới, vấn đề ‘loại từ’ ngày càng thu hút nhiều công trình nghiên cứu. Đặc biệt, những nghiên cứu về ‘loại từ’ gần đây đã tiến hành khảo sát trên các bình diện khác nhau đã mang lại cách nhìn mới về đặc điểm từ loại của lớp từ này trong các ngôn ngữ. Khi xem xét/khảo sát vấn đề, các nhà nghiên cứu không chỉ dựa vào các lí thuyết (quan điểm) truyền thống, mà còn vận dụng nhiều luận cứ trong ngôn ngữ học hiện đại như Ngữ pháp chức năng từ vựng (LFG), Loại hình học (Typology). Loại từ là một vấn đề được quan tâm trong các nghiên cứu về loại hình học. Hơn bốn thập kỉ trước, nghiên cứu loại hình hệ thống của loại từ được bắt đầu với công trình của Greenberg [7] về loại từ số của hơn 100 ngôn ngữ. Ông mô tả các ngôn ngữ có loại từ số với sự tồn tại của các kết cấu loại từ số và bắt đầu khảo sát việc [± cùng xuất hiện] của loại từ trong bối cảnh tính đếm. Tuy nhiên, trên thực tế, loại từ có thể xuất hiện trong các bối cảnh khác nữa khi có sự kết hợp với đại từ chỉ định hoặc với tính từ. Với những khái quát đồng đại, Greenberg cho rằng, chỉ có 4 biểu thức về trật tự từ được phát hiện trong kết cấu loại từ (classifier constructions) có chứa 3 thành tố gồm lượng từ (Q-quantifier), loại từ (CL-classifier) và danh từ (N-noun) [7;28] . Bốn biểu thức này là: Ngày nhận bài: 15/8/2014 Ngày nhận đăng: 01/10/2014 Liên hệ: Đỗ Thị Kim Cương, e-mail: kimcuong@hnue.edu.vn 81
  2. Đỗ Thị Kim Cương [Q-CL-N] (đặc trưng trong tiếng Hán, tiếng Việt) [N-Q-CL] (đặc trưng trong tiếng Thái, tiếng Khmer) [CL-Q-N] (đặc trưng trong tiếng Ibibio thuộc hệ Niger-Congo) [N-CL-Q] (đặc trưng trong tiếng Bodo thuộc hệ Hán-Tạng) Có hai biểu thức trật tự từ trong đó Q và CL bị ngăn cách bởi N là [CL-N-Q] và [Q-N-CL] không thấy xuất hiện trong bất kì ngôn ngữ nào. Bốn biểu thức chung của trật tự quan hệ giữa lượng từ và loại từ (đứng liền nhau) là không thay đổi, tuy nhiên các thành tố này có thể xuất hiện ở vị trí trước hay sau danh từ tùy thuộc loại hình ngôn ngữ. Ví dụ: [Q-CL]-N hoặc N-[Q-CL] | | [CL-Q]-N hoặc N-[CL-Q]. Greenberg nhận xét: biến thiên giữa [Q-CL] và [CL-Q] xuất hiện không thường xuyên và được minh họa trong ba ngôn ngữ làm ví dụ [7;28] . Trong ngôn ngữ Bodo (Hán-Tạng), kết cấu bản ngữ là [CL-Q]-N còn kết cấu vay mượn từ ngôn ngữ Assam (Indo-Aryan, Ấn-Âu) là [Q-CL]-N. Trong ngôn ngữ Bengali (Indic), trật tự thông dụng là [Q-CL] có thể chuyển đổi để biểu thị bằng số đếm áng chừng. Trong hầu hết các ngôn ngữ ở Thái Lan, trật tự [Q-CL] được sử dụng phổ biến, nhưng khi đi với số từ ‘một’ thì trật tự đổi thành [CL-Q]. Trong bối cảnh như vậy, bài báo mong muốn góp thêm một số kiến giải về ‘loại từ’ để giúp phân định với ‘lượng từ’ trong tiếng Hán hiện đại thông qua việc phân tích những quan điểm/cách nhìn mới từ các nghiên cứu ‘loại từ’ trên thế giới hiện nay. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu ‘loại từ’ trong ngôn ngữ học hiện đại 2.1.1. Các xu hướng nghiên cứu loại từ Từ sau Greenberg [7], số lượng các nghiên cứu và đánh giá hệ thống loại từ trong các ngôn ngữ thế giới đã tăng lên đáng kể. Các công trình nghiên cứu về loại từ có thể được phân chia thành ba xu hướng chính: (1) Nghiên cứu tổng thể loại hình học loại từ; (2) Nghiên cứu các kiểu loại từ riêng biệt; (3) Nghiên cứu các ngôn ngữ riêng biệt trong đó có loại từ. (1) Hướng thứ nhất, các nhà ngôn ngữ học [7], [2] đưa ra những khái quát loại hình và hệ thống các công cụ phạm trù hóa danh từ với một số lượng lớn các ngôn ngữ được xem xét. Allan khảo sát hơn 50 ngôn ngữ, Greenberg khảo sát hơn 100 ngôn ngữ, Aikhenvald khảo sát 500 ngôn ngữ khác nhau. Ngoài việc sử dụng nguồn dữ liệu về loại từ đủ lớn để loại trừ những thiên lệch trong chọn mẫu và đưa ra những khái quát chung, các nghiên cứu này còn đề xuất quan điểm riêng, chứng minh sự tồn tại một loại hình học của một hệ thống loại từ mang đặc trưng của một khu vực mà ngôn ngữ đó có quan hệ về nguồn gốc [1]. Jones so sánh đối chiếu các kết cấu loại từ trong nhiều ngôn ngữ châu Á, bao gồm một khu vực rộng lớn từ Đông Nam Á như Miến Điện (Miến-Tạng), Thái, Việt, đến Hán, Mã Lai, Ja-va. Aikhenvald còn mô tả hệ thống loại từ số trong các ngôn ngữ Đông Nam Á thuộc hệ Nam Á ít được biết đến như Bahnaric (Mon-Khmer), Khasi, Khmu, Nicobarese. (2) Liên quan đến những nghiên cứu về loại từ thuộc xu hướng thứ hai có thể kể đến các công trình chuyên về các lớp danh từ trong các ngôn ngữ châu Úc. Nghiên cứu về loại từ động từ trong các ngôn ngữ Anh-điêng Nam Mỹ với công trình của Derbyshire và Payne; Nghiên cứu loại từ các ngôn ngữ Papuan của Lang; các nghiên cứu khác về loại từ số của [7], [2] và [6]. (3) Hướng nghiên cứu thứ ba tập trung vào từng ngôn ngữ riêng biệt. Hướng này đã góp 82
  3. Quan điểm nghiên cứu về ‘loại từ’ và cách nhìn mới trong nghiên cứu loại từ tiếng Hán... phần tạo nên bức tranh tổng thể về loại hình học, đồng thời là nguồn dữ liệu phong phú phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo. Các nghiên cứu thuộc hướng này gồm [2], [5], [6] về hệ thống loại từ số trong tiếng Nhật; [4] về loại từ tiếng Thái, [1] về loại từ tiếng Tariana (Bắc Arawak). Các công trình nghiên cứu chuyên về loại từ hoặc liên quan đến loại từ tiếng Việt như Emeneau, Nguyễn Đình Hòa, Lê Ni La, Phạm Thị Thúy Hồng... 2.1.2. Loại từ - một công cụ phạm trù hóa danh từ Mặc dù đã có một khối liệu lớn về đặc điểm của các hệ thống loại từ khác nhau trong các công trình về loại hình học được nhiều nhà ngôn ngữ tiến hành, [4] và [1;14] vẫn chỉ ra rằng, nhu cầu cấp thiết là phải xây dựng được một loại hình học của loại từ (typology of classifiers) đầy đủ. Có nhiều yếu tố thúc đẩy công việc này. Trước tiên đó là một khối lượng lớn dữ liệu mới về các hệ thống loại từ đã được khai thác gần đây. Tuy nhiên, khối lượng dữ liệu này cần được tổ chức lại một cách hệ thống; sự tồn tại của chúng cho phép kiến tạo một loại hình học có quy mô và giá trị thỏa đáng. Hơn nữa, vẫn còn tồn tại một số nhầm lẫn phổ biến về thuật ngữ trong các tài liệu và thiếu “sự phân tích thống nhất và khái quát các hệ thống loại từ” [2;285] trong việc nghiên cứu các ngôn ngữ trên thế giới. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho việc đối chiếu các phương tiện (devices) phân loại phạm trù danh từ. Trong các tài liệu gần đây vẫn còn sự lẫn lộn một số thuật ngữ khi mô tả loại từ. Chẳng hạn, [5] sử dụng thuật ngữ ‘loại từ danh từ’ (noun classifier) để mô tả các phương tiện phân loại phạm trù danh từ dẫn đến sai lệch với [4], ông cho rằng, dùng thuật ngữ ‘loại từ danh từ’ để chỉ “một kiểu loại từ đứng tách riêng với danh từ sở chỉ, độc lập với phạm trù chỉ lượng và sở thuộc”. Allan [2;286] dùng các thuật ngữ ‘loại từ tương hợp’ để chỉ các lớp danh từ, ‘loại từ vị từ’ để chỉ loại từ động từ, ‘loại từ nội-vị’ để chỉ loại từ vị trí. Trước tình hình như vậy, Aikhenvald đã đề xuất “một khung loại hình học tích hợp” theo cách tiếp cận thống nhất và tổng quát kiến thức hiện đại về cấu trúc và cơ chế ngôn ngữ và tri nhận của loài người [1;1]. Công trình còn nhằm mục đích hướng dẫn việc phân tích một số ngôn ngữ chưa được xem xét trước đây và cơ chế phân loại phạm trù danh từ của chúng. Ngoài việc đưa ra một số giải pháp cho những vấn đề nêu trên, công trình của Aikhenvald còn rất đặc biệt vì nó đã khảo sát khoảng 500 ngôn ngữ đại diện cho các hệ ngôn ngữ chủ yếu thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới. Aikhenvald đã nghiên cứu từng ngôn ngữ, từ đó tìm ra số liệu liên quan đến công cụ phân loại phạm trù danh từ. Cách tiếp cận như vậy cho phép bà đưa ra một loại hình học tổng quát mang tính khả dụng phù hợp với kiến thức hiện đại. Ví dụ, công trình này đã khảo sát các ngôn ngữ Nam Mỹ và Papuan, cho thấy loại từ xuất hiện đồng thời với dấu hiệu biểu thị ‘giới’, đây là đặc điểm của các ngôn ngữ có hai hệ thống loại từ. Trong số 500 ngôn ngữ được khảo sát, [1] trực tiếp thu thập dữ liệu từ các ngôn ngữ: Tariana, Baniwa, Warekena, Bare (Bắc Arawak), Tucano (Đông Tucano, Tucano), Piratapuya (Đông Tucano, Tucano), Paumari (Arawa), và Manambu (Ndu, Sepik). Aikhenvald không giới hạn nghiên cứu của mình trong khuôn khổ các mẫu có sẵn, mà tự kiểm chứng các ngôn ngữ với dữ liệu mới khai khác được và không muốn hạn chế mức độ giá trị của dữ liệu thông qua phương pháp chọn mẫu. Bà không chọn giải pháp thống kê, vì theo bà, con số có thể không đáng tin cậy, một khi chúng ta chưa thể biết hết tất cả các ngôn ngữ hiện hữu trên thế giới. Điểm này cũng rất đặc biệt, vì hầu hết các nghiên cứu loại hình học thường chú trọng đến chọn mẫu và các phương pháp thống kê. Phải công nhận rằng, công trình của Aikhenvald rất tổng hợp về quy mô, nhưng dù sao, đây cũng chỉ là một gợi ý mang tính định hướng cho những nghiên cứu phân bố thống kê về 83
  4. Đỗ Thị Kim Cương các hệ thống loại từ trong các ngôn ngữ trên thế giới [1;447]. 2.1.3. Vấn đề phân biệt loại từ và lượng từ Aikhenvald phân chia loại từ thành các tiểu loại: (i) noun classes (các lớp danh từ); (ii) noun classifiers (loại từ danh từ); (iii) numeral classifiers - loại từ số (gồm đo đạc và thứ loại); (iv) classifiers in possessive constructions (loại từ trong cấu trúc sở thuộc); (v) verbal classifiers (loại từ động từ); (vi) locative classifiers (loại từ vị trí); (vii) deictic classifiers (loại từ chỉ xuất) [1;16-18]. Behr Wolfgang, căn cứ theo các quan điểm của Aikhenvald, các nguyên tắc phân loại của Grinevald, Craig [4], Dixon, đã đưa ra mô hình phân loại loại từ như sau: Hình 1. Công cụ phạm trù hóa danh từ (Theo Wolfgang Behr, SoY-talk Leiden, 2002-X-25) Theo quan điểm loại hình học, Craig [4], Grinevald đồng tình với Aikhenvald [1] trong việc phân loại các hệ thống phạm trù hóa danh từ. Theo đó, loại từ số được phân chia thành loại từ đo đạc (mensural) và loại từ thứ loại (sortal): Đa số các nhà ngôn ngữ học, đại diện là Grinevald thống nhất về cách phân loại loại từ, nhưng không đồng ý với Craig [4] và Bisang về thuật ngữ. Đối với Craig, loại từ (classifier) là thuật ngữ chung cho lớp từ mà các nhà ngôn ngữ khác quen gọi là ‘loại từ số’ hoặc ‘loại từ thứ loại’ (sortal classifier). Với loại từ đo đạc (mensural classifier), Craig quan niệm đây chính là lượng từ (quantifier). Quan niệm này của Craig [4;242] được nhiều học giả ủng hộ và cho rằng “loại từ là những hình vị có chức năng phân loại danh từ theo tiêu chí ngữ nghĩa”, theo đó (a) loại từ phân loại danh 84
  5. Quan điểm nghiên cứu về ‘loại từ’ và cách nhìn mới trong nghiên cứu loại từ tiếng Hán... Hình 2. Hệ thống phạm trù hóa (Theo Bon Noellie, Uni of Lyon, SEALS XXII) Hình 3. Hệ thống loại từ số từ với những đặc điểm vốn có; (b) lượng từ phân loại danh từ với những đặc điểm lâm thời. Tóm lại, điều quan trọng mà các học giả [1], [2], [7], [8] đã rút ra là “hầu hết các ngôn ngữ đều có lượng từ, nhưng chỉ một số ngôn ngữ có loại từ”. Theo Donald, tính đếm và đo lường là hai đặc điểm cơ bản để phân biệt loại từ và lượng từ [6]. Khả năng này có thể áp dụng cho việc phân loại loại từ và lượng từ trong các ngôn ngữ khác nhau. Cấu trúc cụm loại từ chỉ tính đếm là [Num[CL+N]]; cấu trúc cụm lượng từ chỉ đơn vị đo lường là [Num+CL[N]]. Như vậy, về cú pháp, cấu trúc cụm loại từ mang ý nghĩa tính đếm khác với cấu trúc của cụm lượng từ mang ý nghĩa đo lường. Quan điểm này mở ra xu hướng mới về nghiên cứu ‘loại từ’ trong ngôn ngữ học hiện đại. 2.2. Cách nhìn mới trong nghiên cứu loại từ tiếng Hán hiện đại 2.2.1. Khái quát nghiên cứu loại từ tiếng Hán Hệ thống loại từ là một trong những đặc điểm cơ bản của kết cấu danh ngữ có sự tham gia của số từ và loại từ trong tiếng Hán hiện đại. Các nhà Hán ngữ học dùng thuật ngữ ‘loại từ’ và ‘lượng từ’ không thống nhất. Thuật ngữ ‘loại từ’ mới xuất hiện gần đây trong Hán ngữ học. Thuật ngữ liangci (‘lượng từ’) được sử dụng để chỉ một lớp từ, một thành phần nằm ở vị trí giữa số từ và danh từ trong danh ngữ. Các học giả chưa xác định và phân biệt rạch ròi giữa ‘loại từ’ và ‘lượng từ’ [3] và một số người khác gọi ben trong cụm từ ‘san ben shu’ (ba cuốn sách) là getti-liang-ci (lượng từ cá thể); ping (‘chai’) trong cụm từ san ping shui (ba chai nước) là rongqi-liang-ci (lượng từ chỉ đơn vị chứa đựng); bang (‘cân’) trong cụm từ san bang rou (ba cân thịt) là duoliang-liang-ci (lượng từ đo lường). Lí do khiến các học giả này không phân biệt giữa ‘loại từ’ và ‘lượng từ’, có thể vì hai nhóm từ loại này nằm ở cùng vị trí như nhau trong cú pháp và cùng có chức năng cá thể hóa danh từ, làm cho danh từ có khả năng đếm được. Thuật ngữ ‘loại từ’ (classifier) tương đương trong tiếng Hán là fenlei-ci (phân loại từ), có vẻ không mấy quen thuộc đối với nhiều nhà ngôn ngữ học ở Trung Quốc, được sử dụng trong cuốn A grammar of Spoken Chinese của Chao Yuen Ren [3]. Các học giả phương Tây nghiên cứu tiếng 85
  6. Đỗ Thị Kim Cương Hán thường dùng cả hai thuật ngữ ‘loại từ’ và ‘lượng từ’ thay thế cho nhau. Một số học giả cho rằng, ‘loại từ’ là cách gọi khác của ‘lượng từ’ hoặc đồng ý với Chao Yuen Ren coi ‘loại từ’ là một tiểu loại của ‘lượng từ’; Denny sử dụng thuật ngữ ‘loại từ’ bao gồm cả ‘lượng từ’ [5]. Trên thực tế, Chao Yuen Ren gọi ‘loại từ’ là ‘lượng từ cá thể’; còn Li & Thompson cho rằng “mọi lượng từ có thể trở thành loại từ”. Lyons gọi ‘lượng từ’ là mensural classifier (loại từ đo lường); còn ‘loại từ’ thực sự (chính danh) là sortal classifiers (loại từ thứ loại). Denny [5;14] cho rằng, ‘loại từ’ (như ben trong san ben shu ‘ba cuốn sách’) “định tính” cho danh từ; ‘loại từ’ (như bag trong three bags of potatoes ‘ba túi khoai tây’) “định lượng” cho danh từ. Cái mà Denny cho là ‘loại từ’ làm nhiệm vụ lượng hóa danh từ chính là lượng từ. Sự nhầm lẫn trong sử dụng các khái niệm ‘loại từ’ và ‘lượng từ’ còn được phát hiện trong các ngôn ngữ khu vực Đông Nam Á. Để phân biệt ‘loại từ’ và ‘lượng từ’ trong tiếng Hán hiện đại, Tai & Wang [11] xác định: “Loại từ phạm trù hóa một lớp danh từ bằng cách chỉ ra một số đặc điểm nổi trội nhận thức được, dựa trên kết cấu hoặc chức năng, tồn tại cố hữu được định danh bởi lớp từ đó; lượng từ không phạm trù hóa mà lượng hóa thuộc tính được danh từ gọi tên”. Ji Huimin [10] đề xuất tiêu chí phân biệt ‘loại từ’ và ‘lượng từ’ như sau: Bảng 1. Tiêu chí phân biệt loại từ/lượng từ Tiêu chí Loại từ Lượng từ Chức năng cá thể hóa có có Chức năng phân loại có không Khả năng kết hợp (với) danh từ đếm được (với) DT khối và DT đếm được Khả năng tạo từ ít (tương đối) nhiều Ngữ nghĩa không/ít ý nghĩa từ vựng đầy đủ ý nghĩa từ vựng Từ pháp học hình vị hạn định hình vị độc lập Mở rộng bởi tính từ không được được Kết hợp với de không có 2.2.2. Ngữ pháp chức năng từ vựng (LFG) Her One-Soon dựa trên cơ sở lí thuyết Ngữ pháp chức năng từ vựng (Lexical Functional Grammar – LFG) để khảo sát loại từ (C) và lượng từ (M) trong kết cấu [Num C/M N] của tiếng Hán [9]. Kết cấu [Num C/M N] (Num: số từ, C: loại từ, M: lượng từ, N: danh từ) được các nhà nghiên cứu phân tách thành hai cấu trúc có sự tham gia của C/M như sau: Hình 4. Kết cấu loại từ và lượng từ Theo Her One-Soon, có thể vận dụng quan điểm toán học để xác định đặc điểm của loại từ và lượng từ. Trong lịch sử toán học Trung Quốc được ra đời từ khoảng 3000 năm trước, phép nhân là phép toán được cho là quan trọng nhất. Khi đọc các con số trong tiếng Hán, người ta áp dụng 86
  7. Quan điểm nghiên cứu về ‘loại từ’ và cách nhìn mới trong nghiên cứu loại từ tiếng Hán... quy tắc của phép nhân đơn giản: [n × số cơ sở] (n: số nhân; số cơ sở: số bị nhân) để giải thích ý nghĩa của chúng. Ví dụ: jiu-qian ‘9000’ = [jiu ‘9’× qian ‘1000’] liu-shi ‘60’ = [liu ‘6’ × shi ‘10’] Trong trật tự của kết cấu [Num C/M N], trong đó [Num C/M] có thể được coi như một thao tác của một phép nhân đơn giản [n × số cơ sở]. Tuy nhiên, số cơ sở C luôn có giá trị bằng 1, còn số cơ sở M luôn có giá trị khác 1 (6=1). Như vậy, M có giá trị bất định, trừ M đo lường chuẩn cố định (kilo, mét, lít...), giá trị của M có thể được biểu thị bằng chữ (tá = 12; đôi = 2; chục = 10) hoặc bằng các đơn vị chỉ lượng không xác định khác (bầy, đàn, nhóm...). Dưới đây là so sánh kết cấu có loại từ và lượng từ: Loại từ (C) Lượng từ (M) a. a. san wei laoshi ([3 × 1] teacher) liang da meigui ([2 × dozen (=12)] rose) ‘three teachers’ (‘ba vị giáo viên’) ‘two dozen roses’ (‘hai tá hoa hồng’) b. b. qi zhi laohu ([7 × 1] tiger) san shuang xie ([3 × pair (=2)] shoe) ‘seven tigers’ (‘bảy con hổ’) ‘three pairs of shoes’ (‘ba đôi giày’) c. c. shi ke xigua ([10 × 1] watermelon) yi qun yema ([1 × herd (n=?)] wild-horse) ‘one herd of wild horses’ (‘một bầy ngựa ‘ten watermelons’ (‘mười quả dưa hấu’) hoang’) d. d. ba liang qiche ([8 × 1] car) san zu xuesheng ([3 × group (n=?)] student) ‘three groups of students’ (‘ba nhóm sinh ‘eight cars’ (‘tám chiếc xe’) viên’) 3. Kết luận Có thể nói rằng, đến nay vấn đề ranh giới giữa loại từ và lượng từ đã được giải quyết phần nào. Những ngộ nhận và tranh cãi xung quanh thuật ngữ ‘loại từ’ trong suốt mấy thập kỉ qua cho thấy sự phức tạp của lớp từ này. Kết quả nghiên cứu vấn đề dưới ánh sáng của Ngữ pháp chức năng từ vựng (LFG) và Loại hình học (Typology) đã giúp khẳng định thêm những điểm chung trong các ngôn ngữ có loại từ, điển hình như tiếng Hán hiện đại, làm rõ ranh giới giữa loại từ và lượng từ. Đối với lớp từ nằm ở vị trí giữa số từ và danh từ được dán nhãn là ‘lượng từ’ đều xuất hiện trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Loại từ (loại từ số) chỉ có trong một số ngôn ngữ được cho là ngôn ngữ có loại từ (trong đó có tiếng Việt). Kết quả của nghiên cứu này đã đặt ra vấn đề: tiếng Hán và tiếng Việt cùng chung loại hình đơn lập, từ những nét tương đồng trong hai ngôn ngữ sẽ giúp giới Việt ngữ học khẳng định sự tồn tại của ‘loại từ’ và giải tỏa những ngộ nhận về lớp từ này trong các nghiên cứu trước đây. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Aikhenvald Alexandra Y., 2000. Classifiers: A typology of noun classification devices. New York: Oxford University Press. 87
  8. Đỗ Thị Kim Cương [2] Allan Keith, 1977. Classifiers. Language. Volume 53, Number 2. [3] Chao Yuen Ren, 1968. A Grammar of Spoken Chinese. Berkeley: University of California Press. [4] Craig Colette G. (ed.), 1986. Noun classes and categorization. Amsterdam/Phil.: John Benjamins. [5] Denny J., 1986. The Semantic Role of Noun Classifiers. In Noun Classes & Categorizations, ed. by Craig, 297-308. Amsterdam: John Benjamins. [6] Goral Donald, 1979. Numeral Classifier System: A Southeast Asian Cross-Linguistic Analysis. University of California, Berkeley Press. [7] Greenberg J., 1972. Numeral Classifiers and Substantival Number: Problems in the Genesis of a Linguistic Type. Working Papers on Language Universals, No. 9. [8] Grinevald Colette, 2002. Classifier System in the Context of a Typology of Nominal Classification. CNRS, Lyon 2. [9] Her One-Soon, 2012. Structure of Classifiers and Measure Words: A Lexical Functional Account. Language and Linguistics, 13/6 (1211-1251). [10] Ji Huimin, 2007. On the syntax of Chinese nominals. Ph.D. Dissertation, The University of Georgia. [11] Tai J. & Wang L., 1990. A Semantic Study of the Classifier TIAO. Journal of the Chinese Teachers Association. 25/30-56. ABSTRACT Perspectives on ‘Classifiers’ and New Approach to Classifier Research in Modern Chinese So far the distinction between the classifiers and measure words has partly been resolved. Myths and debates surrounding the term ‘classifier’ during the past few decades show the complexity of the issue. In light of the Lexical Functional Grammar (LFG) and Typology, the results of recent studies have helped clarify the universals of the classifier languages, typically of modern Chinese. For word classes distributed between numerals and nouns are labeled as ‘measure words’ appear in most of the languages of the world. Classifiers (numeral classifiers) are available only in some languages called as classifier languages (Vietnamese among others). The research findings ensure the ‘classifier’ availabilty in both Chinese and Vietnamese, the isolating languages; they are useful for further investigation for the nature of this class of words. Keyword Classifiers, numeral classifiers, classifier languages, modern Chinese. 88
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2