BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ĐINH THỊ THANH HÀ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 60.31.05

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Đà Nẵng - Năm 2015

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI QUANG BÌNH

Phản biện 1: TS. LÊ BẢO Phản biện 2: GS.TS. ĐỖ KIM CHUNG Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 10 tháng 01 năm 2015. Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng. - Thư viện Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với việc cải thiện môi trường sống, chất lượng cuộc

sống cho các đô thị, các cơ sở, nhà máy sản xuất đã được quy hoạch

tập trung vào những khu công nghiệp. Sản xuất tập trung có nhiều ưu

điểm và phù hợp với xu thế phát triển, nhưng cũng bộc lộ nhiều bất

cập, nhiều khó khăn trong công tác quản lý, nhất là khi việc xây

dựng hành lang pháp lý, hệ thống chính sách còn chưa theo kịp với

tốc độ phát triển của thực tế.

Trong các khu công nghiệp, hàng ngày, hàng giờ luôn có hàng

trăm ngàn người lao động tiến hành quá trình lao động sản xuất với

hàng chục ngàn máy móc thiết bị từ đơn giản đến những máy móc có

yêu cầu nghiêm ngặt về kỹ thuật an toàn. Trong khi đó, không phải

tất cả người lao động hay tất cả người sử dụng lao động đều ý thức

và chấp hành nghiêm những quy định về kỹ thuật an toàn, xây dựng

môi trường làm việc an toàn. Những vụ tai nạn lao động vẫn diễn ra,

có thể giảm về số lượng nhưng thiệt hại về người và tài sản lại có

nguy cơ tăng cao.

Vì tầm quan trọng của công tác ATVSLĐ đối với hoạt động

sản xuất và sức khỏe, tính mạng con người như vậy, và đây cũng là

nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức công đoàn nên tôi mong muốn

được nghiên cứu, phân tích kỹ hơn vai trò của quản lý Nhà nước

đối với công tác ATVSLĐ trong doanh nghiệp; từ đó đưa ra các

giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về ATVSLĐ

trong doanh nghiệp, với nội dung là: “Hoàn thiện công tác quản lý

Nhà nước về an toàn vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp trên

địa bàn các Khu công nghiệp Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu luận

2

văn thạc sĩ.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

- Làm rõ lý luận về quản lý Nhà nước về An toàn vệ sinh lao

động trong các doanh nghiệp.

- Đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước về ATVSLĐ

trong các doanh nghiệp trên địa bàn các Khu công nghiệp Đà Nẵng.

- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý

Nhà nước về ATVSLĐ trong doanh nghiệp.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật; công tác thanh tra, kiểm tra về ATVSLĐ của Sở Lao động,

Thương binh và Xã hội, của Ban quản lý các Khu công nghiệp Đà

Nẵng, của Trung tâm y tế dự phòng Thành phố Đà Nẵng và vai trò

của tổ chức công đoàn đối với công tác ATVSLĐ.

Đối tượng khảo sát là người sử dụng lao động, người lao động

và Công đoàn cơ sở ở một số doanh nghiệp trên địa bàn các Khu

công nghiệp Đà Nẵng.

Đề tài tiếp cận vấn đề từ nhiều 4 phía, gồm: các cơ quan quản

lý nhà nước của Thành phố Đà Nẵng, của địa bàn các Khu công

nghiệp, tổ chức công đoàn, người sử dụng lao động và người lao

động.

b. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: công tác quản lý Nhà nước về an toàn, vệ

sinh lao động tại các doanh nghiệp.

- Phạm vi không gian: trong các doanh nghiệp trên địa bàn các

Khu Công nghiệp Đà Nẵng với ngành nghề, quy mô lao động và chủ sở

3

hữu khác nhau.

- Phạm vi thời gian: trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013.

Định hướng đến năm 2020.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp quan sát: quan sát trực tiếp điều kiện làm việc,

môi trường làm việc trong một số doanh nghiệp.

- Phương pháp phân tích thống kê: phân tích các tài liệu, văn

bản về công tác ATVSLĐ của hệ thống văn bản pháp quy, tham

khảo thông tin trên mạng internet, các báo cáo chuyên ngành, các

công trình nghiên cứu và những tài liệu có liên quan.

- Phương pháp chuyên gia: Tham vấn ý kiến của các chuyên

gia, các ban, ngành chuyên sâu về công tác an toàn vệ sinh lao động.

5. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,

các phụ lục, đã kết cấu thành 3 chương

Chương 1. Cơ sở lý luận của công tác quản lý Nhà nước về an

toàn vệ sinh lao động trong doanh nghiệp

Chương 2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về an toàn

vệ sinh lao động trong doanh nghiệp trên địa bàn các khu công

nghiệp Đà Nẵng.

Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà

nước về an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp trên địa bàn

các khu công nghiệp Đà Nẵng.

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

4

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG

TRONG DOANH NGHIỆP

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG DOANH

NGHIỆP

1.1.1. Một số khái niệm

a. An toàn, vệ sinh lao động: là tổng thể các hoạt động đồng

bộ trên các mặt pháp luật, tổ chức quản lý, kinh tế xã hội, khoa học -

công nghệ nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều

kiện lao động, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

cho con người trong lao động

b. Điều kiện lao động: là tổng thể các yếu tố về tự nhiên, xã

hội, kinh tế, kỹ thuật được biểu hiện thông qua các công cụ và

phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ, môi

trường lao động và sự sắp xếp, bố trí chúng trong không gian và thời

gian, sự tác động qua lại của chúng trong mối quan hệ với người lao

động tại chỗ làm việc, tạo nên một điều kiện nhất định cho con người

trong quá trình lao động. Tình trạng tâm sinh lý của con người trong

khi lao động tại nơi làm việc được coi như một yếu tố gắn liền với

điều kiện lao động.

c. Môi trường lao động: là phạm vi không gian gắn với quá

trình lao động trong đó thể hiện đối tượng lao động, phương tiện, tổ

chức lao động và các yếu tố kinh tế, xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến

quá trình lao động.

5

d. Nguy cơ: là khả năng tiềm ẩn gây nên sự cố nguy hiểm

cho quá trình sản xuất, tác hại sức khỏe tính mạng của NLĐ trong

quá trình lao động.

e. Rủi ro: Tai nạn, bệnh tật, sự cố không mong đợi, ngoài ý

muốn đã xảy ra.

f. Yếu tố nguy hiểm là những yếu tố có nguy cơ làm chấn

thương hoặc chết người, gây tai nạn lao động.

g. Yếu tố có hại là những yếu tố có nguy cơ làm giảm sức

khỏe người lao động, gây bệnh nghề nghiệp.

h. Kỹ thuật an toàn là một hệ thống các biện pháp và phương

tiện về tổ chức và kỹ thuật nhằm bảo vệ người lao động khỏi tác

động của các yếu tố nguy hiểm gây tai nạn lao động.

i. Kỹ thuật vệ sinh: là hệ thống các biện pháp và phương tiện

về tổ chức, vệ sinh và kĩ thuật vệ sinh nhằm phòng ngừa sự tác động

của các yếu tố có hại trong lao động, sản xuất đối với người lao

động.

j. Tai nạn lao động: Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn

thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao

động, hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với

việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ lao động.

k. Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do tác động của điều

kiện lao động có hại, bất lợi (tiếng ồn, rung…) đối với người lao

động. Bệnh nghề nghiệp làm suy yếu dần sức khỏe hay làm ảnh

hưởng đến khả năng làm việc và sinh hoạt của người lao động.

l. Quản lý An toàn vệ sinh lao động: là sự tác động chỉ huy,

điều khiển, hướng dẫn các quá trình lao động sản xuất và hành vi lao

động của người lao động nhằm đạt được mục tiêu môi trường lao

6

động tốt, bảo đảm an toàn và sức khỏe cho người lao động, tạo cho

quá trình lao động sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả.

1.1.2. Nguyên tắc quản lý An toàn vệ sinh lao động

Đối với công tác quản lý ATVSLĐ có 5 nguyên tắc cơ bản

như sau:

a. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động là trách nhiệm của mọi

tổ chức, cá nhân liên quan đến lao động, sản xuất

b. Người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm về an

toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc trong quá trình sản xuất

kinh doanh:

c. Quản lý an toàn, vệ sinh lao động phải trên cơ sở quy

chuẩn kỹ thuật tương ứng, quy định do cơ quan quản lý nhà nước

có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do tổ chức, cá nhân công

bố áp dụng:

d. Quản lý an toàn, vệ sinh lao động phải được thực hiện

trong suốt quá trình lao động, sản xuất trên cơ sở phân tích, quản

lý nguy cơ, rủi ro về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:

e. Quản lý an toàn, vệ sinh lao động phải bảo đảm phân

công, phân cấp rõ ràng và có sự phối hợp liên ngành:

1.1.3. Ý nghĩa chính trị, kinh tế - xã hội của quản lý

ATVSLĐ

Đây là một chính sách lớn của Đảng với Nhà nước, mang lại

những lợi ích về kinh tế, chính trị và xã hội.

1.1.4. Tính chất của quản lý an toàn vệ sinh lao động

Có 3 tính chất chủ yếu là: Pháp lý, Khoa học kỹ thuật và tính

quần chúng. Chúng có liên quan mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau.

1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ QUẢN LÝ AN TOÀN, VỆ SINH

7

LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

1.2.1. Ban hành và quản lý thống nhất các quy định của

pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ban

hành, các cơ quan quản lý nhà nước về ATVSLĐ địa phương sẽ cụ

thể hóa các quy phạm đó và xây dựng các quy trình an toàn lao động

phù hợp với điều kiện sản xuất tại các doanh nghiệp.

Tiêu chí phản ánh

- Số văn bản hướng dẫn thực hiện quy định pháp luật về

ATVSLĐ

- Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp nhận và triển khai thực hiện các quy

định pháp luật về ATVSLĐ

1.2.2. Tổ chức tuyên truyền quy định của pháp luật về an

toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Cũng như mọi chính sách khác, muốn đi vào cuộc sống thì

công tác tuyên truyền là việc làm đầu tiên phải triển khai. Việc tiếp

thu, thực thi đến đâu tùy thuộc mức độ nhận thức và tính tự giác

chấp hành của người sử dụng lao động và người lao động.

Tiêu chí:

- Số lượng các đợt tuyên truyền về ATVSLĐ

- Tỷ lệ doanh nghiệp đã thực hiện tuyên truyền về ATVSLĐ

- Tỷ lệ lao động đã được tuyên truyền về ATVSLĐ.

1.2.3. Tổ chức đào tạo và tập huấn về quản lý an toàn, vệ

sinh lao động trong các doanh nghiệp

Tổ chức đào tạo tập huấn về quản lý ATVSLĐ có 2 nội dung

chính:

- Các quy định của pháp luật về ATVSLĐ

8

- Tổ chức quản lý công tác ATVSLĐ trong doanh nghiệp.

Tiêu chí:

- Số lượng các đợt tập huấn về ATVSLĐ cho các đối tượng

trên

- Tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia đào tạo về quản lý

ATVSLĐ

1.2.4. Tổ chức thanh, kiểm tra về thực hiện an toàn, vệ

sinh lao động tại các doanh nghiệp

Công tác thanh tra, kiểm tra về bảo hộ lao động ở nước ta

được thực hiện dưới các hình thức: Thanh tra Nhà nước, kiểm tra của

cấp trên với cấp dưới; tự kiểm tra của cơ sở và việc kiểm tra, giám

sát của tổ chức Công đoàn các cấp.

Tiêu chí:

Hàng năm, cơ quan quản lý Nhà nước phải nắm rõ số lượng

doanh nghiệp được thanh tra thường xuyên, đột xuất. Từ kết quả

thanh, kiểm tra phải đánh giá được tỷ lệ doanh nghiệp đủ điều kiện

và chấp hành tốt công tác ATVSLĐ/tổng số doanh nghiệp được

thanh kiểm tra; tỷ lệ doanh nghiệp không đủ điều kiện và không chấp

hành tốt công tác ATVSLĐ/tổng số doanh nghiệp được thanh kiểm

tra.

d. Vai trò của tổ chức công đoàn

Ngoài 3 chủ thể trên, pháp luật còn quy định vai trò của tổ

chức Công đoàn trong việc kiểm tra công tác ATVSLĐ, khoản 2

điều 22 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-BLĐTBXH-BYT (ngày

10/1/2011) nêu rõ: “Tổ chức đoàn kiểm tra độc lập của Công đoàn

hoặc tham gia các đoàn tự kiểm tra do các cơ sở lao động tổ chức”.

1.2.5. Điều tra, thống kê tai nạn lao động và bệnh nghề

9

nghiệp

Công tác điều tra, thống kê là hết sức quan trọng, nhằm mục

đích phân tích, xác định được các nguyên nhân tai nạn lao động,

nguyên nhân mắc bệnh nghề nghiệp, trên cơ sở đó để ra các biện

pháp phòng ngừa, ngăn chặn các trường hợp tai nạn tương tự tái

diễn, điều chỉnh tiêu chuẩn quy trình về ATVSLĐ, đồng thời để

phân rõ trách nhiệm đối với những người liên quan đến tai nạn.

Tiêu chí

- Số lượng doanh nghiệp thực hiện báo cáo thống kê theo quy

định

- Số liệu thống kê liên tục, phản ảnh rõ các tiêu chí ảnh hưởng

đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để tìm ra nguyên nhân.

- Tỷ lệ tăng/giảm các vụ tai nạn lao động, tỷ lệ lao động mắc

bệnh nghề trong các doanh nghiệp

1.2.6. Xử lý các vi phạm về an toàn, vệ sinh lao động

Hoạt động này là công việc cần thiết để bảo đảm tính hiệu lực

và hiệu quả của các quy phạm về ATVSLĐ. Chỉ có xử lý nghiêm

mới có tác dụng với cả doanh nghiệp và người lao động.

Tiêu chí:

- Số lượng và tỷ lệ xử lý số vụ vi phạm về ATLĐ của các DN

- Số lượng và tỷ lệ xử lý số vụ vi phạm về VSLĐ của các DN

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN LÝ AN TOÀN,

VỆ SINH LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP

1.3.1. Điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế xã

hội

1.3.2. Nhân tố người sử dụng lao động

1.3.3. Nhân tố người lao động tại doanh nghiệp

10

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG

2.1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN LÝ AN TOÀN,

VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA

BÀN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG

2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình KTXH của TP. Đà

Nẵng

a. Điều kiện tự nhiên

Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình,

nhiệt độ cao và ít biến động. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo

dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7. Nhiệt

độ trung bình hàng năm khoảng 25,9 °C; Độ ẩm không khí trung

bình là 83,4%.

b. Tình hình kinh tế xã hội

Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GDP, giá cố định 2010)

giai đoạn 2003-2013 ước tăng 11,5%/năm; GDP bình quân đầu

người năm 2013 ước đạt 55,98 triệu đồng (2.650 USD), gấp 5,4

lần năm 2003 và bằng 1,6 lần cả nước.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng từ “Công

nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp” sang “Dịch vụ - Công nghiệp -

Nông nghiệp” vào năm 2008, trước 2 năm so với mục tiêu Nghị

quyết số 33-NQ/TW, với tỷ trọng GDP dịch vụ (giá hiện hành) tăng

từ 48% năm 2003 lên 53,5% năm 2013, công nghiệp - xây dựng

giảm từ 45,6% xuống 43,8% và nông nghiệp giảm từ 6,4% xuống

11

2,7%.

c. Các khu công nghiệp Đà Nẵng

Đà Nẵng hiện có 6 khu công nghiệp, được bố trí quanh Thành

phố, có 3 KCN lớn nhất là KCN Hòa Khánh, KCN Hòa Khánh mở

rộng và KCN Liên Chiểu thuộc địa bàn quận Liên Chiểu; KCN Hòa

Cầm thuộc địa bàn quận Cẩm Lệ và KCN Đà Nẵng (thường gọi là

KCN An Đồn) với KCN Dịch vụ thủy sản Đà Nẵng thuộc địa bàn

quận Sơn Trà. Các khu công nghiệp cách trung tâm thành phố không

quá 15 km, đều nằm trên những trục đường giao thông chính, thuận

lợi cho việc vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, đường thủy và

đường hàng không.

2.1.2. Doanh nghiệp, người sử dụng lao động

Thực tế trong 3 năm trở lại đây, các doanh nghiệp trong các

KCN Đà Nẵng đã cố gắng hoàn thiện môi trường làm việc, trang bị

các máy móc thiết bị đảm bảo ATVSLĐ theo quy định pháp luật

nhưng vẫn còn nhiều trường hợp sản xuất khó khăn, nguồn vốn ít,

quy mô nhỏ nên không thể cải thiện được.

Hầu hết các doanh nghiệp có bố trí người phụ trách nhưng số

cán bộ làm công tác ATVSLĐ được đào tạo chuyên sâu BHLĐ rất ít,

chủ yếu chọn người ở bộ phận cơ điện, kỹ thuật để kiêm nhiệm

thêm.

2.1.3. Người lao động tại các doanh nghiệp

Hiện nay, tổng số lao động của 06 KCN là 72.074 lao động,

trong đó nữ: 50.451 lao động (chiếm 70%); số lao động làm việc

trong doanh nghiệp FDI là 38.024 (chiếm 52,75%). Có thể nhìn vào

tuổi đời, tuổi nghề, trình độ chuyên môn, đặc điểm vùng miền để

đánh giá chất lượng nguồn lao động cũng như đánh giá sự tác động

12

đến công tác quản lý ATVSLĐ như thế nào. Thực trạng hiện nay là

hầu hết các doanh nghiệp tuyển dụng dưới 35 tuổi để khai thác sức

lao động nên tuổi đời bình quân lao động chỉ từ 28 – 30 tuổi. Tỷ lệ

lao động xuất thân từ nông thôn chiếm hơn 40% (lao động nông thôn

của các tỉnh lân cận là chủ yếu) nên thói quen tự do, tự phát trong lao

động, tư tưởng chủ quan lơ là với các quy trình an toàn đã ảnh hưởng

nhiều đến hiệu quả công tác ATVSLĐ.

2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

AN TOÀN VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG

2.2.1. Việc ban hành các quy định của pháp luật về an

toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Từ những văn bản, chủ trương của Đảng, của Chính phủ,

thành phố Đà Nẵng đã ban hành những chương trình, kế hoạch cụ

thể về công tác ATVSLĐ trên địa bàn, như Kế hoạch số 30-KH/TU

ngày 11/2/2014 của Thành ủy về “Triển khai thực hiện Chỉ thị 29-

CT/TW ngày 18/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy

mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Kế hoạch số

4939/KH-UBND ngày 10/6/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố

về “Đẩy mạnh công tác an toàn – vệ sinh lao động trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”; Quyết định số 10900/QĐ-

UBND ngày 21/12/2011 của UBND Thành phố “Phê duyệt chương

trình quốc gia về an toàn – vệ sinh lao động trên địa bàn thành phố

Đà Nẵng giai đoạn 2011 – 2015”; sở LĐTBXH đã có kế hoạch số

53/KH-SLĐTBXH ngày 4/10/2011 “Triển khai chương trình quốc

13

gia về an toàn – vệ sinh lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

giai đoạn 2011-2015”.

2.2.2. Tổ chức tuyên truyền quy định của pháp luật về an

toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Trên địa bàn Thành phố, 3 năm gần đây, Thành phố đã chọn

khu công nghiệp Hòa Khánh là địa điểm tổ chức mittinh nhân Tuần

lễ quốc gia về ATVSLĐ-PCCN... Ngoài chương trình thời sự, trong

các chuyên mục “Hộp thư truyền hình”, “Tìm hiểu pháp luật”,

“Tiếp chuyện bạn nghe Đài”, chuyên trang “Vấn đề hôm nay” đều

tập trung vào chủ đề an toàn lao động, phòng chống cháy nổ. Sở Văn

hoá - Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo phòng Văn hoá – Thể thao các

quận, huyện treo hàng ngàn băng rôn, khẩu hiệu, panô và phướn

tuyên truyền về ATVSLĐ-PCCN trên các đường phố chính, trong

các khu công nghiệp và các khu đông dân cư. Sở LĐTBXH, Sở Y tế,

Liên đoàn Lao động thành phố phối hợp với các đơn vị, doanh

nghiệp phát hành 5.500 – 6.000 tờ rơi, áp phích, tài liệu mỗi năm

cung cấp đến người sử dụng lao động và người lao động tại các

doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh. Sở Y tế đã chủ trì phối

hợp với các cơ quan chức năng và các doanh nghiệp tổ chức tọa đàm

“Chăm sóc sức khoẻ cho người lao động”. Phòng Cảnh sát PCCC

Thành phố tổ chức tuyên truyền lưu động hàng chục lượt mỗi năm

tại các địa bàn dân cư và trong khu công nghiệp.

2.2.3. Thực trạng tổ chức đào tạo và tập huấn về an toàn

vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Tất cả lao động mới được tuyển dụng vào đều tham gia lớp tập

huấn cơ bản những nội dung cơ bản của công tác ATVSLĐ do doanh

nghiệp tổ chức. Theo số liệu báo cáo của các doanh nghiệp đóng trên

14

địa bàn thành phố, mỗi năm có khoảng gần 40.000 người lao động

được huấn luyện về bảo hộ lao động, có khoảng 15.000 người được

huấn luyện lại, trong đó tỷ lệ người lao động trong các khu công

nghiệp chiếm hơn 60%.

Sở Cảnh sát PCCC cũng có kế hoạch huấn luyện nghiệp vụ

cho các doanh nghiệp; phối hợp tổ chức hàng chục cuộc thao diễn kỹ

thuật an toàn và phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn tại các đơn vị,

doanh nghiệp dễ xảy ra sự cố cháy, nổ trên toàn địa bàn thành phố

với hàng ngàn người tham gia.

Với trách nhiệm của mình, định kỳ hàng năm, những doanh

nghiệp lớn – với sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước - đều bố

trí những cán bộ quản lý của doanh nghiệp (nhóm 1), cán bộ phụ

trách ATVSLĐ (nhóm 2), NLĐ làm công việc có yêu cầu nghiêm

ngặt về ATLĐ (nhóm 3) tham gia khóa huấn luyện định kỳ dài ngày

hơn, chuyên sâu hơn. Đối với những doanh nghiệp nhỏ không đủ

điều kiện tổ chức lớp thì cử người tham dự các khóa đào tạo tập

trung do Sở LĐTBXH tổ chức.

Công đoàn cũng tham gia vào công tác huấn luyện ATVSLĐ

bằng việc tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ công đoàn và mạng

lưới an toàn vệ sinh viên tại cơ sở, với bình quân mỗi lớp có 35 – 40

người tham dự.

2.2.4. Tổ chức thanh kiểm tra về thực hiện an toàn, vệ sinh

lao động trong các doanh nghiệp

Hàng năm, Sở LĐTBXH có kế hoạch thanh kiểm tra liên

ngành hoặc chuyên ngành ATVSLĐ ở các doanh nghiệp, nhưng

nhân lực mỏng nên chỉ tập trung ở những doanh nghiệp đông lao

động và thường kết hợp thanh kiểm tra nhiều nội dung cùng lúc. Từ

15

năm 2011 đến nay, không chỉ các cuộc thanh kiểm tra định kỳ của sở

LĐTBXH được tăng thêm mà đã có sự tăng cường kiểm tra đối với

các doanh nghiệp trong các KCN, điều này cho thấy sự quan tâm và

cố gắng của cơ quan quản lý nhà nước đối với khu vực phức tạp và

thiếu ổn định này.

Qua kiểm tra cũng nhận thấy một hạn chế là việc thực hiện tự

kiểm tra định kỳ của doanh nghiệp chủ yếu khoán cho cán bộ

ATVSLĐ và không lưu hồ sơ bài bản; rất ít đơn vị tổ chức được việc

phối hợp giữa chính quyền và Công đoàn cơ sở để kiểm tra theo

chuyên đề như: Hệ thống điện, máy thiết bị và môi trường lao

động… từ đó góp phần ngăn ngừa tai nạn lao động, sự cố cháy nổ và

cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động.

Ngoài ra nội dung thanh kiểm tra chủ yếu là kiểm tra trên hồ

sơ sổ sách và một số trang thiết bị thông thường, chưa có điều kiện

kiểm tra kỹ tính năng sử dụng hoặc khó kiểm tra được quy trình thực

hiện có đúng với quy định hay không, nên nhiều doanh nghiệp tìm

cách đối phó với ngành chức năng bằng hệ thống hồ sơ sổ sách bài

bản, logic.

2.2.5. Thực trạng công tác điều tra, thống kê tai nạn lao

động và bệnh nghề nghiệp

Công tác điều tra và thống kê tai nạn lao động đã được thực

hiện thường xuyên và được doanh nghiệp chấp hành và tham gia. Tuy

nhiên, công tác thống kê báo cáo vẫn còn phụ thuộc doanh nghiệp chứ

không có sự kiểm tra, đánh giá của cơ quan quản lý Nhà nước; Những

doanh nghiệp quy mô nhỏ ít quan tâm thực hiện chế độ báo cáo theo

định kỳ so với những doanh nghiệp lớn.

2.2.6. Tình hình xử lý các vi phạm về an toàn, vệ sinh lao

16

động

Những vụ việc vi phạm quy định về an toàn vệ sinh lao động

đều bị xử phạt hành chính, nhưng mức phạt thấp, chỉ 50 – 60 triệu

đồng, nhỏ hơn nhiều so với chi phí phải bỏ ra nên doanh nghiệp chấp

nhận phạt. Số vụ tai nạn lao động chết người vẫn xảy ra nhưng chưa

có vụ việc nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đa số gia đình nạn

nhân và doanh nghiệp tự thương lượng bồi thường để nhanh chóng

khép lại vụ việc.

Do mức phạt còn quá nhẹ so với chi phí đầu tư thì mới chỉ đủ

để cảnh cáo những doanh nghiệp nhỏ; còn với các doanh nghiệp lớn

lại quá nhẹ, chưa đủ răn đe. Vì vậy, nhiều chủ doanh nghiệp dù biết

mình đã vi phạm các quy định về an toàn lao động nhưng vẫn chấp

nhận đi nộp phạt chứ không chịu đầu tư kinh phí để đổi mới trang

thiết bị, máy móc và thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao

động theo đúng quy định pháp luật.

Quan điểm của cơ quan Nhà nước là việc thanh kiểm tra chủ

yếu để hướng dẫn, nhắc nhở doanh nghiệp là chính, chỉ áp dụng xử

phạt nếu doanh nghiệp không có hướng khắc phục và tái diễn nhiều

lần. Nhưng với doanh nghiệp, “thông lệ” này dễ gây cảm giác “nhờn

luật” và làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ AN TOÀN VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG DOANH

NGHIỆP TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG

2.3.1. Kết quả đạt được của quản lý Nhà nước về ATVSLĐ

trong doanh nghiệp trên địa bàn các KCN Đà Nẵng

Nổi bật là công tác tuyên truyền với việc tổ chức có hiệu quả

Tuần lễ Quốc gia về ATVSLĐ – PCCN, thu hút sự tham gia của

17

đông đảo doanh nghiệp, sự vào cuộc của các cơ quan thông tấn báo

chí trung ương và địa phương, sự phối hợp chặt chẽ của tổ chức công

đoàn trong việc đưa thông tin tuyên truyền đến người lao động. Công

tác thanh kiểm tra cũng được tiến hành thường xuyên kịp thời hơn.

Số lượng doanh nghiệp có xây dựng kế hoạch bảo hộ lao động

hàng năm, tổ chức huấn luyện đào tạo cho lao động mới tuyển dụng

đầy đủ, tổ chức diễn tập PCCN, diễn tập sơ cấp cứu, thoát hiểm định

kỳ... tăng đều qua các năm như phân tích ở trên cho thấy ý thức chấp

hành của NSDLĐ đã có chuyển biến tích cực. Số vụ tai nạn lao động

trong các KCN tuy chiếm đa số tổng số vụ tai nạn của toàn thành

phố nhưng chủ yếu là tai nạn gây thương vong nhẹ.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của quản lý

Nhà nước về ATVSLĐ trong doanh nghiệp trên địa bàn các

KCN Đà Nẵng

- An toàn, vệ sinh lao động là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp,

nhưng được giao cho phòng Việc làm – ATLĐ của Sở LĐTBXH với

biên chế chỉ 2 -3 người, vì thế chỉ có thể triển khai đến doanh nghiệp

thông qua hệ thống văn bản hướng dẫn.

- Công tác huấn luyện của doanh nghiệp hoàn toàn do doanh

nghiệp chủ động, cơ quan chức năng không kiểm soát được.

- Doanh nghiệp vẫn chú trọng đến lợi nhuận hơn những mục

tiêu khác, vì thế đòi hỏi quản lý Nhà nước phải kiểm soát được

doanh nghiệp thực hiện đến đâu.

- Trên địa bàn các KCN, với số lượng lao động chiếm gần

50% tổng số lao động toàn thành phố, Ban quản lý các KCN được

xem là cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn, là nơi cấp phép đầu

tư, cấp phép cho lao động nước ngoài, kiểm soát tác động môi

18

trường của các dự án đầu tư, theo dõi tình hình sử dụng lao động

nhưng lại không được phân cấp quản lý Nhà nước về công tác

ATVSLĐ, không có chức năng thanh tra lao động. Trong khi đó sở

LĐTBXH có thẩm quyền lại không thể kiểm soát hết địa bàn toàn

thành phố, chỉ khi nào xảy ra sự cố thì cơ quan chức năng mới tìm

đến; vì thế có thể nói công tác quản lý Nhà nước về ATVSLĐ trong

các KCN vẫn còn bị bỏ ngỏ và gần như khoán cho doanh nghiệp.

- Mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm về ATVSLĐ còn

quá thấp so với chi phí phải bỏ ra, chưa có biện pháp mạnh hơn như

thu hồi giấy phép đầu tư hoặc khởi tố khi để xảy ra chết người, nên

chưa đủ sức răn đe doanh nghiệp.

19

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG

TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG

3.1. CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO VIỆC ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP

3.1.1. Căn cứ pháp lý

3.1.2. Định hướng để hoàn thiện công tác quản lý Nhà

nước về an toàn vệ sinh lao động trong doanh nghiệp

3.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác an

toàn vệ sinh lao động

3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG

DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

ĐÀ NẴNG

3.2.1. Cải tiến việc ban hành và quản lý thống nhất các quy

định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh

nghiệp

Cần hết sức coi trọng công tác quản lý và tổ chức thực hiện

công tác ATVSLĐ ở doanh nghiệp. Cần xây dựng bộ máy tổ chức,

quản lý công tác ATVSLĐ ở các đơn vị cơ sở theo nguyên tắc nêu

cao trách nhiệm, nghĩa vụ của NSDLĐ, người quản lý, vừa có sự

phân công, phân cấp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ để huy động

sự tham gia của các đoàn thể, các đơn vị chức năng và của NLĐ

trong cơ sở vào hoạt động ATVSLĐ, bảo đảm thực hiện đồng bộ các

hoạt động trong chu trình quản lý ATVSLĐ ở cơ sở.

20

Cần có cơ chế để bảo đảm sự tham gia của các ngành, địa

phương, cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội vào hoạt

động ATVSLĐ. Cần xây dựng và ban hành qui định cụ thể về quyền,

nghĩa vụ và trách nhiệm, các phương thức hoạt động trong ATVSLĐ

của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội trong quá trình thực

hiện xã hội hóa ATVSLĐ.

Xã hội hóa công tác ATVSLĐ là giải pháp cần nghiên cứu vì

xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ, chuyển giao bớt trách nhiệm

của Nhà nước về ATVSLĐ cho xã hội, mà trái lại càng phải đề cao,

tăng cường hơn nữa trách nhiệm quản lý của Nhà nước.

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an toàn lao

động, vệ sinh lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về an toàn lao

động, vệ sinh lao động phù hợp với các quy định, công ước quốc tế

mà Việt Nam tham gia. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý theo

hướng thống nhất, tập trung, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, khắc

phục triệt để tình trạng phân tán, chồng chéo trong quản lý nhà nước.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao

động phù hợp với các quy định, công ước quốc tế mà Việt Nam tham

gia, trong đó chú ý đến quyền lao động, đến điều kiện lao động.

3.2.2. Tổ chức tốt việc tuyên truyền quy định của pháp luật

về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Nên áp dụng nhiều hình thức, phương pháp và phương tiện

phong phú, có hiệu quả để tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền,

huấn luyện, phổ biến kiến thức. Cơ quan quản lý Nhà nước cần tập

trung vào việc ban hành các qui định, các yêu cầu và xây dựng

chương trình khung về huấn luyện, còn việc biên soạn tài liệu, tổ

chức các lớp huấn luyện nên giao cho các cơ quan chuyên môn, các

21

tổ chức xã hội.

Cần xây dựng một đội ngũ chuyên gia giỏi, các thầy giáo có

trình độ để làm nhiệm vụ giảng dạy, huấn luyện ATVSLĐ.

Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về công tác

bảo hộ lao động với nhiều hình thức, nội dung phong phú cho cán bộ

quản lý, công nhân lao động.

Công đoàn cơ sở tuyên truyền hướng dẫn luật pháp và các

chính sách chế độ BHLĐ cho NLĐ. Các hình thức: cung cấp tài liệu,

tờ rơi, tranh , tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ , xây dựng góc tuyên

truyền về BHLĐ.

3.2.3. Tổ chức tốt việc đào tạo và tập huấn về quản lý an

toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp

Có chính sách thu hút, ưu đãi trong tuyển sinh và đào tạo

nguồn nhân lực làm công tác ATVSLĐ ngay từ bậc cao đẳng, đại

học.

Trong doanh nghiệp, bên cạnh công tác huấn luyện về

ATVSLĐ cho những đội, nhóm nòng cốt, cần chú ý đào tạo, tập

huấn cho tất cả người lao động theo 3 hình thức: tập huấn ban đầu,

tập huấn định kỳ và tập huấn lại khi chuyển công việc.

Tổ chức công đoàn cần phát huy vai trò chủ động tham mưu

đầu tư cải tạo môi trường làm việc, giám sát việc thực hiện các

quy định, chế độ về ATVSLĐ theo quy định của pháp luật.

Công đoàn phải đào tạo những giảng viên kiêm chức chuyên

về công tác ATVSLĐ để đẩy mạnh công tác tập huấn, đào tạo cho

cán bộ công đoàn.

3.2.4. Tổ chức tốt thanh kiểm tra về thực hiện an toàn, vệ

sinh lao động tại các doanh nghiệp

22

Với các doanh nghiệp, cần thường xuyên tự kiểm tra đánh giá

chất lượng môi trường lao động, kết quả đo đạc chất lượng môi

trường.

Các sở, ban ngành, ban quản lý khu công nghiệp và các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất kiểm tra và tái đầu tư trang thiết bị bảo hộ lao

động, cải thiện điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động.

Trong khi việc kiểm tra, quản lý của các ngành chức năng còn

hạn chế, sự quyết tâm của chủ doanh nghiệp trong công tác đảm bảo

an toàn - vệ sinh lao động ở nhiều doanh nghiệp còn kém hiệu quả,

thì chính những người lao động cần phải biết tự bảo vệ mình khỏi

những nguy cơ tai nạn.

Cần thành lập lực lượng thanh tra chuyên ngành ATVSLĐ,

không nên gộp chung vào thanh tra lao động như hiện nay.

3.2.5. Xử lý các vi phạm về an toàn, vệ sinh lao động

Tham gia điều tra xử lý các vụ tai nạn lao động

Khi xảy ra TNLĐ, người sử dụng lao động phải tổ chức điều

tra điều tra lập biên bản, có sự tham gia của đại diện Ban Chấp hành

công đoàn cơ sở hoặc Ban Chấp hành công đoàn lâm thời.

Phải lưu giữ hồ sơ TNLĐ tới lúc người lao động về hưu; nếu

là TNLĐ chết người thì hồ sơ phải lưu giữ tới 15 năm.

Xây dựng quỹ dự phòng tai nạn lao động

Tăng mức xử phạt và có thời hạn nhất định cho việc khắc phục

các sai phạm trong an toàn lao động, tái kiểm tra và đề nghị cho

ngưng sản xuất tạm thời nếu doanh nghiệp tiếp tục vi phạm các quy

định về an toàn lao động.

Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tình hình an toàn

lao động, vệ sinh lao động.

23

3.2.6. Xử lý các vi phạm về an toàn, vệ sinh lao động

Tăng mức xử phạt và có thời hạn nhất định cho việc khắc phục

các sai phạm trong an toàn lao động, tái kiểm tra và đề nghị Uỷ ban

nhân dân tỉnh cho ngưng sản xuất tạm thời nếu doanh nghiệp tiếp tục

vi phạm các quy định về an toàn lao động để xảy ra tai nạn lao động

làm chết người.

Có cơ chế khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân làm tốt;

có chế tài xử phạt nghiêm các vi phạm pháp luật về an toàn lao động,

vệ sinh lao động. Xây dựng hệ thống thông tin theo dõi, hình thành

hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tình hình an toàn lao động, vệ

sinh lao động. Nâng cao hiệu quả hoạt động, sự phối hợp giữa các

bộ, ngành, địa phương, tổ chức công đoàn, các chủ doanh nghiệp,

người quản lý trong việc thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao

động; công tác giám định và thực hiện các chính sách khắc phục hậu

quả tai nạn lao động. Phát động phong trào công nhân xây dựng văn

hóa an toàn lao động tại nơi làm việc.

24

KẾT LUẬN

Trong nền kinh tế thị trường, muốn duy trì và phát triển sản

xuất, muốn cạnh tranh thì phải đảm bảo ATVSLĐ, bởi nó ảnh hưởng

trực tiếp đến năng suất, chất lượng, hiệu quả.

Thực hiện tốt an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) có ý nghĩa

bảo đảm sức khỏe và tính mạng của người lao động, góp phần quan

trọng vào việc phát triển sản xuất và đời sống xã hội. Đây là hoạt

động mang ý nghĩa rộng lớn gắn với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, gắn bảo hộ lao động với bảo vệ môi trường và văn hóa trong

sản xuất.

Quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy rõ hơn những vấn đề lý

luận và thực tiễn của công tác quản lý Nhà nước về ATVSLĐ, nhận

thức rõ hơn vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong công

tác tuyên truyền, vận động người lao động chủ động, tự giác thực

hiện và giám sát thực hiện của doanh nghiệp; qua đó đánh giá đúng

thực trạng quá trình triển khai thực hiện của các doanh nghiệp ở

Khu công nghiệp Đà Nẵng trong những năm qua, tìm ra nguyên

nhân, những hạn chế; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm

hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về ATVSLĐ trong doanh

nghiệp. Những kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ góp

phần hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về ATVSLĐ trong

doanh nghiệp trên địa bàn các Khu công nghiệp Đà Nẵng ngày càng

hiệu quả hơn; góp phần xây dựng Thành phố Đà Nẵng – một thành

phố Môi trường, thành phố đáng để sống!