BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LƯƠNG HỮU NAM
ĐẮK LẮK - NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý
công với đề tài “Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là công trình do học viên tự
nghiên cứu. Các thông tin, số liệu được sử dụng có nguồn gốc rõ ràng, việc trích
dẫn được thực hiện đúng theo quy định.
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2023
Học viên
Nguyễn Thị Hồng Bích
LỜI CẢM ƠN
Sau một quá trình nghiên cứu, học viên đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công với đề tài “Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”. Đây là thành quả của 02 năm học tập tại Phân viện khu vực Tây Nguyên - Học viện Hành chính Quốc gia.
Học viên xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo, quý lãnh đạo Học viện đã giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để học viên hoàn thành luận văn tốt nghiệp đúng thời gian, tiến độ và chất lượng. Đặc biệt trong suốt thời gian thực hiện luận văn, học viên đã nhận được sự hướng dẫn trực tiếp, tận tình với tinh thần trách nhiệm cao của thầy TS. Lương Hữu Nam, Trưởng Khoa Xây dựng Đảng, Trường Chính trị tỉnh. Học viên xin gửi lời tri ân và lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy.
Để hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp với đề tài “Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”, học viên xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk, Phòng Quản lý Văn hóa, Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Đoàn Ca múa dân tộc Đắk Lắk đã tạo điều kiện cung cấp tài liệu, thông tin để luận văn đảm bảo những cơ sở lý luận và thực tiễn.
Mặc dù học viên đã nỗ lực, cố gắng để hoàn thành luận văn, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy cô giáo, quý bạn đọc thông cảm.
Xin trân trọng cảm ơn!
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2023
Học viên
Nguyễn Thị Hồng Bích
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................................................................ 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................................................ 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................................... 9 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................................................................................. 10 7. Bố cục luận văn ........................................................................................................................................................ 10 Chương 1 ........................................................................................................................................... 12 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ............................................................ 12 VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG ......................... 12 1.1. Những khái niệm cơ bản .................................................................................................................................... 12 Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...) ........................................................... 16 1.2. Nội dung, phương thức quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá .................................... 16 1.3. Cồng chiêng và giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................... 26 1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................................................................... 32 Chương 2 ........................................................................................................................................... 39 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ .......................................................... 39 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .......................................................................................... 39 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cộng đồng dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ........................................................................................................................................................................................... 39 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay................................................................................................................................... 43 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................................................................... 70 Chương 3 ........................................................................................................................................... 78 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .......................................................... 78 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .............................. 78 3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................................................................... 78 3.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .............................. 81 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp .......................................................................................................... 92 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 96
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT GIẢI NGHĨA
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn UNESCO
hóa của Liên hiệp quốc)
UBMTTQ Uỷ ban mặt trận Tổ quốc
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm ở vị trí trung tâm vùng Tây Nguyên, tỉnh Đắk Lắk là nơi hội tụ của
49/54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nền văn hóa của các dân
tộc nơi đây rất đa dạng, nhiều sắc màu. Ngoài những nét văn hóa đặc sắc của
các dân tộc Êđê, M’nông, Gia Rai còn có sự hiện diện văn hóa của các dân tộc
Tày, Nùng, Mông, Dao, Hoa… đến từ các tỉnh vùng Tây Bắc, Trung bộ, Tây
Nam bộ. Với sự đa dạng và hòa nhập văn hóa các dân tộc tạo nên một bản sắc
riêng cho Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung.
Trong số các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, dân tộc Êđê là
dân tộc chiếm đa số và có nền văn hóa ảnh hưởng nhất định, tạo nên bản sắc văn
hóa dân tộc của tỉnh nhà. Dân tộc Êđê có tên gọi khác là Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay
Rhađê), Ê-đê, Êgar, Ðê; là một trong số các dân tộc cư trú lâu đời trên địa bàn
tỉnh, có dân số đông thứ hai sau dân tộc Kinh. Xã hội Êđê là xã hội mẫu quyền
điển hình nhất ở Tây Nguyên. Văn hóa truyền thống của người Êđê mang đậm
tính mẫu hệ: Chủ bến nước là một người phụ nữ đứng đầu dòng họ; ngôi nhà sàn
dài do người bà hoặc mẹ cai quản; người phụ nữ trong gia đình, trong dòng họ đều
được mời uống rượu trước trong tất cả mọi nghi lễ. Các cô gái Êđê đến tuổi trưởng
thành thường chủ động đi tìm bạn đời. Sau lễ cưới chàng trai về ở bên nhà vợ.
Con cái sinh ra lấy họ mẹ. Người con gái út trong gia đình được quyền thừa kế tài
sản… Đây là một trong những nét đặc sắc quý báu của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên nói chung và đồng bào Êđê nói riêng. Với đồng bào các dân tộc Êđê, cồng
chiêng là báu vật, thứ báu vật gắn chặt với lịch sử của cả một đời người. Tiếng
chiêng như sợi dây tâm linh nối kết con người với các đấng siêu nhiên, giúp con
người bày tỏ niềm mong ước của bản thân cũng như của cộng đồng với thần linh.
Cồng chiêng không chỉ có sức hấp dẫn đặc biệt ở sự đa dạng độc đáo bởi kỹ thuật
1
diễn tấu mà còn là biểu tượng cho đời sống các tộc người; là nhân tố gắn kết giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai của cộng đồng.
Trong những năm qua, cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế - xã hội,
công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc đặc biệt là văn hóa cồng chiêng
của người Êđê luôn được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh quan tâm và đã chỉ đạo
các ngành, các cấp phối hợp triển khai thực hiện nhiều đề án về bảo tồn, phát triển;
công tác nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc trong đó có văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê, tuyên truyền
phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến với người
dân, thông qua đó, bước đầu đã có nhiều chuyển biến tích cực trong nhận thức và
hành động, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ bảo tồn văn hóa các dân tộc gắn với phát
triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, không gian văn hóa cồng chiêng ở
Đắk Lắk nói riêng, Tây Nguyên nói chung đang đứng trước khó khăn, thách
thức, do quá trình chuyển biến về kinh tế, xã hội, tín ngưỡng, đã và đang làm
thay đổi mạnh mẽ cuộc sống cộng đồng các dân tộc trong tỉnh. Công tác tuyên
truyền về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên có lúc, có
nơi chưa thường xuyên, kịp thời; ý thức, trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ và phát huy
di sản văn hóa cồng chiêng của một bộ phận nhân dân chưa cao; nhiều nơi cồng
chiêng không còn mang ý nghĩa linh thiêng mà trở thành vật buôn bán, trao đổi,
nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời thì cồng chiêng đang dần bị lãng quên
trong đời sống văn hóa của đồng bào. Mặt khác, trong quá trình bảo tồn các giá
trị văn hóa người Êđê, hệ thống chính quyền cấp cơ sở chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống. Vấn đề đáng lo ngại ở Đắk Lắk hiện nay là tác động của mặt trái
nền kinh tế thị trường, của văn hóa và lối sống hiện đại nên các lễ hội truyền
thống, không gian văn hóa cồng chiêng, không gian nhà dài, không gian bến
2
nước, không gian nương rẫy, không gian rừng của đồng bào các dân tộc thiểu số
đang thay đổi nhanh chóng, có nguy cơ mất dần. Sự phát triển của các loại hình
văn hóa hiện đại, truyền thông đa phương tiện, mạng xã hội đã ảnh hưởng không
nhỏ đến văn hóa truyền thống, ngày càng có nhiều thanh, thiếu niên dân tộc thiểu
số không quan tâm đến văn hóa truyền thống của dân tộc mình...Nhiều loại hình
sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ đang bị
mai một. Lễ hội cồng chiêng, văn hóa sử thi, dân ca - dân vũ ngày một ít đi trong
các dịp lễ hội. Do đó, vấn đề bảo tồn nguyên trạng và phát huy giá trị văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên nói chung, của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
nói riêng đã và đang đặt ra nhiều thách thức trong giai đoạn hiện nay, vì vậy
quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Êđê là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước
về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý công. Qua
đó, góp phần vào việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của văn hóa
cồng chiêng và đặc biệt đề xuất những giải pháp quản lý nhà nước để bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ vị trí chiến lược quan trọng của Tây Nguyên, nơi sinh sống
của nhiều dân tộc ít người nên có khá nhiều các học giả quan tâm, nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau. Đồng thời bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là
vấn đề cấp thiết trong toàn xã hội. Đây cũng là một trong những chức năng vô
cùng quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước cấp địa phương đến trung
ương, đặc biệt là vấn đề quản lý nhà nước về di sản văn hóa các dân tộc. Do vậy
có nhiều công trình nghiên cứu, tham luận và các bài báo viết về vấn đề này như:
2.1. Các công trình liên quan đến cồng chiêng và bảo tồn, phát huy giá
3
trị văn hoá cồng chiêng
- Hội Văn học nghệ thuật Đắk Lắk (2022), Văn hóa dân gian Tây Nguyên
– một cách nhìn [17]. Cuốn sách đã đưa ra cách nhìn riêng về văn hóa Tây
Nguyên với bản sắc độc đáo vốn có trong tự thân nó, nằm trong vùng không gian
địa lý Á Đông nên cần nhìn nhận trên mặt bằng văn hóa phương Đông, với triết
lý phương Đông. Phải chăng đó là cách nhìn nhận bằng “Nhân cách luận cộng
đồng” luôn luôn bắt buộc phải chuyển đổi để giữ lại những gì tinh túy và hợp
với đương đại. Nó khác hẳn với văn hóa phương Tây “cá nhân luận kinh tế”.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk (2007), Tập san chuyên đề “Festival
văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên” [2]. Mục đích nhằm tuyên truyền, nâng cao
nhận thức cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh hiểu rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa
của văn hóa Cồng chiêng – di sản văn hóa truyền khẩu và phi vật thể của nhân
loại; giữ gìn và phát triển văn hóa Cồng chiêng, góp phần tích cực xây dựng
quy hương, đất nước giàu mạnh.
- Linh Nga Niê Kdăm (2012), Văn hóa Tây Nguyên giàu và đẹp, NXB
Văn hóa dân tộc [24]. Cuốn sách đã khái quát được những nét văn hóa điển
hình của người Tây Nguyên. Đó là các sinh hoạt cộng đồng, các luật tục, về
trường ca, sử thi Tây Nguyên, các trò chơi dân gian, các lễ hội ở Tây
Nguyên…để nói lên được tính đa dạng trong sự phong phú của văn hóa Tây
Nguyên trong đó có văn hóa cồng chiêng.
- Ngô Văn Doanh, Trương Bi (2012), Nghi lễ - lễ hội của người Chăm
và người Êđê, NXB Văn hóa dân tộc [8]. Cuốn sách đã ghi lại cụ thể các nghi
lễ, lễ hội của người Chăm và người Êđê trong đời sống của mình giúp chúng ta
có một cách nhìn hoàn thiện hơn những nét văn hóa truyền thống trong cộng
đồng dân tộc Chăm và Êđê.
- Lý Vân Linh Niê Kdăm và Lê Xuân Hoan (2012), Âm nhạc dân gian
dân tộc Êđê Kpă và Jrai, NXB Văn hóa dân tộc [25]. Công trình đã nghiên cứu
4
cụ thể về đặc điểm của người Êđê Kpă (một nhóm thuộc tộc người Êđê có số
lượng lớn và có nền văn hóa tiêu biểu cho tộc người Êđê nói chung); khái quát
những đặc điểm trong âm nhạc dân gian của người Êđê Kpă và một số nét đặc
trưng cơ bản của âm nhạc Jrai. Với việc kế thừa một số nội dung về đặc điểm
nhạc cụ của người Êđê Kpă vào luận văn, luận văn muốn mang lại cho thế hệ
trẻ của vùng đất Tây Nguyên sự hiểu biết một cách cụ thể, sâu sắc hơn về nền
văn hóa âm nhạc dân gian của dân tộc mình, về những nhạc cụ cổ truyền từ
ngàn xưa ông bà để lại, hiểu để yêu và tự hào về những vốn quý mà ta có.
- Nhà xuất bản Văn hóa thông tin (2014), Già làng và trường ca sử thi
trong văn hóa Tây Nguyên [34]. Công trình đã nghiên cứu về cơ chế quyền lực
xã hội truyền thống, đặc biệt về chế tài quản lý xã hội trong cộng đồng các dân
tộc thiểu sổ bản địa, về vai trò của già làng trong các cộng đồng và về trường
ca, sử thi của các tộc người Tây Nguyên. Tác giả đã nghiên cứu chuyên sâu về
vai trò của các Già làng tiêu biểu của hai dân tộc chính là Êđê và Mnông, từ đó
đối chiếu với các tộc người khác đế rút ra kết luận.
- Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Đắk Lắk (2015), Địa chí Đắk Lắk [46].
Bộ sách tổng hợp ghi chép một cách khá toàn diện các đặc điểm tự nhiên, dân
tộc, dân cư, hành chính, chính trị, lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh và
cũng là một công trình khoa học có quy mô lớn. Ở phần thứ tư: Văn hóa, xã hội
với 14 chương được trình bày toàn diện, phong phú về nền văn hóa vật chất,
tinh thần của cộng đồng các dân tộc sinh sống trên địa bàn Đắk Lắk qua các
thời kỳ lịch sử hình thành, phát triển và định hình như ngày nay. Song cuốn
sách cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu tổng quan về dân tộc Êđê và văn hóa
dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh, chưa đi sâu vào công tác quản lý nhà nước về bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Nhiều tác giả (2017), Di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, NXB
Văn hóa dân tộc [37]. Cuốn sách đã mô tả những giá trị văn hóa của cồng
5
chiêng, những nét đẹp trong văn hóa cồng chiêng và truyền thống gõ chiêng
trong các dịp lễ hội của các dân tộc vùng Tây Nguyên.
- Lý Sol - Linh Nga Niê Kdăm (2017), Nghệ thuật múa dân gian của
các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, NXB Sân khấu [28]. Cuốn sách đã ghi chép
một cách đầy đủ về bối cảnh hình thành của múa dân gian Tây Nguyên và hoạt
động của đội ngũ nghệ sĩ các tộc người. Với mong muốn có một cái nhìn toàn
diện hơn, thấu đáo hơn ở cả vai trò của nghệ thuật múa dân gian trong đời sống
lẫn từng bước phát triển của nghệ thuật múa Tây Nguyên. Cồng chiêng Tây
Nguyên là một nét văn hóa nhưng tác giả không đi sâu vào diễn tả nghệ thuật
cồng chiêng.
Các công trình nghiên cứu trên đã hệ thống một cách khoa học, sâu
sắc về các vấn đề văn hóa, văn hóa các dân tộc thiểu số, các vấn đề về bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số. Đây là nguồn tài liệu quý
giá, giúp học viên tìm hiểu, nghiên cứu ở nhiều góc độ lý luận và thực tiễn
khác nhau. Qua đó, có sự kế thừa, tổng hợp, phát triển các nội dung quản lý
nhà nước về văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với đặc thù và tình hình phát
triển kinh tế - xã hội riêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, việc bảo
tồn các giá trị văn hóa của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chưa có
nhiều công trình nghiên cứu một cách cụ thể, toàn diện, nhất là trong giai
đoạn phát triển hiện nay, vì vậy học viên cập nhật những kiến thức lý luận
và thực tiễn, kế thừa những kết quả trước đó để làm hướng nghiên cứu và
giải quyết những yêu cầu đặt ra cho đề tài.
2.2. Các công trình liên quan đến quản lý nhà nước về bảo tồn, phát
huy giá trị văn hoá cồng chiêng
- Trương Bi, Bùi Minh Vũ (2009), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các
tộc người Êđê, M'nông [5], là công trình giới thiệu tiềm năng di sản văn hóa
người Êđê, người M’nông và một số giải pháp cơ bản về bảo tồn, phát huy di
6
sản văn hóa của hai dân tộc. Tuy nhiên, công trình chưa đi sâu vào công tác
quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Êđê trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Nguyễn Kim Loan (2010), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt
Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin [26], khái quát chung những vấn đề lý
luận về di sản văn hóa như khái niệm, đặc trưng, tiêu chí phân loại di sản văn
hóa, đồng thời phân tích, đánh giá vai trò của di sản văn hóa trong sự phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay.
- Lương Thanh Sơn (2011), Góp phần Bảo tồn văn hóa người Bih Tây
Nguyên [43] phác dựng bức tranh toàn cảnh di sản văn hóa người Bih và sự cần
thiết phải bảo tồn, phát triển giá trị di sản văn hóa của các dân tộc sinh sống
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung. Tuy
nhiên công trình chỉ dừng lại ở việc bảo tồn di sản văn hóa của một nhóm địa
phương người Êđê, chưa đi sâu vào công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Lê Hồng Lý (2011), Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch, Nhà xuất
bản Quốc gia [27], đã xem xét việc quản lý các di sản văn hóa như thế nào để tổ
chức và phát huy những giá trị của nó vào việc phát triển du lịch, tạo ra nguồn lực
kinh tế cho đất nước, đồng thời qua đó giữ gìn các di sản văn hóa của đất nước.
- Nguyễn Thịnh (2012), Di sản Văn hóa Việt Nam - Bản sắc và vấn đề
bảo tồn, Nhà xuất bản Xây dựng [45] phản ánh những nội dung cơ bản về: Bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; Chức năng di sản văn hóa; Phân loại di
sản văn hóa; Quản lý di sản văn hóa; Tư liệu hóa di sản văn hóa... Tài liệu cung
cấp cho các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý những vấn đề cơ bản nhất về di
sản văn hóa và các định hướng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa Việt Nam nói chung.
- Trương Quang Bình (2014), Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
7
Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin [6] đã làm rõ vấn đề về bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam và đặc biệt đã đề cập đến vai trò quan
trọng của sưu tập hiện vật trong quá trình chuẩn bị xây dựng và tổ chức hoạt
động của bảo tàng ở Việt Nam.
- Nguyễn Thị Thúy Hiền (2017), Quản lý nhà nước về di sản văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ Quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc Gia.
Các công trình nêu trên đã có nhiều đóng góp trong việc phác thảo, xây
dựng hệ thống các di sản văn hóa của người Tây Nguyên nói chung và của các
đồng bào dân tộc vùng Tây Nguyên nói riêng; mô tả đặc điểm, cách thức các
nghi lễ, các nét văn hóa độc đáo cũng như công tác bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa của từng tộc người. Tuy nhiên, về góc độ quản lý nhà nước về việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung và trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Chưa có nhiều
công trình nghiên cứu sâu cho lĩnh vực này một cách cụ thể, toàn diện, nhất là
trong giai đoạn phát triển hiện nay. Vì vậy việc cập nhật những kiến thức lý
luận và thực tiễn, tìm những luận cứ khoa học, kế thừa những kết quả nghiên
cứu trước đó để làm hướng nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Qua việc nghiên cứu cơ sở khoa học và thực trạng quản lý nhà nước về
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, tác giả đề tài đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt
động này trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ
+ Hệ thống hoá cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về bảo tồn và phát
8
huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
+ Đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung quản lý
nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê.
- Không gian: Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2016, thời điểm HĐND
tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND về bảo tồn và phát huy
văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016-2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: được sử dụng với việc tìm hiểu các
công trình nghiên cứu đi trước, qua đó bổ sung các luận cứ khoa học khi đi vào
nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước trong việc bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung, việc bảo tồn và phát huy giá trị
9
cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Trên cơ sở
đó tập trung giải quyết những vấn đề còn vướng mắc về lý luận và thực tiễn
trong công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị cồng chiêng của
dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tập trung vào thống kê, báo cáo thực
tế nhằm làm phong phú hơn các tài liệu nghiên cứu, đây là phương pháp giúp
tác giả tiếp cận và thu lượm được những thông tin chính xác, bổ sung nguồn số
liệu định lượng cho luận văn.
Phương pháp chuyên gia: thu thập và tiếp thu ý kiến của các chuyên gia,
các nhà nghiên cứu am hiểu về chủ đề này là hết sức cần thiết cho luận văn.
Phương pháp xử lý thông tin, số liệu, tư liệu: thống kê, phân tích, tổng
hợp số liệu, so sánh, xử lý thông tin một cách khoa học và có hệ thống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận
+ Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nói chung và giá trị văn hoá cồng chiêng
của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Ý nghĩa thực tiễn
+ Luận văn đề xuất hệ thống giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý nhà
nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
công tác giảng dạy, nghiên cứu và hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
7. Bố cục luận văn
10
Ngoài phần mở đầu, danh mục tham khảo, phụ lục, luận văn có kết cấu
3 chương.
Chương 1: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn
11
tỉnh Đắk Lắk
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm văn hoá và bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá
Văn hóa là một khái niệm rộng, cùng với quá trình phát triển, văn hóa
ngày càng có nội dung phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tổng
giám đốc UNESCO đưa ra khái niệm: Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt
động dân tộc trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và các thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng biệt của mỗi dân tộc[46].
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, văn hoá là toàn bộ những
thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người. Văn hoá
là "thiên nhiên thứ hai" - thiên nhiên được con người cải biến, được nhân hoá,
mang ý nghĩa và nội dung con người. Văn hóa, về một phương diện nào đó,
còn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển xã hội, trở thành yếu tố
cấu thành cơ sở, nền tảng tinh thần của xã hội. Mặt khác, theo V.I.Lênin, với
công cuộc xây dựng xã hội mới ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nước Nga
không thể có được thành công như mong muốn khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nếu không phát triển văn hoá làm một cơ sở nền tảng.
Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã có một số học
giả trong và ngoài nước nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Văn hóa được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ những giá trị vật
chất, những giá trị tinh thần và phương thức sinh hoạt của con người: “Vì sự
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa,
12
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ở và các phương
thúc sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [13].
Như vậy, văn hóa có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác
nhau. Từ những quan niệm đó, ta nhận thấy:
Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do con
người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, mang tính chất
chân, thiện, mỹ và phục vụ cho sự sinh tồn, phát triển của con người, xã hội
loài người.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là toàn bộ các giá trị tinh thần do con người
sáng tạo, tích lũy trong quá trình lịch sử xã hội.
Về bảo tồn có nhiều khái niệm khác nhau. Bảo tồn được hiểu là các nỗ lực
nhằm bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là bảo
vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó. Bảo
tồn là giữ lại, không để mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái.
Tương tự khái niệm bảo tồn, khái niệm phát huy cũng có nhiều cách hiểu
khác nhau. Phát huy có thể hiểu là làm cho lan toả trong cộng đồng xã hội trên
cơ sở những giá trị vốn có trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Từ sự phân tích trên, tác giả quan niệm: Bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá là quá trình gìn giữ và làm cho những giá trị văn hóa lan tỏa trong cộng
đồng xã hội.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Hoạt động quản lý gắn liền
với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước. Hiện nay khái niệm quản
lý nhà nước vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau.
Các tác giả cuốn sách Một số vấn đề về Văn hóa - Xã hội các dân tộc thiểu
số ở Tây nguyên hiện nay quan niệm“Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ
13
chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người do hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương
đến cơ sở tiến hành dựa trên cơ sở pháp luật để thực hiện luật pháp Nhà nước.
Quản lý nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước’”.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước được hiểu là “sự tác động của các
chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng
quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước hay
quản lý nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp nhằm thực hiện các chức năng trên”.
Theo nghĩa hẹp, “Quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều
hành của các cơ quan nhà nước (hoặc các tổ chức xã hội nếu được nhà nước
ủy quyền) được tiến hành trên cơ sở và để thi hành luật nhằm thực hiện trong
cuộc sống hàng ngày các chức năng của nhà nước trên mọi lĩnh vực hành chính
- chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội””.
Với nghĩa này, quản lý nhà nước đồng nhất với quản lý hành chính nhà
nước. Mặt khác, khái niệm quản lý nhà nước phải được tiếp cận theo quan điểm
là sự tương tác giữa chủ thể quản lý nhà nước và các đối tượng quản lý với vai
trò định hướng, tạo điều kiện hỗ trợ và giám sát của nhà nước nhằm tạo ra sự
phát triển của ngành, lĩnh vực. Quản lý nhà nước không phải là sự tác động một
chiều mà là sự tác động qua lại hai chiều.
Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa là hoạt động
quản lý của các cơ quan nhà nước nhằm gìn giữ những giá trị văn hoá, từ đó
làm cho các giá trị văn hoá lan rộng trong cộng đồng xã hội. Quản lý cũng
chính là sự định hướng, tạo điều kiện tổ chức, điều hành việc bảo tồn, gìn giữ
văn hóa, làm cho giá trị văn hóa được phát huy theo chiều hướng tích cực và
thực sự trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển. Các giá trị văn hóa
14
là tài sản vô giá, là nguồn lực to lớn và quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội nên cần thiết phải có sự quản lý nhà nước. Bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá còn có ý nghĩa quan trọng nhằm giáo dục truyền thống văn hóa,
khơi dậy niềm tự hào dân tộc và phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Như vậy,
cần có biện pháp quản lý phù hợp mới phát huy hết được những giá trị văn hóa
trong đời sống đương đại.
Quản lỷ nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa là những công
việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện,
kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa.
Quản lý nhà nước về văn hóa phải gắn liền với chức năng nhiệm vụ của bộ máy
quản lý từ trung ương đến địa phương. Theo đó cơ quan quản lý nhà nước cấp
trung ương là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ở các cấp chính quyền địa
phương là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp tỉnh, phòng Văn hóa, Thể thao
và Du lịch cấp huyện, Ban văn hóa cấp xã, phường. Trong hệ thống đó vai trò
của chính quyền địa phương là vô cùng quan trọng.
Chủ thể quản lý nhà nước trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa là
hệ thống bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương: là Chính phủ, các cơ quan
thuộc Chính phủ như: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Bộ, Ban, Ngành,
cơ quan ngang Bộ... có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về bảo tồn và phát
huy giá trị các di sản văn hóa. Điều 55 Luật Di sản văn hóa Việt Nam quy định:
“Bộ Văn hóa - Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
về di sản văn hóa. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa theo sự phân công của Chính
phủ” [29].
Cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp địa phương là UBND các cấp, các
cơ quan chức năng trực thuộc UBND các cấp như Sở Văn hóa, Thể thao và Du
15
lịch cấp tỉnh, phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp huyện, thị xã và Ban văn
hóa cấp xã, phường và các sở ban ngành có thẩm quyền trong quản lý nhà nước
về bảo tồn và phát huy giá trị các giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở địa
phương. Khoản 4, Điều 55, Luật Di sản văn hóa Việt Nam [29] quy định:
UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc
quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ
phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi
cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng
Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl,
rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...)
Ngoài vai trò là phương tiện diễn tấu dân gian, cồng chiêng còn thể hiện
quyền uy, sự giàu sang của gia đình, dòng tộc, bản làng, là vật thiêng trong tín
ngưỡng tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số.
1.2. Nội dung, phương thức quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy
giá trị văn hoá
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá
Quản lý nhà nước về di sản văn hoá nói chung và bảo tồn, phát huy giá
trị văn hóa nói riêng là sự định hướng, tạo điều kiện để tổ chức điều hành hoạt
động bảo vệ, gìn giữ giá trị văn hóa và làm cho các giá trị đó được phát huy
theo chiều hướng tích cực.
Nội dung quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa là một
phần cấu thành nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Bao gồm:
1.2.1.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của di sản văn hóa dân tộc trong phát triển
bền vững và hội nhập quốc tế, các chiến lược, quy hoạch chính sách của Nhà
16
nước về di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện, góp phần nhận diện và lan
tỏa giá trị các di sản văn hóa dân tộc. Các chính sách của nhà nước được ban
hành nhằm điều chỉnh nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau, trong đó văn hóa xã
hội luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Hiện nay, nhà nước đã chú trọng quan tâm nhiều hơn đến công tác bảo
tồn và phát triển hệ thống di sản văn hóa tại Việt Nam. Để thực hiện điều này,
Việt Nam đã có những chính sách nhằm xây dựng phương hướng, mục tiêu
cũng như những cách thức để thực hiện hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn
hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên nói riêng.
Năm 2001, Quốc hội đã ban hành Luật Di sản văn hóa gồm 4 chương,
74 điều quy định về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn
hóa. Năm 2009, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa, trong đó sửa đổi 20 điều; đồng thời, Chính phủ ban hành
nhiều nghị định quy định về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa dân tộc. Nhiều
chính sách về đầu tư, hỗ trợ nguồn lực trong việc kiểm kê, sưu tầm, bảo quản
và trùng tu hệ thống di sản văn hóa đã được Chính phủ ban hành thông qua các
chương trình, đề án, chiến lược, chương trình cụ thể, như Đề án Bảo tồn, phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020; Đề án Kiểm kê, sưu
tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình
của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020; Chương trình mục
tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012 - 2015; Chương trình mục tiêu phát
triển văn hóa giai đoạn 2016 - 2020, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm
2020, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.
1.2.1.2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về di sản văn hóa.
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa trước hết là việc xây dựng và ban
17
hành, tổ chức thực thi các văn bản pháp luật về di sản văn hóa. Đây là công cụ
quan trọng và hữu hiệu trong công tác quản lý. Từ khi nhà nước xuất hiện pháp
luật đã thể hiện vai trò của mình và ngày càng được chú trọng để hoàn thiện
hơn trong việc quản lý xã hội. Vì vậy cũng như những lĩnh vực khác, pháp luật
là công cụ quan trọng nhất để điều chỉnh các hoạt động nhằm mục tiêu quản lý
các di sản văn hóa.
Hiến pháp 2013 của Việt Nam, Điều 60, Chương III quy định: Nhà nước,
xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; Nhà nước, xã hội phát triển
văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của
Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu
cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu
nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.
Nhà nước đã xây dựng một hành lang pháp lý thống nhất để bảo tồn và
phát huy hệ thống di sản văn hóa thông qua các văn bản và các văn bản đó đã
cụ thể hóa chính sách, phương hướng, mục tiêu cũng như những cách thức để
thực hiện hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nói chung, di sản phi vật
thể nói riêng trong đó có di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Quyết định số 36/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
24/02/2005 về việc lấy ngày 23/11 hàng năm là “ngày Di sản văn hóa Việt
Nam”. Đây là một trong những hành động thiết thực khẳng định giá trị của di
sản văn hóa, giúp cho người dân quan tâm và tôn vinh giá trị của di sản văn
hóa, bao gồm cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
Năm 2001, Việt Nam đã ban hành Luật di sản văn hóa với cách tiếp
cận khái niệm di sản văn hóa hoàn thiện và đầy đủ hơn bao gồm: Di sản văn
18
hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Đến năm 2009, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2001, tiếp tục hoàn thiện về cách nhận
diện cũng như biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Có thể thấy Luật di
sản văn hóa của Việt Nam phù hợp với các điều ước quốc tế về di sản văn hóa
mà Việt Nam đã tham gia. Luật di sản văn hóa đã có những quy định riêng đối
với di sản văn hóa phi vật thể, khái niệm về di sản văn hóa vật thể và di sản văn
hóa phi vật thể; quyền và nghĩa vụ của các cá nhân đối với di sản văn hóa, quy
định riêng đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật
thể trong đó có di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Trong Luật di sản văn hóa năm 2001, nội dung bảo vệ và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể chiếm 11 điều. Sau gần 8 năm thi hành, các điều khoản về di
sản văn hóa phi vật thể được sửa đổi, bổ sung đáng kể với sự cụ thể, chi tiết, phù
hợp với lý luận và thực tiễn. Các loại hình văn hóa phi vật thể được xác định
gồm có 7 loại hình cơ bản: Tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật
trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ
công truyền thống; tri thức dân gian. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Nhà
nước trong việc quản lý di sản văn hóa phi vật thể có sự phân công rõ ràng, trao
quyền mạnh mẽ cho địa phương. Chính quyền địa phương là chủ thể tự kiểm kê
và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương mình.
Dưới Luật di sản văn hóa còn có các văn bản hướng dẫn chi tiết thi
hành. Nội dung pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể đã đề cập đến hoạt động
bảo vệ gồm: nhận diện các loại hình văn hóa phi vật thể; quyền và nghĩa vụ của
các tổ chức, cá nhân; các biện pháp bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể; quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế về di sản văn hóa phi vật thể.
Đối với nghệ nhân - những báu vật nhân văn sống, các quy định đã thể
hiện rõ thái độ ứng xử của Nhà nước, vừa tôn vinh, đề cao, tôn trọng, vừa chăm
lo đời sống của nghệ nhân như quy định tại điều 26 Luật di sản văn hóa 2001
19
[29]; điều 3 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm
2009 [33] và điều 65 của Luật Thi đua khen thưởng [30].
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết
định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2030 đã đề ra nhiều quan điểm, chỉ tiêu và các nhiệm vụ, giải
pháp quan trọng nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng
đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường
và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự
hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài
năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Như vậy, chúng ta thấy rằng, cùng
với việc làm tốt công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, an ninh thì thực hiện hiệu quả định hướng phát triển văn hóa của Đảng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung của đất nước.
Theo đó, cần nhận thức một cách thống nhất rằng: Còn văn hóa là còn tất cả.
Mất văn hóa là mất tất cả.
1.2.1.3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa.
Tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các
nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tại địa phương sau khi
được phê duyệt; Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các dự án bảo quản, tu bổ và
phục hồi di tích thuộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt; Tổ chức
20
điều tra, phát hiện, thống kê, phân loại và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể
thuộc địa bàn tỉnh; Hướng dẫn thủ tục và cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bản tỉnh cho tổ chức, cá nhân nước ngoài và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Tổ chức thực hiện kiểm kê, phân loại,
lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh thuộc địa
bàn tỉnh; Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực
bảo vệ di tích cấp tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của
di tích; Tổ chức việc thu nhận, bảo vệ các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do tổ
chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở điạ phương theo quy định của pháp luật;
Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử ở
địa phương.
1.2.1.4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa.
Các hoạt động nghiên cứu khoa học cần được tổ chức thường xuyên với
sự tham gia, phối hợp của các cơ quan, ban ngành có liên quan nhằm tìm ra
những cách thức, phương pháp mới giúp thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước về di sản văn hóa.
Đội ngũ cán bộ về di sản văn hóa bao gồm đội ngũ các nhà quản lý và
đội ngũ công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn về di sản văn
hóa. Củng cố và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có năng lực quản lý và có
trình độ chuyên môn cao phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa với sự hỗ trợ
của các cơ quan, các nhà khoa học trong nước và thế giới (kể cả đi tham quan
học tập ở nước ngoài) là rất cần thiết.
Cần khẳng định rằng, những người làm công tác quản lý ở cấp cơ sở
nói chung và những người làm công tác quản lý trực tiếp ở cấp cơ sở nói riêng,
nếu không hiểu biết sâu về di sản văn hóa phi vật thể cũng như những giá trị,
đặc trưng và các hình thức sinh hoạt của nó, sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt
21
động. Do đó, đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện chuyên môn này cần thường
xuyên được trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý di sản văn hóa nói
chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng.
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn về di sản
văn hóa được tiến hành với những nội dung cụ thể, thiết thực, gắn với đặc điểm
của vùng miền cả về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm dân cư. Đa
dạng các hình thức tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng với đối tượng cụ thể,
thời gian tổ chức và thời lượng thực hiện phù hợp trong phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý và chuyên môn về di sản văn hóa.
1.2.1.5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa.
Các nguồn đầu tư cho hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
bao gồm: nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn từ các dự án đầu tư, viện
trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân; Nguồn lực về con người…
Cơ chế quản lý đối với các nguồn đầu tư tuân theo nguyên tắc quản lý
hành chính, cấp nào trực tiếp cấp phát ngân sách thì cấp đó xét duyệt chi tiêu
theo đúng các quy định hiện hành. Đối với ngân sách trung ương, do Bộ Văn
hóa Thể thao & Du lịch trực tiếp cấp phát và xét duyệt, quyết toán đối với các
đơn vị trực thuộc. Đối với ngân sách địa phương, do Sở Văn hóa Thể thao &
Du lịch trực tiếp cấp phát và xét duyệt quyết toán đối với các đơn vị trực thuộc
sở. Đầu tư cho hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đều cần tính toán
đến hiệu quả. Yêu cầu đặt ra là phải đạt tới mục tiêu quốc gia mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra.
1.2.1.6. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa.
Khen thưởng là nội dung không thể thiếu trong việc bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa. Khen thưởng để biểu dương khích lệ, động viên các tổ
chức và cá nhân có thành tích xuất sắc và để đánh giá hiệu quả hơn công tác
22
quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
Điều 69 Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm
2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa số
32/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009 quy định: “Tổ chức, cá nhân có thành
tích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá được khen thưởng theo
quy định của pháp luật”.
1.2.1.7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa.
Sự hợp tác quốc tế trong công tác bảo tồn, trùng tu, quảng bá sẽ góp phần
lan tỏa giá trị di sản văn hóa, tạo sức hút đối với du khách trong và ngoài nước.
Công tác bảo tồn các giá trị di sản văn hóa luôn gắn chặt với quá trình
khai thác, phát huy giá trị di sản và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương, nhất là lĩnh vực kinh tế du lịch, dịch vụ. Mọi quốc gia
sẽ hợp tác với các quốc gia khác để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; khuyến
khích sự tôn trọng và tuân thủ các quyền con người và tự do cơ bản trên toàn
thế giới và trong việc loại trừ tất cả các hình thức phân biệt về sắc tộc và tôn
giáo.
Bước sang giai đoạn mới hiện nay, cần nhận diện đầy đủ những giá trị di
sản văn hóa dưới góc nhìn đương đại. Qua đó có cách tiếp cận phù hợp để phát
huy tối đa tiềm năng, lợi thế riêng có của các di sản văn hóa, trong đó vai trò
của hợp tác quốc tế rất quan trọng.
1.2.1.8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.
Thanh tra, kiểm tra luôn là khái niệm đi liền nhau để chỉ một phương
thức hay một giai đoạn của quản lý với ý nghĩa quan trọng là nhằm chấn chỉnh
hoạt động quản lý, phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vi phạm để bảo đảm
hiệu quả, hiệu lực của quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực
23
Thanh tra, kiểm tra thực hiện những nhiệm vụ như sau: Việc chấp hành
pháp luật về di sản văn hóa; Việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa; Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền
đối với các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn hóa; Tiếp nhận và kiến nghị
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về di sản văn hóa; Kiến nghị các biện pháp để
bảo đảm thi hành pháp luật về di sản văn hóa.
1.2.2. Phương thức quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá
Phương thức là hình thức và phương pháp hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền
của mình. Quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá gồm các
phương thức sau:
1.2.2.1. Quản lý nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật
Luật pháp phải là công cụ để quản lý nhà nước. Đó là việc xây dựng
và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động quản lý
bao gồm cả xây dựng, ban hành văn bản quản lý và tổ chức thực hiện các
văn bản đó.
Các văn bản pháp luật gồm Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Văn bản dưới
luật…Điều 30 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn,
phát triển nền văn hóa Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn; Kế thừa và phát
huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa nhân loại; phát huy mọi tài năng
sáng tạo trong nhân dân; Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa.
Ngoài những vấn đề chung đã ghi trong Hiến pháp, Nhà nước còn ban
hành các đạo luật, pháp lệnh riêng với từng lĩnh vực hoạt động quản lý văn hóa
như: Luật về tổ chức bộ máy quản lý văn hóa đối với các hội đồng, các Ủy ban,
các Bộ; Luật di sản văn hóa; Luật bảo hộ quyền tác giả; Luật điện ảnh…
Các văn bản dưới luật như: Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định và
24
nhiều văn bản pháp quy khác…
Văn hóa thông tin là lĩnh vực đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức
tạp, các văn bản pháp luật phải thường xuyên cập nhật, bổ sung, sửa đổi.
1.2.2.2. Quản lý Nhà nước bằng hình thức hội nghị tập thể lãnh đạo
Hội nghị tập thể lãnh đạo là một hình thức quản lý thông qua thảo luận,
trao đổi, bàn bạc trong phạm vi những người có trách nhiệm lãnh đạo, quản lý,
có tính chất lấy ý kiến tập thể để đề ra Nghị quyết hoặc các Quyết định quản
lý. Hội nghị tập thể lãnh đạo là hình thức cần thiết, đặc biệt đối với cơ quan có
thẩm quyền chung để đề ra các quyết sách đúng đắn áp dụng và thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh
đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu,
cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,
không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần
phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt
này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó...
1.2.2.3. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật
Trong quá trình quản lý, phải biết sử dụng các phương tiện, trang thiết
bị như điện thoại, máy ghi âm, ghi hình, fax, internet… nhất là các phương tiện
thanh tra, kiểm tra văn hóa. Trong thời đại hiện nay, quản lý nhà nước có nhiều
phương tiện hiện đại, phải thường xuyên đào tạo người quản lý để nắm bắt kịp
thời các yêu cầu của từng giai đoạn.
1.2.2.4. Hoạt động quản lý phối hợp
Phối hợp với các đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc thực thi quản
lý nhà nước nhằm thực hiện một quyết định hành chính mang tính chất liên kết
giữa các ngành, các địa phương, các chức năng: thông tư liên bộ, liên ngành,
văn bản ký kết liên tịch…
1.2.2.5. Xử lý kịp thời các công việc quản lý văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa là rất nhiều việc, vì vậy phải xử lý kịp thời,
25
đúng thời hạn, không được để tồn đọng dẫn đến khiếu nại.
1.2.2.6. Hoạt động kiểm tra, giám sát
Phương châm chỉ đạo đối với kiểm tra, giám sát là phòng ngừa, ngăn
chặn hơn là việc để sự việc xảy ra rồi mới xử lý. Thanh tra, kiểm tra hoạt động
quản lý nhà nước về di sản văn hóa cần quan tâm theo 4 hướng:
Hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp qui (luật, pháp lệnh, nghị định,
chỉ thị...), đây là điều kiện cần thiết để tiến hành tốt việc thanh tra, kiểm tra các
hoạt động về di sản văn hóa phi vật thể nói chung, di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên nói riêng.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính
trị - xã hội như: Hải quan; Công an; Thương mại; Du lịch; Lao động, Thương
binh và Xã hội; các hội và hiệp hội liên quan đến di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên trong thanh tra, kiểm tra.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra của ngành từ Trung ương
đến cơ sở, bao gồm 3 nội dung: số lượng, chất lượng và trang bị kỹ thuật cho
công tác kiểm tra vì hiện tại đội ngũ này còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ
và trang bị kỹ thuật lạc hậu.
Tổ chức và sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan cung
ứng dịch vụ, xác định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, gắn kết các
hoạt động để tạo sự phát triển văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên, thuận lợi cho việc thanh tra, kiểm tra.
Quản lý nhà nước về hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể nói chung và di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói riêng trong
bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay đòi hỏi sử dụng đồng bộ các phương pháp
kinh tế, giáo dục, hành chính thích hợp.
1.3. Cồng chiêng và giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk
1.3.1. Không gian văn hóa cồng chiêng
26
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải dài trên 5 tỉnh Tây
Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể của
không gian văn hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau: Ê đê, Jarai, Ba Na, Mạ,
Lặc…
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ
phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi
cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng
Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl,
rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...).
Trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng, Cồng chiêng có một vị trí, vai
trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim
đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không
núm. Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là
tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong
cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng
đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng
cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu
có. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa
thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo
cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy
góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên
vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.
1.3.2. Cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Cồng chiêng được người Êđê coi là linh hồn của dân tộc bởi nó chứa
đựng những giá trị lớn trong đời sống tinh thần, phong tục nghi lễ suốt cuộc
đời. Tiếng chiêng như sợi dây tâm linh nối kết con người với các đấng siêu
27
nhiên, giúp con người bày tỏ niềm mong ước của bản thân cũng như của cộng
đồng với thần linh. Các bộ chiêng giữ vai trò chủ đạo trong các nghi lễ như
mừng nhà mới, mừng lúa mới, lễ chúc sức khỏe, cưới hỏi, lễ sinh đẻ, lễ cầu
may, lễ tang, lễ bỏ mả.
Bộ Čing K’nah gồm 10 chiếc. Theo cách gọi và phân biệt của người Êđê,
3 chiếc chiêng núm với tên gọi theo kích thước từ lớn đến nhỏ như sau: Ana
čing (chiêng núm lớn nhất), Moong čing, Mđuh čing (chiêng núm nhỡ); cùng
7 chiếc chiêng bằng: lớn nhất hơi quá khổ 1 chút là chiếc Čhar (chiêng bằng
lớn nhất), K'nah Dy, H'liang, Khŏk, H'Luê Khŏk, H'Luê H'liang, H'Luê Khŏk
Diêt và biểu thị từng thành viên trong gia đình ứng với từng chiếc chiêng.
Cấu tạo của bộ chiêng gồm 3 bộ phận chính: núm chiêng (đối với chiêng
núm) đây là bộ phận được làm theo hình bán cầu từ mặt chiêng, là vị trí dùng
để gõ, tạo ra âm thanh vang, ngân dài và có tiếng rung; mặt chiêng là một mặt
phẳng xung quanh núm chiêng (ở chiêng núm) hay toàn bộ (ở chiêng bằng) và
đều có hình tròn. Đây là bộ phận quyết định âm thanh như cao độ, sự “tròn,
đầy” của tiếng và độ vang. Các nghệ nhân chỉnh chiêng, chủ yếu tác động vào
bộ phận này; thành chiêng là một bộ phận nối liền với mặt chiêng thành một
bản rộng bao quanh chiêng. Thành chiêng có hai loại: Thẳng đứng (đối với
chiêng bằng) và khum (đối với chiêng núm). Tiêu chuẩn để lựa chọn chiêng là
độ vang, âm sắc và độ hòa hợp dễ nghe giữa các chiêng đối đáp tạo nên giai
điệu. Với nhiều dân tộc, chiêng quý được đánh giá bởi nó “hát” hay, tiếng ngân
vang xa hơn những chiếc chiêng khác. Với người Êđê, ngoài tiêu chuẩn ấy,
chiêng quý còn là những chiếc chiêng được pha lẫn các loại kim loại quý hiếm
như vàng, đồng đen hoặc bạc; những bộ chiêng đã “tham gia” nhiều lễ cúng
lớn. Trong các bộ chiêng của người Êđê, chiêng quý thường là hai chiếc Ana
čing và Mđuh čing. Khi tấu nhạc, Mđuh čing và Ana čing đối thoại với nhau,
nguyên tắc là nhóm Khŏk dẫn dắt và nhóm H'liang đi theo, như những luật tục
28
mẫu hệ vậy. Mọi cuộc tấu chiêng của người Êđê là những câu chuyện qua lại
về thế tục và sự tưởng nhớ đến thần linh, tổ tiên.
Tiếng chiêng Êđê có âm thanh chắc, khỏe, dồn dập, ngân vang xa như
khát vọng của chàng Đam San chinh phục Nữ thần Mặt Trời. Chiêng Êđê mang
đậm tính tiết tấu dù những yếu tố còn lại như giai điệu, hòa thanh... vẫn không
bị lấn át. Tiết tấu chiêng Êđê rất nhanh, dồn dập, sôi nổi như thác reo, như gió
thổi, đòi hỏi trình độ diễn tấu của nghệ nhân phải rất điêu luyện mới có thể
cùng hòa tấu được. Âm thanh dàn chiêng K’nah vang xa và mạnh mẽ, “vút bay
qua xà nhà vang lên tới 9 tầng mây xanh. Lọt qua sàn lan đến bảy tầng vực sâu
đất đen...” chính là bởi sự va đập, bồi âm từ 10 chiếc chiêng cùng một lúc tấu
lên; bởi dùi đánh chiêng được làm bằng chất liệu gỗ cứng, hoặc tre đực, gõ
thẳng vào mặt phẳng của những chiếc chiêng bằng. Để âm thanh có sự thay đổi
phong phú hơn, các nghệ sĩ đánh thường nhún người lên xuống.
Cồng chiêng của Êđê được diễn tấu ngay trong nhà dài, trên ghế K’pan;
trường hợp chiêng Êđê được đánh ngoài trời là khi cúng bỏ mả, cúng bến nước,
tang lễ… Các chiêng núm được đánh bằng dùi gỗ có bọc vải mềm, chiêng bằng
đánh bằng dùi gỗ không bọc gì, chiêng bằng được đánh vào mặt trong của
chiêng, đó cũng là điểm khác biệt trong cách diễn tấu cồng chiêng của người
Êđê so với các tộc người Tây Nguyên khác.
1.3.3. Giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Văn hóa cồng chiêng của các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên nói
chung và dân tộc Êđê ở Đắk Lắk nói riêng bao gồm các giá trị chủ yếu sau:
Giá trị biểu thị đặc trưng bản sắc văn hóa vùng: Ở tầm vĩ mô, cồng
chiêng là nhạc khí quan trọng biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa âm nhạc
của khu vực Đông Nam Á. Ở tầm hẹp hơn cồng chiêng là đặc trưng nổi bật
nhất biểu thị bản sắc văn hóa âm nhạc của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
Ngày nay, cồng chiêng có mặt ở nhiều nước trên thế giới nhất là tại châu Á.
29
Trong đó, dạng cồng chiêng được tổ chức thành dàn để biểu diễn độc lập hoặc
kết hợp với các nhạc cụ khác thì chủ yếu thấy ở các nước Đông Nam Á. Tuy
các dàn cồng chiêng Tây Nguyên có nhiều điểm tương đồng với cồng chiêng
Đông Nam Á nhưng cồng chiêng có những nét khác biệt, mang tính đặc thù thì
chỉ có ở không gian văn hóa Tây Nguyên.
Giá trị lịch sử: Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên nảy sinh từ truyền
thống văn hoá và truyền thống lịch sử của cư dân bản địa có liên quan tới văn
hoá Đông Nam Á từ thời tiền sử, đã hình thành và phát triển trên đất nước Việt
Nam. Ngày nay có các trung tâm văn hoá Đông Sơn ở miền Bắc, văn hoá Sa
Huỳnh ở miền Trung và văn hoá Đồng Nai ở Nam Bộ, sau này phát hiện thêm
Lung Leng ở Tây Nguyên. Trong giai đoạn này, việc đúc đồng đặc biệt phát
triển, sáng tạo nên những công cụ lao động, vũ khí, đồ trang sức, đặc biệt là các
loại nhạc cụ bằng đồng rất độc đáo mà ngày nay chúng ta biết đến như trống
đồng Đông Sơn, cây đèn Lạch Trường. Kết quả khảo cổ di chỉ Lung Leng (Kon
Tum) cũng như ở các khai quật khác tại Tây Nguyên phát hiện nhiều hiện vật
đồ đồng, đồ sắt, nhất là khuôn đúc rìu đồng. Điều này chứng minh rằng, các cư
dân bản địa ở Tây Nguyên đã từng có một nền văn hoá thời kim khí với đỉnh
cao là khả năng đúc đồng. Trên cơ sở đó cho chúng ta nghĩ đến cồng chiêng
Tây Nguyên rất có thể cũng nằm trong bối cảnh sáng tạo văn hoá của người
bản địa Tây Nguyên.
Giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người: Cách
đánh cồng chiêng của mỗi tộc người, nhóm người ở Tây Nguyên cũng khác
nhau. Có nhóm dùng nắm tay đấm vào mặt hay núm cồng chiêng hoặc dùng
dùi để gõ. Có khi dùng dùi bằng gỗ hoặc bằng kim loại, bọc lớp vải đầu dùi
hoặc không… theo loại cồng chiêng hoặc theo sở thích của từng nhóm tộc
người. Việc đấm hay gõ vào chiêng tạo nên tiếng vang thì tuỳ từng bài hay từng
phong cách của mỗi tộc người mà có thể tạo nên hiện tượng bồi âm, sắc thái
30
âm thanh độc đáo khác nhau của diễn tấu cồng chiêng Tây Nguyên.
Mỗi tộc người ở Tây Nguyên đều có hệ thống các bài nhạc cồng chiêng
của mình. Cồng chiêng có mặt trong đời sống người Tây Nguyên qua các sinh
hoạt vòng đời, trong đồng áng, nương rẫy, trên sông suối, núi rừng của thời
bình và cả trong chiến tranh. Cách chỉnh cồng chiêng và gõ cồng chiêng của
người Tây Nguyên khá đặc biệt, tinh tế và độc đáo.
Giá trị phản ánh đa chiều: có thể tìm thấy trong văn hóa cồng chiêng rất
nhiều khía cạnh liên quan tới cộng đồng sử dụng chúng trên một số khía cạnh:
vũ trụ quan; chế độ xã hội; đặc điểm của trình độ phát triển xã hội; mối quan hệ
xã hội; quan điểm thẩm mỹ; phong tục tập quán; quan niệm tâm linh, tín ngưỡng;
khă năng thẩm âm; tri thức âm nhạc; Trình độ phát triển âm nhạc; trình độ chế
tác hợp kim đồng; mối quan hệ giao lưu và ảnh hưởng văn hóa âm nhạc giữa các
tộc người.
Giá trị nghệ thuật đặc thù: Cộng đồng các tộc người bản địa Tây Nguyên
đã đạt đến những hiểu biết sâu và có các kỹ thuật điêu luyện trong việc sáng
tạo cồng chiêng và sử dụng cồng chiêng rất riêng không nhầm lẫn với văn hoá
khác. Bởi, nếu có mang loại nhạc cụ bằng đồng này từ nơi khác về, họ đều
chỉnh hình, chỉnh âm cồng chiêng lại cho thật phù hợp với “thị hiếu” âm nhạc
của tộc người mình. Ngoài ra, chính người bản địa Tây Nguyên đã tự lựa chọn
biên chế dàn cồng chiêng, quy định giới tính cho từng cái cồng cái chiêng, xây
dựng tư thế, kỹ xảo diễn tấu và sáng tạo bài bản cồng chiêng tương ứng với
những “đối thoại” khác nhau cho cộng đồng của mình.
Cồng chiêng ở một số nước Đông Nam Á hiện nay như các dàn
gamelan của Indonesia, dàn Khong wong trong Mahori của Thái Lan, hoặc
Pin Peat của Campuchia đã dần chuyển thành hoạt động âm nhạc gần với
chuyên nghiệp hơn. Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên vẫn tồn tại là những
giá trị văn hoá dân gian độc đáo của người bản địa Tây Nguyên, là sở hữu
31
văn hoá dân gian của cộng đồng các tộc người Tây Nguyên, là chuẩn mực
văn hoá cho thành viên cộng đồng các tộc người Tây Nguyên, đóng vai trò
như một biểu tượng cho năng lực sáng tạo văn hoá, nghệ thuật biểu diễn của
các tộc người trong không gian văn hoá Tây Nguyên.
Giá trị sử dụng đa dạng: có thể dùng cồng chiêng vào nhiều mục đích
với các chức năng như công cụ hỗ trợ săn bắn; phương tiện thông tin, truyền
lệnh; phương tiện giao cảm với thế giới siêu nhiên; phương tiện tạo sự cộng
cảm và cố kết cộng đồng; đồ chơi trẻ em; nhạc khí. Riêng với tư cách là một
nhạc khí cồng chiêng là nhạc khí duy nhất gắn bó với con người từ thuở ấu thơ
cho tới khi vĩnh viễn chia tay với thân tộc để chuyển hẳn sang thế giới “bên
kia” và có mặt trong tất cả những sự kiện trọng đại của một đời người cũng như
của cộng đồng.
Giá trị vật chất: Cồng chiêng Tây Nguyên còn có các giá trị vật chất (là
loại nhạc khí quý có giá trị cao tính bằng vật chất); giá trị biểu thị sự giàu sang
và uy quyền.
Giá trị cố kết cộng đồng: Cồng chiêng trong quá trình hình thành và phát
triển luôn đóng vai trò là phương tiện khẳng định bản sắc tập thể của cộng đồng
các tộc người bản địa Tây Nguyên. Cồng chiêng là phương tiện để nối kết cộng
đồng các tộc người Tây Nguyên trong không gian văn hóa Tây Nguyên. Các
tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật tạo hình, múa dân gian và ẩm thực dân gian...
đều thể hiện, gắn bó mật thiết với cồng chiêng. Tây Nguyên có nhiều tộc người,
các tộc người luôn hoà hợp lẫn nhau trong văn hoá cồng chiêng mà vẫn giữ
được bản sắc văn hoá của tộc người mình, không có hiện tượng loại trừ hay
đồng hoá văn hoá của nhau trong sinh hoạt văn hoá cồng chiêng. Tiếng cồng
chiêng luôn đem đến một cảm xúc rạo rực trong mỗi con người Tây Nguyên.
1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
32
- Tác động của quá trình hội nhập quốc tế: Hiện nay, toàn cầu hóa kinh
tế và hội nhập quốc tế là một xu hướng tất yếu của thế giới, của Việt Nam cũng
như của tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, vấn đề quản lý nhà nước trên tất cả mọi lĩnh vực
trong đó quản lý trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng
của dân tộc Êđê cũng chịu tác động không nhỏ. Trong xu thế hội nhập quốc tế,
những giá trị của văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê cần phải đuợc quản lý
bằng hệ thống chính sách, pháp luật đúng đắn, thông suốt, phù hợp với thực
tiễn để đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi và hạn chế những thách thức do hội nhập
mang lại đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Quản lý nhà
nuớc sao cho phù hợp, hiệu quả để có thể đáp ứng đuợc yêu cầu trong giai đoạn
tới đòi hỏi phải nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu, thành công
của các địa phuơng trong nuớc, đặc biệt là kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa
của thế giới, để có thể phát huy đuợc bản sắc văn hóa dân tộc nhất thiết phải
bảo đảm giữ gìn và phát huy những nhân tố tích cực, những giá trị vốn có của
cồng chiêng Êđê.
Bộ máy quản lý nhà nước các cấp trong tỉnh mà cụ thể là cấp huyện, xã
và đội ngũ cán bộ, công chức cần nắm vững những quy định và cam kết quốc
tế, vận dụng sáng tạo trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để vừa bảo
đảm lợi ích của đồng bảo dân tộc Êđê, của tỉnh Đắk Lắk và trên cả là lợi ích
quốc gia, dân tộc vừa tuân thủ những quy định và cam kết quốc tế. Nhà nuớc
với trách nhiệm của mình phải lựa chọn các phuơng thức quản lý nhà nuớc để
vừa bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, vừa tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu thêm giá trị bản sắc văn hóa của mình.
- Yếu tố chỉnh trị: Đường lối, chính sách của Đảng là cơ sở để Nhà nước
ban hành chính sách, pháp luật. Mọi hoạt động của Nhà nước không thể đi
33
ngược lại các mục tiêu chính trị, các quy định của Nhà nước đối với xã hội cũng
phải phù hợp với những định hướng chính trị trong xã hội. Những định hướng
chính trị có tác động và ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hệ thống thể chế nhà nước,
trên tất cả các phương diện, từ chủ thể quản lý - nhà nước đến đối tượng quản
lý - công dân và xã hội, từ phương thức quản lý - quyền lực nhà nước đến mục
tiêu quản lý - mục tiêu chính trị của Đảng. Chính vì vậy, các chính sách của
tỉnh có tác động không nhỏ đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn. Chính sách tốt, sâu sát sẽ tạo điều
kiện để những giá trị văn hóa cồng chiêng được bảo tồn, tránh thất thoát về số
lượng, là nguồn lực tinh thần trong đời sống cộng đồng người Êđê, khích lệ,
động viên đồng bào dân tộc Êđê hăng say trong lao động sản xuất cũng như
trong việc tham gia các lễ hội của đồng bào mình.
- Yếu tố kinh tế: Là một trong những yếu tố tác động quan trọng đến hoạt
động quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên nói chung và của đồng bào dân tộc Êđê tại Đắk Lắk nói riêng. Để có thể
thực hiện các chính sách quản lý nhà nước hữu hiệu đòi hỏi phải có các nguồn
lực kinh tế đảm bảo thực hiện. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN, bên cạnh những mặt tích cực đã xuất hiện những yếu tố tiêu cực
trọng lợi ích vật chất làm cho những giá trị văn hóa cồng chiêng của người Êđê
cũng bị tác động ảnh hưởng. Hiện nay, mục tiêu cao nhất đặt ra cho công tác bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của người Êđê là vừa bảo tồn lâu dài
các yếu tố gốc cấu thành nên các giá trị văn hóa đồng thời vừa phát huy giá trị
văn hóa phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Yếu tố pháp lý: Pháp luật là một trong những công cụ quản lý quan
trọng nhất tác động đến đối tượng bị quản lý. cần có cơ chế, chính sách phù
hợp cùng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quản lý nhà nuớc, tạo động lực cho các hoạt động bảo tồn và phát huy các
34
giá trị văn hóa cồng chiêng của người Êđê”.
- Ngoài các yếu tố nêu trên, nhận thức của nhà quản lý cũng như nhận
thức của cộng đồng về giá trị văn hóa cồng chiêng tác động ảnh huởng đến hoạt
động quản lý nhà nuớc về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của
dân tộc Êđê. Nhận thức khác nhau thì nội dung quản lý, phuơng thức quản lý,
việc tạo lập thể chế, xây dựng chính sách cũng sẽ khác nhau, và tất yếu dẫn đến
hiệu quả hoàn toàn khác nhau.
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê tại tỉnh Gia Lai
Gia Lai là một trong 5 tỉnh ở Tây Nguyên còn giữ gìn được rất nhiều
bộ cồng chiêng. Nhiều năm qua, được sự quan tâm, động viên của các cấp chính
quyền và xuất phát từ nhu cầu mong muốn bảo tồn cồng chiêng của người dân
ở các làng đồng bào DTTS, theo đó nhiều làng đã thành lập các đội chiêng như
đội chiêng làng Pyang (thị trấn Kông Chro, huyện Kông Chro), đội chiêng làng
Leng (xã Tơ Tung, huyện Kbang), đội chiêng làng Quen (xã Ia Me, huyện Chư
Prông), đội chiêng buôn Broăi (xã Ia Broăi, huyện Ia Pa)…Các đội chiêng này
thường xuyên được mời đi biểu diễn tại các sự kiện lớn trong và ngoài tỉnh.
Qua điều tra, thống kê sơ bộ tại 1.192 làng đồng bào dân tộc Gia Rai,
Ba Na trên địa bàn tỉnh Gia Lai còn lưu giữ 5.655 bộ cồng chiêng. Trong đó
dân tộc Gia Rai có 3.373 bộ, dân tộc Ba Na có 2.282 bộ và 932 bộ cồng chiêng
quý hiếm. Toàn tỉnh có 948/1.192 làng vẫn còn lưu giữ cồng chiêng, chiếm
79,5%; Ia Grai là huyện còn lưu giữ được nhiều cồng chiêng nhất tỉnh Gia Lai
với 1.116 bộ, trong đó có 353 bộ cồng chiêng quý hiếm. Toàn tỉnh có khoảng
900 nghệ nhân giỏi và hơn 60 nghệ nhân biết chỉnh chiêng.
Tỉnh Gia Lai chú trọng khai thác các yếu tố của không gian văn hóa
cồng chiêng để phát triển du lịch như xây dựng các sản phẩm du lịch cộng
đồng; kết hợp lễ hội với các di sản thiên nhiên như lễ hội hoa dã quỳ - núi lửa
35
Chư Đang Ya, lễ hội cỏ hồng gắn với ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc,
hội đua thuyền độc mộc trên sông Pô Cô gắn với liên hoan văn hóa cồng
chiêng… Tỉnh Gia Lai là điểm sáng trong việc bảo tồn không gian văn hóa
cồng chiêng bằng nhiều hình thức.Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng
chiêng, tỉnh Gia Lai chủ trương thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, tiếp tục cụ thể hóa bằng các chương trình, kế hoạch hành động
để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và các văn bản chỉ
đạo của Trung ương, của tỉnh về phát triển văn hóa. Trong đó tập trung khuyến
khích bảo tồn về nhà rông truyền thống và không gian văn hóa cồng chiêng.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về lòng tự hào, ý thức gìn giữ
của chính cộng đồng người đồng bào dân tộc thiểu số về vốn văn hóa truyền
thống của dân tộc mình, đặc biệt là trong lứa tuổi thanh thiếu niên. Phát huy tốt
vai trò của đội ngũ nghệ nhân, khuyến khích việc truyền dạy Cồng chiêng, các
giá trị văn hóa phi vật thể như: dệt thổ cẩm, đan lát, tạc tượng, chỉnh chiêng,
hát Hơrmon,….
Ba là, duy trì và phát triển những thiết chế văn hóa phù hợp với bản sắc
văn hóa của người dân trên địa bàn, từ đó tạo sân chơi, môi trường diễn xướng
rộng khắp như thông qua các lễ hội, cuộc thi, hội diễn… thu hút đông đảo người
dân tham gia sinh hoạt lành mạnh.
Bốn là, thực hiện tốt các chính sách về dân tộc trên địa bàn, gắn kết chặt
chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới với phát triển văn
hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Năm là, chú trọng gắn kết việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
với mô hình du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, tạo ra các sản phẩm văn hóa
du lịch đặc trưng, những món quà lưu niệm cho du khách.
Thứ sáu, phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể ở cơ sở trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và thực hiện những giải pháp
36
cụ thể để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các các dân tộc trên địa bàn phù
hợp với điều kiện của địa phương và xu hướng hội nhập hiện nay. Tập trung
huy động các nguồn đầu tư, hỗ trợ cho công tác sưu tầm, bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc. Kịp thời khen thưởng, nêu gương, nhân rộng các điển hình tiên
tiến trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trên địa bàn
37
quản lý.
Tiểu kết chương 1
Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất của công tác quản lý văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là quá trình tác động, điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước thông qua pháp luật trên tất cả các hoạt động trong đời sống xã hội nhằm
phát triển, đáp ứng nhu cầu văn hóa nói chung của nhân dân.
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi của vùng Tây Nguyên. Tỉnh có địa hình
hành chính ổn định, là trung tâm của tam giác phát triển 3 nước Việt Nam, Lào
và Campuchia với nhiều dân tộc anh em sinh sống, đây là điều kiện thuận lợi
nhưng cũng là một khó khăn và thử thách đối với tỉnh nhà.
Quản lý nhà nước về văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên có những thuận
lợi và khó khăn nhất định. Trong xu thế hội nhập sâu toàn cầu, sự xâm nhập
của văn hóa độc hại, sự lai căng, lối sống thực dụng và những tiêu cực khác
của nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng, làm băng hoại những giá
trị văn hóa truyền thống trong đó có di sản văn hóa cồng chiêng. Các hoạt
động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp trong mọi mặt của đời sống xã hội,
cần phải có sự tăng cường công tác quản lý về di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên của cả hệ thống chính trị trong việc vận hành thể chế cũng như
các thiết chế văn hóa nhằm nâng cao hiệu lực, chất lượng quản lý nhà nước
về văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Kết quả nghiên cứu về phương diện lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về di
sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở chương 1 là cơ sở để luận văn phân tích, đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của tỉnh Đắk Lắk
trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng của
38
công tác quản lý di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của tỉnh trong thời gian tới.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cộng đồng
dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên. Phía Đông giáp Phú
Yên và Khánh Hòa, phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông, phía Tây giáp
Campuchia đường biên giới dài hơn 70 km, phía Bắc giáp Gia Lai.
Tỉnh Đắk Lắk có địa hình hướng thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc.
Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng, vùng phía Tây Bắc khí hậu
nắng nóng, khô hanh về mùa khô, vùng phía Đông và phía Nam có khí hậu mát
mẻ, ôn hoà. Thời tiết chia làm 2 mùa khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Rừng Đắk Lắk có diện tích và trữ lượng lớn với nhiều chủng loại gỗ quý,
nhiều loại cây đặc sản có giá trị kinh tế và giá trị khoa học. Khoáng sản với trữ
lượng khác nhau. Hệ thống sông suối khá phong phú, phân bố tương đối đồng
đều, tuy nhiên do địa hình dốc nên khả năng trữ nước kém, những khe suối nhỏ
hầu như không có nước trong mùa khô.
Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên là 13.085 km2, trong đó chủ yếu là nhóm
đất xám, đất đỏ bazan và một số nhóm khác như: đất phù sa, đất gley, đất đen.
Các nhóm đất được hình thành từ đá bazan có độ phì khá cao, rất thích hợp với
các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu và
nhiều loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày khác, là lợi thế rất quan trọng
39
về điều kiện phát triển nông nghiệp của tỉnh Đắk Lắk.
Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1
thị xã và 13 huyện. Trong đó có 184 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 152 xã,
20 phường và 12 thị trấn.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Điều kiện kinh tế
Kinh tế chủ đạo của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu
nông sản, lâm sản.
Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả
nước, với diện tích 199.801 ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên
400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả nước.
Đắk Lắk là nơi trồng bông, cao su, ca cao, điều lớn của Việt Nam.
Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái như cây bơ, sầu riêng, chôm
chôm, xoài.
Đắk Lắk là tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh thái. Du lịch Đắk Lắk đang
có lợi thế với nhiều địa danh cho phép khai thác theo hướng kết hợp cảnh quan,
sinh thái, môi trường và truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc trong tỉnh và
các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên đẹp.
Tăng trưởng kinh tế năm 2021 của tỉnh ước đạt 5,1%, trong đó khu
vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,97%; khu vực công nghiệp – xây
dựng tăng 17,98%; khu vực dịch vụ tăng 2,44%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm tăng 2%.
- Điều kiện xã hội
Dân số tỉnh Đắk Lắk đến thời điểm hiện tại là 2.127.000 người, với tổng
diện tích là 13.125,4 km2. Theo GRDP thống kê kinh tế – xã hội đạt 78.686 tỷ
đồng (tương đương 3.417,5 triệu đô la Mỹ), GRDP bình quân đầu người đạt 41
triệu đồng (tương đương 3.417,5 triệu đô la Mỹ, tương đương 1.781 đô la Mỹ),
40
tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,82%.
Tỉnh Đắk Lắk có 49 dân tộc cùng chung sống, tỷ lệ đồng bào dân tộc
thiểu số chiếm 35,7% tổng dân số, trong đó dân tộc Êđê gần 300.000 người,
Mnông trên 40.000 người.
Hiện nay ở Đắk Lắk các dân tộc thiểu số tại chỗ: Êđê, M’nông, J’rai,
Sê Đăng.
Dân tộc Êđê thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo (Malayo - Polynesien), gồm
các nhóm: Kpạ, Adham, M’dhur, Bih, Blô, K’tul, K’rung, Ê Ban, H’wing, dân
số có khoảng 240.000 người.
Dân tộc Mnông thuộc hệ ngôn ngữ Môn – Khơme, gồm các nhóm: Gar,
Noong, Bu Nơr, Chinh, Kuênh, Prâng, Prenh, Rlăm, Bu Đâng, Biăt, Dip, Rơ
Ông, dân số có khoảng 50.000 người.
Dân tộc Gia Rai gồm các nhóm Gia Rai Cheo Reo, thuộc hệ ngôn ngữ
Nam Đảo, dân số hiện nay khoảng trên 11.000 người.
Đắk Lắk là tỉnh có bản sắc văn hóa đa dạng, được xem là một trong
những cái nôi nuôi dưỡng không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được
UNESSCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
Đắk Lắk hiện có 615.222 tín đồ tôn giáo (chiếm khoảng 32% dân số),
trong đó 255.267 tín đồ là người dân tộc thiểu số, sinh hoạt chủ yếu tại 4 tôn
giáo lớn là Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài. Toàn tỉnh có 356 cơ sở và
điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo với 1.395 chức sắc, tu sĩ.
Hệ thống giáo dục trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng tương đối hoàn chỉnh.
Đến đầu năm học 2019 - 2020, toàn ngành có 1.040 trường học từ mầm non
đến trung học phổ thông (tăng 53 trường so với năm học 2014 - 2015), trong
đó có 82 trường ngoài công lập. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục được đầu tư
theo hướng kiên cố hóa và chuẩn hóa. Đội ngũ giáo viên cơ bản đủ về số lượng,
cơ cấu, chất lượng ngày một nâng cao đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong
41
tình hình mới.
Tỉnh Đắk Lắk có 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, có quốc lộ 14,
Quốc lộ 27, Quốc lộ 26 nối với quốc lộ 1A tại thị trấn Ninh Hòa, tỉnh Khánh
Hòa. Ngoài ra, tỉnh có sân bay Buôn Ma Thuột với các tuyến bay đi lại từ Buôn
Ma Thuột đến các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Nằng, Vinh, Hải Phòng, Thanh Hóa và Cần Thơ.
2.1.3. Cộng đồng dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Cộng đồng dân tộc Êđê hiện sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có gần
300.000 người, chiếm 17,2% dân số toàn tỉnh và 90,1% tổng số người Êđê tại
Việt Nam [58]. Dân tộc Êđê sinh sống và phân bố đều tại thành phố Buôn Ma
Thuột và tất cả các huyện của tỉnh Đắk Lắk, gồm các dòng sau:
- Êđê Kpă (tự nhận là chính dòng Đê). Cư trú quanh thành phố Buôn Ma
Thuột, Krông Ana, Krông Păc, Čư̆ Mgar. Là ngôn ngữ chuẩn có chữ viết của
người Êđê. Họ chính của Êđê Kpă: Niê, Buôn Yă (Byă), Êban, Niê Kdăm...
- Êđê Adham xuất phát từ chữ Ấn Độ là Adaham có nghĩa là vùng trũng
đệm, pha tạp. Êđê Adham cư trú tại huyện Krông Búk, Čư̆ Mgar, Thị xã Buôn
Hồ, Krông Năng và một phần huyện Ea H’Leo. Họ của Êđê Adham: Êya, Kpơr,
Kbuôr…
- Êđê Mdhŭr xuất phát từ chữ Ấn Độ là Madahura có nghĩa là vùng cằn
cỗi, vùng đất thấp. Êđê Mdhur cư trú tại huyện M’Drắk. Họ của người Êđê
Mdhur: Hra, Lemo, Rơ Ô...
- Êđê Bih là nhóm Rang Đê cổ nhất bảo lưu nhiều dấu vết cổ qua ngôn ngữ,
Êđê Bih có truyền thống làm gốm, dệt chiếu, trồng lúa nước, đặc biệt các phụ nữ
có điệu múa mang tên Rom Wŏng (Kdŏ Dar), Kông Tuôr. Họ Cư trú ven sông
Krông Ana, sông Krông Knô của tỉnh Đak Nông. Một số vẫn đang sinh sống gần
hang Băng Adrênh, Xung quanh hồ Ea Kao, hồ Lắk, tại các huyện Krông Bông,
Buôn Đôn, Cư Kuiñ. Họ của người Êđê Bih: BuônDăp (Bdap), Hdruĕ, Êñuôl,
42
Hđơ̆ k, Buôn Krông (Bkrông), Hlŏng, Kmăn, Hmŏk, Knul, Êčăm...
- Êđê Krung xuất phát từ chữ Kurung trong ngôn ngữ Rang Đê cổ, Khi
vua Chế Mân, Chế Bồng Nga mộ lính đi đánh giặc họ tự gọi các thủ lĩnh đó là
Kurung hay Krung. Cư trú chủ yếu tại huyện Ea H’Leo, Krông Búk. Họ Êđê
Krung : Mlô, Ktla, Aliô, Kđoh, Mdrang, Adrơng, Ksơr, Kpă...
Người Êđê trên địa bàn tỉnh làm rẫy là chính. Hằng ngày họ lên nương
trồng bắp, ngô, khoai, đậu…Ngày nay, người Êđê còn tham gia sản xuất nông
sản cây công nghiệp như: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao,... Ngoài trồng trọt còn
có chăn nuôi (trâu, bò, voi…), săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải…
Người Êđê theo chế độ mẫu hệ. Trong gia đình, chủ nhà là phụ nữ theo
đó của cải và đất đai sẽ được truyền từ mẹ sang con gái, con cái mang họ mẹ,
trước đây con trai không được hưởng thừa kế,bây giờ có sự bình đẳng trong
nhà. Phụ nữ chịu trách nhiệm trong quản lý gia đình,chăm sóc con cái, mồ mả
tổ tiên,của cải thừa kế cho con cái... Đàn ông chịu trách nhiệm trong việc ngoại
giao, giao lưu buôn bán với cộng đồng bên ngoài đồng thời các vấn đề tôn giáo
và chính trị cũng là trách nhiệm của người đàn ông. Cho nên vai trò và địa vị
của đàn ông Êđê bên ngoài xã hội là rất lớn. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu
vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng
phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân
của gia đình mẹ đẻ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được
thừa kế nhà tự ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Người Êđê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú: thần thoại, cổ
tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (trường ca, sử thi) nổi tiếng là Trường
ca Đam san. Họ yêu ca hát, múa Rom Wong (kdŏ dar) nhịp nhàng, múa kông
tuôr, thích tấu nhạc. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, Gôc, Kni, đàn, Đinh
Năm, Đĭng Buôt là các loại nhạc cụ phổ biến của người Êđê và được nhiều
người yêu thích.
43
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay
* Thuận lợi
Tỉnh Đắk Lắk có 49 dân tộc cùng chung sống. Với tỷ lệ đồng bào dân
tộc thiểu số chiếm 35,7 % tổng dân số, trong đó dân tộc Êđê gần 300.000 người.
Đây là cái nôi cất giữ nhiều nét văn hóa truyền thống mang bản chất tộc người,
là điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê.
Với địa hình đồi núi thuận lợi phát triển nông nghiệp gắn liền với quá
trình canh tác của đồng bào dân tộc Êđê. Cồng chiêng của người Êđê như sợi
dây kết nối tâm tư tình cảm của họ với các đấng thần linh, thể hiện khát vọng,
ước mơ, nói lên nỗi niềm của họ.
* Khó khăn
Dân tộc Êđê sống ở vùng cao nguyên miền núi, trình độ dân trí chưa cao
nên công tác tuyên truyền việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc biệt là
văn hóa cồng chiêng của người Êđê còn hạn chế.
Điều kiện kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc Êđê chưa cao. Nhiều gia
đình còn khó khăn. Mặt khác, do tác động của nền kinh tế thị trường, toàn cầu
hóa quốc tế, một số giá trị văn hóa cồng chiêng bị mai một, gây khó khăn cho
công tác bảo tồn và phát huy.
2.2.1. Khái quát về văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
* Về số lượng
Tỉnh Đắk Lắk nằm trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Qua công tác điều tra của ngành văn hóa, cồng chiêng toàn tỉnh Đắk Lắk năm
1993 có 4.675 bộ cồng chiêng; năm 2003 còn 3.825 bộ chiêng; đến năm 2007
còn 3.375 bộ cồng chiêng (trong đó dân tộc Êđê có 2.680 bộ). Đến tháng 9/2020
44
tỉnh Đắk Lắk còn tổng số 2.098 bộ chiêng (trong đó dân tộc Êđê có 1.645 bộ).
Như vậy, số lượng cồng chiêng của tỉnh Đắk Lắk ngày càng ít đi. Thống
kê từ năm 1993 đến tháng 9/2020 đã giảm 2577 bộ cồng chiêng. Tương ứng,
cồng chiêng của dân tộc Êđê cũng giảm đi đáng kể. Bên cạnh đó, số nghệ nhân
biết đánh chiêng, số nghệ nhân biết truyền dạy đánh chiêng, số nghệ nhân biết
chỉnh chiêng, biết chơi nhạc cụ truyền thống cũng đã được thống kê qua biểu
sau [52]:
Bảng 2.1. Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh
Stt Loại hình di sản văn hóa phi vật thể Số lượng (người, đội, công trình, hiện vật)
01 Số bộ chiêng các loại 2.098
02 Số nghệ nhân biết đánh chiêng 5.116
03 812 Số nghệ nhân biết truyền dạy đánh chiêng
04 Số nghệ nhân biết chỉnh chiêng 311
05 1.366 Số nghệ nhân biết chơi nhạc cụ truyền thống
06 Số nghệ nhân chế tác nhạc cụ dân tộc 385
Số nghệ nhân biết tạc tượng 07 312
Số nghệ nhân biết làm thầy cúng 08 610
Số nghệ nhân xử luật tục 09 971
10 1.362
Số nghệ nhân biết lời nói vần, dân ca, tục ngữ Số nghệ nhân biết kể sử thi 11 223
Số nghệ nhân biết kể truyện cổ 12 367
45
Số lượng Ché rượu cổ 13 1.389.347
Stt Loại hình di sản văn hóa phi vật thể Số lượng (người, đội, công trình, hiện vật)
Số lượng đội văn nghệ (múa xoang) 14 342
Số lượng ghế Kpan Jhưng 15 1.072
16 Số lượng trống Hgơr 985
17 Số lượng nhà dài truyền thống 5.611
Tổng cộng: 2.098
46
(Nguồn: Báo cáo số 311 /BC-UBND ngày 26/11/2020 của UBND tỉnh)
Bảng 2.2. Tổng hợp các bộ chiêng trên địa bàn tỉnh
STT Đơn vị Tên bộ chiêng Dân tộc Ghi chú Bộ chiêng
01 120 Êđê, Mường Chiêng knah, chiêng tre và chiêng nữ 115 bộ chiêng Êđê, bộ 4 chiêng Mường Buôn Ma Thuột
02 Buôn Hồ 72 Chiêng Knah Êđê
03 Krông Búk 192 Êđê, Jrai Chiêng Knah, chiêng Arap 191 bộ chiêng Êđê Êđê và 1 bộ chiêng Jrai
04 Ea Súp 17 Chiêng Arap, chiêng Pel Jrai, Bana, Thái
05 Buôn Đôn 55 M'Nông, Êđê Chiêng Arap, chiêng Knah, chiêng M'Nông 14 bộ chiêng Jrai, bộ 1 chiêng Bana và 2 bộ chiêng Thái Dân tộc Mnông đánh chiêng Arap và chiêng Knah
06 158 Chiêng Knah Êđê Krông Năng
07 Cư Kuin 65 Chiêng Knah Êđê
08 Krông Ana 67 Êđê 4 bộ chiêng nữ Êđê Bih Chiêng Knah, chiêng Jhô, chiêng Kram
09 214 Krông Bông Chiêng Knah, chiêng Kram Êđê, Mnông Dân tộc Mnông chiêng đánh Êđê
10 Lắk 392 Êđê, Mnông 74 bộ chiêng Êđê, 318 bộ chiêng Mnông
47
Chiêng Knah, chiêng Jhô, chiêng Tur, chiêng Pro, chiêng Ngăn, chiêng Pei
3 11 Krông Pắc 119
Chiêng Knah, chiêng Lào, chiêng bàng Êđê, Xê đăng, Vân Kiều, Jrai
112 bộ chiêng bộ 3 Êđê, Xê chiêng bộ đăng, Vân chiêng Kiều,1 bộ chiêng Jrai
12 Ea Kar 64 Chiêng Knah Êđê
13 Ea H’Leo 135 Êđê, Jrai Chiêng Knah, chiêng Arap 86 bộ chiêng Êđê, 49 bộ chiêng Jrai
14 M’Đrắk 195 Chiêng Knah Êđê
15 Cư M’gar 233 Chiêng Knah, chiêng Hling Êđê, Xê đăng, Thái
230 bộ chiêng Êđê, bộ 2 chiêng Xê đăng và 1 chiêng bộ Thái
Tổng 2.098 cộng:
Trong tổng số 2.098 bộ chiêng, trong đó: 1.645 bộ chiêng Êđê; 319 bộ chiêng M'nông; 118 bộ chiêng Jrai; 05 bộ chiêng Xêđăng: 04 bộ chiêng Mường; 03 bộ chiêng Vân Kiều; 03 bộ chiêng Thái và 01 bộ chiêng Bana.
(Nguồn: Báo cáo số 311/BC-UBND ngày 26/11/2020 của UBND tỉnh)
Qua Bảng số liệu 2.1 và 2.2, có thể thấy rằng số bộ chiêng ngày càng
giảm đi. Hiện nay có 1.645 bộ chiêng Êđê trong tổng số 2.098 bộ chiêng của
các dân tộc. Như vậy, người Êđê có số lượng lớn đồng thời là dân tộc lưu giữ
số lượng cồng chiêng lớn nhất trong tỉnh. Vấn đề quản lý nhà nước trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của đồng bào Êđê là một nội
dung quan trọng trong chuyến lược quản lý văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
của tỉnh Đắk Lắk.
Trên thực tế, số lượng cồng chiêng của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk ngày càng
48
suy giảm và những giá trị văn hóa của cồng chiêng ngày càng mai một. Thực
trạng trên đã và đang đặt ra cho công tác quản lý nhà nước cần phải có những
nhiệm vụ và giải pháp hiệu quả cho việc bảo tồn, kế thừa và phát triển giá trị
văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh đặc biệt là trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường và và hội nhập quốc tế hiện nay.
* Về loại hình
Cồng chiêng là nhạc cụ bởi khi đánh nó phát ra tiếng nhạc, nhưng cồng
chiêng không chỉ để nhằm giải trí, tiêu khiển mà còn gắn liền với lễ hội hay sự
kiện quan trọng. Vì vậy, cồng chiêng đối với người Êđê được xem như một vật
linh thiêng, là phương tiện để con người giao tiếp với những bậc vô hình, là sợi
dây nối kết giữa con người với các đấng thần linh.
Do đó, âm nhạc ở đây không đơn thuần là nghệ thuật mà mang chức năng
phục vụ một sự kiện đặc biệt trong xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày của
dân gian. Hầu như trong mọi sinh hoạt của đồng bào Êđê đều gắn liền với nét
nhạc. Ngay từ khi đứa bé mới lọt lòng thì già làng đã sử dụng chiếc cồng cổ
nhất đến bên giường đánh lên để cho những âm thanh đầu tiên lọt vào tai đứa
bé, đó là tiếng của bộ tộc, khẳng định nó là một phần của cộng đồng bộ tộc.
Người ta gọi đó là lễ thổi tai. Khi đứa trẻ lớn lên thì mỗi giai đoạn của đời sống
đều gắn liền với tiếng cồng chiêng: Từ việc gieo mạ đến những buổi gặp gỡ
nam nữ, cưới hỏi, tang lễ, đều có bài bản riêng cho cồng chiêng. Đặc biệt xưa
kia những thanh niên nào đó đến tuổi trưởng thành nhưng không biết chơi cồng
chiêng sẽ rất khó lấy vợ, gả chồng.
Khả năng tiếp nhận âm nhạc của đồng bào Êđê phát triển tự nhiên không
qua trường lớp nào cả mà chủ yếu được phổ biến trong cộng đồng thông qua các
mùa lễ hội, hoặc những đợt trình tấu liên tục trong buôn làng thâu đêm suốt sáng.
Ban ngày đội cồng chiêng làng sẽ đi vòng quanh từng ngôi nhà trong buôn làng
để cầu phúc gia chủ, ban đêm cả làng tụ họp quanh đống lửa ở sân nhà rông
49
(hoặc sân chung) để cùng nhau nhảy múa, ca hát theo nhịp của cồng chiêng.
Cồng chiêng Êđê bảo lưu hình thức diễn xướng tập thể của cộng đồng,
hợp tấu bằng cách nghe nhau, trong đó tâm linh cộng đồng đóng vai trò quan
trọng. Bởi, mỗi chiếc cồng chiêng chỉ là một nốt nhạc. Từng chiếc cồng chiêng
trong dàn kết hợp với nhau để tạo ra bản nhạc, khi nghe sẽ cảm nhận được bè
trầm, bè trung và bè cao. Do đó mỗi nhạc cụ chỉ chọn một nốt và mô hình tiết
tấu kết chung lại thành bè, thành giai điệu. Điều này cho thấy giai điệu cồng
chiêng của người Êđê nói riêng, cồng chiêng Tây Nguyên nói chung không
phải của một cá nhân nào mà là sự sáng tạo của cộng đồng.
* Về đặc điểm
Cồng chiêng là di sản văn hóa quý báu của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên nói chung và của dân tộc Êđê tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Cồng chiêng
được coi là vật thiêng nhất, có giá trị nhất trong mỗi gia đình, dòng họ và mỗi
thành viên trong cộng đồng, nó còn là tài sản chung của mỗi dân tộc hợp thành
đại gia đình các gia đình trên cao nguyên. Trước đây hầu hết người dân Tây
Nguyên kể cả đàn ông lẫn đàn bà, người già hay người trẻ, đều là những nghệ
sĩ, nhạc sĩ thực thụ. Người Êđê có thể vừa múa vừa hát vừa sử dụng thành thạo
các nhạc cụ hoặc tham gia vào dàn cồng chiêng. Theo quan niệm của các già
làng, cồng chiêng có thể giúp cho con người thông tin trực tiếp với thần linh,
với các giàng. Cồng chiêng không sử dụng một cách bừa bãi mà chỉ được sử
dụng trong các lễ hội của buôn làng Êđê. Cồng chiêng từ bao đời đã gắn bó mật
thiết với đời sống cộng đồng, với các nghi lễ - lễ hội của đồng bào Êđê bản địa
tại Đắk Lắk; là thế giới tinh thần, là bản sắc văn hóa của đồng bào nơi đây. Các
nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, dân tộc học, sử học, âm nhạc, khảo cổ học ở
trong nước và nước ngoài đã từng đến Đắk Lắk tìm hiểu về văn hóa các dân
tộc, đều khẳng định Đắk Lắk có một nền văn hóa cồng chiêng vô cùng độc đáo
[8].
50
Một bộ chiêng đủ của người Êđê thường có một cái trống và 10 cái
chiêng, gọi là dàn chiêng K’nah. Dàn chiêng này được sắp xếp theo thứ tự các
thành viên trong gia đình mẫu hệ từ lớn đến bé gồm: Trống H’gơr (tượng trưng
cho người bà), chiêng Char (tượng trưng người ông), chiêng Ana (tượng trưng
người mẹ), chiêng M’ đuh (tượng trưng người bố), chiêng Moong (tượng trưng
ông cậu), chiêng Ana di (tượng trưng con gái lớn), chiêng H’liăng (tượng trưng
con gái thứ hai), chiêng Khơk (tượng trưng con trai lớn), chiêng H’luê Khơk
(tượng trưng con trai thứ hai), chiêng H’luê H’liăng (tượng trưng con gái thứ
ba), chiêng H’luê Khơk điết (tượng trưng con trai út) [8].
Trong các nghi lễ vòng đời và nghi lễ nông nghiệp, người Êđê thường sử
dụng dàn chiêng K’ nah để đánh khi tổ chức lễ, chủ yếu 7 chiếc chiêng chính,
đó là: M’ đuh, Ana di, H’liăng, Khơk, H’luê Khơk, H’luê H’liăng, H’luê Khơk
điết. Người Êđê khi đáng chiêng thường ngồi trên ghế k’pan (ghế dài) hoặc bên
phải gian gah (gian khách) của nhà dài lưng dựa vào hướng tây, mặt quay về
hướng đông. Họ dùng dùi gỗ có bọc vải đánh vào mặt trong của chiêng. Tay
phải cầm dùi đánh, tay trái đặt vào mặt chiêng để điều khiển âm điệu của bài
chiêng. Chiêng Êđê tiết tấu cao, nghe rộn ràng sôi nổi như suối reo, thác đổ,
mưa rào.
Ở lễ bỏ mả của người Êđê M’dhur, người ta chỉ dùng ba chiêng là chiêng
Char, chiêng Ana và chiêng Moong kết hợp với trống H’ gơr vừa đi vừa đánh
xung quanh nhà mồ (ngược chiều kim đồng hồ) tạo âm thanh khoan thai trầm
lắng phụ họa cho mọi người múa điệu tung khắc để tiễn đưa người quá cố về
với tổ tiên, ông bà.
Ở người Êđê Bih có bộ chiêng Jhô, gồm sáu cái có núm cộng với trống
H’ gơr do sáu người phụ nữ đánh và một người phụ nữ đánh trống điều khiển
nhịp chiêng. Chiêng Jhô được sử dụng trong các ngi lễ của người Êđê Bih.
Người sử dụng chiêng Jhô thường đứng đánh hoặc vừa đi vừa đánh tạo tiết tấu
51
du dương rộn rã như nhịp sống ngày mùa.
Bên cạnh cồng chiêng là nhạc cụ chính trong nghi lễ - lễ hội của người
Êđê, còn có một số nhạc cụ được làm từ nguyên liệu của núi rừng (chủ yếu
bằng tre, nứa, gỗ, đá, cọng lúa…). Gồm có:
Cing Kram (chiêng tre): được làm từ những thanh tre có ống cộng hưởng,
lúc đánh người ta đặt thanh tre nằm ngang trên ống cộng hưởng, tạo âm thanh
ngân vang, trầm ấm.
Kèn Đing năm: Được làm từ 6 ống tre cắm vào một quả bầu khô. Các
ống tre được xếp thành hai hàng trên ba dưới ba. Kèn Đing năm thường được
sử dụng trong đám tang hoặc trong lễ bỏ mả của người Êđê.
Cồng chiêng là nhạc cụ gắn chặt với đời sống vật chất và tâm linh của
đồng bào dân tộc Êđê. Vì vậy, cồng chiêng Tây Nguyên thực sự sống động khi
nó được thực hiện giữa không gian núi rừng Tây Nguyên, bên ngọn lửa trại
hoặc ở nhà rông. Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định
tính trường tồn của loại nhạc cụ này: Hãy đánh những cái chiêng kêu thanh
nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh
cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ! Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi
xa. Đánh cho tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên
cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ
mê mải nghe đến quên làm hại con người. Đánh cho chuột, sóc quên đào hang,
cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật mình, cho hươu, nai nghe quên ăn cỏ,
cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San [35]. Tiếng cồng chiêng
Tây Nguyên hòa nhịp âm vang gợi cho người nghe như thấy được cả không
gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội của người dân nơi đây.
Tiếng cồng chiêng còn đem đến đời sống của người Êđê sự lãng mạn, yêu lao
động. Đó chính là nguồn gốc của những sử thi, thơ ca đi vào lòng người.
Trong mỗi nghi lễ của đồng bào Êđê đều có những bài chiêng cụ thể gắn
52
với những giai điệu trầm bổng thiết tha để thông tin với các vị thần và chia sẻ
niềm vui, nỗi buồn với chủ nhà với cộng đồng. Điều này chứng tỏ từ xa xưa
các đồng bào ở đây đã có những quan niệm sâu sắc về mối liên hệ mật thiết
giữa con người với không gian văn hóa. Chính quan niệm đó là cơ sở của một
hệ thống nghi lễ vòng đời người phong phú, đa dạng thông qua văn hóa cồng
chiêng.
Cồng chiêng của người Êđê mang giá trị văn hóa cổ truyền, bởi nó bắt
nguồn từ sự tổng hòa các giá trị văn hóa đa dạng như: Giá trị biểu thị đặc trưng
và bản sắc văn hóa vùng miền; giá trị đặc trưng văn hóa tộc người hoặc nhóm
tộc người; giá trị phản ảnh đa chiều; giá trị nghệ thuật; giá trị sử dụng đa dạng;
giá trị cố kết cộng đồng và giá trị lịch sử.
Trong những năm qua, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về phát triển văn hóa - xã hội vùng dân tộc, miền núi; đồng thời
triển khai thực hiện chương trình của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về bảo
tồn không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, sau khi được Tổ chức Giáo
dục - Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận không
gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của
nhân loại (tháng 11/2005), tỉnh Đắk Lắk đã tích cực, chủ động nhằm phát triển
văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh, nhất là vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số tại chỗ và đạt được những kết quả quan trọng trong tư tưởng, lối sống, phong
tục, tập quán tiến bộ của nhân dân các dân tộc trong tỉnh được giữ gìn, bảo vệ
và phát huy.
Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật ngày càng đa dạng, phong phú, chất
lượng từng bước được nâng lên. Việc mở rộng giao lưu văn hóa giữa các dân
tộc trong tỉnh với nhân dân các địa phương khác trong nước và nước ngoài ngày
càng được tăng cường. Đặc biệt, các hoạt động liên quan đến không gian văn
hóa cồng chiêng của đồng bào Êđê đã góp phần tích cực trong việc gìn giữ,
53
phát huy những giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc bản địa ở Đắk Lắk,
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Tuy nhiên, bênh cạnh những giá trị tốt đẹp mà văn hóa cồng chiêng mang
lại, cùng với quá trình chuyển biến về kinh tế, xã hội, tín ngưỡng đã và đang
làm thay đổi mạnh mẽ cuộc sống của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh. Di sản
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng, đang đứng
trước những thách thức lớn, đối mặt với nguy cơ mai một. Đó là ảnh hưởng của
văn hóa hiện đại; tác động mặt trái của cơ chế thị trường; sự đô thị hóa quá
nhanh; sự ảnh hưởng của tôn giáo; người già biết văn hóa cồng chiêng lần lượt
qua đời, lớp trẻ không mặn mà với văn hóa cồng chiêng của ông bà để lại; rừng
bị tàn phá, không gian canh tác nương rẫy bị thu hẹp, bến nước bị hoang hóa,
nhà dài truyền thống đang bị thay dần bằng nhà bê tông, nghĩa là không gian
văn hóa cồng chiêng đang bị mất dần. Nhiều nơi cồng chiêng không còn mang
ý nghĩa linh thiêng nữa mà đã trở thành vật buôn bán, trao đổi, phục vụ cho các
mục đích khác.
2.2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay
2.2.2.1. Việc ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương trình,
kế hoạch, đề án về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá cồng chiêng
Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các Bộ,
ngành Trung ương, sự lãnh đạo và điều hành của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh,
sự phối hợp chặt chẽ của UBMTTQ Việt Nam tỉnh, các cơ quan, đoàn thể, sự
hưởng ứng và đồng thuận của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Đắk Lắk đã phấn
đấu vượt qua những khó khăn, thách thức, phát huy những thuận lợi và đạt
được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh quốc phòng; đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến
54
đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Trong đó, công tác bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa đặc biệt là văn hóa cồng chiêng Êđê trên địa bàn tỉnh
còn nhiều vấn đề bất cập cần được quan tâm, tháo gỡ.
Việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế
hoạch, đề án… về bảo tồn, phát huy giá trị của văn hoá cồng chiêng của HĐND,
UBND và sở, ban, ngành các cấp trong tỉnh Đắk Lắk luôn được quan tâm thực
hiện. Ngày 13/7/2007, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 10/NQ-HĐND
và Nghị quyết số 63/2012/NQ-HĐND ngày 06/7/2012 của HĐND tỉnh về “Bảo
tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn
2007- 2015. Tuy nhiên, bài học kinh nghiệm qua tổng kết thực tiễn đó là việc
bảo tồn “không gian văn hóa cồng chiêng” tính khả thi thấp.
Ngày 30/8/2016, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 05/2016/NQ-
HĐND về bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn
2016-2020, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 1336/KH-UBND ngày
28/02/2017, về việc tổ chức, triển khai thực hiện Nghị quyết số 05 của HĐND
tỉnh về bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016-
2020. Hàng năm, căn cứ Nghị quyết 05 của HĐND tỉnh và Kế hoạch 1336 của
UBND tỉnh về bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh, Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch để
thực hiện bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh, giai đoạn
2016-2020, đó là nhiệm vụ bảo tồn “văn hóa cồng chiêng”, nội dung hết sức cụ
thể, phải giữ gìn, bảo vệ từng bộ chiêng quý, tổ chức nhiều lớp truyền dạy đánh
chiêng, kỹ năng chỉnh chiêng, thẩm âm, diễn tấu cồng chiêng để thế hệ trẻ tiếp
tục kế nghiệp các nghệ nhân đã lớn tuổi; cần bảo vệ những ngôi nhà dài truyền
thống để trở thành nơi sinh hoạt cồng chiêng; thường xuyên tổ chức, phục dựng,
trình diễn các nghi lễ, lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với cồng chiêng
tại cộng đồng để góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng
55
của đồng bào Êđê trong giai đoạn hiện nay.
Công tác kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk được thực hiện thường xuyên, liên tục. UBND tỉnh đã ban hành Kế
hoạch số 6795-KH/UBND ngày 21/8/2019 về kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn
hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2019 – 2020. Bên cạnh đó,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Kế hoạch số 597/KH-SVHTTDL
ngày 16/3/2020 triển khai công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể di sản
văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh, Kế hoạch số 1870/KH-SVHTTDL ngày
05/8/2020 triển khai khảo sát, điền dã và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk năm 2020.
Ngày 09/9/2019, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 648-KH/UBND
giám sát thực hiện Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND, ngày 30/8/2016 của
HĐND tỉnh về bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai
đoạn 2016-2020.
Ngày 17/12/2021 HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 10/2021/NQ-
HĐND về bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn
2022-2025 có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 [19]. Nghị quyết nhằm mục tiêu kế
thừa, lâu dài, thường xuyên, liên tục trong việc góp phần thực hiện mục tiêu
bảo tồn, gìn giữ, phát huy có hiệu quả không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên trên địa bàn tỉnh theo nội đung đã cam kết trong hồ sỏ đệ trình với Tổ
chức UNESCO.
Để triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong từng giai đoạn, tỉnh Đắk Lắk
đã chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Sở, ngành, địa
phương, đơn vị liên quan trong và ngoài tỉnh để tổ chức tuyên truyền, giới thiệu,
quảng bá về văn hóa cồng chiêng, ban hành Kế hoạch phối hợp số 1788/KHPH-
SVHTTDL-SGD ĐT ngày 26/9/2018 giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
với Sở Giáo dục và Đào tạo về việc tuyên truyền giáo dục các giá trị di sản văn
56
hóa cho học sinh trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm
2025; phục dựng, trình diễn các nghi lễ, lễ hội; cấp chiêng và trang phục truyền
thống; đề nghị xem xét, phong tặng danh hiệu nghệ nhân dân gian; tổ chức giao
lưu, liên hoan văn hóa cồng chiêng (Kế hoạch số 849/KH-SVHTTDL ngày
21/4/2020 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức liên hoan văn hóa cồng
chiêng tỉnh Đắk Lắk năm 2020), phấn đấu thực hiện các nội dung đã cam kết
trong hồ sơ đệ trình UNESCO và mục tiêu, chỉ tiêu mà Nghị quyết 05 của
HĐND tỉnh đã đề ra trong giai đoạn 2016-2020; giữ gìn, bảo tồn, khai thác và
phát huy có hiệu quả di sản văn hóa cồng chiêng; từng bước khôi phục không
gian văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số đặc
biệt là đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
2.2.2.2. Việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị
văn hoá cồng chiêng; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về bảo tồn, phát huy giá
trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Trong những năm qua, tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức nhiều hoạt động bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa Cồng chiêng như các hoạt động phục dựng nghi lễ,
giao lưu văn hóa, các chính sách cho những gia đình, những người gìn giữ
chiêng, chỉnh chiêng; tuyên truyền, giáo dục, đồng thời mở nhiều lớp đào tạo
bồi dưỡng cho các lớp trẻ học các kỹ thuật đánh và chỉnh chiêng, góp phần phát
triển không gian văn hoá Cồng chiêng, tạo điều kiện để lớp trẻ không quay lưng
lại với bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình.
* Về công tác tuyên tryền, giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa cồng
chiêng: Tỉnh thường xuyên chủ động phối hợp với các cơ quan báo, đài ở Trung
ương, để tổ chức tuyên truyền, quảng bá về di sản văn hóa cồng chiêng. Các cơ
quan, báo đài đã tích cực phối hợp đưa tin, bài, hình ảnh, phóng sự về di sản
văn hóa cồng chiêng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, còn
thực hiện treo băng rôn, cờ phướn, phát tờ rơi, tuyên truyền trên Bảng điện tử
57
tại các cổng chào của thành phố Buôn Ma Thuột. Tổ chức trưng bày, triển lãm
chuyên đề về di sản văn hóa cồng chiêng trong các dịp lễ, sự kiện quan trọng
của tỉnh, khu vực và toàn quốc. Xây dựng nội dung để tuyên truyền trên Cổng
Thông tin điện tử tỉnh, Báo Đắk Lắk và phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền
hình tỉnh (DRT), kết hợp hình thức chạy chữ trên màn hình trong thời lượng
phát sóng của Truyền hình Văn hóa - Du lịch (trên sóng của DRT).
Ngoài những hình thức trên, còn giới thiệu, quảng bá nội dung, chương
trình biểu diễn cồng chiêng phục vụ Nhân dân và du khách trên Tạp chí Du
lịch, Trang Thông tin điện tử của Tổng cục Du lịch, Trang Thông tin điện tử
của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch
Đắk Lắk (có cẩm nang du lịch bằng tiếng Việt và tiếng Anh), Bảo tàng tỉnh,
Ban Quản lý Di tích tỉnh và tổ chức quảng bá trên mạng xã hội như: Facebook,
Youtube, Zalo…; bước đầu đã truyền tải được thông tin về Chương trình đến
với đông đảo Nhân dân và du khách được biết đến xem, cổ vũ cho Chương
trình và tuyên truyền trong 02 Đặc san của Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột 2017,
2019 (tiếng Việt và tiếng Anh).
Lồng ghép giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa cồng chiêng nhân dịp các
đoàn phóng viên, hãng thông tấn báo chí nước ngoài đến tác nghiệp làm phim,
phóng sự chuyên đề, hoạt động báo chí, đưa tin về Lễ hội Cà phê Buôn Ma
Thuột… trên địa bàn tỉnh.
Các huyện, thị xã, thành phố đã chủ động phối hợp tổ chức tuyên truyền
thực hiện Nghị quyết 05, Nghị quyết 16 của HĐND tỉnh bằng nhiều hình thức
như: xe loa, cổ động trực quan, lưu động, hội nghị, hội thi, hội diễn, liên hoan,
băng rôn, cờ phướn, đài truyền thanh, trên cổng chào điện tử, góp phần bảo tồn
và phát huy văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh (Phụ lục VI).
* Các hoạt động phục dựng nghi lễ: Thường xuyên tổ chức trình diễn
một số lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Năm
58
2017 tổ chức phục dựng Lễ cúng cầu mưa và Lễ kết nghĩa anh em của người
Êđê tại thành phố Buôn Ma Thuột trong Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ
6 và Liên hoan văn hóa cồng chiêng năm 2017. Phối hợp với các tỉnh Tây
Nguyên phục dựng 06 nghi thức, nghi lễ của đồng bào dân tộc thiểu số, gồm:
Lễ mừng lúa mới của người K’ho (tỉnh Lâm Đồng); Lễ bắc máng nước của
người Xơ Đăng (tỉnh Kon Tum); Lễ cưới xin của người M’nông (tỉnh Đắk
Nông) tổ chức ở Khu du lịch sinh thái Cộng đồng Ko Tam; Lễ cầu mưa và Lễ
kết nghĩa anh em của người Êđê (tỉnh Đắk Lắk) tổ chức ở Khu du lịch buôn
Ako Dhong và Lễ cúng nhà Rông mới của người Ba Na (tỉnh Gia Lai) tổ chức
tại xã Krông Na, huyện Buôn Đôn. Với sự tham gia trên 200 nghệ nhân đến từ
các tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Đắk Lắk và Lâm Đồng. Hàng năm, các
huyện, thị xã, thành phố tổ chức ngày hội văn hóa, thể thao các dân tộc toàn
huyện, thị xã, thành phố; tổ chức liên hoan văn hóa cồng chiêng; ngày hội văn
hóa, thể thao cấp xã; tổ chức các hoạt động diễn tấu cồng chiêng gắn với nghi
thức, nghi lễ, lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số như: Lễ cúng bến nước,
Lễ cúng lúa mới, Lễ mừng cơm mới, Lễ cúng sức khỏe, Lễ cầu mùa no đủ, nghi
lễ đám cưới, Lễ trưởng thành và nhiều nghi lễ, lễ hội khác. Từ năm 2016 đến
năm 2020, qua số liệu thống kê, các huyện, thị xã, thành phố tổ chức được 131
nghi lễ, lễ hội và ngày hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn
với cồng chiêng.
Việc tổ chức phục dựng, trình diễn các nghi thức, nghi lễ, lễ hội đã tuân
thủ các quy định của Nhà nước về việc tổ chức và quản lý lễ hội, nội quy, quy
định của Ban Tổ chức Lễ hội, đảm bảo các điều kiện về không gian, thời gian,
địa điểm, vui tươi, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, thực hiện nếp sống văn minh
trong lễ hội. Với nỗ lực và mong muốn lớn nhất của việc phục dựng nghi thức,
nghi lễ, lễ hội là nhằm tái hiện những nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc Việt
Nam, tiếp tục lưu truyền cho thế hệ mai sau. Việc tổ chức phục dựng nghi thức,
59
nghi lễ đã đem lại đời sống tinh thần cho đồng bào các dân tộc vui vẻ, lòng tự
hào, sự hiểu biết, đoàn kết, thương yêu, lòng nhân ái, thể hiện sự bình đẳng dân
chủ trong cộng đồng.
* Hoạt động giao lưu văn hóa cồng chiêng: Năm 2017, tỉnh Đắk Lắk
đăng cai tổ chức thành công Liên hoan văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên cùng
với Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 6: Đêm hội diễn tấu cồng chiêng Tây
Nguyên với chủ đề “Bản sắc trong thế giới hội nhập” là một trong những hoạt
động quan trọng, đặc sắc của Lễ hội và Liên hoan, nhằm giới thiệu bản sắc văn
hóa độc đáo của Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng đến với bạn bè
trong nước và quốc tế, góp phần tôn vinh các chủ nhân của di sản văn hóa cồng
chiêng, bảo tồn và phát huy giá trị Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây
Nguyên - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại với hơn 300 nghệ
nhân, nghệ sỹ, diễn viên của 06 đoàn nghệ nhân của các tỉnh (Đắk Lắk, Quảng
Nam, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Nông) và sự tham gia biểu diễn của
04 Đoàn nghệ thuật nước ngoài (Campuchia, Hàn Quốc, Lào và Rumani). Đặc
biệt, tại Đêm hội còn có sự tham dự của hơn 200 già làng, trưởng buôn tiêu
biểu đến từ các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh. Đêm hội đã thu hút
khoảng 5.000 khán giả tới tham dự.
Năm 2018, tỉnh Đắk Lắk tham gia Festival văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên tại tỉnh Gia Lai. Ngoài ra, phối hợp với cơ quan, đơn vị liên quan tổ
chức nhiều chương trình, hoạt động về văn hóa cồng chiêng để phục vụ Nhân
dân, du khách ở trong nước, khu vực và quốc tế (Năm 2017, Chương trình biểu
diễn văn hóa Cồng chiêng phục vụ Nhân dân địa phương và du khách tại Biệt
điện Bảo Đại được 12 kỳ. Tổ chức Đêm hội diễn tấu Cồng chiêng tại Liên hoan
văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên năm 2017 tại tỉnh Đắk Lắk và tham gia “Liên
hoan Độc tấu và Hòa tấu nhạc cụ dân tộc” tại tỉnh Thanh Hóa).
Các hoạt động: Tham gia trưng bày, chế tác, trình diễn nhạc cụ tre nứa
60
và triển lãm Ảnh nghệ thuật “Cà phê Buôn Ma Thuột, Văn hóa cồng chiêng và
Quê hương - con người khu vực Duyên hải miền Trung Tây Nguyên”, từ ngày
16/4 - 22/4/2017 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô,
Sơn Tây, Hà Nội. Festival văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, từ ngày 30/11 -
02/12/2018 tại tỉnh Gia Lai. Đoàn Ca múa Dân tộc Đắk Lắk biểu diễn ở trong
và ngoài tỉnh được 76 buổi (Năm 2018, Đoàn Ca múa Dân tộc Đắk Lắk tổ chức
các chương trình biểu diễn ở trong nước, khu vực và quốc tế: Trình diễn di sản
cồng chiêng tại Trung tâm Triển lãm Vân Hồ và Làng Văn hóa các dân tộc Việt
Nam tại Hà Nội. Biểu diễn phục vụ các Hội nghị, hội thảo, tập huấn: Hội nghị
giao ban Cụm, khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên; Hội thảo - Tập huấn
“Nâng cao về kỹ năng cho nguồn nhân lực trực tiếp thực hiện kiểm kê, sưu tầm,
bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của
các dân tộc thiểu số Việt Nam ở Khu vực miền Trung -Tây Nguyên”. Ngoài ra,
còn tham gia biểu diễn nghệ thuật tại Tuần lễ văn hóa, du lịch - Liên hoan ẩm
thực Nam Bộ gắn với Lễ hội Ok Om Bok tại tỉnh Trà Vinh; biểu diễn văn hóa
cồng chiêng phục vụ du khách và Nhân dân tại Hà Nội. Biểu diễn ngoại giao
văn hóa tại tỉnh Jeollabuk Hàn Quốc từ ngày 26/9).
Năm 2020, tỉnh đã tổ chức Liên hoan văn hóa cồng chiêng toàn tỉnh Đắk
Lắk tại thành phố Buôn Ma Thuột nhằm kỷ niệm ngày Di sản văn hóa Việt
Nam 23/11 và thiết thực chào mừng kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng bộ tỉnh
Đắk Lắk. Ở địa phương, các huyện, thị xã, thành phố tổ chức nhiều hội thi, hội
diễn, liên hoan văn hóa cồng chiêng vào dịp lễ, tết, các sự kiện quan trọng của
đất nước, địa phương góp phần nỗ lực trong việc bảo tồn di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên. Việc tổ chức các hoạt động giao lưu, tham gia hội thi, hội
diễn, liên hoan văn hóa cồng chiêng ở tỉnh, khu vực và quốc tế nhằm góp phần
tạo điều kiện để các nghệ nhân duy trì thường xuyên tập luyện, thực hành vốn
di sản văn hóa cồng cồng chiêng quý báu của dân tộc và có cơ hội gặp gỡ, tiếp
61
xúc, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng
chiêng tại cộng đồng, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc Việt Nam.
* Việc trang bị cồng chiêng cho các buôn đồng bào dân tộc thiểu số: Từ
năm 2016 đến năm 2020, tỉnh cấp 26 bộ chiêng các loại cho những Đội chiêng
có nhiều thành tích tiêu biểu ở các buôn, nhằm khích lệ, động viên tinh thần
các nghệ nhân đánh chiêng cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc
bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng trong cộng đồng.
Năm 2017, cấp 8 bộ chiêng: 06 bộ chiêng Êđê, 01 bộ chiêng M’nông và 01 bộ
chiêng Gia Rai. Năm 2018, cấp 10 bộ chiêng: 07 bộ chiêng Êđê, 02 bộ chiêng
M’nông và 01 bộ chiêng Gia Rai. Năm 2019, cấp 05 bộ chiêng cho buôn đồng
bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh: 01 bộ chiêng Gia Rai, 04 bộ chiêng Êđê.
Năm 2020, cấp 03 bộ chiêng: 02 bộ chiêng Arap, 01 bộ chiêng Êđê.
Số bộ chiêng được trang bị cho các buôn đã góp phần đáp ứng được nhu
cầu, nguyện vọng của bà con, giải quyết được nhu cầu khó khăn (không phải
thuê mướn chiêng) tiếp tục duy trì tập luyện, mở lớp truyền dạy đánh chiêng
cho các nghệ nhân trẻ tuổi, để tiếp tục kế thừa những nghệ nhân lớn tuổi, tạo
điều kiện thuận lợi trong việc tham gia hội thi, hội diễn, liên hoan ở tỉnh, khu
vực, góp phần bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và của đồng
bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh ngày càng thiết thực và hiệu quả.
* Việc cấp trang phục truyền thống: Từ năm 2016 đến năm 2020, tỉnh
đã cấp 358 bộ trang phục truyền thống của người Êđê, M’nông, Gia Rai cho
các đội chiêng, đội văn nghệ ở các buôn có nhiều thành tích cống hiến trong
việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng, để các đội chiêng,
đội văn nghệ chủ động hơn trong việc tập luyện hoặc tham gia vào các hoạt
động giao lưu, biểu diễn tại cộng đồng cũng như trong và ngoài tỉnh, khu vực,
quốc tế, góp phần bảo tồn di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
62
trên địa bàn tỉnh (đạt gần 40% so với chỉ tiêu đề ra).
* Việc tổ chức các lớp truyền dạy cồng chiêng: Từ năm 2016 đến năm
2020, tỉnh tổ chức được 08 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng cho 160 học viên
là con em đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Krông Bông, Cư Kuin, Krông
Búk, Lắk nhằm phát hiện những em có năng khiếu về khả năng thẩm âm các
loại chiêng, kỹ năng sử dụng chiêng để kế thừa các nghệ nhân đã lớn tuổi; tổ
chức mở 02 lớp dành cho đối tượng là cán bộ, chiến sỹ, công chức, viên chức
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật trên địa bàn tỉnh với 144 học viên
tham gia (Tổ chức ở huyện Krông Bông 02 lớp, huyện Cư Kuin 02 lớp, huyện
Krông Búk 02 lớp, huyện Lắk 02 lớp với 160 học viên tham gia; tại Trung tâm
Văn hóa tỉnh (03 lớp) với 224 học viên tham gia; tại Trường Đại học Tây
Nguyên (01 lớp) với 82 học viên tham gia).
Năm 2019, tỉnh đã tổ chức 01 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng cho học
sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số tại Trường Đại học Tây Nguyên với 82
học viên tham gia. Tổ chức mở 01 lớp dành cho đối tượng là cán bộ, chiến sỹ,
công chức, viên chức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật trên địa bàn
tỉnh, khoảng 80 học viên tham gia.
Ngoài ra, các huyện, thị xã, thành phố quan tâm, chỉ đạo việc tổ chức mở
nhiều lớp truyền dạy đánh cồng chiêng trẻ để các em tiếp tục kế nghiệp các
nghệ nhân lớn tuổi, góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn cồng chiêng của
tỉnh. Theo thống kê, các địa phương đã tổ chức được 12 lớp (huyện Krông Bông
(02 lớp), huyện Cư Kuin (02 lớp), huyện Krông Búk (02 lớp), huyện Lắk (02
lớp) với 160 học viên tham gia; tại Trung tâm Văn hóa tỉnh (03 lớp) với 224
học viên tham gia; tại Trường Đại học Tây Nguyên (01 lớp) với 82 học viên
tham gia).
* Về chế độ, chính sách hỗ trợ nghệ nhân: Tỉnh luôn quan tâm đến công
tác hỗ trợ chế độ, chính sách cho nghệ nhân. Ngày 8/3/2019, Chủ tịch nước đã
63
ký Quyết định số 355/QĐ-CTN về việc phong tặng Danh hiệu “Nghệ nhân ưu
tú” cho 24 nghệ nhân đã có nhiều thành tích xuất sắc trong việc bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc (có nhiều cống hiến trong lĩnh vực nghệ thuật trình diễn dân
gian, tri thức dân gian, ngữ văn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng). Ngày
298/2019 UBND tỉnh long trọng tổ chức Lễ trao tặng Danh hiệu vinh dự Nhà
nước “Nghệ nhân ưu tú” cho các nghệ nhân, để kịp thời động viên các nghệ nhân
tiếp tục cống hiến trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc [52].
Năm 2020, Hội đồng cấp tỉnh xét chọn và đề nghị Hội đồng cấp Bộ xem
xét, đề nghị xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân” và “Nghệ nhân ưu tú”
lần thứ 3 năm 2021 đã có nhiều thành tích xuất sắc trong việc bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc (có nhiều cống hiến trong lĩnh vực nghệ thuật trình diễn dân
gian, tri thức dân gian, ngữ văn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng).
* Các hoạt động văn hóa cồng chiêng phục vụ du lịch: Từ năm 2017 đến
nay, tỉnh đã tổ chức Chương trình biểu diễn văn hóa cồng chiêng phục vụ Nhân
dân và du khách với tên gọi "Đắk Lắk - âm vang đại ngàn", được tổ chức 2
kỳ/tháng. Nội dung chương trình biểu diễn với các tiết mục thể hiện giá trị văn
hóa cồng chiêng và nhạc cụ của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, trong đó
ưu tiên những thể loại như: hòa tấu cồng chiêng; hòa tấu nhạc cụ của đồng bào
dân tộc thiểu số (đàn T'rưng, đàn đá...); biểu diễn các trích đoạn sử thi, trường
ca; hát (thể loại trường ca, đối đáp, tình ca Tây Nguyên...); giao lưu với khán
giả... Đây là chương trình nhằm bảo tồn và phát huy giá trị "Không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên- di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại"
tại Đắk Lắk, đa dạng các hình thức tổ chức biểu diễn văn hóa, nghệ thuật của
địa phương để phục vụ đời sống cộng đồng, góp phần thúc đẩy ngành du lịch
phát triển; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc
trong tỉnh; đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân,
du khách đến tham quan Buôn Ma Thuôt [52].
64
Ngoài ra, các Công ty lữ hành, các khu điểm du lịch trên địa bàn tỉnh
phối hợp với các đội chiêng của các buôn làng để cung cấp sản phẩm văn
hóa đặc trưng của Tây Nguyên đến với du khách trong nước và quốc tế; một số
khu du lịch, điểm du lịch cộng đồng có đội chiêng riêng để có thể chủ động
cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho du khách như: Khu du lịch sinh thái văn hóa
cộng đồng Ko Tam, buôn Ako Dhông, buôn Ko Siêr tại thành phố BMT; buôn
Jun tại huyện Lắk; Trung tâm du lịch Buôn Đôn và Khu du lịch sinh thái Bản
Đôn tại huyện Buôn Đôn. Đồng thời, tuyên truyền, quảng bá về các hoạt động
văn hóa cồng chiêng phục vụ du lịch trên nhiều kênh thông tin lớn, uy tín đến
với đông đảo du khách trong nước và quốc tế.
2.2.2.3. Việc tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về về bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá
cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Để nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức quản lý di sản văn hóa cồng
chiêng thì một yếu tố không thể thiếu là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chuyên môn trong công tác quản lý, bảo tồn. Nếu đội ngũ cán bộ không
được nâng cao trình độ chuyên môn thì việc bảo tồn sẽ không thể đáp ứng được,
di sản văn hóa sẽ bị xâm hại. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ quản lý, chuyên môn về về bảo tồn, phát huy giá trị của văn hoá cồng chiêng
luôn được quan tâm. Hằng năm, tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn nhằm đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành, qua đó góp phần từng bước xây dựng hình
ảnh, thương hiệu ngành Văn hóa, thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk. Trong năm
2022 đã tổ chức 3 lớp tập huấn nhằm đào tạo, cập nhật kiến thức, kỹ năng
nghiệp vụ du lịch cho đội ngũ nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh.
Việc xuất bản sách, đĩa hình về nội dung hoạt động bảo tồn, phát huy di
sản văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk để phát hành đến buôn đồng bào các dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh, Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng thực hiện
65
ghi hình, làm phim phóng sự trong những lần tổ chức phục dựng, trình diễn
nghi lễ, lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, liên hoan văn
hóa cồng chiêng ở tỉnh, khu vực và toàn quốc phát sóng trên Trang truyền hình
Văn hóa - Du lịch Ngoài ra, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với
Đài Phát thanh và Truyền hình Đắk Lắk xây dựng phóng sự phát trên Truyền
hình văn hóa Du lịch 02 số/tháng. In ấn Đặc san của Lễ hội Cà phê Buôn Ma
Thuột lần thứ 6 và Liên hoan văn hóa cồng chiêng năm 2017 bằng tiếng Việt
và tiếng Anh [52].
2.2.2.4. Việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát
huy giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị của văn hoá cồng chiêng của
dân tộc Êđê ở Đắk Lắk bao gồm nguồn nhân lực và vật lực. Để bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa cồng chiêng, các cấp, ngành, địa phương tại tỉnh Đắk Lắk
đã phối hợp tổ chức các lớp truyền dạy cồng chiêng nhằm đào tạo các thế hệ
trẻ cho con em đồng bào dân tộc thiểu số để có sự truyền nối giữa các thế hệ.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng cho cán bộ quản lý và cán
bộ chuyên môn làm công tác bảo tồn và giàn giữ, phát huy giá trị văn hóa.
Tuyên truyền, huy động toàn bộ người dân trên địa bàn tỉnh tham gia vào công
tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của đồng bào dân tộc Êđê nói
riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung. Tăng cường đầu tư ngân sách
trong việc xây dựng các chính sách bảo tồn, cấp chiêng và trang phục truyền
thống, phục dựng các nghi lễ, lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với diễn
tấu cồng chiêng (nguồn kinh phí thực hiện Nghị quyết số 10/2021/NQ-HĐND
ngày 17/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh là 20.300.000.000đ) [19].
Mục tiêu của của Nghị quyết 10 rất lớn, rất bao trùm, đòi hỏi có sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn thể các lực lượng. Tuy nhiên, yếu tố then
chốt để thực hiện thành công các mục tiêu, vẫn là chủ thể của văn hóa cồng
66
chiêng, đó chính là đồng bào dân tộc thiểu số - người đang sở hữu văn hóa cồng
chiêng. Nếu như chúng ta tận dụng tất cả các nguồn lực của Nhà nước, của xã
hội hóa cho việc này, mà chủ thể không mặn mà không thực sự vào cuộc, không
có tránh nhiệm thì cũng khó đạt được kết quả. Hiện nay, tỉnh ta đã nỗ lực, tuy
nhiên nguồn lực để thực hiện nghị quyết, các kế hoạch của nghị quyết thì còn
khiêm tốn. Ngành văn hóa đang cố gắng mời gọi xã hội hóa và lồng ghép vào
những nội dung khác, như Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột, Liên hoan văn hóa
cồng chiêng, Ngày hội văn hóa các dân tộc toàn tỉnh… Đó là cách làm linh hoạt
và đạt hiệu quả tích cực.
2.2.2.5. Việc tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong bảo vệ và phát huy giá
trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Hằng năm, để động viên các tập thể, cá nhân có thành tích trong công
tác bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê nói riêng
cũng như thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong xây dựng và tổ chức hoạt động
văn hóa thể thao du lịch tại tỉnh nói chung, tỉnh đã đề xuất Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tặng cờ thi đua, bằng khen cho các tập thể và cá nhân có thành
tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ công tác. Đồng thời xử lý nghiêm các
hành vi lợi dụng di sản để trục lợi, làm sai lệch bản chất di sản và có tác động
tiêu cực tới đời sống cộng đồng, xã hội và niềm tin của Nhân dân.
2.2.2.6. Việc tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy
giá trị văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Các chương trình Liên hoan văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên cùng với Lễ
hội Cà phê Buôn Ma Thuột được tổ chức thường xuyên nhằm không những bảo
tồn nét đẹp văn hóa trong nước mà còn giới thiệu đến du khách quốc tế. Việc tổ
chức các hoạt động giao lưu, tham gia hội thi, hội diễn, liên hoan văn hóa cồng
chiêng ở tỉnh, khu vực và quốc tế nhằm góp phần tạo điều kiện để các nghệ nhân
duy trì thường xuyên tập luyện, thực hành vốn di sản văn hóa cồng cồng chiêng
67
quý báu của dân tộc và có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm
về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tại cộng đồng, nâng cao ý thức,
trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc Việt Nam.
Ngày 24/5/2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đã tổ chức Lễ
khởi động thực hiện dự án “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”. Dự án do Trung tâm Hợp tác quốc tế tỉnh Jeollabuk
(JBCIA) Hàn Quốc viện trợ 25.042 USD, tương đương 568.960.000 đồng; phục
vụ cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của người Ê
Đê và người M’nông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Dự án thực hiện đến tháng
12/2022. Sau 7 tháng thực hiện, tỉnh đã tổ chức các hoạt động mở lớp truyền
dạy đánh cồng chiêng, cấp chiêng, trang phục và phục dựng nghi lễ truyền
thống. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã sưu tầm 8 bài chiêng truyền thống
của người Êđê và người Mnông trong các nghi lễ, lễ hội để tư liệu hóa làm cơ
sở bảo tồn và truyền dạy cồng chiêng; mở 2 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng,
gồm 1 lớp truyền dạy đánh chiêng nữ Êđê Bih, tại buôn Trấp huyện Krông Ana
và 1 lớp chiêng Mnông tại buôn Liêng Ông, xã Đắk Phơi, huyện Lắk; thực hiện
cấp 1 bộ chiêng Êđê Bih và 15 bộ trang phục thổ cẩm truyền thống cho đội
chiêng Êđê Bih tại thị trấn Buôn Trấp; 15 bộ trang phục nam Êđê cho buôn
KaLa, xã Dray Sáp (huyện Krông Ana); 1 bộ chiêng Mnông và 30 bộ trang
phục thổ cẩm truyền thống cho buôn Liêng Ông, xã Đắk Phơi, huyện Lắk.
Trong quá trình thực hiện, các đơn vị thực hiện Dự án thuộc ngành Văn hóa
cũng đã phối hợp với các bên liên quan, xây dựng kế hoạch thực hiện Dự án
theo hướng trao quyền cho các cộng đồng. Với cách làm như vậy, Dự án đã
phát huy hiệu quả trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tại địa phương.
2.2.2.7. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong bảo vệ và phát huy giá trị
văn hoá cồng chiêng của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk
68
Về việc bảo quản và sử dụng cồng chiêng tại các địa phương: Năm 2018,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 01/QĐ-SVHTTDL
ngày 05/4/2018 về việc thành lập Đoàn kiểm tra việc tiếp nhận và sử dụng cồng
chiêng tại Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện: Krông Búk, Ea Súp, Buôn
Đôn, Krông Năng, Cư Kuin, Krông Ana, Krông Bông, Krông Pắc, Lắk, Ea Kar,
Ea H’Leo, M’Đrắk, Cư M’gar, thị xã Buôn Hồ, thành phố Buôn Ma Thuột và
đi kiểm tra thực thực tế ngẫu nhiên ở 42 buôn trên địa bàn các huyện, thị xã
Buôn Hồ và thành phố Buôn Ma Thuột. Kết quả kiểm tra, khảo sát thực tế ngẫu
nhiên 42 bộ chiêng đã được tỉnh cấp từ năm 2007 đến năm 2017, có 39 bộ
chiêng được lưu giữ và bảo quản tốt, sử dụng và phát huy có hiệu quả; 03 bộ
chiêng chưa được phát huy và sử dụng có hiệu quả.
Qua kiểm tra, khảo sát thực tế ngẫu nhiên ở một số buôn được cấp chiêng
và sử dụng tại các địa phương đã đem lại những kết quả tích cực. Việc tiếp
nhận, bảo quản các bộ chiêng được đảm bảo, không bị thất lạc, mất mát, sử
dụng đúng mục đích; có trên 85% số bộ chiêng được sử dụng có hiệu quả, tích
cực tham gia liên hoan, hội thi, hội diễn ở cấp xã, cấp huyện, ở tỉnh cũng như
những ngày diễn ra lễ hội truyền thống tại cộng đồng. Tiêu biểu có Đội chiêng
Arap của Chi đoàn thanh niên buôn Blêch, huyện Ea H’Leo đã đạt thành tích
cao trong các lần tham gia Hội thi do tỉnh tổ chức. Năm 2009, tại buôn Cư Păm,
xã Dang Kang, huyện Krông Bông đã thành lập được Đội chiêng trẻ và thường
xuyên duy trì tập luyện, tham gia sinh hoạt đều đặn tại cộng đồng. Tuy nhiên,
hiện nay vẫn còn một số buôn được cấp chiêng và thành lập Đội chiêng trẻ
nhưng việc duy trì tập luyện, tham gia các hoạt động chưa thường xuyên, hiệu
quả đạt được chưa cao.
Nghị quyết số 10/2021/NQ-HĐND ngày 17/12/2021 của HĐND tỉnh bảo
tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2022 – 2025 nêu
rõ: tăng cường công tác quản lý Nhà nước; kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc
69
triển khai thực hiện bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh [19].
Tuy nhiên, cho đến nay, các quy định và chế tài xử lý vi phạm còn chưa
được cụ thể hóa, nên trong những năm gần đây, nhất là sau khi di sản văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
đại diện nhân loại, di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk đã bị khuếch trương rất nhiều trong các hoạt động biểu diễn. Nhiều hoạt động
biểu diễn liên quan đến di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
không đáp ứng được tiêu chí mang cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc để phục
vụ khán giả, chẳng hạn: Các bài chiêng không còn nguyên bản mà đã thay đổi
nhạc điệu hiện đại hơn; Trang phục truyền thống dân tộc có lúc biến tướng; Trong
lễ hội ở các buôn, làng cố gắng xin được càng nhiều tiền càng tốt; Tình trạng lộn
xộn, những hình ảnh gây phản cảm trong hoạt động di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên vẫn còn diễn ra trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Ưu điểm
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua nhận được sự quan tâm của
các cơ quan ban ngành và cơ bản được thực hiện nghiêm túc. Sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy, chỉ đạo điều hành UBND tỉnh, sự giám sát, phản biện của HĐND và
UBMT Tổ quốc các cấp; các Sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, địa phương đã
tham gia, phối hợp thực hiện đồng bộ; nội dung, chương trình bảo tồn văn hóa
cồng chiêng của đồng bào dân tộc Êđê đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn, tạo được
sự đồng thuận, nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần vào việc thực hiện các
mục tiêu, chỉ tiêu của Nghị quyết đề ra.
Việc tổ chức các lớp truyền dạy đánh chiêng, cấp chiêng và trang phục
được các địa phương quan tâm phối hợp, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sinh
70
hoạt văn hóa, tâm linh trong các lễ hội của đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
Điển hình như tại Ea Kar, công an huyện Ea Kar đã cấp chiêng, trang phục
truyền thống cho đội chiêng, đội văn nghệ và tổ chức mở lớp truyền dạy đánh
chiêng cho con em ở buôn đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện để tiếp
tục kế thừa di sản văn hóa cồng chiêng quý báu của cha ông để lại, tránh nguy
cơ thất truyền. Số chiêng, trang phục truyền thống được tỉnh cấp cho các buôn,
đội văn nghệ đã góp phần động viên, khích lệ tinh thần rất lớn cho các nghệ
nhân, tạo điều kiện thuận lợi trong việc duy trì tập luyện, tham gia các buổi
phục dựng, trình diễn nghi lễ, lễ hội truyền thống, hội thi, hội diễn, liên hoan
cồng chiêng ở địa phương, trong tỉnh, khu vực, cả nước và quốc tế, góp phần
bảo tồn, phát huy di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh.
Vai trò của các già làng, nghệ nhân có vị trí đặc biệt quan trọng trong
việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của đồng bào Êđê. Năm
2019, Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước cho 24 nghệ nhân
tỉnh Đắk Lắk có thành tích “cống hiến xuất sắc trong gìn giữ và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể của dân tộc”. Năm 2020, toàn tỉnh có 24 nghệ nhân được
đề nghị Hội đồng chuyên ngành cấp Bộ xem xét, đề nghị xét tặng danh hiệu
“Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”; đây là nguồn cảm hứng và tạo động
lực cho các nghệ nhân trẻ tuổi tiếp tục kế nghiệp bảo tồn, phát huy di sản văn hóa
dân tộc và cồng chiêng Tây Nguyên.
Về việc tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá giá trị văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên nói chung và cồng chiêng của dân tộc Êđê nói riêng ở tỉnh, khu
vực, trong nước và quốc tế đã được các cơ quan, báo đài của Trung ương và
địa phương quan tâm, tích cực phối hợp, cộng tác để đưa tin, bài, hình ảnh,
phóng sự và nhiều hình thức khác để tuyên truyền trên các phương tiện thông
tin đại chúng, góp phần vào thành công của Nghị quyết HĐND tỉnh.
Những năm gần đây, việc tổ chức phục dựng các nghi lễ, lễ hội gắn với
71
cồng chiêng được đồng bào dân tộc Êđê đặc biệt quan tâm, mang lại giá trị tinh
thần rất lớn cho bà con trong sinh hoạt cộng đồng, góp phần bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch cộng đồng.
Nguồn kinh phí từ xã hội hóa được các doanh nghiệp quan tâm tài trợ
trong các chương trình hoạt động của lễ hội (Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột
năm 2017, 2019) đã góp phần vào việc thực hiện Nghị quyết 05 của HĐND
tỉnh, kết quả đạt và vượt chỉ tiêu đề ra (đạt 312,4%).
2.3.2. Hạn chế
Sự phối hợp trong công tác tuyên truyền rộng rãi, nhằm nâng cao nhận
thức cho người dân về vai trò quan trọng của việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy
di sản văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk chưa được thực hiện thường xuyên,
thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập.
Mặc dù là chủ nhân của di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, nhưng
hiện nay các tỉnh: Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng vẫn chưa
có một nghệ nhân nào biết đúc chiêng, chưa có một cơ sở đúc chiêng nào, số
lượng bộ các cồng chiêng hiện có của 5 tỉnh Tây Nguyên đều là do mua bán,
trao đổi ở các địa phương khác...
Chưa có một đề án tổng thể, quy hoạch văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
cho bài bản, chiến lược. Qua báo cáo của các tỉnh Tây Nguyên, các cấp chính
quyền, cơ quan quản lý của các tỉnh đã vào cuộc nhưng chưa đồng bộ: về kinh
phí, về các biện pháp, phương pháp thực hiện. Mục tiêu của các đề án, dự án
đã triển khai thực hiện đã trúng và đúng nhưng chưa đủ. Chưa có một cuộc
khảo sát và đánh giá tổng thể một cách thực chất về thực trạng văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên hiện nay. Điều đó đòi hỏi phải có có giải pháp tổng thể,
đồng bộ. Đó là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần xây dựng một đề án tổng
thể, trong đó cần quan tâm đến nhu cầu của cộng đồng đối với di sản mà họ
đang sở hữu. Trong bối cảnh 4.0, không thể đòi hỏi không gian văn hóa cồng
72
chiêng Tây Nguyên nói chung, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói riêng phải
quay trở lại như những gì trong quá khứ từng có, mà cần căn cứ vào thực tiễn
cụ thể của mỗi địa phương để có những định hướng chung nhất, để những giá
trị ấy không cần hiện hữu đầy đủ nhưng cũng sẽ không mất đi.
Chính sách, chế độ đãi ngộ, hỗ trợ cho các nghệ nhân nói chung, nghệ nhân
cồng chiêng nói riêng trên địa bàn tỉnh vẫn chưa thỏa đáng, nhằm động viên, khích
lệ các nghệ nhân dành hết tâm huyết trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa. Thực
tế cho thấy, số nghệ nhân biết thực hành di sản ngày càng giảm nhiều, chưa kịp
trao truyền di sản cho thế hệ kế nghiệp đã mất đi do tuổi cao sức yếu.
Công tác quản lý, phối hợp bảo vệ cồng chiêng có lúc, có nơi chưa chặt
chẽ, trình trạng trộm cắp, hủy hoại cồng chiêng vẫn còn diễn ra ở một vài địa
phương. Việc tổ chức thực hiện các biện pháp để bảo vệ và xử lý đối với các
hành vi trộm cắp, hủy hoại cồng chiêng trên địa bàn tỉnh hiệu quả chưa cao.
Ý thức, trách nhiệm trong việc gìn giữ, bảo vệ di sản văn hóa cồng chiêng
của một bộ phận người dân còn hạn chế, có hiện tượng trao đổi, mua bán cồng
chiêng để phục vụ kế sinh nhai và nhiều mục đích khác nhau.
Kinh phí bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng chưa đáp ứng được yêu
cầu thực tiễn đặt ra, có những nội dung đề ra nhưng chưa thực hiện được do hạn
hẹp về nguồn kinh phí. Một số địa phương chưa quan tâm đầu tư kinh phí để mua
chiêng, cấp trang phục và tổ chức các lớp truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ
để tiếp tục kế nghiệp các nghệ nhân đã lớn tuổi, dẫn đến thiếu hụt nghệ nhân kế
thừa di sản của cha ông để lại (có trường hợp được tỉnh cấp chiêng nhưng không
đủ người để thành lập một Đội chiêng khi tham gia sinh hoạt tại cộng đồng, phải
đi mời hoặc thuê mướn nghệ nhân ở các nơi khác đến tham gia).
Việc ban hành các văn bản hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc tổ
chức thực hiện ở các địa phương chưa được chú trọng. Thiếu các chính sách hỗ
trợ và khích lệ cho các gia đình, nghệ nhân có công gìn giữ cồng chiêng lâu
73
đời, truyền dạy đánh chiêng cho thế hệ thanh thiếu niên là con em đồng bào các
dân tộc thiểu số tại chỗ.
Năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ văn hóa cấp cơ sở tuy đã có nhiều
chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Một bộ
phận cán bộ chưa được đào tạo chuyên ngành, thiếu kinh nghiệm xử lý tình
huống, thiếu tri thức về văn hóa nói chung và văn hóa của tỉnh Đắk Lắk nói
riêng để đáp ứng tốt các nhiệm vụ được giao, đặc biệt là tại các xã vùng xa
trung tâm. Bên cạnh đó, cán bộ văn hóa cơ sở thường xuyên biến động là hạn
chế không nhỏ trong tổ chức và điều hành một cách hiệu quả các hoạt động văn
hóa tại địa phương.
Một số chỉ tiêu cho đến nay chưa thực hiện được (Hỗ trợ chi phí sinh
hoạt cho các đội chiêng, đội văn nghệ; Truyền dạy dân ca, dân vũ; Hội thảo
chuyên đề về bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh); Một
số chỉ tiêu đã và đang thực hiện nhưng kết quả đạt được còn thấp so với kế
hoạch đề ra (cấp trang phục cho các đội chiêng, đội văn nghệ; Tuyên truyền
dạy hát kể sử thi và Trang bị cồng chiêng cho các buôn).
Đối với đối tượng là học sinh, sinh viên trong các trường dân tộc nội trú,
trung học cơ sở, cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh có nhiều con em đồng bào
các dân tộc thiểu số, am hiểu về phong tục, tập quán, bản sắc vãn hóa truyền
thống của dân tộc mình, việc tuyên truyền, phổ biến di sản văn hóa, quy định
của pháp luật về di sản văn hóa, bảo tồn văn hóa cồng chiêng và trang phục
truyền thống rất thuận lợi, đem lại hiệu quả về nhiều mặt. Tuy nhiên hiện nay,
việc tuyên truyền, phố biến pháp luật về di sản văn hóa, bảo tồn di sản vãn hóa
cồng chiêng và trang phục truyền thống chưa được quan tâm đúng mức đối với
đối tượng này [52].
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
74
Do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự giao thoa văn hóa,
giữa lối sống hiện đại và truyền thống có sự đan xen, các giá trị của lễ hội truyền
thống, môi trường, không gian văn hóa cồng chiêng (như không gian nhà dài,
không gian bến nước, không gian nương rẫy, không gian nhà mồ, không gian
rừng, những dòng sông, con suối …) đang thay đổi nhanh chóng, có nguy cơ
mất dần trong đời sống cộng đồng các dân tộc Đắk Lắk.
Việc thay đổi phương thức sản xuất kéo theo những biến đổi về nếp
sống, sinh hoạt của đồng bào dân tộc Êđê trong việc bảo tồn văn hóa cồng
chiêng.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh, ngoài nỗ lực và
những kết quả đạt được, vẫn còn khó khăn, bất cập trong việc bảo tồn di sản
văn hóa cồng chiêng ở các địa phương, đó là nhiệm vụ về bảo tồn không gian,
môi trường tự nhiên để tổ chức phục dựng, trình diễn, diễn tấu cồng chiêng,
sinh hoạt văn hóa và giao lưu cồng chiêng tại cộng đồng.
Các em thanh thiếu niên được các nghệ nhân lớn tuổi truyền dạy đánh
chiêng, biết sử dụng chiêng và các loại nhạc cụ truyền thống, thường xuyên
tham gia sinh hoạt văn hóa cồng chiêng tại cộng đồng. Tuy nhiên, sau khi
trưởng thành đã lập gia đình và chuyển đến nơi cư trú khác (theo vợ, theo chồng
hoặc đi làm ăn ở nơi xa) nên thiếu thành viên tham gia, không đủ số lượng để
tập luyện và duy trì Đội chiêng.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Kinh phí cấp để thực hiện Nghị quyết 05 của HĐND tỉnh mới đạt 43%
so với Kế hoạch đề ra. Vì vậy, với nguồn kinh phí được cấp nói trên phải tập
trung và ưu tiên thực hiện các chỉ tiêu có tính cấp bách và bức thiết nhất (cấp
chiêng, trang phục, mở lớp truyền dạy cồng chiêng và phục dựng các nghi lễ,
lễ hội gắn với cồng chiêng) nên một số chỉ tiêu khác chưa đạt được theo Kế
hoạch đã đề ra.
75
Nhiều đơn vị, địa phương chưa chủ động xây dựng nội dung, chương
trình hoạt động và đề ra các giải pháp huy động các nguồn lực (xã hội hóa) để
thực hiện bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tại địa phương, còn
trông chờ từ nguồn ngân sách của tỉnh cấp theo Nghị quyết 05 của HĐND tỉnh.
Sự phát triển của các loại hình văn hóa hiện đại, thông qua truyền hình
đa phương tiện, điện thoại thông minh… đã ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa
truyền thống của dân tộc, trong đó có di sản văn hóa cồng chiêng của đồng bào
Êđê ở Đắk Lắk. Trong khi đó, việc tổ chức tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách
nhiệm về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng cho các thế hệ trẻ
chưa thường xuyên, quyết liệt, không ít thanh niên con em đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ bị thu hút vào văn hóa hiện đại, ít quan tâm đến việc bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng và các nhạc cụ dân tộc do ông bà
để lại.
Công tác kiểm tra, quản lý các hoạt động văn hóa cồng chiêng từ trung
ương đến địa phương từ trước đến nay vẫn chưa được đặt ra một cách cụ thể,
bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý chuyên trách về công tác này chưa được
đào tạo bài bản. Mặt khác, việc dựa vào nhân dân (nhất là các già làng) để
tuyên truyền cho nhân dân hiểu được giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc
mình để cùng nhau gìn giữ, bảo vệ, phát huy nó trong các sinh hoạt văn hóa
76
cộng đồng chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
Tiểu kết chương 2
Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa công chiêng của
dân tộc Êđê luôn luôn có một thách thức lớn là mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát
triển. Những khó khăn, thách thức và kinh nghiệm trong công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị giá trị văn hóa cồng chiêng luôn là bài học quý giá định
hướng cho các hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa cồng chiêng của đồng báo dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh.
Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống được tốt, ngoài
việc đúc rút các kinh nghiệm của bạn bè trên thế giới, phát huy những gì có lợi,
hạn chế và tránh những gì có hại cho các giá trị văn hóa truyền thống, còn phải
tạo sự phát triển bền vững cho các giá trị. Qua đó, có định hướng mang tính
chiến lược của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu văn hóa để cùng với cộng
đồng tìm ra lời giải là chúng ta sẽ bảo tồn cái gì, bảo tồn và phát huy thế nào
để giữ lại cho thế hệ mai sau các báu vật di sản văn hóa của dân tộc.
Để làm tốt được những điều đó, vấn đề then chốt là tỉnh Đắk Lắk phải
đổi mới và nâng cao nhận thức, xem cơ sở là địa bàn chiến lược của sự
nghiệp cách mạng văn hóa, là nơi biến những quan điểm của Đảng và Nhà
nước thành hiện thực, là môi trường sống, nơi sinh ra và đồng thời là nơi
lưu giữ, trao truyền và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.
Cần biết vận dụng sáng tạo các quy định của pháp luật và các hướng dẫn
chuyên ngành về quản lý di sản văn hóa phi vật thể, phối hợp với các ban
ngành, các cấp chính quyền, cụ thể hóa các chính sách quản lý của nhà
nước. Mặt khác, nếu tỉnh có chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn
dân và các cấp, các ngành tham gia, hưởng ứng, thì nhất định công tác bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc Êđê sẽ đạt nhiều thành tựu mới
77
trong thời gian tới.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỒNG CHIÊNG CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên
địa bàn tỉnh, trong thời gian tới cùng với việc nâng cao lòng tự hào, cần nêu
cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong việc giữ gìn, bảo vệ giá trị của
cồng chiêng, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Tiếp tục đẩy mạnh công tác
sưu tầm, ghi chép, ghi hình các hình ảnh, tư liệu về cồng chiêng của dân tộc
Êđê trên địa bàn tỉnh để giữ gìn, bảo quản và phát huy trong thời gian tới. Tăng
cường công tác thông tin về các chương trình mời gọi, hợp tác, giao lưu văn
hóa để quảng bá cồng chiêng trong phạm vi quốc gia và quốc tế, nhằm xây
dựng các chương trình nghiên cứu và phục hồi không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên.
Bên cạnh việc phục dựng không gian buôn làng truyền thống, cần có
những biện pháp phục dựng không gian rừng, không gian nương rẫy, không
gian bến nước, nhằm tạo những không gian phù hợp cho diễn tấu văn hóa cồng
chiêng. Bởi lẽ, nếu không còn buôn làng truyền thống, không còn lễ hội, không
còn bến nước… cồng chiêng sẽ mất không gian diễn tấu, khi ấy âm thanh của
cồng chiêng sẽ không còn phần hồn để mê hoặc lòng người.
Tăng cường hợp tác, giao lưu văn hóa để quảng bá cồng chiêng trong
phạm vi quốc gia và quốc tế, nhằm xây dựng các chương trình nghiên cứu và
phục hồi Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Không gian văn hóa
78
cồng chiêng Tây Nguyên là niềm tự hào của cả nước đồng thời vấn đề bảo tồn,
phát huy giá trị của nó cũng lại là vấn đề không kém phần quan trọng và cũng
là nhiệm vụ của tất cả mọi người chúng ta. Làm tốt công việc ấy không chỉ có
ý nghĩa đối với hôm nay mà cả với mai sau…
Tiếp tục thực hiện các nội dung đã cam kết trong hồ sơ đệ trình
UNESCO, trong giai đoạn 2021-2025; giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát
huy có hiệu quả di sản văn hóa cồng chiêng; từng bước khôi phục không
gian văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số
trên địa bàn tỉnh.
Giới thiệu, quảng bá giá trị di sản Không gian văn hóa cồng chiêng tỉnh
Đắk Lắk đến với bạn bè trong nước và quốc tế; bảo tồn và phát huy có hiệu quả
di sản văn hóa cồng chiêng trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước, tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh, góp phần thực hiện các
mục tiêu Nghị quyết số 33-NQ/TW về “xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Êđê gắn với phát triển du lịch theo Nghị quyết số
88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi,
giai đoạn 2021 - 2030 và Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025: Triển khai có
hiệu quả Nghị quyết về bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk,
giai đoạn 2022 - 2025.
Đến năm 2025, phấn đấu có 100% buôn đồng bào dân tộc thiểu số trên
địa bàn tỉnh có đội chiêng, đội văn nghệ; 100% các huyện, thị xã, thành phố tổ
chức các lớp truyền dạy đánh cồng chiêng và chỉnh chiêng; 100% các huyện,
79
thị xã, thành phố tổ chức phục dựng nghi lễ, lễ hội truyền thống gắn với các
hoạt động bảo tồn văn hóa cồng chiêng; 100% học sinh các Trường Dân tộc
Nội trú mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình vào những dịp lễ, kỷ
niệm quan trọng của đất nước, địa phương, đơn vị và cộng đồng; 100% các
Trường Dân tộc Nội trú tổ chức hoặc tham gia các hoạt động ngoại khóa về văn
hóa cồng chiêng.
Tổ chức tuyên truyền, vận động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở
và đồng bào dân tộc thiểu số Êđê nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm
gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng; phối hợp với các cơ quan thông
tấn, báo chí của Trung ương và địa phương tuyên truyền về di sản văn hóa cồng
chiêng trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Cấp phát cồng chiêng cho các Đội chiêng có thành tích ở các buôn đồng
bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh, nhằm khích lệ, động viên tinh thần các nghệ
nhân đánh chiêng cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm, gìn giữ và phát huy
giá trị di sản văn hóa cồng chiêng trong sinh hoạt cộng đồng.
Tổ chức sưu tầm, ghi chép, thống kê, lưu giữ các bài chiêng cổ trong
nghi lễ vòng đời người, nghi lễ nông nghiệp của đồng bào các dân tộc bản địa
(ghi âm, ghi hình, chụp ảnh tư liệu). Thống kê số lượng nghệ nhân dân gian có
khả năng truyền dạy đánh cồng chiêng, chỉnh chiêng và nhớ được các bài
chiêng hiện có.
Tổ chức giao lưu văn hóa cồng chiêng ở khu vực, toàn tỉnh, giữa các
buôn và các Cụm trong tỉnh, để các nghệ nhân có cơ hội gặp gỡ, trao đổi,
chia sẻ kinh nghiệm về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tại
cộng đồng, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản văn hóa
của dân tộc.
Tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về công tác bảo tồn, phát
80
huy di sản văn hóa cồng chiêng của đội ngũ cán bộ làm văn hóa tại địa phương.
Có chế độ thăm hỏi, động viên các nghệ nhân đã được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú và các nghệ nhân tiêu
biểu khác vào dịp kỷ niệm Ngày Di sản văn hóa Việt Nam, Tết Nguyên đán.
3.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Nhóm giải pháp về tuyên truyền
- Ban hành và thực hiện có hiệu quả các văn bản quản lý nhà nước về
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn
tỉnh
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc
Êđê nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm gìn giữ, phát huy giá trị văn
hóa cồng chiêng; phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí của Trung ương
và địa phương tuyên truyền về giá trị văn hóa cồng chiêng trên các phương tiện
thông tin đại chúng; phổ biến các quy định của pháp luật về bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sinh
động, giúp cho đồng bào ý thức được việc bảo tồn, phát huy văn hóa cồng
chiêng trong cộng đồng.
Giới thiệu, quảng bá văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở trong nước và
quốc tế bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, linh hoạt.
Có chính sách, chế độ đãi ngộ thích đáng cho các nghệ nhân tài giỏi,
những cá nhân và gia đình có công giữ gìn các di sản không gian văn hóa cồng
chiêng tại địa phương.
Tăng cường, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm
công tác văn hóa ở địa phương về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
cồng chiêng của đồng bào Êđê.
81
- Tăng cường tuyên truyền, quảng bá, nâng cao nhận thức cho các tầng
lớp nhân dân
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động đến mọi tầng lớp nhân dân
trên địa bàn có trách nhiệm bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng trong
cộng đồng. Tuyên truyền sâu rộng Luật Di sản văn hóa, Quy chế quản lý và
bảo vệ các di tích đến nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Mở các lớp tuyên truyền, tập huấn cho nguời dân để nguời dân thấy đuợc
họ vừa là nguời bảo vệ vừa là nguời đuợc huởng lợi từ việc bảo vệ, phát huy
các giá trị văn hóa. Từ đó, người dân có ý thức và những hành động thiết thực
nhất trong việc giữ gìn giá trị văn hóa cồng chiêng. Trong công tác tuyên truyền
cần chú trọng tới đối tượng thanh thiếu niên. Thông qua những hoạt động ngoại
khóa, những chương trình lồng ghép trong các môn học, đưa những giá trị cốt
lõi, tinh hoa dân tộc của văn hóa cồng chiêng đến từng học sinh. Tổ chức các
buổi giảng dạy chuyên đề trong hệ thống giáo dục phổ thông về truyền thống
của địa phương nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó cần tổ
chức các hoạt động ngoại khóa, các chương trình tham quan, giới thiệu giá trị
văn hóa tiêu biểu của tỉnh nhằm nâng cao hiểu biết và nhận thức của học sinh
về giá trị cốt lõi của di tích lịch sử - văn hóa.
- Tiếp tục gắn kết, thúc đẩy hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa cồng chiêng gắn với phát triển du lịch
Du lịch từ lâu đuợc coi là một trong những phuơng tiện hàng đầu để
trao đổi văn hóa, là động lực tích cực cho việc bảo vệ di sản văn hóa và di
sản thiên nhiên và đã thành một phức hợp đóng một vai trò chủ yếu trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, sinh thái và thẩm
mỹ... Do vậy cần có những chính sách phát triển hoạt động du lịch phù hợp,
gắn liền với các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng.
82
Trong quá trình đó, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Tăng cuờng công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư, đặc biệt là dân cư sinh sống
tại các điểm du lịch có văn hóa cồng chiêng; xây dựng và triển khai hệ
thống các quầy thông tin du lịch miễn phí tại các đầu mối giao thông quan
trọng nhu: Sân bay, khách sạn, bảo tàng; tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương
để xúc tiến quảng bá du lịch Đắk Lắk có hiệu quả.
Xây dựng các chương trình đẩy mạnh việc liên kết hợp tác phát triển du
lịch; hình thành các tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng, liên quốc gia; xây dựng
và triển khai các quy định, phương án về đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã
hội; quy chế quản lý môi trường.
Cần có chính sách hỗ trợ, hướng dẫn trực tiếp với nhân dân sống trong
khu vực có di sản văn hóa về văn bản pháp luật như các chính sách về cư trú,
bảo vệ môi trường cũng như quảng bá du lịch địa phương.
Đẩy mạnh việc phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn liền với hệ thống
giá trị văn hóa cồng chiêng của tỉnh nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tập trung
xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương đã được đề xuất, nhất là mô
hình du lịch cộng đồng gắn với việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa cồng
chiêng; mô hình du lịch, dịch vụ phục vụ nhân dân trên địa bàn tỉnh những ngày
Lễ, Tết, ngày nghỉ cuối tuần. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột đã
có các buôn đồng bào được đưa vào phát triển ngành du lịch như: Khu du lịch sinh
thái văn hóa cộng đồng KoTam, tọa lạc ở Km4, quốc lộ 26, phường Tân Hòa, xã
Ea Tu, thành phố Buôn Ma Thuột, là điểm đến hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách
ghé thăm bởi những trải nghiệm văn hóa đại ngàn đặc sắc. Khu du lịch Buôn Cô
Thôn hay Buôn AKô Dhong – một ngôi “làng trong thành phố” mang đậm giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Êđê, tọa lạc phương pháp trung tâm
83
thành phố Buôn Mê Thuột khoảng chừng hơn 2km về hướng Bắc, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, các mô hình quán cà phê mang đậm phong cách đồng bào Êđê càng
ngày càng được mở rộng nhằm góp phần quảng bá những giá trị văn hóa truyền
thống của đồng bào Êđê trong đó có văn hóa cồng chiêng.
Việc quản lý và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng phải được gắn liền,
phối hợp chặt chẽ với việc phát triển du lịch bền vững, giữ gìn được bản sắc
văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, phối hợp liên ngành trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên
Trong xu thế hội nhập, để phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống nói chung, văn hóa cồng chiêng của đồng bào Êđê nói riêng cần đẩy
mạnh hợp tác quốc tế, phối hợp liên ngành trong hoạt động bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng. Sau những kết quả tốt đẹp của dự án “Bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tỉnh ta với
Hàn Quốc đã tạo bước đệm ban đầu, củng cố và gắn kết sâu hơn nữa mối quan
hệ hợp tác giữa tỉnh Đắk Lắk và đất nước Hàn Quốc cũng như tạo đà để ta mở
rộng hơn quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới.
3.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách
- Cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh
Hoàn thiện danh sách các nghệ nhân; xây dựng chính sách đãi ngộ với
các nghệ nhân như lương, phụ cấp, nhất là những nghệ nhân được phong tặng
“Báu vật nhân văn sống” ở các buôn, làng dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh.
Trang bị cồng chiêng cho các đội chiêng ở các buôn làng Êđê nhằm khích
lệ, động viên tinh thần đối với các nghệ nhân đánh chiêng cũng như nâng cao
ý thức trách nhiệm, gìn giữ giá trị văn hóa, giá trị di sản văn hóa cồng chiêng
84
và góp phần phát huy hiệu quả trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở các buôn,
làng Êđê.
Cấp trang phục truyền thống: Chọn và cấp trang phục cho các đội chiêng,
các đội văn nghệ ở các buôn làng có nhiều thành tích trong việc bảo tồn, phát
huy gìn giữ di sản văn hóa cồng chiêng để các đội chiêng, đội văn nghệ chủ
động hơn trong việc tập luyện hoặc tham gia vào các hoạt động giao lưu, biểu
diễn tại cộng đồng cũng như trong và ngoài tỉnh.
Phục dựng một số lễ hội truyền thống có nguy cơ mai một của đồng bào
các dân tộc Êđê gắn với môi trường diễn tấu văn hóa cồng chiêng để đồng bào
phát huy những nét đẹp trong các lễ hội vào đời sống cộng đồng.
Trước nguy cơ mai một của văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, việc phục
hồi các xưởng chế tạo cồng chiêng sẽ góp phần bổ sung một lượng nhạc cụ gõ
cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, và là một cách tích cực để đẩy mạnh
phong trào diễn xướng sử dụng cồng chiêng trong các dân tộc.
- Tăng hỗ trợ từ ngân sách, huy động nguồn lực tài chính và vật chất để
bảo tồn và phát triển di sản văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn
tỉnh
- Quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nghệ nhân cồng
chiêng
Đội ngũ nghệ nhân được gọi là “báu vật nhân vãn sống”, “linh hồn của
các loại hình di sản văn hóa phi vật thể”, nhưng đội ngũ nghệ nhân cồng chiêng
hiện nay hầu hết là những người có tuổi đời cao, sức khỏe yếu, gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống. Các chính sách hồ trợ của Nhà nước mà họ được hưởng
rất ít, ngoại trừ sổ nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú được hưởng chính sách
hồ trợ theo Nghị định số 109/201 5/NĐ-CP quy định trợ cấp sinh hoạt hằng
tháng, bảo hiểm y tế, hồ trợ chi phí mai táng đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ
nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Chính sách tôn vinh đối với
85
nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú vần còn những bất cập nhất định (ngoài
những quy định cao về đối tượng được phong tặng danh hiệu, thì mức thưởng
kèm theo danh hiệu cũng không nhiều và chỉ được một lần). Vì vậy, tỉnh Đắk
Lắk cần có sự quan tâm, chăm lo kịp thời, cụ thể, có hiệu quả đối với đội ngũ
nghệ nhân trên địa bàn tỉnh nói chung, nghệ nhân cồng chiêng nói riêng để họ
yên tâm cống hiến cho nghệ thuật, cộng đồng và xã hội.
3.2.3. Nhóm giải pháp về hoàn thiện tổ chức bộ máy
- Kiện toàn và ổn định tổ chức bộ máy bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
Thành lập hiệp hội nghệ nhân văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên cơ
sở các câu lạc bộ cồng chiêng ở các làng hiện nay, xây dựng chương trình hoạt
động cho hiệp hội, để tổ chức phi chính phủ này đóng vai trò tích cực trong
việc tuyền dạy văn hóa cồng chiêng cho thế hệ trẻ.
Thành lập Trung tâm nghiên cứu di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
hoặc có bộ phận nghiên cứu này trong phòng Quản lý di sản thuộc Sở Văn hóa,
Thể thao & Du lịch của tỉnh. Khai thác có hiệu quả Trung tâm vệ tinh, các cơ
quan lưu trữ tư liệu về di sản văn hóa phi vật thể và tạo điều kiện cho mọi người
tiếp cận, đảm bảo sự tiếp cận với di sản văn hóa phi vật thể một cách nhanh
chóng và thuận lợi nhất. Quản lý khai thác việc tiếp cận các tài liệu thông qua
hệ thống lưu trữ kỹ thuật số và hệ thống mạng Internet. Bên cạnh đó, hoạt động
nghiên cứu cần có sự phối hợp, giúp đỡ chuyên môn của Viện Văn hóa nghệ
thuật Việt Nam, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Cục Di sản văn hóa.
- Thành lập ban bảo vệ văn hóa cồng chiêng từ tỉnh đến cơ sở trong đó
cần có các già làng và cán bộ người dân tộc có năng khiếu vào ban này đồng
thời có kinh phí và phương tiện cần thiết cho ban này hoạt động.
3.2.4. Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực
- Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý và bồi dưỡng nghiệp vụ cho viên
86
chức chuyên môn về di sản văn hóa cồng chiêng của đồng bào Êđê trên địa
bàn tỉnh
Theo thống kê đến tháng 6/2021, nguồn nhân lực trực tiếp tham gia công
tác quản lý nhà nuớc về di tích trên toàn tỉnh Đắk Lắk có 83 nguời, nhân lực tham
gia bảo vệ, chăm sóc, duy trì các hoạt động văn hóa và phát huy giá trị di tích có
98 nguời. Đại đa số có trình độ đại học, sau đại học với các chuyên ngành văn hóa
như: Khảo cổ, Lịch sử, Quản lý văn hóa, Văn hóa Du lịch, Bảo tàng...
Qua đánh giá, chất luợng nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ quản lý,
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh mặc dù đã đuợc chuẩn hóa
về trình độ, nhưng còn hạn chế về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đội
ngũ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị của văn hóa (lập
hồ sơ, hướng dẫn viên, thuyết minh viên), đa số chưa được đào tạo bài bản, ít
có điều kiện tham quan học tập ở trong nước và quốc tế; còn hạn chế về kỹ
năng sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý, trình độ ngoại ngữ để thuyết
minh, giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa cho du khách nước ngoài khi đến
tham quan, học tập, nghiên cứu. Bên cạnh đó, đội ngũ thực hiện công tác lãnh
đạo, quản lý về di sản văn hóa còn kiêm nhiệm, phụ trách nhiều lĩnh vực, nhất
là cấp huyện, cấp xã nên việc tìm hiểu, nghiên cứu còn chưa nhiều, ít sâu sát
với thực tiễn, công tác chỉ đạo, điều hành hiệu quả chưa cao.
Thực trạng thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu chuyên gia giỏi;
năng lực, trình độ của cán bộ, công chức là một trong những yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả quản lý nhà nước về di sản văn hóa. Đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác quản lý đòi hỏi phải có tư duy khoa học, khả năng nghiên cứu và
am hiểu các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước, có kinh nghiệm và
năng lực thực tế. Bên cạnh đó, ngoài việc tự nghiên cứu, học tập, bổ sung kiến
thức thì trong quá trình công tác, đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên
87
được kiểm tra, đánh giá lại năng lực và trình độ chuyên môn.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp phải thực hiện đồng
bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Một là, thường xuyên, liên tục tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về kiến
thức pháp luật, kỹ năng quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý nhà nước; các lớp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cho nhân lực trực tiếp làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, trong
đó chú trọng việc phát triển nguồn nhân lực với khả năng ứng dụng các tiến bộ
khoa học công nghệ để thực hiện việc lập, quản lý hồ sơ di tích (số hóa hồ sơ
di tích); tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích (sử dụng công nghệ 3D trong
phục vụ khách tham quan)... Để làm chủ được những công nghệ mới thì đội
ngũ nhân sự hiện nay cần phải nắm vững các kiến thức và kỹ năng liên quan
đến ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động quản lý di tích. Cập nhật thường
xuyên các kiến thức mới về di tích, du lịch thông minh và công nghệ số.
Hai là, tăng cường tổ chức nhiều hoạt động liên kết, phối hợp giữa các
đơn vị là cơ quản quản lý nhà nước với các hiệp hội nghề nghiệp, nhất là lĩnh
vực du lịch, khoa học công nghệ nhằm chia sẻ thông tin, kiến thức, kỹ năng,
chuyển giao công nghệ và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Bên cạnh đó, việc hợp
tác liên ngành văn hóa và ngành công nghệ thông tin, truyền thông cũng đóng
vai trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nhân lực.
Ba là, tạo điều kiện cho đội ngũ nhân sự quản lý di tích và lực lượng
tham gia công tác bảo vệ, tôn tạo, trùng tu di tích có cơ hội tu nghiệp, tham
quan học tập kinh nghiệm thực tế mô hình tiên tiến, cần tham khảo một số mô
hình tiến bộ áp dụng công nghệ 4.0 vào hoạt động quản lý và phát huy di tích
trên thế giới.
Bốn là, thực hiện chính sách và chế độ đãi ngộ về vật chất, khuyến khích
88
về tinh thần đối với đội ngũ cán bộ, công chức quản lý di sản văn hóa nhằm
nâng cao ý thức giữ gìn, bảo vệ và khai thác giá trị văn hóa cùng với việc bảo
vệ môi trường thiên nhiên, bảo tồn truyền thống văn hóa.
Năm là, thực hiện hiệu quả chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng
cao. Cần có chính sách thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao như
ưu tiên tuyển thẳng vào biên chế, bổ nhiệm, xếp ngạch và bố trí bậc lương phù
hợp, có kế hoạch cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài... nhằm thu hút và “giữ
chân” cán bộ, công chức chuyên môn cao. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch “đặt
hàng” tại các trường đại học chuyên ngành di sản văn hóa trong cả nước nhằm
tuyển dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng các yêu cầu về trình
độ, kỹ năng trong thời đại công nghệ 4.0, xây dựng được đội ngũ “công dân
toàn cầu” phục vụ đắc lực cho công tác hoạch định và triển khai các chiến lược,
kế hoạch về bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
Bên cạnh đó, đào tạo và nâng cao trình độ, năng lực cán bộ dân tộc thiểu
số chính là việc làm vô cùng cần thiết, nhằm phát huy khả năng làm việc, ngôn
ngữ, vốn văn hóa truyền thống để giúp đồng bào Êđê ở các buôn làng ý thức
bảo vệ, phát huy về các giá trị di sản văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Củng cố, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao
phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa phi vật thể với sự hỗ trợ của các cơ
quan, các nhà khoa học trong nước và thế giới (kể cả đi tham quan học tập ở
nước ngoài). Cần khẳng định rằng, những người làm công tác quản lý nói riêng
ở cấp cơ sở, nếu không hiểu biết về di dản văn hóa phi vật thể di sản cồng
chiêng Tây Nguyên cũng như những giá trị, đặc trưng và các hình thức sinh
hoạt của nó, sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý, định hướng và duy trì sự phát
triển của di sản văn hóa cồng chiêng. Do đó, họ cần thường xuyên được trang
bị những kiến thức cơ bản về quản lý di sản, trong đó có nội dung nghiệp vụ
89
quản lý. Sở Văn hóa thể thao và Du lịch cần tổ chức nghiên cứu toàn bộ nội
dung bảo tồn di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Tham gia tập huấn cho
các cán bộ quản lý và những người làm công tác văn hóa có chuyên môn về âm
nhạc, văn hóa.
Mở lớp dạy đánh cồng chiêng cho con em đồng bào dân tộc Êđê trong
tỉnh, nhằm chuyển giao kỹ năng sử dụng chiêng từ thế hệ cha anh cho thế
hệ trẻ.
Phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, học viên Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam để nghiên cứu, giúp đỡ cộng đồng tổ chức tự quản lý, thực
hiện các chương trình truyền dạy, phục hồi kỹ thuật biểu diễn cồng chiêng theo
lối truyền thống, các giải pháp để văn hóa cồng chiêng thích ứng với sự phát
triển của các phương tiện truyền thông trong đời sống đương đại. Trong khuôn
khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, các cấp chính quyền cần
đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người, các cá nhân
đã sáng tạo, duy trì và chuyển giao di sản, đặc biệt là cần phải tích cực lôi kéo
họ tham gia vào công tác quản lý thông qua Hiệp hội những người yêu thích
văn hóa cồng chiêng, Hiệp hội nghệ nhân dân văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên.
Trong hoàn cảnh không gian diễn xướng truyền thống đang bị thu hẹp
do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Cần thúc đẩy việc đầu tư các dự án
bảo vệ môi trường kết hợp bảo vệ và xây dựng các không gian, cảnh quan tự
nhiên và những địa điểm gắn với ký ức thể hiện những giá trị văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh. Đặt văn hóa cồng chiêng trong mối
liên quan mật thiết với điều kiện tự nhiên và môi trường sống bên cạnh đó hình
thái kinh tế phải phù hợp với văn hóa cồng chiêng.
Hỗ trợ cộng đồng phục hồi tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội liên
90
quan đến di sản văn hóa cồng chiêng Êđê ở các buôn, làng. Tìm các giải pháp
để văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên thích ứng với sự phát triển của các phương
tiện âm thanh trong đời sống đương đại.
3.2.5. Nhóm giải pháp về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
- Thanh tra, kiểm tra thường xuyên và xử lý nghiêm vi phạm trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa
bàn tỉnh
Trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê
cần thường xuyên thanh tra, kiểm tra nhằm xử lý nghiêm những vi phạm trong
quá trình tổ chức thực hiện, đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước được tiến
hành theo đúng quy định của pháp luật. Phải có hội đồng nghệ thuật, phải có quy
chế cụ thể và công tác quản lý nhà nước phải được tăng cường để các tập thể và
cá nhân quản lý, sử dụng có trách nhiệm hơn đối với văn hóa cồng chiêng.
Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan từ tỉnh đến xã phường về bảo
tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng Êđê cần sớm có quy định rõ ràng về đối
tượng nào, không gian nào, các bài chiêng nào đáp ứng tiêu chí thì mới được
biểu diễn (phải có thẻ hành nghề mới được biểu diễn), tránh tình trạng biểu diễn
lộn xộn như hiện nay.
- Ban hành các chế tài cụ thể xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi
vi phạm
Ngành văn hóa cần thường xuyên phối hợp với các ngành: công an, hải
quan, quản lý thị trường, các trạm kiểm lâm... có biện pháp ngăn chặn việc mua
bán cồng chiêng và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm hoạt động
này ở các buôn làng. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát, quản lý chặt chẽ và xử lý
những trường hợp vi phạm và âm mưu phá hoại nền văn hóa truyền thống của
91
các thế lực thù địch.
3.2.6. Nhóm giải pháp ứng dụng khoa học và công nghệ
- Ứng dụng khoa học công nghệ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Học tập và ứng dụng kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, ứng
dụng khoa học công nghệ hiện đại đã đi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong
đó có lĩnh vực di sản văn hóa. Ứng dụng nhiều công nghệ mới sẽ giúp cho hoạt
động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng đạt hiệu quả cao, cụ thể:
Tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia, cấp tỉnh
nhằm phát minh, sáng chế về khoa học công nghệ ứng dụng nhằm bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng. Liên kết, hợp tác với các nước trong
khu vực, quốc tế để đầu tư, chuyển giao công nghệ ứng dụng trong việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng.
Ứng dụng công nghệ “du lịch thông minh” nhằm mục tiêu huớng đến
phục vụ du khách tham quan trực tuyến, các hình ảnh 3D của hiện vật, công
nghệ thuyết minh tự động, tự dịch ra các ngôn ngữ khác nhau, thậm chí có thể
tự trả lời, tuơng tác với công chúng tham quan tại di tích. Công nghệ quét và in
3D đuợc sử dụng để phục chế, nhân bản, sản xuất các hiện vật cho nhiều mục
đích sử dụng khác nhau từ trung bày, nghiên cứu.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp
Chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục xây dựng các Chương trình,
Kế hoạch thực hiện bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng gắn với nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Xây dựng và ban hành Kế hoạch của UBND tỉnh tổ chức truyền dạy cồng
chiêng trong các Trường dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh. Từng bước đưa văn
hóa cồng chiêng vào chương trình chính khóa của các trường dân tộc nội trú.
92
Vận động các nguồn xã hội hóa của các tổ chức, cá nhân để thực hiện công tác
bảo tồn, phát huy di sản - không gian văn hóa cồng chiêng.
Xây dựng, tổ chức hoạt động mô hình buôn kiểu mẫu gắn với du lịch
cộng đồng; thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa cồng chiêng trong
sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, trong các hoạt động du lịch văn hóa. Phát huy vai
trò của các già làng, chức sắc tôn giáo trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa cồng
chiêng ở các buôn làng Êđê, tích cực vận động xã hội hóa, tăng cường nguồn lực,
đối với công tác bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng, đầu tư về cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị cho các nhà văn hóa cộng đồng của buôn đồng bào các dân tộc thiểu
số nhằm hỗ trợ có hiệu quả việc bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng.
Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Êđê trên địa bàn tỉnh cần phải có sự tập trung các nguồn lực, đặc biệt là nguồn
kinh phí đầu tư cho công tác này. Tăng cường xã hội hóa huy động nguồn lực
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng. Để làm tốt vấn đề
này, cần phải giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp và các ngành có liên quan, hoặc
thành lập một cơ quan chuyên môn đủ năng lực huy động mọi nguồn lực cho
công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng của dân tộc Êđê trên
địa bàn tỉnh.
Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ tài chính hoặc kỹ thuật cho công tác
bảo tồn từ mọi hình thức xã hội hóa, bao gồm cả các khoản cho vay lãi suất
thấp và viện trợ từ các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ; Tiếp tục lồng
ghép việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng với “phong
trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, coi việc gìn giữ di sản là
một trong những tiêu chí quan trọng để công nhận các danh hiệu gia đình văn
hóa, thôn, buôn, tổ dân phố văn hóa, xã văn hóa nông thôn mới; Xây dựng thế
hệ nghệ nhân trẻ, nòng cốt làm lực lượng kế cận trong việc bảo tồn và phát huy
di sản Không gian văn hóa cồng chiêng; khôi phục các hoạt động sinh hoạt văn
93
hóa truyền thống, kết hợp hài hòa với môi trường văn hóa hiện đại để các nghệ
nhân và thanh, thiếu niên người dân tộc thiểu số có điều kiện thuận lợi hoạt
động, thực hành, hòa nhập với xu thế phát triển chung của toàn xã hội nhưng
94
vẫn gìn giữ được bản sắc riêng của mỗi dân tộc.
Tiểu kết chương 3
Giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê nói riêng, của đồng bào
Tây Nguyên nói chung là một tổng thể hợp thành của nhiều yếu tố nghệ
thuật, bao gồm hàng loạt những sinh hoạt văn hóa, hoạt động biểu diễn cồng
chiêng, tập quán văn hóa, không gian văn hóa. Nhận thức đúng và hiểu rõ về
văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê sẽ có được những định hướng đúng
đắn cho việc sưu tầm, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước
về bảo tồn cồng chiêng Êđê theo hướng tổng thể: từ không gian, thời gian
đến bài bản, tập tục, sự trao truyền của các nghệ nhân.
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê
là một hoạt động khoa học, đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu, sự phối hợp
liên ngành và phải tuân thủ những nguyên tắc cao nhất là giữ được tính nguyên
gốc của di sản gắn với những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội của từng thời
kỳ. Khi giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, cần có
sự hiểu biết đầy đủ đâu là yếu tố gốc, yếu tố nội sinh, đâu là yếu tố ngoại sinh,
yếu tố kế thừa, thậm chí cả yếu tố tân trang vay mượn, từ đó lựa chọn hình thức
bảo tồn phù hợp, phương án bảo tồn hoặc ưu tiên cho sự phát triển. Mặt khác,
cần nâng cao nhận thức coi giá trị văn hóa cồng chiêng cũng như các giá trị văn
hóa phi vật thể khác của Việt Nam, không những là cội rễ của bản sắc văn hóa,
mà việc bảo tồn và phát huy nó còn là giải pháp để xây dựng bản sắc văn hóa
của dân tộc là công cụ tham gia vào toàn cầu hóa và là vốn liếng, là lợi thế có
sức mạnh cạnh tranh trên trường quốc tế. Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp quản
lý nhà nước về bảo tồn văn hóa cồng chiêng, để làm cho nó trở thành một thành
tố của quá trình “Di truyền xã hội” sẽ không là trách nhiệm của riêng một ai,
mà đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của các cấp, các ngành và cả cộng
95
đồng.
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trịvăn hóa cồng chiêng của
dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh là toàn bộ sự tác động có tổ chức, có mục đích
của Nhà nước đến các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Êđê, là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang
tính nghệ thuật, qua đó hướng đến mục tiêu bảo tồn không gian văn hóa cồng
chiêng trong tổng thể văn hóa bản địa truyền thống của 49 dân tộc anh em đang
sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt tiếng cồng chiêng còn đem đến
đời sống của người dân Đắk Lắk sự lạc quan, là nguồn gốc của những sử thi,
thơ ca đi vào đời sống tinh thần của nhân dân.
Kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện qua các chương như sau:
Chương 1, luận văn đã hệ thống được cơ sở lý luận, thực tiễn quản lý
nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói
chung và của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh. Đây là quá trình tác động, điều
chỉnh thông qua quản lý nhà nước bằng các quy định của pháp luật trên tất cả
các hoạt động trong đời sống xã hội nhằm bảo tồn và phát huy giá trị, đáp ứng
nhu cầu văn hóa của nhân dân vùng Tây Nguyên và của tỉnh Đắk Lắk. Kết quả
nghiên cứu về phương diện lý luận ở chương 1 là cơ sở để luận văn khảo sát,
đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa văn
hóa cồng chiêng của đồng bào Êđê trong tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua, làm
cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng của công tác quản
lý, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê của tỉnh
ở các chương sau.
Chương 2, trên cơ sở khảo sát và tổng hợp các thông tin số liệu từ các
nguồn trên địa bàn Tây Nguyên và trong tỉnh Đắk Lắk, luận văn đã phân tích
96
đánh giá thực trạng và làm sáng tỏ những mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển,
giữa những ưu điểm và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Điều này luôn là bài học quý giá định hướng cho các hoạt động quản lý nhà
nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3, từ việc phân tích thực trạng quản lý nhà nước trong quá trình
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng, luận văn đã đề xuất các
giải pháp quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng
của đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk theo hướng tổng thể: từ
không gian, thời gian đến các bài bản, tập tục, sự trao truyền của các nghệ
nhân..., nhằm làm cho các giá trị văn hóa trở thành một thành tố của quá trình
“Di truyền xã hội”, là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của các cấp, các ngành
và của cả cộng đồng.
Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của
dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã đạt được những thành quả quan trọng,
góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân, giữ vững ổn định an ninh chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn bộc
lộ những bất cập, cần nhanh chóng khắc phục. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa cồng chiêng là một hoạt động khoa học, đòi hỏi những kiến thức
chuyên sâu, sự phối hợp của liên ngành. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề
lý luận và qua khảo sát đánh giá hiện trạng, tác giả luận văn đã đề xuất những
giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian tới.
Tuy nhiên, trong giới hạn của một luận văn thạc sỹ, cũng như khả năng
của tác giả trước một vấn đề rất lớn của cả tỉnh Đắk Lắk chắc chắn luận văn
97
không tránh khỏi những hạn chế cần bổ khuyết để công tác bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đạt được
98
kết quả như định hướng của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Việt Bách (2011), Tìm hiểu văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
2. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk (2007), Tập san chuyên đề Festival Văn
hóa Cồng chiêng Tây Nguyên.
3. Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Tri Nguyên, Võ Hoàng Lan (2006), Các nhạc cụ
gõ bằng đồng những giá trị văn hóa, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
4. Bộ Văn hóa - Thông tin (2003), Kỷ yếu tổng kết công tác văn hóa thông tin
2002, Hà Nội.
5. Trương Bi, Bùi Minh Vũ (2009), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc
người Êđê, M'nông, NXB Văn hóa dân tộc.
6. Trương Quang Bình (2014), Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt
Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.
7. Cục Di sản văn hóa xuất bản (2007), Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể, tập
1, Hà Nội.
8. Ngô Văn Doanh, Trương Bi (2012), Nghi lễ - lễ hội của người Chăm và
người Êđê, NXB Văn hóa dân tộc.
9. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945-
1947), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với
nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Viện khoa học xã hội Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Thúy Hiền (2017), Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc Gia. 14. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Giáo trình
Lý luận về văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, NXB Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
15. Học viện Hành chính Quốc gia (2009), Thuật ngữ hành chính, NXB Thế
giới, Hà Nội.
16. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Quản lý nhà nước đối với ngành,
lĩnh vực, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
17. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003),
Từ điển bách khoa Việt Nam, T.3, Trung tâm Biên soạn từ điển bách khoa
Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
18. Hội Văn học nghệ thuật Đắk Lắk (2022), Văn hóa dân gian Tây Nguyên –
Một cách nhìn.
19. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2012), Âm nhạc dân gian dân tộc Êđê
Kpă và Jrai.
20. Hội đồng nhân dân tỉnh (2021), Nghị quyết số 10/2021/NQ-HĐND ngày
17/12/2021 nghị quyết bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk
Lắk, giai đoạn 2022-2025.
21. Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng, Đậu Tuấn Nam (2006), Một số vấn đề
về Văn hóa - Xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây nguyên hiện nay, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển bền
vững, NXB Từ điển bách khoa Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện phát
triển bền vững vùng Tây Nguyên.
23. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2004), “Bảo tồn và phát huy” hay “kế thừa và phát
triển ” văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ”, in
trong cuốn kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương văn hoá Việt Nam (1943-
2003) - kỷ yếu hội thảo, Viện Văn hoá - Thông tin xuất bản, tr. 267-277.
24. Linh Nga Niê Kdăm (2010), Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc
Tây Nguyên, NXB Văn học.
25. Linh Nga Niê Kdăm (2012), Văn hóa Tây Nguyên giàu và đẹp, NXB Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
26. Lý Vân Linh Niê Kdăm và Lê Xuân Hoan (2012), Âm nhạc dân gian dân
tộc Êđê Kpă và Jrai, NXB Văn hóa dân tộc.
27. Nguyễn Kim Loan (2010), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam,
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.
28. Lê Hồng Lý (2011), Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch, Nhà xuất
bản Quốc gia.
29. Lý Sol - Linh Nga Niê Kdăm (2017), Nghệ thuật múa dân gian của các dân
tộc thiểu số Tây Nguyên, NXB Sân khấu.
30. Quốc hội nước CHXHVNVN, Luật Di sản Văn hoá và văn bản hướng dẫn
thi hành (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước CHXHVNVN, Luật Thi đua khen thưởng (2003) số
15/2003/QH11 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi đua khen
thưởng (2013) số 39/2013/QH13 ngày 16/11/2013.
32. Quốc hội nước CHXHVNVN (2005), Luật sở hữu trí tuệ.
33. Quốc hội nước CHXHVNVN (2009), Luật sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu
trí tuệ.
34. Quốc hội nước CHXHVNVN (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật di sản văn hóa.
35. Nhà Xuất bản Văn hóa thông tin (2014), Già làng và trường ca sử thi trong
văn hóa Tây Nguyên
36. Phạm Quang Nghị (2005), Bảo tồn phát huy di sản văn hoá phi vật thể ở
Việt Nam, Viện Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (2008), Bảo vệ không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên,
kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, Hà Nội.
38. Nhiều tác giả (2017), Di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, NXB Văn
hóa dân tộc.
39. Ngô Quang (2001), Văn hóa cồng chiêng Mường, NXB Văn hóa nghệ
thuật, Hà Nội.
40. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, khóa X, Luật di sản văn hóa (2001)
số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001.
41. Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Đắk Lắk (2000), Báo cáo tổng kết công
tác văn hóa, thể thao và du lịch.
42. Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Đắk Lắk (2021), Báo cáo số 253/BC-
SVHTTDL ngày 05/10/2021 về đánh giá tác động của công tác bảo tồn và
phát huy văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
43. Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Đắk Lắk (2020), Báo cáo số 311/BC-
SVHTTDL ngày 26/11/2020 về việc báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện Nghị
quyết số 05/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của HĐND tỉnh về bảo tồn,
phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016-2020.
44. Lương Thanh Sơn (2011), Góp phần Bảo tồn văn hóa người Bih Tây
Nguyên.
45. Thành ủy Buôn Ma Thuột (2012), Báo cáo 15 năm thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
46. Nguyễn Thịnh (2012), Di sản Văn hóa Việt Nam - Bản sắc và vấn đề bảo
tồn, Nhà xuất bản Xây dựng.
47. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Đắk Lắk (2015), Địa chí Đắk Lắk.
48. Võ Thanh Tùng (2001), Nhạc Khí Dân Tộc Việt, NXB Âm Nhạc.
49. UNESCO (2004), Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Thông
báo khoa học Viện Văn hóa - Thông tin, số 9 -6/2004, tr. 142-165.
50. UBND tỉnh Đắk Lắk (2012), Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2012 - 2015.
51. UBND Tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk (2000-2015).
52. UBND tỉnh Đắk Lắk (2016), Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2016 - 2020.
53. UBND tỉnh Đắk Lắk (2020), Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện Nghị quyết
số 05/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh về bảo
tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020.
54. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021), Báo cáo đánh giá tác động của công tác Bảo
tồn và phát huy Văn hóa Cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
55. Viện văn hóa - Thông tin (2006), Kiệt tác di sản truyền miệng và phi vật
thể của nhân loại Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, NXB Thế
giới, Hà Nội.
56. Viện Văn hóa - Thông tin (2007), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể ở Việt Nam, Hà Nội.
57. Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam (2017), Di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
58. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay, NXB Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
Website:
59. https://vi.wikipedia.org/wiki/Người Êđê
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Không gian văn hóa cồng chiêng là niềm tự hào của đồng bào các dân tộc tỉnh
Một lớp truyền dạy diễn tấu cồng chiêng Êđê cho các trẻ em ở các buôn làng
Đắk Lắk nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung
Đắk Lắk
Dự án “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk” nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
Truyền dạy chiêng tre cho thế hệ trẻ.
Ngày hội cồng chiêng các dân tộc tỉnh Đắk Lắk.
Một lớp dạy đánh cồng chiêng cho sinh viên người dân tộc thiểu số của Trường Đại học Tây Nguyên.
Đại diện Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Lắk và Trung tâm Hợp tác quốc tế tỉnh Jeollabuk, Hàn Quốc trao trang phục truyền thống cho các đội chiêng
Các nghệ nhân truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ tại thị trấn Buôn Trấp, huyện Krông Ana.
Một tiết mục biểu diễn cồng chiêng tại Liên hoan văn hóa cồng chiêng xã Cư Pui (huyện Krông Bông) năm 2019.
Một chương trình tìm hiểu về âm nhạc cồng chiêng dành cho học sinh trên địa bàn tỉnh do Bảo tàng Đắk Lắk tổ chức.
Đội chiêng buôn Wiâo đang tập dượt
Tấu chiêng trong đám tang của người Ê đê.