ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
DƢƠNG NGỌC KIÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Khoa học quản lý
Hà Nội, tháng 10/ 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
DƢƠNG NGỌC KIÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Khoa học quản lý
Đào tạo thí điểm
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân
Hà Nội, tháng 10/ 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn Thanh Xuân.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014
Tác giả
Dương Ngọc Kiên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 2 3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 5 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6 5. Địa bàn nghiên cứu .................................................................................. 6 6. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 6 7. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 6 8. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 7 9. Kết cấu của Luận văn .............................................................................. 8 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................... 9 1.1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ................................ 9 1.1.1. Những khái niệm ............................................................................. 9 1.1.2. Cơ sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo..................................................... 177 1.2. Khái lƣợc về các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 244 1.2.1. Khái quát tình hình tôn giáo Thành phố Hà Nội ...................... 244 1.2.2. Đường hướng hoạt động của các tôn giáo ................................ 277 * Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................. 344 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................... 355 2.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội .................................................................................................................... 355 2.1.1. Cơ cấu tổ chức của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố ........ 355 2.1.2. Thực trạng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Thành phố ........... 399 2.1.3. Tình hình hoạt động của hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo ... 455 2.1.4. Thực trạng cơ sở thờ tự của các tôn giáo .................................. 566 2.2. Công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................................................................... 599 2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng về tôn giáo ......... 599 2.2.2. Công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị cơ sở ................ 699 2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ...... 777 2.2.4. Công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo ....................... 91
2.2.5. Thành tựu, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân ........................... 933 * Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................. 988 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................... 999 3.1. Quan điểm về công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới ......................................... 999 3.1.1. Dự báo tình hình tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới ............................................................................................ 999 3.1.2. Quan điểm về công tác tôn giáo .................................................. 101 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới1055 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của chức sắc, tín đồ .................. 1055 3.2.2. Nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ..... 11111 3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tại các vùng đồng bào có đạo trọng điểm ................................................................ 1177 3.2.4. Kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp từ cấp Thành phố đến cấp xã ..................................................................................... 1233 3.2.5. Phát triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào có đạo1288 * Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................. 13131 KẾT LUẬN .............................................................................................. 13232 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 1366
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được rất nhiều sự
động viên và giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức. Tôi vô cùng biết ơn
tất cả!
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn
LỜI CẢM ƠN
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học KHXH&NV, Phòng Sau Đại học
đã giúp đỡ cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành chương
trình Thạc sỹ này.
Xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy, cô trong Khoa Khoa học
quản lý, Trường Đại học KHXH&NV đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình học tập.
Thanh Xuân, người hướng dẫn khoa học tận tình và chu đáo trong suốt quá trình
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014
Tác giả
Dương Ngọc Kiên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND : Ủy ban nhân dân
CSVN : Cộng sản Việt Nam
BHG : Ban hành giáo
HĐMV : Hội đồng mục vụ
HĐGX : Hội đồng giáo xứ
NXB : Nhà xuất bản
QLNN : Quản lý nhà nước
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hà Nội với vị trí là Thủ đô, đồng thời là trung tâm chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm về văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.
Hà Nội là nơi có trụ sở của các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các
tổ chức chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là
nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước. Đồng thời,
là nơi có trụ sở của Trung ương Giáo hội một số tôn giáo như: Phật giáo, Công
giáo, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Do vậy, những diễn biến và
hoạt động tôn giáo trong cả nước đều tác động trực tiếp đến tôn giáo ở Hà Nội,
từ đó, ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội Thủ đô. Mặt khác, những động
thái tôn giáo ở Hà Nội có quan hệ trực tiếp đến động thái tôn giáo cả nước.
Sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội, thành phố Hà Nội
được mở rộng về diện tích bao gồm: thành phố Hà Nội (cũ), toàn bộ diện tích
của tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 04 xã thuộc huyện Lương
Sơn, tỉnh Hòa Bình. Thành phố Hà Nội được mở rộng có diện tích 3.324,92 km²
(nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới), dân số 6.232.940 người, tại 29 quận,
huyện, thị xã; 580 xã, phường, thị trấn (gồm: 154 phường, 404 xã và 22 thị trấn).
Theo đó, các tổ chức tôn giáo và số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự của các
tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng tăng lên cả về số lượng cũng như
mức độ phức tạp trong công tác quản lý.
Hiện nay, Hà Nội có 7 tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận tư
cách pháp nhân là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Baha’i,
Minh sư đạo; đồng thời, còn tồn tại một số hiện tượng tôn giáo khác (đạo lạ)
như: Long hoa Di lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Bạch Chân Không, Thanh Hải
Vô thượng sư, Pháp luân công, Pháp môn Diệu âm… Các Tín ngưỡng dân gian
1
có: 5211 di tích đình, đền, nhà thờ họ, lăng, miếu, …. Trong đó, di tích được xếp
hạng: cấp Quốc gia khoảng 1.200 di tích; cấp Thành phố khoảng 900 di tích.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của
chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của một số tổ chức tôn giáo, chức sắc
tôn giáo có nhiều diễn biến phức tạp, không tuân thủ các quy định của pháp luật.
Mặt khác, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo vẫn còn
có một số hạn chế. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, Đảng viên về chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo còn có sự bất cập, thiếu
nhất quán tạo mâu thuẫn trong công tác quản lý, gây bức xúc trong nhân dân
và đồng bào có đạo.
Vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo cần
nhanh chóng được tổng kết, đánh giá chính xác thực trạng, rút ra những bài
học kinh nghiệm; từ đó, đề ra các chủ trương, giải pháp quản lý phù hợp, định
hướng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội theo hướng
tuân thủ pháp luật, gắn bó, đồng hành cùng đất nước và dân tộc, góp phần ổn
định tình hình chính trị - tôn giáo tại Thủ đô. Đây là một đòi hỏi cấp bách cả
về lý luận và thực tiễn. Vì thế, tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, hoạt động của các tôn giáo và công tác quản lý hành
chính nhà nước đối với hoạt động trên tại địa bàn thành phố Hà Nội đã được
tiếp cận ở một số góc độ khác nhau trong một số xuất bản phẩm như:
- Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, PGS.TS
Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo (2007). Công trình đề cập đến chủ
2
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng; tôn giáo
trên thế giới, các tôn giáo lớn ở Việt Nam, chính sách và việc thực hiện chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo
(2005). Công trình đề cập đến những bài viết về vai trò tín ngưỡng dân gian
trong đời sống tinh thần người dân Việt Nam; một số lễ hội điển hình trong
tín ngưỡng dân gian Việt nam; thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân
tộc ở nước ta...
- Những thay đổi của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Kỷ yếu hội thảo
khoa học (2006). Công trình đề cập gồm những bài viết của nhiều tác giả
nghiên cứu về sự phát triển quan điểm về tôn giáo trong quá trình đổi mới đất
nước; đời sống tín ngưỡng Việt Nam trước tác động của sự biến đổi xã hội thế
giới và trong nước; đổi mới quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới...
- Mai Thanh Hải (1998), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam,
Nxb.CAND và TS.Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb.Tôn giáo, tuy là hai cuốn sách của hai tác giả khác nhau, nhưng về cơ bản
đã cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về lịch sử, giáo lý, cơ cấu
tổ chức của các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam.
- GS.Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb.Chính trị, là cuốn sách cung cấp những kiến thức căn
bản và quan trọng về lý luận tôn giáo học mác-xít đồng thời người đọc có thể
nhìn nhận được khái quát thực trạng một số tôn giáo ở Việt Nam.
- GS.TS Đỗ Quang Hưng (2003) với hai cuốn sách: Nhà nước và giáo
hội và Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ nhà nước và giáo hội, Nxb.Tôn giáo,
3
tác giả đã lý giải sâu sắc về vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước
thế tục đương đại đối với tổ chức giáo hội các tôn giáo và Vấn đề tôn giáo
trong cách mạng Việt Nam- lý luận và thực tiễn,Nxb Lý luận chính trị;
Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS. TS Ngô Hữu Thảo- chủ
nhiệm đề tài(1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ
mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS. TS
Hoàng Minh Đô- Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam-
Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong
công tác lãnh đạo, quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,…
- PGS.TS Hoàng Minh Đô (2007), Dòng tu Công giáo ở nước ta hiện
nay và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước. Đề tài cấp Bộ,
Viện Nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Đề tài đã trình bày rõ thực trạng, phân tích những vấn đề đặt ra và đề
xuất giải pháp giải quyết vấn đề dòng tu ở Việt Nam.
Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo có các đề tài sau:
Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Tập bài giảng tôn giáo và công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam; Nxb Tôn giáo;
- Bùi Đức Luận (chủ biên), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, 2005;
Một số tôn giáo ở Việt Nam (Nhà xuất bản Tôn giáo – Ban Tôn giáo
Chính phủ), đây là tác phẩm có nội dung khái quát đầy đủ nhất về các tôn giáo
ở Việt Nam, giới thiệu về hầu hết các tôn giáo lớn tại Việt Nam, từ quá trình
hình thành, quá trình du nhập vào Việt Nam, đặc điểm, ảnh hưởng…
4
Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội (Ban Tôn
giáo Chính phủ), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Lữ), phân tích khá kỹ lưỡng về chính sách tôn
giáo ở Việt Nam trong lịch sử cận, hiện đại.
Ngoài những tác phẩm giới thiệu về các tôn giáo chung, các tác phẩm
bàn về chính sách tôn giáo qua các thời kỳ, còn có một số tác phẩm bàn về các
tôn giáo trong quá trình truyền đạo, phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội
như Lịch sử truyền giáo (Mục sư Hoàng Lê Phu), Tin lành và Công giáo (Mục
sư Bùi Hoành Thử), Kitô giáo ở Hà Nội (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hồng
Dương), Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981-2012)
(Văn phòng Hội đồng Trị sự - Giáo hội Phật giáo Việt Nam),
Về các đề tài khoa học, tiêu biểu có các công trình như Đổi mới nội
dung, phương pháp công tác vận động quần chúng tôn giáo, xây dụng cơ sở
chính trị Công giáo Hà Nội góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới
thủ đô của Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998); Đề tài khoa học: Hoạt động
của đạo Tin lành ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp của Ban Tôn giáo Thành
phố Hà Nội (2003),... Đồng thời, còn một số công trình nghiên cứu (trong đó
có một phần đề cập đến hoạt động của các tôn giáo và công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội) hiện lưu
trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn
giáo – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Thông tin – Ban
Tôn giáo Chính phủ... Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn
diện về hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trên phương
diện quản lý nhà nước. Tuy nhiên, các công trình trên sẽ được sử dụng như tài
liệu tham khảo trực tiếp, kế thừa bổ ích cho quá trình thực hiện Luận văn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các
tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua. Từ đó, đề xuất giải pháp
5
nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu trên phương diện quản lý nhà nước của
chính quyền và hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội đối với hoạt động của
các tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Baha’i, Hồi giáo, Minh sư
đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2004 đến nay.
5. Địa bàn nghiên cứu
Luận văn tập trung vào một số địa bàn trọng điểm về hoạt động của các
tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo như
quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, thị xã Sơn Tây, huyện Sóc Sơn, huyện Từ Liêm.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Nhận diện khái quát hoạt động của một số tôn giáo trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây như thế nào?
Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Làm thế nào để nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo ở Hà Nội trong tình hình mới.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn và ban hành Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số
22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và sau đó là Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày
08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo tại Thủ đô đã
có những biến chuyển rõ rệt, nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đúng
pháp luật của chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố
6
đã được đáp ứng về cơ bản. Hầu hết các hoạt động tôn giáo diễn ra theo
hướng chấp hành các quy định của Pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn có
những bất cập, hạn chế như: trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác quản
lý còn hạn chế, sự thay đổi về tổ chức, đội ngũ làm công tác quản lý; sự phối
hợp, thống nhất trong tham mưu, chỉ đạo, thực hiện công tác quản lý của các
cấp, các ngành chưa thống nhất, đồng bộ, kịp thời... Bên cạnh đó, bản thân
nội tại các tổ chức tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng còn có diễn
biến phức tạp như quan điểm sai lệch, vọng ngoại, sự lấn lướt chính quyền,...
trong hoạt động của một bộ phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo. Những vấn đề
trên đã làm hạn chế rất nhiều những thành tựu trong công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thủ đô.
Do đó, việc nghiên cứu toàn diện hoạt động của các tôn giáo và công
tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động này trên địa bàn thành phố, đánh
giá kết quả đã thực hiện được, những hạn chế, thành công, nguyên nhân để từ
đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà
Nội là việc cần thiết về lý luận và có tính ứng dụng thực tiễn cao.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về
tôn giáo và quản lý hành chính nhà nước về tôn giáo.
- Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn thường đối với một số cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo tại các địa
bàn trọng điểm về tôn giáo như: quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, thị xã Sơn
7
Tây, huyện Sóc Sơn, huyện Từ Liêm. Đồng thời, luận văn còn sử dụng
phương pháp quan sát, thống kê, tổng hợp, phân tích tài liệu, tổng kết thực tiễn.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nƣớc về tôn giáo
1.1.1. Những khái niệm
* Quản lý: Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người,
trong đó chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng những phương
pháp và công cụ khác nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý một cách hiệu
quả nhất trong điều kiện biến động của môi trường.
Từ định nghĩa này, có thể thấy rằng:
- Quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, đó là
quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý.
- Quản lý là tác động có ý thức,
- Quản lý là tác động bằng quyền lực,
- Quản lý là tác động theo quy trình,
- Quản lý là phối hợp các nguồn lực,
- Quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung,
- Quản lý tồn tại trong một môi trường luôn biến đổi.
Như vậy, quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ
thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ, phương tiện quản
lý, cách thức quản lý (có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình) và môi
trường quản lý. Những nhân tố đó có quan hệ và tác động lẫn nhau để hình
thành nên quy luật và tính quy luật quản lý.
- Các đặc trưng của quản lý: Bởi vì quản lý vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật, lại là loại hình lao động đặc biệt nên quản lý có những đặc trưng
nổi bật để phân biệt với các khoa học và nghệ thuật khác như:
9
- Quản lý là hoạt động mang tính tất yếu và phổ biến; Hoạt động quản lý
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người; Quản lý là tác động có ý
thức; Quản lý là tác động bằng quyền lực; Quản lý là tác động theo quy trình;
Quản lý là hoạt động để phối hợp các nguồn lực; Quản lý nhằm hướng tới
thực hiện mục tiêu chung; Quản lý là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nghệ thuật; Mối quan hệ giữa quản lý và tự quản.
- Vai trò của quản lý
Quản lý là một hoạt động hay là một hình thức lao động đặc biệt. Nó
lấy các hoạt động cụ thể làm đối tượng để tác động vào nhằm định hướng,
thiết kế, duy trì, phát triển, điều chỉnh và phối hợp các hoạt động đó thành
một hợp lực để hướng tới hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Chính vì vậy, xét
về mặt tổng thể hay xét như một quy trình, quản lý có những vai trò sau: định
hướng, thiết kế, duy trì và thúc đẩy, điều chỉnh, phối hợp.
* Nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng
quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai
cấp thống trị trong xã hội.
- Đặc điểm của nhà nước: Các nhà nước trong lịch sử có sự khác nhau
về bản chất, nhưng đều có đặc điểm chung. Những đặc điểm của nhà nước
cho phép phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội do giai cấp
thống trị tổ chức ra.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, thiết
lập một quyền lực công cộng đặc biệt tách ra khỏi xã hội (không hòa nhập vào
dân cư như xã hội nguyên thủy), đó là quyền lực nhà nước. Để thực hiện
quyền lực này và quản lý xã hội, nhà nước tạo ra lớp người chuyên làm nhiệm
vụ quản lý, họ được tổ chức thành các cơ quan và hình thành nên bộ máy
10
cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, buộc các giai
cấp và tầng lớp dân cư trong xã hội phải phục tùng ý chí giai cấp thống trị.
Nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ, phân chia lãnh thổ thành các
đơn vị hành chính. Việc phân chia này không phụ thuộc huyết thống, chính
kiến, nghề nghiệp, giới tính... Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước với
các tổ chức chính trị xã hội khác. Trong thiết chế chính trị xã hội thì chỉ nhà
nước mới xác lập lãnh thổ của mình và chia lãnh thổ đó thành các bộ phận
cấu thành nhỏ hơn: thành phố, tỉnh, huyện, xã...
Nhà nước có chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà
nước về tất cả các vấn đề của chính sách đối nội và chính sách đối ngoai,
không phụ thuộc quyền lực bên ngoài. Trong thiết chế chính trị - xã hội, nhà
nước là tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia. Đây là thuộc tính không thể
tách rời của nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý bắt buộc với mọi
công dân. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, nhà
nước và pháp luật là hai hiện tượng gắn bó hữu cơ với nhau không thể tách
rời. Nhà nước có bộ máy cưỡng chế để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
và thực hiện sự quản lý bắt buộc với mọi thành viên trong xã hội.
Nhà nước quy định các loại thuế và thực hiện thu thuế dưới hình thức
bắt buộc. Việc thu thuế nhằm tạo ra nguồn tài chính đảm bảo bộ máy nhà
nước hoạt động, đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo việc thực hiện vai trò xã
hội của nhà nước.
* Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là
một hiện tượng xã hội được hình thành trong những điều kiện tồn tại vật chất
của xã hội ở những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Tôn giáo ra đời cách
đây khoảng 95000 - 35000 năm vào thời đại đá cũ với người Néanderthal,
11
hình thành con người hiện đại, khi con người biết tổ chức thành xã hội thị tộc-
bộ lạc; hay có thể nói khi con người xã hội đã hình thành.
Vậy tôn giáo là gì? Có rất nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng tập trung
tâm huyết để nghiên cứu và cố gắng định nghĩa nó. Các nhà triết học duy tâm,
các nhà thần học thừa nhận sự tồn tại của thực thể siêu nhiên, họ cho rằng tôn
giáo là cái có sẵn, đó là một đấng siêu nhiên, thần thánh nào đó điều khiển xã
hội, từ đó nảy sinh niềm tin tôn giáo.
E. Tylor đã viết: “Có lẽ nên đặt niềm tin vào những thực thể tinh thần
(hay siêu nhiên) như một định nghĩa tối thiểu về tôn giáo” [73,2]. Quan điểm
trên của Tylor có thể nói là phát ngôn của các nhà duy tâm khẳng định sự tồn
tại không phụ thuộc vào con người của đáng thần thánh, siêu nhiên và tôn
giáo chính là biểu hiện niềm tin của con người đối với đấng siêu nhiên đó.
Đối lập với các nhà duy tâm, các nhà duy vật biện chứng mà tiêu biểu
là Mác- Ăngghen cho rằng tôn giáo không thể do bất cứ một đấng siêu nhiên
nào tạo nên. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, của con người, do con người
sáng tạo ra rồi lại bị nó chi phối, “con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không
phải tôn giáo sáng tạo ra con người”[73,1]. Phát triển quan điểm của Mác,
Ăngghen đã chỉ rõ tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh thần thánh hóa
những lực lượng trần thế áp bức con người trong sinh hoạt hàng ngày. Trong
tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ăngghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực
lượng trần thế đã mang hình thức siêu trần thế”[73,2].
Sau Mác - Ăngghen, nhiều nhà khoa học khác cũng đã nêu lên những
định nghĩa về tôn giáo xuất phát từ quan điểm của mình. Từ góc độ thế giới
quan, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội; từ góc độ tâm lý học, tôn giáo là
một dạng biểu hiện đặc thù của tình cảm thành tín ngưỡng; từ góc độ xã hội
12
học và chính trị học, tôn giáo là một thể chế trong cơ cấu xã hội; từ góc độ
nhận thức luận, tôn giáo là hệ thống nhận thức dưới hình thức niềm tin không
cần kiểm chứng; từ góc độ thể chế, tôn giáo là những cộng đồng người có
chung một tín ngưỡng nhất định.
Tất cả các định nghĩa đều tiến tới một quan niệm phổ quát nhất về tôn
giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thể hiện trong những quan niệm
của con người (hay nhóm người) dưới dạng niềm tin vào một sức mạnh siêu
nhiên tự nhiên hay là những nhân vật được thần thánh hóa, thể hiện bằng
những nghi thức, sinh hoạt nhất định, giống nhau của từng thành viên trong
nhóm đó.
Từ góc độ khoa học quản lý, tôn giáo là một hoạt động được tổ chức
chặt chẽ, nó là tổng hợp những yếu tố liên quan đến con đường thỏa mãn
những nhu cầu tín ngưỡng của con người. Để nhận thức tôn giáo đúng với
những hoạt động, những sức mạnh của niềm tin, của thể chế bên trong các tôn
giáo cụ thể, cần nhìn nhận tôn giáo bao gồm các yếu tố: giáo lý, giáo luật,
giáo lễ và giáo hội.
* “Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được
Nhà nước công nhận.
Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm
ban hộ tự hoặc ban quản trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của đạo Công giáo,
chi hội của đạo Tin lành, họ đạo của đạo Cao Đài, ban trị sự xã, phường, thị
trấn của Phật giáo Hoà hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo khác.
- Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
13
- Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt
động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo
được Nhà nước công nhận.
- Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.
- Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống
riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
- Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.” [70, điều 3]
* Mối liên hệ giữa các khái niệm
- Quản lý nhà nước: Quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc duy trì và phát triển xã hội loài người. Trên thực tế, hoạt động quản lý đã
tồn tại từ rất lâu và mang nhiều hình thức khác nhau trong mỗi thời kỳ khác
nhau. Một trong các hình thức quản lý xã hội tiên tiến nhất mà xã hội loài
người đang áp dụng chính là quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là một hình
thức quản lý được thực hiện ở cấp vĩ mô, trong phạm vi một quốc gia, một
chế độ xã hội. Đây chính là việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội một
cách có ý thức dưới một hình thức tổ chức xã hội đạt trình độ cao - Nhà nước.
Quản lý nhà nước đề cập đến sự tác động của nhiều tác nhân đến xã hội thông
qua nhà nước. Các tác nhân này bao gồm nhà nước, các tổ chức xã hội, các
cộng đồng, nhóm người, thậm chí cả cá nhân công dân. Trong đó, nhà nước là
tác nhân chủ yếu giữ vai trò trung tâm. Xuất phát từ những cơ sở đó ta có thể
thấy được quản lý nhà nước là sự tác động, điều chỉnh có tổ chức bằng quyền
lực đối với các quá trình và quan hệ xã hội, các hành vi của các cộng đồng,
các tổ chức và cá nhân trong xã hội nhằm duy trì trật tự, củng cố và bảo vệ
quyền lực của chủ thể cầm quyền, phục vụ sự phát triển xã hội theo mục đích
của chủ thể đó, song có tính đến nhu cầu của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
trong mức độ không làm ảnh hưởng lớn đến mục tiêu của thể chế cầm quyền.
14
Quản lý nhà nước không thể thiếu trong một xã hội tồn tại các giai cấp
và nhà nước bởi vì nhà nước là một thiết chế chính trị - xã hội vừa có nhiệm
vụ trấn áp các giai cấp đối lập với giai cấp cầm quyền (thực hiện chức năng
thống trị chính trị giai cấp), vừa có nhiệm vụ tổ chức quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội (thực hiện chức năng xã hội). Tất cả các nhà nước đều thực hiện
chức năng xã hội bởi vì có tổ chức, quản lý tốt xã hội mới duy trì được quyền
lực chính trị và bảo vệ được sự thống trị của giai cấp cầm quyền đối với toàn
thể xã hội.
Quản lý nhà nước được đặc trưng bởi việc sử dụng pháp luật, tính đơn
phương mệnh lệnh, tính khoa học và tính kế hoạch cao, tính liên tục, tính toàn
diện và tổng hợp, tính thống nhất và vĩ mô đối với xã hội. Những đặc trưng
này giúp các nhà nghiên cứu, nhà khoa học tránh được sự lầm lẫn giữa quản
lý nhà nước và quản lý của các tổ chức khác.
Có thể hiểu quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp
của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá
trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung
ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước.
Ở một số nước, chẳng hạn như Cộng hòa Pháp, do tồn tại thể chế đa
nguyên, đa đảng, quản lý được chia làm hai hình thức khác nhau: quản lý
công và quản lý tư, khái niệm quản lý công có nội hàm gần giống với khái
niệm quản lý nhà nước được thừa nhận ở nước ta. Quản lý tư là hình thức
quản lý mà chủ thể quản lý không phải là nhà nước và một trong các lĩnh vực
xã hội không đặt dưới sự quản lý hành chính công chính là tôn giáo. Điều này
khác với Việt Nam. Ở Việt Nam, cơ cấu vận hành xã hội là Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Nước ta chỉ có một Đảng duy nhất
15
lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ máy Nhà nước hiện nay được xây
dựng trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”,
Nhà nước là người đại diện cho toàn dân thực hiện công tác quản lý nên quản
lý hành chính nhà nước ở nước ta là công tác quản lý đối với mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó có cả tôn giáo. Tuy nhiên công tác quản lý hành chính
nhà nước không phải được thực hiện với các tôn giáo mà là với các hoạt động
tôn giáo.
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là dạng quản lý
mang tính Nhà nước nhằm điều chỉnh các quá trình hoạt động tôn giáo của
các pháp nhân và các thể nhân tôn giáo bằng quyền lực Nhà nước. Trong đó,
hoạt động tôn giáo là những hoạt động như hoạt động tín ngưỡng tôn giáo của
tín đồ, hoạt động hành chính tôn giáo của chức sắc, hoạt động của các hội
đoàn, tổ chức tôn giáo... Pháp nhân tôn giáo là những tổ chức tôn giáo có có
tư cách pháp nhân, tư cách pháp nhân là cho Nhà nước thừa nhận; thể nhân
tôn giáo là tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo, thể nhân này do các
tổ chức tôn giáo thừa nhận. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
là quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật với những phương pháp và
phương tiện đặc trưng. Đối với tôn giáo, nghiên cứu các giải pháp, các
phương pháp, các thủ pháp giải quyết, dàn xếp từng trường hợp cụ thể như là
tính nghệ thuật thì quản lý phải là hướng ưu tiên. Có nghĩa là không giống với
các lĩnh vực quản lý nhà nước khác, quản lý nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo lấy việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục là chính chứ
không lấy việc thực hiện quản lý mang tính mệnh lệnh đơn phương một chiều
làm chủ đạo. Người làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo phải đảm bảo được đường lối, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, đảm bảo đời sống tín ngưỡng của nhân dân phát triển bình thường và
16
thể hiện được quan điểm ở Việt Nam hiện nay, Sự phát triển của tôn giáo phải gắn bó đồng thời với sự phát triển của đất nước, của dân tộc. 1
1.1.2. Cơ sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo
- Cơ sở pháp luật của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo: Trong những năm gần đây, Nhà nước ta tiến hành đổi mới toàn diện
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, vấn đề quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là những chính sách
xã hội quan trọng có tính đặc thù. Tuy nhiên các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam vẫn trước sau như một, chủ trương thi hành nhất quán chính
sách tôn giáo, kế thừa những nhân tố hợp lý trong các chủ trương trước đó
nhưng đồng thời cũng có những sự bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình
mới, thời đại mới cũng như những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tháng 10 năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24 đề cập công tác
tôn giáo trong tình hình mới. Ngày 2/7/1998, Bộ Chính trị ra tiếp chỉ thị 37-
CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, định hướng các hoạt động
quản lý của Nhà nước và vận động của các tổ chức xã hội trong công tác tôn
giáo. Ngày 19/4/1999, Nghị định của Chính phủ về hoạt động tôn giáo số
26/1999/NĐ-CP đã chỉ đạo các hoạt động quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo cũng như quy định quyền hạn và thẩm quyền của các ban
ngành, các cấp có liên quan. Nghị quyết số 25 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX năm 2003 về công tác tôn giáo đã được công
1 Theo Dương Ngọc Kiên (2003), Bước đầu tìm hiểu công tác quản lý nhà nước đối với đạo Công giáo hiện nay trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Quản lý xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội 2003, tr13-15
bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, khẳng định: “Đảng và
17
Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa
rất quan trọng”[2,1]. “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”[1,4]. Xuất phát từ quan điểm có tính định hướng như vậy, Đảng ta
luôn xác định rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn
kết dân tộc”[1,4]. Từ đó, trong thời gian chỉ 10 năm nhưng hệ thống các văn
bản pháp luật về tôn giáo có tính pháp quy liên tục ra đời và đi vào cuộc sống
như: Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005 ngày 18/6/2004 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 11/8/2012 về quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/CT-
TTg ngày 01/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đối với đạo Tin
lành; Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
nhà đất có liên quan đến tôn giáo...
Đảng ta khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tất yếu khách quan
trong đời sống của một bộ phận quần chúng nhân dân nên Đảng luôn nhất
quán thực hiện chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Người theo đạo có quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo pháp luật, các tôn giáo được hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật và được đối xử bình đẳng.
Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Mọi người dân Việt Nam dù thuộc dân tộc nào,
18
theo hoặc không theo một tôn giáo nào đều phải nhận thức trước hết ta là
người Việt Nam, bổn phận của công dân dù có tín ngưỡng hay không cũng
phải có trách nhiệm vun đắp, xây dựng và củng cố cho cái nền tảng khách
quan ấy. Mọi hành vi phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo, hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia đều bị nghiêm cấm.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay, đời sống dân chủ, đời sống
kinh tế, quan hệ quốc tế ngày một phát triển. Có rất nhiều hiện tượng xã hội
xuất hiện cùng với quá trình đổi mới đất nước trong đó có nhiều hiện tượng
xã hội mà muốn giải quyết tốt phải có sự kết hợp giữa các giải pháp của quản
lý Nhà nước và công tác vận động quần chúng. Hơn nữa, trong quản lý Nhà
nước, việc sử dụng các phương pháp vận động thuyết phục vẫn là hướng ưu
tiên đối với phương pháp sử dụng các chế tài.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác
tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác
quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo
để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Cuối cùng, vấn đề theo đạo và truyền đạo phải được tiến hành hợp pháp
theo quy định của pháp luật, không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà
đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
Những quan điểm này của Đảng đã và đang được cụ thể hoá, từng bước
thực hiện bằng các chính sách của Nhà nước như chính sách “tự do tín
ngưỡng, lương giáo đoàn kết”, chủ trương “tốt đời, đẹp đạo”, các phong trào
“kính Chúa, yêu nước”, “yêu nước phụng đạo”, “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ
19
nghĩa Xã hội”..., các văn bản triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng,
các kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết, triển khai thực hiện nghị quyết,
các Hội nghị tổng kết, kiểm tra việc thực hiện...
- Mục đích của quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được
xác định trên cơ sở của quan điểm của Đảng về tôn giáo cũng như Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, đồng thời cũng tính đến sự tồn tại và
phát triển của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Từ việc xác định cơ sở như trên, quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo là nhằm thực hiện ba mục đích chính như sau:
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo
nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng nhân dân được giải quyết một
cách hợp lý.
Trong Chủ nghĩa Xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn tồn tại và nhu
cầu tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tất yếu khách quan của một bộ phận quần
chúng nhân dân, do vậy quản lý xã hội cũng như quản lý nhà nước đối với các
hoạt động tôn giáo cần phải đảm bảo cho nhu cầu này được tôn trọng và bảo
đảm trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo tồn
tại đan xen với các nhu cầu khác, do vậy đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo không có nghĩa là vi phạm tới các nhu cầu chính đáng khác của con
người. Như vậy, quản lý tôn giáo là phải đặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo
trong quan hệ, trong sự tương tác với các nhu cầu khác của con người nhằm
phát huy những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo để góp phần vào việc
nâng cao những giá trị đạo đức và nhân văn của đời sống con người.
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm chống lại sự
lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, mà hiện nay là góp phần vào việc
đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”. Chúng ta biết rằng các thế lực thù địch
với Dân tộc, với Chủ nghĩa Xã hội, với Đảng Cộng sản đã, đang và sẽ còn tìm
20
mọi cách nhằm tác động tới tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân,
ngăn cản con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội, phá hoại độc lập dân tộc, do vậy
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo phải gắn với mục đích là
chống lại sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Tất nhiên khi thực
hiện mục đích này của sự quản lý không thể tách rời với các mục đích cụ thể
khác.
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo còn nhằm đảm bảo
cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo không bị
xâm phạm và lợi dụng ở cả hai phía chủ thể và đối tượng của quản lý. Xét ở
khía cạnh này thì quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm
làm cho hoạt động tôn giáo và cả quản lý về hoạt động tôn giáo tuân theo
khuôn khổ của Hiếp pháp và pháp luật.
- Nội dung quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Cơ sở xác định nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo:
+ Nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo được xác định
phù hợp với thẩm quyền pháp lý của chủ thể quản lý (Chính phủ, cơ quan của
Chính phủ, UBND các cấp, ban chuyên môn của Chính phủ). Những nội dung
được trình bày dưới đây dựa trên những quan điểm, những qui định hiện hành
của Đảng, Nhà nước về tôn giáo (Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nghị quyết 24
của BCT, Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005
ngày 18/6/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định số 92/NĐ-CP
ngày 11/8/2012 về quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 01/3/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về công tác đối với đạo Tin lành,...).
+ Nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo dựa trên tình
hình cụ thể của hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Trên thực tế hiện
nay, cơ sở chính sách pháp luật về tôn giáo của nước ta vẫn còn đang trong
21
quá trình hoàn thiện, chưa được luật hóa. Do đó, việc thực hiện chủ trương
chung diễn ra ở mỗi địa phương, ngoài việc thực hiện theo các văn bản quy
phạm pháp luật, sự hướng dẫn của Ban Tôn giáo Chính phủ còn phải căn cứ
vào tình hình kinh tế xã hội, an ninh trật tự của địa phương, tình hình hoạt
động của các tôn giáo tại địa phương đó.
Việc xác định nội dung (và cả phương pháp) quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ Mọi công dân đều bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật.
+ Mọi tôn giáo đều phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo tính thống nhất
giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hoá, bảo đảm sự thống nhất, hài
hoà lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia, xã hội.
+ Tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động hành đạo tách khỏi hoạt động
Nhà nước và trường học.
Các nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo:
+ Việc xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo.
+ Việc xét duyệt xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự.
+ Việc xét duyệt chương trình mục vụ thường xuyên và đột xuất.
+ Việc xét duyệt việc đào tạo chức sắc tôn giáo.
+ Việc xét duyệt việc sản xuất lưu thông đồ dùng đạo.
+ Việc xét duyệt một số việc hành chính đạo.
+ Việc xét duyệt các hoạt động từ thiện xã hội.
+ Việc xét xử khiếu tố, khiếu nại liên quan đến chính sách tôn giáo và
vi phạm chính sách tôn giáo.
+ Việc xét duyệt các hoạt động Quốc tế và đối ngoại.
+ Việc đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo .
22
Mười nội dung trên của quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo liên quan tới nhiều hoạt động khác nhau của tôn giáo với tư cách là một
bộ phận của đời sống xã hội; việc xác định 10 nội dung trên là trong khuôn
khổ của Hiến pháp và pháp luật, chịu sự kiểm soát của pháp luật
- Phương pháp của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo
Quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo gắn với các yếu tố có liên
quan và các phương pháp của quản lý Nhà nước nói chung. Về yếu tố có liên
quan gồm yếu tố xã hội, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền uy,...
Về phương pháp, cụ thể như phương pháp hành chính, phương pháp tổ chức,
phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục thuyết phục,... Tôn giáo với tư
cách là một hiện tượng xã hội chứa đựng trong nó tính phức tạp, sự ứng xử
của nó và đối với nó là hết sức tế nhị, do vậy phương pháp của quản lý Nhà
nước về hoạt động tôn giáo một mặt phải tuân thủ các phương pháp mang tính
chung, mặt khác cần phải biết nhấn mạnh, đề cao một số phương pháp cụ thể
nào đó để nâng cao hiệu quả của quản lý. Trong các phương pháp quản lý
Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo thì phương pháp được chú trọng nhiều là
phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục.
Phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục: là phương pháp quan
trọng nhất trong quản lý xã hội nói chung và quản lý Nhà nước nói riêng về
tôn giáo, bởi vì đối tượng của sự quản lý ở đây là giáo dân, chức sắc các tôn
giáo, họ là những người coi trọng niềm tin tôn giáo, thậm chí có trường hợp
hy sinh để bảo vệ niềm tin, đồng thời họ cũng là những người có sự nhạy cảm
khi bị đụng chạm tới niềm tin. Điều đó dẫn tới đòi hỏi chủ thể quản lý phải
tôn trọng niềm tin tôn giáo chính đáng của họ, tuyền truyền, giáo dục thuyết
phục họ tuân thủ, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Trong phương pháp này có thể còn phải có các biện pháp như gần
23
để hiểu, đối thoại để cảm hoá, và cần thiết cả bồi dưỡng và sử dụng, qua đó
giúp cho việc nâng cao hiệu quả của quản lý.
Phương pháp tổ chức: Phương pháp tổ chức gắn với việc ban hành các
văn bản pháp luật về tôn giáo (Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh, nghị định...)
để làm công cụ, phương tiện cho quản lý.
Phương pháp hành chính: Ban hành các quyết định quản lý có tính đơn
phương, một chiều buộc đối tượng của sự quản lý phải thực hiện để xử lý các
vụ việc gắn với việc vi phạm pháp luật. (Cần lưu ý đến luận điểm của
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về việc ứng xử đối với tôn giáo).
Các phương pháp khác: Việc quản lý Nhà nước về tôn giáo, ngoài việc
sử dụng ba phương pháp trên còn cần phải sử dụng một số phương pháp khác
như: Phương pháp xã hội học, phương pháp thống kê xã hội, phương pháp dự
báo,... đồng thời phải nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng
những người có tín ngưỡng tôn giáo để tạo sự ổn định chính trị - xã hội giúp
cho công việc quản lý đạt hiệu quả cao hơn.
Các phương pháp của quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
phải được sử dụng kết hợp, sáng tạo, chủ động, phải biết vận dụng đối với
từng trường hợp cụ thể. Trong quá trình sử dụng các phương pháp trên đòi hỏi
phải được thường xuyên phát triển, bổ sung, chỉnh sửa để nâng cao hiệu quả
của quản lý song không được làm sai với những nguyên tắc của quản lý Nhà
nước về tôn giáo.
1.2. Khái lƣợc về các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội
1.2.1. Khái quát tình hình tôn giáo Thành phố Hà Nội
Hiện nay, Hà Nội có 7 tôn giáo được nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân là:
- Phật giáo: Trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 1.806 Tăng, Ni. Trong
đó, Tỷ khiêu 275 vị; Tỷ khiêu Ni 1.228 vị; Sa di 30 vị; Thức xoa, Sa di Ni 93
24
vị; hình đồng 180 vị. Ngoài số lượng Tăng Ni thành viên chính thức thuộc
Thành hội Phật giáo Hà Nội nêu trên hiện còn tồn tại một số Tăng Ni không
phải là thành viên của Thành hội nhưng hiện nay đang ở các chùa trên địa bàn
Thành phố (Trường hợp Tăng Ni thụ giới ngoài Giáo hội hoặc từ các tỉnh,
thành khác chuyển đến chưa đầy đủ thủ tục giấy tờ).
Số lượng tự viện có 2.059 ngôi chùa. Trong đó có 209 chùa được công
nhận di tích cấp Quốc gia; 299 chùa được công nhận di tích cấp Thành phố.
Số lượng tín đồ khoảng hơn 400.000 người.
- Công giáo: 82 giáo xứ, 306 họ giáo; 04 giám mục (01 Tổng giám
mục, 01 giám mục, 02 giám mục phụ tá), 82 linh mục, gần 2000 chức việc;
hơn 400 cơ sở thờ tự; khoảng 185.000 tín đồ; 19 cộng đoàn tu sĩ ở 20 tu viện
với 273 tu sĩ; là địa bàn duy nhất trong cả nước có các xứ, họ đạo thuộc sự
quản lý của 03 Toà giám mục: Hà Nội, Hưng Hoá, Bắc Ninh.
Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Thành phố: gồm 124 thành viên do linh
mục Dương Phú Oanh làm Chủ tịch. Quá trình hoạt động, UBĐK Công giáo
Thành phố đã phát động được các phong trào thi đua yêu nước như: “Xây
dựng xứ, họ đạo tiên tiến”, “xây dựng làng văn hoá và gia đình văn hoá”,
phong trào thi đua “sống tốt đời, đẹp đạo”,“mỗi người Công giáo Thủ đô là
một công dân tốt”...và đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đáng khích lệ.
- Tin lành: Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện có 30 hệ phái Tin lành
đang hoạt động; trong đó: 7/30 hệ phái được Nhà nước công nhận tư cách
pháp nhân; 158 điểm nhóm với khoảng: 6.000 tín đồ người Việt; 400 tín đồ
người Hàn Quốc; 30 tín đồ người Hoa Kỳ; 10 tín đồ người Trung Quốc; 450
tín đồ người nước ngoài thuộc 40 quốc tịch khác nhau đang sinh sống và làm
việc trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là tổ chức tôn giáo Tin lành
lớn nhất trên địa bàn thành phố Hà Nội với 03 mục sư, 10 mục sư nhiệm
25
chức; hơn 1.500 tín đồ, có 04 chi hội tại: phường Yên Sở, quận Hoàng Mai;
xã Thọ An, huyện Đan Phượng; xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín; Chi hội Tin
lành Hà Nội ở số 2 Ngõ Trạm, quận Hoàn Kiếm đồng thời là trụ sở của Tổng
hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).
Cùng với Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), trên địa bàn Hà Nội
có 06/8 hệ phái được Ban Tôn giáo Chính phủ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động tôn giáo là: hệ phái Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, hệ phái Cơ đốc Phục lâm
Việt Nam, hệ phái Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, hệ phái Báptít Việt Nam (Nam
Phương), hệ phái Tổng hội Baptit Việt Nam (Ân điển – Nam phương), hệ phái
Tin lành Trưởng lão Việt Nam. Tổng số tín đồ của 06 hệ phái này là khoảng hơn
1.000 tín đồ sinh hoạt tại 29 điểm nhóm. Trong đó, có 02 tổ chức tôn giáo cơ sở
đã được cấp đăng ký hoạt động là: Hội Thánh Bắp tít Hồng Ân tại phường Bưởi,
quận Ba Đình thuộc Hội Thánh Bắp tít Việt Nam (Ân điển- Nam Phương) và
điểm nhóm/hội thánh Cơ đốc Phục Lâm Hà Nội tại phường Hoàng Liệt, quận
Hoàng Mai thuộc Giáo hội Cơ đốc Phục Lâm Việt Nam.
- Cao Đài: Trên địa bàn Thành phố có 03 họ đạo Cao Đài thuộc Cao
Đài Bến Tre Ban chỉnh đạo (01 họ: họ đạo Cao Đài Thủ đô tại số 48 phố Hòa
Mã) và Cao đài Tây Ninh (02 họ: họ đạo Phúc Đức, huyện Quốc Oai, họ đạo
Đặng Giang, huyện Ứng Hòa); với 21 chức sắc; gần 400 tín đồ;
- Hồi giáo: 01 Thánh đường tên Al Noor tại số 12 phố Hàng Lược,
Hoàn Kiếm, Hà Nội, đây là thánh đường Hồi giáo duy nhất còn đến nay tại
các tỉnh, thành phố phía Bắc; 64 tín đồ người Việt (Bên cạnh đó, có khoảng
300 tín đồ là người Chăm Islam tại Tây Ninh đang sinh sống, làm nghề tự do
tại bến xe Gia Lâm (quận Long Biên) và bến xe Nước Ngầm (quận Hoàng
Mai); hơn 500 tín đồ là nhân viên Sứ quán, doanh nhân của 18 nước khối Ả
Rập công tác trên địa bàn thành phố Hà Nội; 01 Ban Quản trị gồm 05 thành
viên;
26
- Đạo Baha’i: Hiện nay trên địa bàn Thành phố có 15 Hội đồng tinh
thần địa phương, trong đó 03 Hội đồng tinh thần địa phương đã được UBND
Thành phố công nhận: Hai Bà Trưng, Thanh Trì, Thạch Thất, với khoảng 400
tín đồ.
- Minh sƣ đạo: 01 tổ chức Minh sư có 01 chức sắc với khoảng 50 tín đồ.
- Đồng thời, còn một số hiện tượng tôn giáo mới như: Long hoa Di lặc,
Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Bạch Chân Không, Thanh Hải Vô thượng sư, Pháp
luân công, Pháp môn Diệu âm…các Tín ngưỡng dân gian có: 5211 di tích đình,
đền, nhà thờ họ, lăng, miếu….Trong đó, di tích được xếp hạng: cấp Quốc gia khoảng 1.200 di tích; cấp Thành phố khoảng 900 di tích.2
1.2.2. Đường hướng hoạt động của các tôn giáo
- Phật giáo:
Đường hướng là hướng đi nhắm đến mục đích (cứu cánh). Đường
hướng là phương tiện. Như vậy bất cứ một tổ chức nào cũng đều có hướng đi
cho chính mình. Cứu cánh và phương tiện ấy trong Phật Giáo là một, từng
bước phương tiện đều hiện hữu cứu cánh (đến trong từng bước đi đúng
hướng). Như vậy trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đường hướng là
mục đích, cứu cánh của Giáo Hội. Đường hướng của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam đã được giới thiệu khá rõ nét qua lời nói đầu của Hiến Chương Giáo hội
Phật giáo Việt Nam “lý tưởng giác ngộ chân lý, hòa hợp chúng, hòa bình và
công bằng xã hội của giáo lý đức Phật, nhằm phục vụ dân tộc Tổ quốc và
Nhân loại chúng sinh là lập trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Phương châm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội… Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng
2 Theo UBND Thành phố Hà Nội (27/11/2009), Đề án tăng cường công tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên địa bàn Thành phố, số 107/ĐA-UBND. Phần Phụ lục, tr1-4
Luật Phật và Luật pháp Nhà nước quy định”[49,2]. Tất cả Tăng Ni nhất là
27
những vị ra gánh vác Phật sự cần quán triệt đường hướng của Giáo Hội làm
chỉ nam cho mình trên bước đường hoằng pháp lợi sanh.
Đường hướng hoạt động của Thành hội phật giáo Hà Nội cũng không
nằm ngoài đường hướng hoạt động của Giáo hội mà còn thể hiện rõ nét thông
qua công tác Phật sự, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố lần thứ VII
(nhiệm kỳ 2012-2017) vừa qua Thành hội đã khẳng định “luôn luôn hoạt
động trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, Hiến chương,
Nghị quyết của Giáo hội trên cơ sở nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành
động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức”; với lý tưởng giác ngộ chân lý, hoà
hợp chúng, hoà bình và công bằng xã hội của giáo lý Đức Phật nhằm phục vụ
đất nước với phương châm “Đạo pháp – Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” [50,5].
- Công giáo:
Trong Sứ điệp nói với các Giám mục Việt Nam nhân dịp Ad Limina
năm 2009, Giáo Hoàng Benedichto XVI đã đề cập tới tới vai trò và trách
nhiệm công dân của mỗi người Công giáo tại Việt Nam với quê hương và Tổ
quốc thân yêu của mình. Ông nhấn mạnh: “Bằng đời sống xây nền trên đức
ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em giáo dân phải chứng tỏ
rằng là người công giáo tốt cũng là người công dân tốt” [51,4].
Thư chung năm 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã xác định
rõ: “Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó
với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hoà mình vào cuộc
sống hiện tại của đất nước” và “Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân
loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới. Vậy chúng ta phải
3 http://www.hdgmvietnam.org: Hội đồng Giám mục Việt Nam (01/5/1980), Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, 15.9.2013
đồng hành với dân tộc mình để phục vụ với tính cách vừa là công dân, vừa là thành phần Dân Chúa“.3
28
Trong đường hướng mục vụ “Sống đức tin giữa lòng dân tộc” như thế,
mọi thành phần Dân Chúa của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đang cố gắng
thực thi sứ mạng đóng góp vào công cuộc phát triển xã hội, dựa trên nền tảng
Đức Tin và Đức Ái Kitô Giáo. Tôn trọng và thi hành quyền, nghĩa vụ Công
dân phải luôn trở nên một định hướng trong đời sống của người tin hữu Công
giáo.
Sứ điệp của Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010 một lần nữa Giáo hội đã
khẳng định: Hội Thánh ngày nay cũng phải dấn thân vào việc xây dựng đất
nước về mọi mặt: văn hóa xã hội, cũng như kinh tế chính trị, vì ý thức rằng:
"Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, đối với người Công giáo, không những là một
tình cảm tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi của Phúc âm...Hội thánh có
thể góp phần mình vào đời sống của Đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi
người dân...Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng
công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng người công giáo tốt cũng là người công dân tốt".4
- Tin lành:
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Tin lành đã có mặt ở Việt Nam hơn
100 năm. Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Tin lành đã chọn lựa
các hình thức hoạt động mềm dẻo, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hoá, quần
chúng hoá. Ở nhiều nơi đạo Tin lành đã thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán
của người địa phương, số lượng tín đồ đạo Tin lành ngày càng gia tăng.
Trong số các hệ phái Tin lành, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) và Tổng liên hội Hội thành Tin lành Việt Nam (miền Nam) được đánh
giá là hệ phái Tin lành có đường hướng hoạt động rõ dàng hơn cả trong hơn
4 http://tonggiaophanhanoi.org: Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, Sứ điệp của Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, 22.9.2013
80 hệ phái Tin lành tại Việt Nam. Tin lành được truyền đến Thủ đô Hà Nội
29
năm 1916. Sau năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, nhiều chức sắc tín đồ đã
di cư vào Nam, chỉ còn lại khoảng gần 1.000 tín đồ cùng hơn một chục mục sư,
giảng sư. Năm 1955, được Đảng và Nhà nước giúp đỡ, các mục sư, truyền đạo và
số tín đồ còn lại lập Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc). Hội Thánh hoạt
động theo đường hướng tiến bộ: “Phụng sự Thiên Chúa, Phục vụ Tổ Quốc”.
Cộng đồng Tin lành ở Hà Nội luôn “kính Chúa, yêu nước” “sống phúc âm,
phục vụ giáo hội, phục vụ tổ quốc” như đường hướng hoạt động của Hội thánh Tin
lành miền Bắc đã nêu trong Hiến chương Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Bắc
thông qua tại Đại hội đồng lần thứ 34 được tổ chức vào tháng 10/2013 ở Hà Nội.
* Các tôn giáo khác:
Ngoài Phật giáo, Tin lành, Công giáo, trên địa bàn Thành phố còn có
các tôn giáo khác như : Cao đài, Minh sư, Baha’i, Hồi giáo...là những tôn giáo
đã được công nhận tư cách pháp nhân, có những đường hướng hoạt động khác
nhau nhưng đều xác định đường hướng tiến bộ là “gắn bó với dân tộc và tuân
thủ pháp luật”. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo có định hướng khác nhau như:
- Cao Đài Ban Chỉnh đạo Bến Tre: Tiếp nối truyền thống quí báu
trong thời kỳ xây dựng bảo vệ Tổ quốc từ Đại hội Nhơn sanh lần thứ nhất
(1997) đến nay, Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo tiếp tục khẳng định phương
châm hành đạo theo đường lối của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương cho đến
ngày Thành đạo, phát huy tinh thần yêu nước vận động được đông đảo chức
sắc, tín đồ tham gia các phong trào thi đua, cũng như các hoạt động kinh tế,
văn hoá, xã hội ở địa phương, tích cực làm từ thiện, hoạt động đạo đạt nhiều
kết quả tốt, tạo được niềm tin trong chức sắc, tín đồ.
- Bên cạnh đó, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh cũng không nằm ngoài
đường hướng chung của các họ đạo Cao Đài trên cả nước, đưa ra các đường
hướng hoạt động nhiệm kỳ mới theo “nước vinh - đạo sáng”, tiếp tục phát huy
tình đoàn kết đạo đời, phát triển các mối quan hệ hữu hảo trong xã hội, củng
30
cố các mặt sinh hoạt tôn giáo thuần túy, từng bước đưa việc hành đạo đi vào
nền nếp, ổn định và có bước phát triển. Tại Đại hội Nhơn sanh nhiệm kỳ
2012-2017 vừa qua, Hội thành cũng đưa ra phương hướng hành đạo là: “Tiếp tục
tăng cường đoàn kết nội bộ đạo, các thành phần tổ chức xã hội; cùng tham gia
thực hiện công tác xã hội từ thiện, hướng dẫn toàn đạo làm tròn bổn phận công
dân, nghiêm tùng phép nước, hành đạo thuần túy vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Hồi giáo tại Việt Nam hiện nay chưa có một tổ chức Giáo hội thống
nhất, tuy nhiên đối với Hồi giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi UBND
Thành phố Hà Nội cho phép thành lập Ban Quản trị (lâm thời) năm 2011 cho
đến khi Đại hội lần thứ I Ban Quản trị thánh đường Hồi giáo Hà Nội (nhiệm kỳ
2013-2017) cũng đã xác định cho mình một đường hướng hành đạo gắn bó, tuân
thủ pháp luật Việt Nam. Hồi giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã xác định tôn
chỉ, mục đích: “Thiên kinh Quran & Sunnah - Thiết lập cộng đồng Islam đoàn
kết, thống nhất, phù hợp với luật pháp Việt Nam”.[15,3] Quy chế hoạt động đi sâu
vào một số nội dung như:
“Thiết lập cộng đồng Hồi giáo thống nhất, tuân phục Allah, dựa trên
nền tảng thiên kinh Qur’ran và Sunnah làm kim chỉ nam để hành đạo; Ban
quản trị Thánh đường là cầu nối giữa cộng đồng Hồi giáo trong Thành phố với
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chính quyền các cấp nhằm vận động, phổ
biến chủ trương, chính sách của Nhà nước đến toàn thể tín đồ, phấn đấu thực
hiện và nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước sở tại; Xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo với phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”;
Phát triển môi trường nhân sinh nhằm đưa cộng đồng Hồi giáo thoát khỏi nạn
đói nghèo và cùng hoà nhập với cộng đồng tôn giáo khác trong Thành phố, góp
phần xây dựng đất nước, xây dựng Thủ đô ngày càng giầu đẹp”.[15,5]
31
Như vậy, có thể nói Hồi giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã xác
định cho mình một đường hướng hành đạo tuân thủ pháp luật, hướng đến sự
đoàn kết, thống nhất trên nền tảng kinh Quran & Sunnah.
Về cơ bản các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội đều có đường
hướng hoạt động hướng đến việc tuân thủ pháp luật trên cơ sở phát huy
truyền thống phụng đạo yêu nước, gắn kết cộng đồng vì một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Các tôn giáo đã xác định cho mình một đường
hướng hoạt động gắn bó với xã hội. Hoạt động của các tôn giáo đã mang tính
mở, có sự kế thừa, kết hợp hài hoà giữa tôn giáo với tín ngưỡng, văn hoá Việt,
biến đổi một cách uyển chuyển để tạo nên một sắc thái mới trong tôn giáo.
* Một số đặc điểm cơ bản của tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội có tính đa dạng, phong phú thể
hiện ở việc tập trung hầu hết các tôn giáo lớn được công nhận tư cách pháp nhân
cũng như nhiều tôn giáo chưa được công nhận hiện có tại Việt Nam.
- Các tôn giáo tồn tại hài hòa, xen kẽ với nhau và với cộng đồng thể
hiện ở việc tín đồ các tôn giáo không sống tập trung thành khu vực riêng mà
sinh sống xen kẽ với nhau, với người không theo đạo; các tôn giáo có mối
quan hệ hữu hảo, thường xuyên thăm nom, chia sẻ với nhau.
- Hà Nội có trụ sở của Trung ương Giáo hội một số tôn giáo lớn như: Phật
giáo, Công giáo, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Do vậy, những diễn
biến và hoạt động tôn giáo trong cả nước đều tác động trực tiếp đến tôn giáo ở Hà
Nội, từ đó, ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội Thủ đô. Mặt khác, những
động thái tôn giáo ở Hà Nội có quan hệ trực tiếp đến động thái tôn giáo cả nước.
- Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu là nông dân.
- Các tổ chức tôn giáo ở thành phố Hà Nội có mối quan hệ quốc tế rộng rãi
với các tổ chức tôn giáo và quốc gia trên thế giới.
32
- Các tổ chức tôn giáo ở thành phố Hà Nội có số lượng chức sắc đông đảo, được
đào tạo chính quy, có trình độ, uy tín trong tổ chức tôn giáo và cộng đồng tín đồ.
33
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Chương 1 trình bày cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo cũng như khái quát về các tôn giáo tại thành phố Hà Nội, đề
cập đến những khái niệm công cụ như: quản lý, tôn giáo, nhà nước, mối liên
hệ giữa các khái niệm: quản lý nhà nước, hoạt động tôn giáo và quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo. Nêu lên những nội dung cơ bản nhất của cơ
sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo. Bên cạnh đó, chương 1 khái lược về các tôn giáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội, đường hướng hành đạo và một vài đặc điểm của tôn
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trên đây là một số nét chung về tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Chương 2 sẽ trình bày thực trạng hoạt động tôn giáo và công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố
Hà Nội
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố
- Phật giáo:
Trên địa bàn Hà Nội có 2059 chùa, 1.806 tăng ni; 01 học viện Phật giáo
tại xã Phù Ninh, huyện Sóc Sơn với 300 tăng ni sinh; 01 trường Trung cấp
Phật học tại 02 cơ sở (chùa Bà Đá số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm và
chùa Mỗ Lao, quận Hà Đông); có 288 tăng, ni sinh.
Tổ chức Giáo hội: Có 03 cấp. Cấp Trung ương có trụ sở tại chùa Quán
Sứ, quận Hoàn Kiếm. Cấp tỉnh: Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
thành phố Hà Nội có 47 thành viên chính thức và 30 thành viên dự khuyết.
Cấp quận, huyện, thị xã có 29 Ban Trị sự, mỗi Ban đại diện có từ 04 đến 15
thành viên. Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội tại chùa Bà
Đá, số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm, có 02 văn phòng của Ban Trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội, văn phòng 1 đặt tại trụ sở
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội (chùa Bà Đá, số 3 phố Nhà
Thờ, quận Hoàn Kiếm), văn phòng 2 tại chùa Mỗ Lao, quận Hà Đông.
Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội gồm 01
Trưởng Ban, 05 Phó Trưởng Ban, 13 tiểu ban: Giáo dục, hoằng pháp, hướng
dẫn phật tử, nghi lễ, tăng sự, đặc trách ni giới, kinh tế tài chính, truyền thông,
phật giáo quốc tế, từ thiện xã hội, kiểm soát, pháp chế, văn hóa.
- Công giáo:
Trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 01 Toà Tổng giám mục Hà Nội (số
40 phố Nhà Chung, Hoàn Kiếm) ; 01 Toà Giám mục Hưng Hoá (số 70 phố Lê
35
Lợi, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây) nhưng các giáo xứ lại chịu sự quản lý
của 03 Toà giám mục gồm: Hà Nội, Hưng Hoá, Bắc Ninh.
- Trong mỗi Toà Giám mục có Văn phòng và 11 Uỷ ban giúp việc gồm:
Uỷ ban Giáo sĩ và chủng sinh; Uỷ ban Tu sĩ; Uỷ ban Giáo lý; Uỷ ban Giáo
dân; Uỷ ban Phụng sự; Uỷ ban Văn hoá; Uỷ ban Bắc ái – Xã hội (Caritas); Uỷ
ban Loan báo Tin mừng; Uỷ ban Di dân; Uỷ ban Sinh viên và Giới trẻ; Uỷ
ban Thánh nhạc.
- Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Hà Nội có trụ sở tại số 37 phố Hai Bà
Trưng, quận Hoàn Kiếm; ngoài ra còn có sự hiện diện của 22 dòng tu khác
trên địa bàn như: Donbosco, Chúa Cứu thế, Mến Thánh giá,....
- Trên địa bàn có: 82 giáo xứ, 306 họ giáo; 04 giám mục (01 Tổng giám
mục, 01 giám mục, 02 giám mục phụ tá), 82 linh mục, gần 2.000 chức việc;
hơn 400 cơ sở thờ tự; khoảng 185.000 tín đồ; 19 cộng đoàn tu sĩ ở 20 tu viện
với 273 tu sĩ.
- Tin lành:
Các tổ chức Tin lành có tư cách pháp nhân thuộc Hội thánh Tin lành Việt
Nam (miền Bắc) với 13 mục sư, 1.506 tín đồ sinh họat ở 04 chi hội tại trụ sở:
phường Yên Sở, quận Hoàng Mai; xã Thọ An, huyện Đan Phượng; xã Tự Nhiên,
huyện Thường Tín; số 2 Ngõ Trạm quận Hoàn Kiếm cũng là trụ sở của Tổng hội
Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).
Sau Đại hội đồng lần thứ 34 nhiệm kỳ 2013-2017, Hội thánh Tin lành Việt
Nam (miền Bắc) đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý thành lập Trường Thánh
kinh thần học Hà Nội, địa điểm tạm thời đặt tại số 2 Ngõ Trạm, Hoàn Kiếm, Hà
Nội, đã tuyển sinh khóa I với 25 học viên.
Cùng với Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), trên địa bàn Hà Nội
có 06/8 hệ phái được Ban Tôn giáo Chính phủ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động tôn giáo là: hệ phái Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, hệ phái Cơ đốc Phục lâm
36
Việt Nam, hệ phái Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, hệ phái Báptít Việt Nam (Nam
Phương), hệ phái Tổng hội Baptit Việt Nam (Ân điển – Nam phương), hệ phái
Tin lành Trưởng lão Việt Nam. Tổng số tín đồ của 06 hệ phái này là 1.029 tín đồ
sinh hoạt tại 29 điểm nhóm. Tuy nhiên, ngoài 02 hệ phái Tin lành đã được chính
quyền thành phố Hà Nội cấp đăng ký hoạt động cho tổ chức tôn giáo cơ sở, các hệ
phái còn lại chỉ dừng ở việc đăng ký sinh hoạt đạo Tin lành theo điểm nhóm.
- Các điểm nhóm Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân
thuộc 23 hệ phái với 117 điểm nhóm, 4.018 tín đồ. Đã có 34 điểm nhóm
(thuộc 8 hệ phái) đã được chính quyền địa phương cấp Giấy chứng nhận đăng
ký sinh họat điểm nhóm (nhân chứng Giêhôva 08 điểm nhóm; Tin lành Việt
Nam truyền giáo 01 điểm nhóm; Tin lành Bắp tít Thiên Ái 03 điểm nhóm; Tin
lành Hội chúng Ngũ tuần Việt Nam 01 điểm nhóm; Mormon 1 điểm nhóm;
Lời sự sống 03 điểm nhóm; Tin lành Đoàn truyền giáo Bắp tít Việt Nam 01
điểm nhóm; Phúc âm toàn vẹn 15 điểm nhóm). Cụ thể:
- Hội Thánh Tin lành Báp-tít Việt Nam (Nam Phương): có 05 điểm
nhóm tham gia khoảng 40 người, đứng đầu là ông Đoàn Xuân Tiến, ở số nhà
567D phố Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ (đã được cấp đăng ký sinh hoạt).
- Hội Thánh Phúc âm Ngũ Tuần Việt Nam: có 11 điểm nhóm có 365
người tham gia. Đứng đầu là ông Đỗ Văn Bắc, thường trú tại số nhà 53/153,
phường Đức Giang, quận Long Biên.
- Hệ phái Tin lành Phúc Âm toàn vẹn: có 15 điểm nhóm, đứng đầu là ông
Lê Văn Tỉnh tạm trú tại tổ 51 phường Phú Thượng, quận Tây Hồ với khoảng 30
tín đồ thường xuyên sinh hoạt tôn giáo tại tổ 36, thôn Tiền, phường Quan Hoa,
quận Cầu Giấy.
- Hội Thánh Cơ đốc Phục lâm: có 42 người tham gia, họ thường xuyên
sinh hoạt đạo tại nhà bà Nguyễn Thị Thuấn ở xã Vân Nội, nhà ông Lương ở xã
37
Kim Ngọc, huyện Đông Anh, đứng đầu là ông Từ Phi Sơn (đã được cấp đăng
ký sinh hoạt).
- Hội Thánh Liên hữu Cơ Đốc: có 7 điểm nhóm tham gia khoảng 90
người (đã được cấp đăng ký sinh hoạt).
- Hệ phái Việt Nam Truyền giáo: có 07 nhóm với 60 người tham gia. Do
ông Chu Minh Sơn ở số nhà 27, tổ 20, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân
đứng đầu.
- Hệ phái Liên hiệp truyền giáo: có 02 điểm nhóm với khoảng 25 tín đồ
tham gia.
- Hệ phái Hội thánh địa phương: có 01 điểm nhóm với khoảng 30 tín đồ
sinh hoạt tôn giáo tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm do ông Trần Văn Hợp
đứng đầu.
- Nhân chứng Giêhôva: có 8 điểm nhóm sinh hoạt tại các phường: Hạ
Đình (quận Thanh Xuân), Cống Vị, Liễu Giai (quận Ba Đình), Long Biên
(quận Long Biên), Bách Khoa (quận Hai Bà Trưng), Vật Lại (huyện Ba Vì),
Phúc La (quận Hà Đông), Sơn Tây (thị xã Sơn Tây) với khoảng 1.250 tín đồ
thường xuyên dự lễ do ông Dương Ngọc Hồng, ở số nhà 29c, ngõ 236 đường
Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội phụ trách (đã được cấp đăng ký
sinh hoạt).
- Hệ phái Tin lành Các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu Kytô
(Mormon): hiện có 01 điểm nhóm sinh hoạt tại quận Cầu Giấy, tham gia
khoảng 30 tín đồ, đứng đầu là ông Hoàng Văn Tùng, trú tại 11 phố Đặng Tất,
phường Quan Thánh, quận Ba Đình.
- Hệ phái Tin lành Matxcơva: có 01 Hội Thánh với 03 điểm nhóm với
khoảng 60 tín đồ do ông Nguyễn Văn Bình ở phường Đức Giang, quận Long
Biên phụ trách.
38
- Hệ phái Liên hiệp Báptít: có 03 điểm nhóm khoảng 150 tín đồ; trong
đó có gần 60 sinh viên của các trường Đại học Ngoại ngữ, Ngoại thương tham
gia, do ông Nguyễn Văn Sâm ở số nhà 640 phố Hoàng Hoa Thám, Hà Nội
quản nhiệm.
- Hệ phái Đoàn truyền giáo Báptít Việt Nam: có 02 điểm nhóm với
khoảng 25 tín đồ.
- Hệ phái Tin lành Truyền giáo Việt Nam (AGAPE) có 02 điểm nhóm
với khoảng 50 tín đồ.
- Hệ phái Tin lành Liên đoàn truyền giáo Phúc âm Việt Nam: có 01
điểm nhóm với khoảng 40 tín đồ.
- Các tôn giáo khác: Với số lượng tín đồ không nhiều, các tôn giáo đã
được công nhận tư cách pháp nhân còn lại như Cao Đài, Baha’i, Hồi giáo,
Mính sư đều có tổ chức tôn giáo cơ sở trên địa bàn Hà Nội với người đứng
đầu là các chức sắc có uy tín trong cộng đồng tín đồ, đều được bầu cử qua các
kỳ đại hội của các tổ chức tôn giáo cơ sở.
2.1.2. Thực trạng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Thành phố
Tổng số lượng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hơn
590.000 tín đồ, chiếm khoảng 7% dân số Thủ đô, trong đó tín đồ Phật giáo và
Công giáo chiếm đa số (khoảng 585.000 tín đồ). Đa số tín đồ các tôn giáo ở
Thủ đô Hà Nội luôn thể hiện lòng yêu nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.
Nhiều gia đình có đạo đã có công với cách mạng, gắn bó với cuộc kháng
chiến của nhân dân ta chống xâm lược. Bước vào thời kỳ đổi mới, đồng bào
tín đồ các tôn giáo làm ăn phấn khởi hơn, tạo ra được những kết quả mới
trong đời sống kinh tế, xã hội, mức sống có bước cải thiện. Đã có nhiều gia
đình làm ăn khá giả, giàu lên. Nhiều cơ sở thay đổi bộ mặt làm được nhà kiên
cố, đường làng ngõ phố được tu bổ sạch, đẹp, cuộc sống cộng đồng khởi sắc.
39
Với chủ trương đổi mới của Đảng, nhà nước, các tôn giáo được sinh
hoạt bình thường, bà con tín đồ tôn giáo đều vui mừng phấn khởi, cơ sở thờ tự
được sang sửa lại, các sinh hoạt tôn giáo sôi động hơn trước đồng bào tín đồ
các tôn giáo ủng hộ chủ trương mới, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thực
hiện các chính sách của Đảng, nhà nước ta ở địa phương.
Ở không ít cơ sở có đông đồng bào có đạo đã có cuộc sống ổn định, trật
tự an ninh tốt các tệ nạn xã hội ít hơn các vùng khác. Đa số tín đồ tôn giáo có
niềm tin chân thực, bền vững. Trong lòng mỗi tin đồ hướng tới cái thiện,
tương trợ giúp nhau vượt qua khó khăn.
* Đặc điểm tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Thành phần: Tín đồ các tôn giáo đa phần là nông dân, do đó trình độ
và nhận thức nhìn chung là thấp. Tín đồ các tôn giáo sinh sống và làm việc tại
các quận nội thành có trình độ và nhận thức cao hơn các tín đồ sinh sống và
làm việc tại các huyện ngoại thành.
- Niềm tin tôn giáo: Tín đồ tôn giáo là người có đức tin tôn giáo, họ coi
niềm tin tôn giáo rất thiêng liêng và gắn bó với niềm tin ấy một cách tự
nguyện, niềm tin tôn giáo ấy mặc dù là hư ảo nhưng là một định hướng giá trị
có tính bền vững. Ví dụ như việc tín đồ đạo Công giáo tin vào Thiên Chúa và
sự mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tín đồ các tôn giáo gắn bó chặt chẽ với tổ
chức giáo hội, coi trọng và tích cực tham gia các hoạt động của cộng đồng tôn
giáo tại Thủ đô cũng như trên cả nước, họ gắn bó với các hoạt động từ thiện,
cứu trợ xã hội. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ các tôn giáo đã thành
nếp, đó là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của họ như:
đọc kinh cầu nguyện sớm, tối ngày thường, đi lễ các ngày thứ 7, chủ nhật và
các ngày lễ trọng…
- Trình độ, nhận thức: Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Hà Nội bao gồm
nhiều thành phần trong xã hội. Song phần đông là người lao động, chủ yếu là
40
nông dân, họ là những người cần cù lao động, gắn bó với quê hương, có tinh
thần đoàn kết cộng đồng, sống chân thật. Đa phần họ là người có tinh thần
yêu nước, có ý thức dân tộc.
- Tham gia các hoạt động tôn giáo: Trong thời gian trước đây, do nhiều
yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hóa…, số lượng tín đồ các tôn giáo thường
không phát triển, cơ sở thờ tự ít được xây dựng, sửa chữa, hiện tượng “khô
đạo, nhạt đạo” khá phổ biến nhưng cùng với chính sách kinh tế, tôn giáo phù
hợp hơn, cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một nâng cao thì chúng ta lại
thấy số người tìm đến với tôn giáo lại không ngừng tăng. Niềm tin tôn giáo
ngày càng được củng cố, hiện tượng khô đạo, nhạt đạo không còn diễn ra như
trước đây mà đã được các chức sắc tôn giáo củng cố niềm tin qua các hoạt
động tôn giáo. Việc giáo dân tham gia các hoạt động tôn giáo diễn ra thường
xuyên hơn, ngay cả những người khuyết tật, những bệnh nhân phong... cũng
duy trì thường xuyên các hoạt động tôn giáo.
- Tham gia các hoạt động xã hội: những năm gần đây, nhận thức của
tín đồ các tôn giáo có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức và hiểu biết về
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng được
nâng cao. Đồng bào có đạo ngày càng nhận thức rõ lợi ích của quốc gia dân
tộc và lợi ích của công cuộc đổi mới gắn bó mật thiết với lợi ích của bản thân
và lợi ích của tôn giáo mình. Vì vậy, những năm gần đây tín đồ các tôn giáo
nhiệt tình, tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa
phương và cơ sở, tích cực tham gia sinh hoạt văn hóa, đẩy mạnh áp dụng
chuyển giao các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ. Ngoài việc tham gia
hoạt động tại các hội đoàn tôn giáo, tín đồ các tôn giáo còn tích cực tham gia
41
các đoàn thể của Nhà nước như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ Nữ, Hội người Cao tuổi, Hội Nông dân…5
Tuy nhiên, vẫn còn có một số tín đồ tôn giáo sinh sống tại các huyện,
đặc biệt là các xã dân tộc so với yêu cầu chung thì vẫn còn chưa đáp ứng
được, giác ngộ chính trị còn thấp, một số thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức
vươn lên làm chủ chưa cao. Một bộ phận tín đồ thiếu hiểu biết đã và đang
tham gia vào các hoạt động chống đối chính quyền, thể hiện sự bất hợp tác
trong việc tham gia các phong trào phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Đi sâu vào tin đồ của từng tôn giáo, vẫn còn những vấn đề đáng quan tâm.
Về tín đồ đạo Phật.
Tín đồ thuần thành (tổng số quy) giữ tam quy ngũ giới thường xuyên
đến chùa sinh hoạt tôn giáo có khoảng 192.000 người chủ yếu là giới phụ nữ
trung niên và nhiều tuổi. Ngoài ra, mấy năm gần đây do điều kiện kinh tế phát
triển (phú quý sinh lễ nghĩa) giới trẻ cũng đua nhau đến chùa để cầu tài, cầu
lộc, dâng sao, giải hạn. Điều đáng quan tâm là không những cúng lễ ở đình
chùa, miếu, điện và trong gia đình mà nhiều chợ, những nơi có người chết vì
tai nạn giao thông, cơ sở sản xuất kinh doanh và tại công sở cũng đặt bàn thờ
để cúng lễ, làm cho đời sống tâm linh phát triển, tín ngưỡng, mê tín dị đoan
đang bị pha trộn.
Theo kết quả phiếu trưng cầu ý kiến (Điều tra xã hội) tháng 9/2004
dùng cho người theo đạo Phật với số phiếu phát ra là 320 phiếu, số phiếu thu
về là 319 phiếu cho thấy số người thường xuyên đi lễ ở đền phủ là 112/319
phiếu đạt 35,11%; số người xem, chọn ngày giờ tốt khi có việc làm hệ trọng
5 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo đề tài khoa học “Thực trạng Công giáo Thành phố Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc – Thuận lợi, khó khăn. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”. Đề án “Công giáo Việt Nam thực hiện đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc” của Ban Tôn giáo Chính phủ 2012, tr26
là 224/319 phiếu đạt 70,20%; đốt vàng mã, khi gia đình có cúng giỗ ông, bà,
42
tổ tiên là 231/319 phiếu đạt 72,41%... Xu hướng thương mại hoá trong các hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng gia tăng, gần đây nhiều sinh hoạt tôn giáo
trong chùa diễn ra ngoài giới luật nhưng vẫn không được hạn chế, khắc phục.
Tín đồ Công giáo.
Qua kết quả phiếu trưng cầu ý kiến (Điều tra xã hội) tháng 9/2004
dùng cho người theo đạo Công giáo với số phiếu phát ra là 300 phiếu, số
phiếu thu về là 280 phiếu cho thấy đức tin tôn giáo của giáo dân Hà Nội được
củng cố và phát triển nhanh: Số người (ngoan đạo) thường xuyên tham gia
các ngày lễ trọng là 203/280 phiếu đạt 72,50%; số người thường xuyên tham
gia các ngày Thánh lễ chủ nhật là 177/280 phiếu đạt 63,21%; số người
thường tham gia bí tích xưng tội có 215/280 phiếu đạt 76,79%...Số liệu trên
cho thấy tỷ lệ người thường xuyên đi xưng tội, chịu lễ khá cao, giáo dân ở
vùng ngoại thành ngoan đạo hơn, nhưng đức tin vào thiên chúa không sâu sắc
bằng tín đồ Công giáo trong nội thành.
Nhìn chung đức tin của đồng bào Công giáo được củng cố, các xứ, họ
đạo hoạt động có nề nếp và phong phú hơn trước. Tuy vậy, do ảnh hưởng của
một vài linh mục có khuynh hướng thoát ly khởi sự quản lý của nhà nước, nên
một số giáo dân đã bị cuốn hút vào những việc làm vi phạm pháp luật như tổ
chức rước lễ vượt ra khỏi khuân viên nơi thờ tự, tụ tập đông người đòi lại đất
trước đây đã hiến, nhượng cho nhà nước… một số người tích cực tham gia
các hội đoàn trái phép. Những việc làm trên nếu không được phát hiện, uốn
nắn kịp thời sẽ tạo ra kẽ hở để kẻ địch lợi dụng tín đồ, lôi kéo, tập hợp lực
lượng chống đối chế độ.
Về tín đồ đạo Tin lành.
Chi hội Thánh Tin lành Hà Nội có trụ sở ở số 2 ngõ Trạm, Hoàn Kiếm,
Hà Nội có số lượng tín đồ ít, tốc độ phát triển chậm, trong nhiều năm nay số
lượng tín đồ thay đổi không nhiều. Ngoài ra còn có trên 400 tín đồ là người
43
Hàn Quốc đang lao động, công tác, học tập trên địa bàn thành phố Hà Nội. Số
này nhóm lễ riêng vào sáng thứ tư và chủ nhật hàng tuần tại nhà thờ số 2 ngõ
Trạm. Nhìn chung tín đồ, Tin lành Hà Nội vẫn gắn bó với cộng động, chấp
hành đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Song mấy năm gần đây
sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ cũng có phần được tăng cường, số người đến
dự lễ đông đúc và đều đặn hơn, điều đáng quan tâm hiện nay là đạo Tin lành
Hà Nội được tổ chức Tin lành nước ngoài trong đó có Mỹ và Hàn Quốc đầu
tư tiền, đào tạo ủng hộ Tin lành Hà Nội mở rộng địa bàn hoạt động phát triển
tín đồ, một bộ phận học sinh du học ở các nước có đạo Tin lành, sau khi học
xong về nước đều theo đạo Tin lành và là những nhân tố tích cực truyền đạo.
Về tín đồ đạo Cao Đài.
Theo kết quả thống kê tình hình đạo Cao Đài trên địa bàn thành phố Hà
Nội ngày 20/9/2004 với số phiếu là 229 phiếu cho thấy Hà Nội có khoảng 233
tín đồ, tín đồ thường xuyên đến chịu lễ là 174 tín đồ, qua theo dõi hoạt động
của đạo Cao Đài trong mấy năm gần đây tín đồ có chiều hướng xa sút. Bà con
tín đồ đạo Cao Đài Hà Nội gắn bó với cộng đồng dân tộc, thực hiện nghiêm
chỉnh đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, thực hiện tốt
đường hướng "Phụng đạo, yêu nước" vui mừng phấn khởi, tin tưởng vào
đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước đối với tín đồ đạo Cao
Đài.
Về tín đồ Hồi giáo
Theo kết quả thống kê tình hình đạo Hồi trên địa bàn thành phố Hà Nội
cho thấy Hà Nội có 65 tín đồ là người Việt Nam và khoảng trên 400 tín đồ là
nhân viên nước ngoài đang công tác tại Việt Nam và nhân viên các Đại sứ
quán như: Malaixia, Pakistan… nhóm lễ vào ngày thứ sáu hàng tuần tại
Thánh đường số 12 phố Hàng Lược (quận Hoàn Kiếm). Do ít tín đồ, điều kiện
sinh hoạt tôn giáo ở phạm vi gọn, việc phát triển tín đồ gặp khó khăn, nên
44
nhìn chung chưa có biểu hiện phức tạp. Tuy nhiên đây là một tôn giáo có lịch sử rất phức tạp nên cũng không được chủ quan trong công tác quản lý.6
2.1.3. Tình hình hoạt động của hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo
* Đối với chức sắc Phật giáo
Trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 1.806 Tăng, Ni. Trong đó, Tỷ khiêu
275 vị; Tỷ khiêu Ni 1.228 vị; Sa di 30 vị; Thức xoa, Sa di Ni 93 vị; hình đồng
180 vị.
Nhìn chung trong 5 năm trở lại đây số lượng chức sắc, nhà tu hành
trong đạo Phật vẫn tiếp tục tăng vì Phật giáo Hà Nội có một đặc điểm là
chùa chưa có sư trụ trì còn khá nhiều nhất là ở Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh
Oai, Ba Vì. Chức sắc, nhà tu hành Phật giáo số đông vẫn tiếp tục phát huy
truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, chấp hành chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước theo tinh thần hiến chương "Đạo Pháp - dân tộc
và chủ nghĩa xã hội", chưa phát hiện có hành vi chống đối lại giáo hội phật
giáo Việt Nam, hoặc lợi dụng tôn giáo vào mưu đồ chính trị. Mấy năm gần
đây để thực hiện công cuộc "Hoàng dương, phật pháp" Phật giáo Thủ đô tích
cực đào tạo tăng tài nên lớp tăng, ni trẻ nhiều người có trình độ trung cấp,
đại học phật giáo, có một số người đỗ tiến sỹ phật học ở nước ngoài, có quan
hệ rộng rãi với phật giáo quốc tế. Song một số tăng ni về mặt chân tu, phẩm
hạn còn hạn chế nên nảy sinh sự mẫu thuẫn giữa lớp trẻ với già, thậm trí có
những trường hợp tranh chấp chùa cảnh, vi phạm vào những điều tối kỵ
trong Phật giáo (đoạt tự như đoạt thê), nói xấu bề trên gây mất đoàn kết nội
bộ, tranh giành lợi lộc…
* Đối với chức sắc, chức việc đạo Công giáo.
Có 04 giám mục (01 Tổng giám mục, 01 giám mục, 02 giám mục phụ
6 Theo Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kz đổi mới (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội, tr5-7
tá), 82 linh mục, gần 2000 chức việc; 19 cộng đoàn tu sĩ ở 20 tu viện với 273
45
tu sĩTrong đạo Công giáo Hà Nội hàng ngũ giáo phẩm, chức sắc có thể tạm
phân làm 03 bộ phận.
Số đông hàng ngũ linh mục hoạt động lễ nghi tôn giáo theo các quy
định, không tỏ rõ thái độ chính trị.
Một bộ phận chức sắc phần lớn mới được đào tạo, vâng phục bề trên,
thực hiện sự chỉ đạo của Tòa thánh Vatican. Bề ngoài thì nêu đường hướng
"Sống phúc âm trong lòng dân tộc" nhưng bên trong thực chất tìm mọi cách
"canh tân"; "thích nghi" để tồn tại và phát triển, tiếp tục thực hiện đối sách
"vừa hợp tác - vừa kháng cự" chỉ hợp tác những gì có lợi cho giáo hội, có tư
tưởng “vọng ngoại” đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước bằng cách lồng vào sinh hoạt tôn giáo. Với số này luôn tìm cách né
tránh quản lý, lấn lướt Chính quyền thực hiện các việc ngoài quy định.
Một bộ phận nhỏ có chức vị cao, chỉ đạo tinh vi, chặt chẽ các hoạt động
củng cố tổ chức, mở rộng giáo hội và làm giản uy tín, cô lập cán bộ cơ sở
vùng giáo. Cấm không cho các chức sắc tham gia các tổ chức chính trị - xã
hội, cô lập Uỷ ban Đoàn kết Công giáo và những người tham gia vào tổ chức
này, tìm cách loại bỏ người tiến bộ và đưa người trung thành với mình vào
những vùng giáo quan trọng để củng cố và phát triển đạo, nâng cao vị thế của
giáo hội. Thực hiện nhiều hình thức như làm nhân đạo từ thiện tặng quà cho
kẻ khó, cho người nghèo vay không cần thế chấp. Qua làm việc với một số
cấp uỷ, chính quyền cơ sở đều nhận định hoạt động từ thiện của đạo công
giáo nặng về khía cạnh mở rộng thanh thế, gây uy tín, thu hút nhân tâm, phát
triển tín đồ cho nên cấp uỷ, chính quyền, mặt trận một số nơi có thái độ cảnh
giác đối với loại hoạt động này, nhất là khi xét đề nghị của Công giáo mở các
điểm từ thiện như nhà trẻ, lớp mẫu giáo.
Mặt khác cần nói tới là những hoạt động nhân đạo từ thiện của đạo
công giáo chỉ là khoản rất nhỏ so với các khoản đầu tư của nhà nước trong
46
những năm vừa qua. Nhưng cách làm của giáo hội gây được ấn tượng trong
dân, những người khó khăn được chức sắc tới thăm, đúng lúc; các nhà trẻ,
mẫu giáo hoạt động giảm phí, chất lượng tốt, có trường hợp còn miền phí khi
giữ trẻ.
Điều đáng chú ý là họ tìm mọi cách để tập hợp và truyền đạo cho giới
trẻ, hàng năm đều mở đại hội giới trẻ nhằm tranh thủ với phương châm "Thà
mất một ngôi nhà thờ, còn hơn để mất một tâm hồn trẻ thơ". Tìm cách lấn
lướt chính quyền vi phạm quy định hoạt động tôn giáo của nhà nước như;
phong chức đào tạo, bổ nhiệm, mở lớp đào tạo giáo lý viên, thúc dục tín đồ
đòi lại đất, cơ sở thờ tự, in ấn, tán phát tài liệu kinh bổn trái phép.
Việc thụ phong chức sắc đạo Công giáo được Giáo hội tiến hành theo
Hiến chương, Điều lệ của Giáo hội. Tuy nhiên, từ năm 2008 trở về trước, Tòa
Tổng giám mục Hà Nội vẫn thực hiện việc đăng ký phong chức, phong phẩm
đối với chức sắc Công giáo trên địa bàn Thành phố đúng theo qui định của
pháp luật, có hồ sơ đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xem xét
về tư cách công dân. Từ năm 2008 đến nay, việc thụ phong linh mục Tòa
Tổng giám mục Hà Nội tự ra quyết định và tiến hành bổ nhiệm linh mục về
các xứ, họ đạo làm công tác mục vụ; không đăng ký với chính quyền Thành
phố, chỉ thông báo đến địa phương nơi chức sắc được điều chuyển đến hoạt
động tôn giáo. Bên cạnh đó, đối với chức sắc Công giáo thuộc quyền quản lý
của Tòa Giám mục Hưng Hóa và Tòa Giám mục Bắc Ninh vẫn được tiến
hành các thủ tục đúng theo qui định của Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn
thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong việc thuyên chuyển hoạt động tôn giáo đối với các linh mục
thuộc Giáo phận Hà Nội, Tòa Tổng giám mục Hà Nội trực tiếp ra quyết định
nhưng không tiến hành lập hồ sơ theo qui định thông báo nơi đi và đăng ký
nơi đến đối với các chức sắc. Trong năm 2012 và đầu năm 2013, Tòa Tổng
47
giám mục Hà Nội đã luân chuyển 34 linh mục trong giáo phận, trong đó Hà
Nội có 15 linh mục được được điều chuyển trong nội bộ và điều chuyển đến
hoạt động mục vụ tại các xứ, họ đạo. Tuy nhiên, đối với Giáo phận Hưng Hóa
và Giáo phận Bắc Ninh vẫn tiến hành việc thuyên chuyển mục vụ theo đúng
qui định pháp luật, không phát sinh tình hình phức tạp. Một số năm gần đây,
xuất hiện hiện tượng các linh mục Dòng thuyên chuyển đến Hà Nội để phục
vụ bên Triều với ý định khôi phục, phát triển các Dòng tu trên địa bàn thành
phố Hà Nội, nhưng trong Qui định của Giáo hội và pháp luật không có qui
định cụ thể về việc này dẫn đến không có cơ sở pháp lý để xử lý, giải quyết
việc linh mục Dòng thuyên chuyển đến hoạt động tôn giáo.
Điều đáng chú ý việc thuyên chuyển chức sắc tại giáo phận Hà Nội từ
khi nguyên Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt nghỉ hưu và về Châu Sơn, Ninh
Bình thì Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn đã có sự luận chuyển hợp lý hơn,
hợp tác với chính quyền để điều chuyển một số linh mục có tư tưởng chống
đối chính quyền ra khỏi địa bàn Hà Nội về các tỉnh lân cận thuộc Giáo phận
như việc điều chuyển: Linh mục Nguyễn Văn Lý (Giáo xứ Hàm Long) về Hà
Nam, linh mục Nguyễn Văn Bình (Giáo xứ Yên Kiện) về Nam Định, linh
mục Nguyễn Khắc Quế (Giáo xứ Thạch Bích) về Nam Định,....đây là những
linh mục luôn có tư tưởng chống đối chính quyền, bất hợp tác, thường xuyên
kích động giáo dân có đơn khiếu kiện liên quan đến nhà, đất có nguồn gốc tôn
giáo, tổ chức các hoạt động tôn giáo ngoài chương trình không đăng ký với
chính quyền hoặc tổ chức ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự. Những linh mục
được điều chuyển về Hà Nội mục vụ, bước đầu được đánh giá là có tư tưởng
ôn hòa, gần gũi hơn với chính quyền,....
Việc đào tạo đã được các giáo phận trên địa bàn tăng cường củng cố,
không chỉ đào tạo ngắn hạn, dài hạn trong nước mà đã cử một số linh mục đi
đào tạo dài hạn ở nước ngoài như: Mỹ, Pháp, Ý, Úc,...Được Chính phủ cho
48
phép, từ năm 2007, Đại chủng viện Hà Nội đã nâng thời gian học tập của các
chủng sinh từ 7 năm lên thành 8 năm (trong đó 7 năm học tại Chủng viện, 1
năm đi thực tập mục vụ). Bên cạnh việc đào tạo các linh mục triều, Dòng tu
nam cũng đã tổ chức gửi các tập tu đào tạo tại Trường Dòng để tạo nguồn linh
mục, tuy nhiên việc các Dòng tu nam cử tập tu đi đào tạo không tuân thủ theo
đúng các qui định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; họ tự ý gửi đào tạo sau
đó tự nhờ giám mục phong chức linh mục, không cần có ý kiến của chính
quyền các cấp; Dòng Chúa Cứu thế Thái Hà tự ý tổ chức tuyển sinh các tập tu
và đào tạo ngay tại Giáo xứ, không đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước
theo đúng qui định pháp luật.
Nhìn chung các hoạt động Công giáo trên địa bàn Thành phố những
năm qua (từ khi Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn thay Giám mục Ngô
Quang Kiệt) cơ bản ổn định, thuần túy tôn giáo, không phát sinh những điểm
nóng phức tạp. Qua tìm hiểu, Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn là người ôn
hòa, chủ trương của Tòa Tổng giám mục Hà Nội là hoạt động thuần túy tôn
giáo, tuân thủ pháp luật, không tổ chức các hoạt động khiếu kiện đông người
hay kêu gọi giáo dân chống đối chính quyền, giải quyết các vấn đề còn chưa
thống nhất với chính quyền các cấp bằng các biện pháp ôn hòa, tránh “bạo động”.7
Ban hành giáo xứ họ đạo
Năm 2007, Thành phố Hà Nội (cũ) có khoảng 40.000 giáo dân, 14
BHG xứ, 52 BHG họ đạo, 1.242 người tham gia BHG xứ, họ đạo [65, tr.6].
Sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây, toàn Thành phố Hà Nội có 79 BHG xứ, 632
7 Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo đề tài khoa học “Thực trạng Công giáo Thành phố Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc – Thuận lợi, khó khăn. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”. Đề án “Công giáo Việt Nam thực hiện đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc” của Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội, tr33-35
BHG họ, gần 2000 người tham gia, bình quân mỗi BHG xứ, họ đạo có
49
khoảng 4 chức việc [71].
Loại hình tổ chức xứ, họ đạo và tên gọi các chức danh của Ban hành
giáo xứ, họ đạo Công giáo ở Hà Nội khá đa dạng, không có sự thống nhất mà
tùy theo phong tục ở mỗi địa phương và cách quản lý của mỗi giáo phận khác
nhau. Qua khảo sát thực tế cho thấy, hiện đang tồn tại 3 loại mô hình là Ban
hành giáo xứ, họ đạo; Hội đồng giáo xứ và Hội đồng mục vụ giáo xứ.
Mô hình Ban hành giáo xứ vẫn khá phổ biến. Giáo xứ Cát Thuế (xã
Vân Côn, huyện Hoài Đức), thuộc giáo phận Hà Nội theo mô hình Ban hành
giáo xứ, lấy giáo họ chính xứ làm trung tâm, Ban hành giáo họ chính xứ lãnh
đạo Ban hành giáo các họ lẻ. Ban hành giáo xứ có 6 người: 1 chánh trương, 1
phó trương kiêm thư ký, 1 thủ quỹ và 3 trùm họ đạo.
Theo mô hình Hội đồng giáo xứ, có các giáo xứ như Dị Nậu (xã Dị
Nậu, huyện Thạch Thất) thuộc giáo phận Hưng Hóa, có Ban thường trực và
các ủy viên gồm 21 người. Ban thường trực Hội đồng giáo xứ có 1 chủ tịch, 1
phó chủ tịch nội vụ phụ trách đối nội, 1 phó chủ tịch ngoại vụ phụ trách đối
ngoại, 1 thư ký, 1 thủ quỹ và 3 trùm trưởng họ đạo. Mỗi họ đạo có 1 Ban
hành giáo gồm 5 người: 1 trưởng ban, 1 phó ban, 1 thư ký, 1 thủ quỹ và 1
người phụ trách các công tác khác.
Theo mô hình Hội đồng mục vụ giáo xứ như giáo xứ Đồng Trì (xã Tứ
Hiệp, Thanh Trì), giáo phận Hà Nội. Hội đồng mục vụ giáo xứ 5 thành viên: 1
trưởng ban, 2 phó trưởng ban, 1 thư ký và 1 thủ quỹ. Mỗi họ đạo lẻ có 1 Ban
hành giáo gồm 5 người. Giáo xứ Hàm Long (quận Hoàn Kiếm) có 2 họ lẻ tại
quận Hai Bà Trưng, theo mô hình Hội đồng mục vụ giáo xứ, lấy họ đạo chính
xứ làm trung tâm. Ban hành giáo họ đạo có 4 người 1 trưởng ban, 1 phó ban,
1 thư ký và 1 thủ quỹ.
Trên thực tế cho thấy vấn đề cơ bản của giáo hội cơ sở là nắm và chỉ
đạo giáo xứ, họ đạo, đây là lực lượng chức việc, chân rết của giáo hội Công
50
giáo cho nên các linh mục chính xứ rất chú trọng đến tuyển chọn nhân sự, đưa
người vào nắm tổ chức này. Tiêu chuẩn nhân sự Ban hành giáo xứ họ đạo
được đổi mới và nâng cao hơn trước người vào Ban hành giáo xứ, họ đạo
trước hết phải có uy tín với cộng đoàn tín hữu am hiểu lễ nghi, giáo luật, gia
đình có kinh tế khá, ở độ tuổi trẻ nếu là bộ đội xuất ngũ hoặc cán bộ ở xã,
phường thì tốt nhất hoặc có thể chọn những người gia đình có công với cách
mạng, để có quan hệ tranh thủ chính quyền, khi có vấn đề thì chính quyền
cũng rất khó xử lý những đối tượng này.
Hoạt động của các hội đoàn
Giáo hội công giáo Hà Nội tích cực thực hiện việc củng cố, phát triển
Hội đoàn, ngoài những hội đoàn phục vụ lễ nghi tôn giáo như hội hát, hội kèn,
hội trắc, hội dâng hoa, hội trống, nhiều hội đoàn có xu hướng, phát triển như:
hội cầu nguyện, hội ông Thánh Giê su, hội Bà Thánh Anna, hội ông Thánh
Gioan Kim, hội dòng ba, hội Thiếu nhi Thánh thế, hội Thánh Têrêza, hội Mân
côi, hội ông già, hội tương trợ, hội các bà, hội gia trưởng…
Những hội đoàn được khôi phục và thành lập đều không xin phép chính
quyền, hoạt động của các hội đoàn chủ yếu trong khuôn viên nhà thờ. Mục
đích của các hội đoàn, phục vụ thánh lễ, củng cố, tăng cường đức tin đồng
thời tạo mối liên hệ, gắn bó với giáo hội, thể hiện tính tổ chức trong cộng
đồng giáo dân làm sầm uất các hoạt động tôn giáo ở xứ, họ đạo.
Trong các hình thức hoạt động của hội đoàn đáng chú ý là hội Thiếu
nhi Thánh thể, thu hút số trẻ em có đạo ở lứa tuổi từ 7 đến 15, đây thực chất là
hình thức bồi dưỡng, tạo ra lớp giáo dân có đức tin cao, biết vâng lời. Cho đến
nay các loại hội đoàn nhìn chung đều mang tính tôn giáo thuần tuý, một số
hội đoàn được linh mục chính xứ sử dụng vào hoạt động từ thiện như đi thăm,
tặng quà cho các trại phong, trẻ em, người già cô đơn, người tàn tật.
51
Tính phức tạp của hội đoàn ở chỗ nó tập hợp đông đảo lực lượng tín đồ
ở mọi lứa tuổi, đoàn ngũ hoá tín đồ đây là sức mạnh vật chất mà giáo hội
công giáo đang tích cực thực hiện đồng thời cũng là bài toán cần có lời giải đối với các đoàn thể chính trị của ta hiện nay.8
* Về chức sắc đạo Tin lành Hà Nội.
Tổng hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có trụ sở chung với chi
hội Thánh Tin lành Hà Nội tại số 2 Ngõ Trạm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Năm 1996, mục sư Bùi Hoành Thử - Phó Hội trưởng, kiêm Tổng Thư
ký Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Quản nhiệm chi hội Tin lành Hà
Nội qua đời, ban lãnh đạo Tổng hội có sự khủng hoảng về nhân sự, nhất là từ
khi mục sư, hội trưởng Hoàng Kim Phúc qua đời năm 2001, Tổng hội Thánh
Tin lành Việt Nam (miền Bắc) không có người lãnh đạo, kinh phí hoạt động
của giáo hội phụ thuộc phần lớn vào nước ngoài. Từ năm 1996 đến nay sau
nhiều năm không tổ chức được đại hội đồng lần thứ 32, sau Hội nghị thường
niên tháng 3/2002 Tổng hội Thánh Tin lành đã lập ra được ban trù bị đại hội,
bầu được chủ toạ, định ra đường hướng lãnh đạo (2003- 2005) tình hình nội
bộ, và hoạt động của tổng hội cũng có phần ổn định hơn. Tuy nhiên để tiến tới
đại hội đồng 32 cũng còn rất nhiều vấn đề đặt ra phải giải quyết.
Ngày 30/11 - 2/12/2004 Đại Hội Đồng lần thứ 32 Hội thánh Tin lành
Việt Nam( miền Bắc) đã bầu Ban trị sự Tổng hội mới gồm 13 người, trong đó
Hội Trưởng là mục sư Phùng Quang Huyến, phó Hội Trưởng là Giảng sư
Nguyễn Gia Huấn, Tổng Thư ký là Giảng sư Âu quang Vinh.
Đáng chú ý trong những năm gần đây các thế lực thù địch đứng đầu là
Mỹ đã lợi dụng những khó khăn của Tin lành Hà Nội tiến hành nhiều hoạt
8 Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kz đổi mới (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội, tr8-11
động (công khai, bí mật) nhằm tác động, ủng hộ, cổ vũ cả về mặt tinh thần,
52
vật chất để từng bước mua chuộc, lôi kéo ban trị sự tổng hội Tin lành Việt
Nam (miền Bắc) và chi hội thánh Tin lành Hà Nội.
Sứ quán Mỹ và các tổ chức Tin lành nước ngoài khi đến Hà Nội đều
gặp gỡ tiếp xúc với những người đứng đầu Tin lành trong đó có nhóm truyền
đạo Âu Quang Vinh để tìm hiểu sơ hở, thiếu sót của ta trong việc thực hiện
đường lối, chính sách về tôn giáo. Điều họ rất quan tâm là việc truyền đạo lên
các tỉnh miền tây bắc và vùng dân tộc Tây Nguyên…đây là vấn đề phức tạp
và nhạy cảm, cần theo dõi chặt chẽ và đề ra những giải pháp không cho kẻ
xấu lợi dụng chống phá cách mạng nước ta.
Đại hội Đồng lần thứ 33 (2009-2013) và Đại hội Đồng lần thứ 34
(2013-2017) đã đánh dấu sự trở lại mạnh mẽ của Hội thánh Tin lành Việt
Nam (miền Bắc). Cả 2 lần Đại hội Đồng, mục sư Nguyễn Hữu Mạc đều được
tín nhiệm bầu cử làm Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc),
Phó Hội trưởng là mục sư Phùng Quang Huyến, mục sư Bùi Văn Sản, Tổng
thư ký là mục sư Nguyễn Đức Đồng. Trong quá trình hoạt động, Ban Trị sự
Hội thánh đã có nhiều đóng góp cùng phối hợp với chính quyền các cấp, đặc
biệt Ban Tôn giáo Chính phủ, UBND thành phố Hà Nội giải quyết các nhu
cầu của Hội thánh từ tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, mở rộng quan
hệ trong và ngoài nước với các tổ chức tôn giáo bạn, thay đổi phong cách điều
hành và đa dạng hóa các hoạt động của Hội thánh. Những thay đổi cơ bản trên
đã góp phần giúp hoạt động của Tin lành Việt Nam (miền Bắc) trên địa bàn
thành phố Hà Nội trở nên sôi nổi. Đặc biệt, sau khi mục sư Âu Quang Vinh
cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ, hoạt động của chi hội thánh Tin lành Hà
Nội đã được giúp đỡ, tạo điều kiện để có những điều chỉnh mạnh mẽ, mục sư
nhiệm chức Bùi Quốc Phong được bổ nhiệm làm Quản nhiệm Hội thánh Tin
lành Hà Nội, mục sư Hoàng Văn Luân được bổ nhiệm làm Quản nhiệm Hội
thánh Tin lành Tự Nhiên (xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín), mục sư nhiệm
53
chức Phạm Bá Toàn được bổ nhiệm làm Quản nhiệm Hội thánh Tin lành Sở
Thượng (quận Hoàng Mai), mục sư nhiệm chức Phạm Bá Hạnh được bổ
nhiệm giúp lễ điểm nhóm Tin lành Định Công (quận Hoàng Mai).
Về cơ bản, các mục sư, mục sư nhiệm chức của Hội thánh Tin lành
Việt Nam (miền Bắc) đang hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội là những
người có trình độ, được đào tạo thần học bài bản, có nhận thức và trách nhiệm
với tín hữu trong cộng đồng, có quan hệ tốt với chính quyền địa phương và
tuân thủ đường hướng hoạt động của Hội thánh “sống Phúc âm trong lòng dân tộc”.
* Về chức sắc các tôn giáo khác
- Cao Đài: Trên địa bàn Hà Nội có 3 tổ chức tôn giáo cơ sở thuộc đạo
Cao Đài gồm họ đạo Cao Đài Thủ đô thuộc Cao Đài Ban Chỉnh đạo, họ đạo Cao
Đài Phúc Đức, họ đạo Cao Đài Đặng Giang thuộc Cao Đài Tây Ninh. Chức sắc
các họ đạo Cao Đài trên địa bàn Thủ đô phần lớn là những người trung niên và
làm nghề nông. Hoạt động của các họ đạo Cao Đài phần lớn phụ thuộc vào kinh
phí do tổ chức Cao Đài trung ương cung cấp nên khá hạn chế, tập trung chủ yếu
vào nhóm tín đồ thuần thành, ít có các hoạt động khuyếch trương.
- Baiha’i: Do đặc điểm đạo Baiha’i không có chức sắc, các Hội đồng
tinh thần Baha’i đều do tín đồ bầu vào các kỳ đại hội diễn ra mỗi năm 1 lần.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, phần lớn các hoạt động của Hội đồng tinh
thần Baha’i chủ yếu diễn ra tại số 9 Đội Cấn, trụ sở Hội đồng tinh thần Baha’i
Hà Nội là tổ chức tôn giáo cơ sở đầu tiên của đạo Baha’i trên địa bàn thành
phố Hà Nội và là tổ chức có số lượng tín đồ đông nhất. Mặc dù mỗi năm Hội
đồng tinh thần Baha’i tổ chức đại hội 1 lần nhưng qua nhiều năm theo dõi,
chức sắc đạo Baha’i chủ yếu tập trung vào một số người như ông Nguyễn
Văn Bình, Nguyễn Văn Duyên… là những người có uy tín trong cộng đồng
tôn giáo Baha’i trên địa bàn thành phố Hà Nội và là thành viên Hội đồng tinh
thần Baha’i Việt Nam. Hoạt động chủ yếu của nhóm chức sắc Baha’i trên địa
54
bàn thành phố Hà Nội tập trung vào việc hướng dẫn lễ nghi tôn giáo cho tín
đồ tại các điểm nhóm, từng bước củng cố nhân sự thành lập Hội đồng tinh
thần tại các quận, huyện và hỗ trợ hoạt động của Hội đồng tinh thần Baha’i
Việt Nam.
- Hồi giáo: Trước năm 2011, tại thánh đường Hồi giáo, số 12 phố Hàng
Lược, quận Hoàn Kiếm không có tổ chức tôn giáo, chỉ có ông Đoàn Hồng
Cương, kiều dân Pakistan trông coi thánh đường, có 01 Ban Quản trị do đại
sứ các nước thuộc cộng đồng Hồi giáo (OIC) luân phiên phụ trách nhằm phục
vụ hoạt động của các tín đồ Hồi giáo là người nước ngoài đang sinh sống, học
tập, làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ năm 2011, được sự quan tâm
của chính quyền thành phố, Ban Quản trị lâm thời thánh đường Hồi giáo Hà
Nội đã được thành lập gồm 3 người do ông Miêu Abbas làm Trưởng Ban.
Đến năm 2013, Đại hội lần thứ I thánh đường Hồi giáo Hà Nội đã được tổ
chức và bầu ra Ban Quản trị thánh đường gồm 05 người do ông Miêu Abbas
làm Trưởng Ban. Ban Quản trị đã suy cử ông Miêu Abbas làm Imâm, chức
sắc Hồi giáo đầu tiên của Hà Nội, góp phần tạo điều kiện tự chủ hoạt động
của Ban Quản trị, không còn phải nhờ chức sắc Hồi giáo từ nơi khác hoặc để
chức sắc nước ngoài làm lễ phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ
trong thánh đường.
- Minh sư đạo: Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện chỉ có bà Phạm Thị
Là, hiệu Bảo Ngọc, phong phẩm Dẫn Ân là chức sắc được Giáo hội Minh sư
đạo thừa nhận, hoạt động của bà Phạm Thị Là tập trung chủ yếu vào việc
phục vụ nhu cầu sinh hoạt của tín đồ tại chùa Diệu Nam, số 60 phố Đại La.
Hiện nay, hoạt động của Minh sư đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu
là thỏa thuận với Giáo hội Phật giáo Việt Nam về quyền quản lý, sử dụng
chùa Diệu Nam, số 60 phố Đại La.
55
2.1.4. Thực trạng cơ sở thờ tự của các tôn giáo
Qua theo dõi tình hình các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội, cơ
sở thờ tự của các tôn giáo có số lượng khá lớn, đặc biệt, Phật giáo Hà Nội có
số lượng chùa lớn nhất cả nước, Công giáo Hà Nội có địa bàn chịu sự quản lý
khá phức tạp của 3 Tòa Giám mục: Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Hóa.
- Đạo Công giáo: Trên địa bàn Hà Nội có 02 toà tổng giám mục, 82 nhà
thờ xứ, 327 nhà thờ họ, nhà nguyện và điện thờ, 12 nhà dòng tu (dòng chúa cứu
thế, dòng thánh Phaolô, dòng Mến Thánh giá Hà Nội, Mến thánh giá Hưng
Hóa…) và chủng viện liên địa phận Hà Nội. Trong đó, giáo phận Bắc Ninh có
40 nhà thờ xứ, họ, giáo phận Hưng Hóa có 109 nhà thờ xứ, họ, nhà nguyện, điện
thờ, giáo phận Hà Nội có 260 nhà thờ xứ, họ, nhà nguyện và điện thờ.
- Đạo Phật: Có trụ sở của Trung ương giáo hội phật giáo Việt Nam tại
chùa Quán Sứ, số 73 phố Quán Sứ Hoàn Kiếm, Hà Nội; có Văn phòng 1 Giáo
hội PGVN (chùa Quán Sứ), có hai trường phật học: 1 trường Học viện phật
giáo Việt nam (chùa Quán Sứ), 1 trường trung cấp phật học của Thành hội
phật giáo(chùa Mỗ Lao) và 2.059 chùa, trong đó có 209 chùa được công nhận
di tích cấp Quốc gia; 299 chùa được công nhận di tích cấp Thành phố.
- Đạo Tin lành: Có trụ sở Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) và chi hội thánh Tin lành Hà Nội ở số 2 Ngõ Trạm,Hoàn Kiếm, Hà Nội,
trường Thánh kinh Thần học Hà Nội cũng tạm thời đặt tại địa chỉ trên; 03 cơ
sở tôn giáo khác là nhà thờ Tin lành Sở Thượng, phường Yên Sở, quận Hoàng
Mai, nhà thờ Tin lành Tự Nhiên, xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín và nhà thờ
Tin lành Thọ An, xã Thọ Xuân, huyện Đan Phượng.
Các hệ phái Tin lành được công nhận tư cách pháp nhân còn lại đang
có tổ chức tôn giáo cơ sở, điểm nhóm Tin lành trên địa bàn Hà Nội (06 hệ
phái) không có cơ sở thờ tự mà chỉ thuê nhà làm nơi sinh hoạt tôn giáo như
Hội thánh Tin lành Cơ đốc Phục lâm Việt Nam có trụ sở thuê tại số 98 đường
56
Kim Giang, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai; Hội thánh Tin lành Trưởng
lão Việt Nam thuê tại ngõ 35, ngách 75, Cát Linh, quận Đống Đa; Hội thánh
Tin lành Liên hữu Cơ đốc Việt Nam thuê nhà số 287 Định Công, phường
Định Công, quận Hoàng Mai; Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, ở thôn
Ái Mộ, Thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm; Hội thánh Báp tít Việt Nam (Nam
phương), 285 đường Bưởi, quận Tây Hồ; Tổng hội Báp tít Việt Nam (Ân
Điển – Nam Phương), thôn Hồng Ngự, xã Thuỵ Phương, huyện Từ Liêm.
- Đạo Cao Đài: Có 01 Thánh thất đạo Cao Đài ở 48 phố Hoà Mã, quận
Hai Bà Trưng, 02 cơ sở thuộc Cao Đài Tây Ninh tại thôn Đặng Giang, huyện
Ứng Hòa; tại thôn Phúc Đức, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai.
- Đạo Hồi: Có một Thánh đường ở 12 phố Hàng Lược, Hoàn Kiếm, Hà Nội .
Nhìn chung, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được sửa
chữa lại, trang hoàng đẹp hơn, nhiều nơi có trang bị âm thanh, ánh sáng tốt,
cảnh quan đẹp đẽ, tăng vẻ hấp dẫn làm cho tín đồ thêm trân trọng cơ sở thờ
tự, đồng thời thấy rõ chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Mặt khác trong tu sửa, xây dựng lại nơi thờ tự cũng đã huy động khá
nhiều công sức và tiền của trong dân ngoài ra có phần tài trợ từ nước ngoài.
Tuy vậy việc quản lý về cơ sở thờ tự của các tôn giáo cũng còn khá
nhiều điều phải quan tâm giải quyết.
- Một số nơi sửa chữa nơi thờ tự tuỳ tiện không xin phép hoặc làm trái
phép, tập trung chủ yếu ở Phật giáo, đáng chú ý một số chùa khi xây sửa phá
bỏ kiến trúc cũ xây dựng nhà mái bằng, kiên cố hoặc bắt trước kiến trúc chùa
miền Nam (xây 02 tầng) làm mất đi cảnh quản và phong cách kiến trúc truyền
thống của chùa Bắc Bộ như chùa Thiên Phúc, quận Hoàn Kiếm, chùa Cự
Khối, quận Long Biên...
Hiện nay số lượng chùa chưa có sư trụ trì khá đông (khoảng 500) –
theo thống kê cơ sở thờ tự trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2013, nhiều sư
57
ở tỉnh ngoài đến sinh hoạt tôn giáo không tuân thủ quy định của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội và sự quản lý của nhà nước, thậm trí có
sư miền Nam ra tổ chức xây dựng lại chùa theo môn phái khất sỹ không có
báo cáo xin phép chính quyền các cấp.
Bên cạnh đó, qua theo dõi tình hình tôn giáo trên địa bàn Hà Nội, Phật
giáo và Công giáo có nhiều khiếu kiện kéo dài liên quan đến đất đai có nguồn
gốc tôn giáo như sau:
- Phật giáo có tổng số 46 khiếu kiện tranh chấp liên quan đến cơ sở thờ
tự, chủ yếu là khiếu kiện về việc các hộ dân cư trú trong khuôn viên cơ sở thờ
tự như chùa Bà Đá, chùa Linh Ứng, chùa Liên Phái, chùa Tĩnh Lâu…
- Đạo Công giáo có 08 khiếu kiện kéo dài về đất đai có nguồn gốc tôn
giáo như trường Trung học cơ sở Hoàn Kiếm, Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba,
khách sạn La Thành, hồ Ba Giang, nhà thờ Đa Minh trong khu vực bảo vệ
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Mặc dù trong thời gian qua, thực hiện Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày
31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, UBND các quận, huyện, thị xã rất nỗ
lực giải quyết các khiếu kiện liên quan đến đất đai có nguồn gốc tôn giáo như
di dời, giải tỏa các hộ dân cư trú trong khuôn viên chùa, nhất là các chùa được
công nhận di tích như di dời 17 hộ tại chùa Liên Phái, 02 hộ tại chùa Bà
Đá…; bàn giao lại hành lang bên trái cơ sở dòng tu Thánh Phao lô tại 37 Hai
Bà Trưng, cạnh Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba và Viện Mắt Hà Nội; xây dựng
công viên 1-6 cạnh nhà thờ Thái Hà, vườn hoa Hàng Trống tại số 42 phố Nhà Chung; bàn giao 20,46 m2 đất tại số 1 Nguyễn Văn Tố cho Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc); bàn giao 45.5 m2 đất từ trường Trung học cơ sở Hoàn
Kiếm cho Tòa Tổng giám mục Hà Nội quản lý, sử dụng nhưng do nhiều
nguyên nhân, trong đó chủ yếu là thiếu quỹ đất tái định cư, hạn chế về kinh
phí di dời, hoặc do quan điểm chưa phù hợp với đường lối, chính sách của
58
Đảng và Nhà nước của một bộ phận chức sắc, tín đồ mà tình hình khiếu kiện
đất đai có liên quan đến tôn giáo vẫn tiếp tục kéo dài.
2.2. Công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng về tôn giáo
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng và Nhà
nước ta đã từng bước đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong
quá trình đó, tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo ngày
càng được thể hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XI
của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo phù hợp với quan điểm của Đảng".
Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa
IX) của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 12/3/2003, đã tổng kết và phát triển tư
duy lý luận đổi mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và
những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo với lý tưởng của chủ
nghĩa xã hội. Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước mới, khẳng
định rõ hơn tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội" [44,49], định hướng đưa các tôn giáo đồng hành, gắn bó
cùng dân tộc. Luận điểm này đã cụ thể hoá quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn
giáo, nhưng phát triển rõ hơn trong mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận thức, quan điểm này
tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ tồn tại
đến khi nào. Đồng thời khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội
59
cho rằng tôn giáo sẽ mất đi nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý
luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Quan điểm nhìn nhận mới khẳng định rõ
thái độ của những người cộng sản Việt Nam về sự tôn trọng nhu cầu đời sống
tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có
đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng
bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín
ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo đảm các
quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân
quyền, dân chủ v.v.
Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn
hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Bốn là, "giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân
dân"[44,49]. Quan điểm này hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý
luận của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Lần đầu tiên nội
hàm của tín ngưỡng được Đảng ta đề cập tới một cách chính thức trong văn
kiện của mình. Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh rõ truyền thống thờ
cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với làng, với nước của nhân dân
ta. Trong tâm thức của người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những có
công với dân, với nước không đơn thuần chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà
cao hơn đó còn là một đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Đó là một
truyền thống lâu đời đã ăn sâu trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn hóa,
tinh thần của mỗi người dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật
thể đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy,
60
các tôn giáo ngoại nhập, kể cả những tôn giáo độc thần như Công giáo khi vào
Việt Nam cũng phải thừa nhận, tiếp thu loại hình tín ngưỡng truyền thống này.
Từ những nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã
nêu lên những quan điểm mới về công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng
của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế
phá hoại cách mạng. Trong quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh đến hai nội
dung rất quan trọng của công tác tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn
giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Đây là quan điểm thể hiện tư duy lý luận sâu sắc của Đảng ta về công
tác quần chúng nói chung, công tác tôn giáo nói riêng. Suy cho cùng, công tác
vận động quần chúng có đạo là công tác đối với con người, đó là những con
người-công dân-tín đồ. Họ là một đối tượng quần chúng đặc thù, có điểm
giống, nhưng cũng có điểm khác với các đối tượng quần chúng khác. Ở họ,
giữa con người công dân với con người tín đồ luôn quyện chặt vào nhau, bổ
xung cho nhau không thể tách rời và luôn hướng tới "tốt đời, đẹp đạo". Trong
họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người công dân có quyền lợi,
nghĩa vụ với Tổ quốc và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo, với
giáo hội của mình. Bởi vậy, công tác vận động quần chúng có đạo không đơn
thuần chỉ là công tác tuyên truyền giáo dục mà còn là công tác tập hợp tín đồ
các tôn giáo trong các đoàn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công
tác đối với các chức sắc, nhà tu hành, các nhân sỹ trí thức trong các tôn giáo.
Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở xác định công tác tôn giáo mang nét
đặc thù với sự tinh tế trong nhiều mối quan hệ, không chỉ là giải quyết chính
61
sách đối với tín đồ, ứng xử với chức sắc và tổ chức giáo hội mà còn là công
tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo, liên quan đến chính sách đối nội,
đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta xác định lực lượng làm
công tác tôn giáo trong thời kỳ mới là toàn bộ hệ thống chính trị. Gồm Đảng,
chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị,... Toàn bộ hệ thống chính trị
tham gia làm công tác tôn giáo, nhưng mỗi ngành tuỳ theo chức năng có
những nhiệm vụ cụ thể: Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo
thông qua chủ trương, đường lối mang tính định hướng đối với tôn giáo nói
chung và đối với từng tôn giáo cụ thể. Đồng thời, thông qua mặt trận và các
đoàn thể thực hiện công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng cốt cán
trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính quyền có trách nhiệm thể chế hóa chủ
trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo; thực hiện
quản lý các hoạt động tôn giáo, đưa cáo hoạt động tôn giáo vào khuôn khổ
của pháp luật. Mặt khác, các cấp chính quyền còn phải chăm lo đến đời sống
vật chất và tinh thần của tín đồ các tôn giáo bằng các chính sách phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội và đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo
nhằm làm lành mạnh hóa các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận và các
đoàn thể tuyên truyền, vận động quần chúng, đưa quần chúng tín đồ các tôn
giáo theo từng giới, từng lứa tuổi tham gia các đoàn thể chính trị-xã hội, các
đoàn thể xã hội và các đoàn thể nghề nghiệp khác.
Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt
động, truyền đạo và quản đạo) phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Cùng với
việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn
giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước
thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động
tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay
ép buộc người khác theo đạo. Điều đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn
62
giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị-xã hội mà còn
bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị
đoan nhằm làm lành mạnh hoá môi trường sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo.
Có thể nói, những quan điểm đổi mới nêu trên đã từng bước được thể
chế hóa bằng chính sách, pháp luật của nhà nước, như Nghị định 69/HĐBT
năm 1991 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ); Nghị định 26
CP năm 1999 của Chính phủ, đặc biệt Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của
UBTV Quốc hội (2004); Nghị định 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo; Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối
với đạo Tin lành. Đó là những văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhằm giải
quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Theo đó, nhiều vấn đề cơ bản,
quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết, như sinh hoạt tôn giáo
của tín đồ; vấn đề đào tạo chức sắc, in ấn kinh sách, đồ dùng việc đạo; vấn đề
đất đai, cơ sở thờ tự; đặc biệt vấn đề thừa nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ
chức của các tôn giáo (đến nay đã có 12 tôn giáo với 32 tổ chức, hệ phái tôn
giáo đã được thừa nhận); vấn đề hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hóa, xã
hội, giáo dục y tế, đối ngoại,. . . của tôn giáo. Điều đó đã tạo nên niềm tin
tưởng, phấn khởi của đại đa số tín đồ, chức sắc các tôn giáo, có tác dụng động
viên, khuyến khích họ tích cực tham gia công cuộc đổi mới đất nước.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng đề ra trong Nghị quyết 25 (Nghị
quyết Trung ương 7 (phần 2) "làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của
toàn bộ hệ thống chính trị của Đảng lãnh đạo" [44,49], đối với Hà Nội, từ
trước đến nay, công tác tôn giáo được coi là nhiệm vụ trọng tâm được các cấp
uỷ đảng từ Thành phố đến cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Chỉ tính từ năm
1997 sau khi tổng kết Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "tăng cường công
63
tác tôn giáo trong tình hình mới", đến nay, chỉ tính riêng Thành ủy đã có rất
nhiều các chỉ thị, thông báo về chủ chương công tác tôn giáo cho đảng bộ cơ
sở, cụ thể như sau:
- Chỉ thị 21-CT/TW ngày 28/8/1997 "về tăng cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới".
- Kế hoạch số 34-KH/TU ngày 12/8/1998, thực hiện Chỉ thị 37-CT/TW
ngày -2/7/1998 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng "về công tác tôn giáo
trong tình hình mới".
- Thông báo số 18-TB/TU ngày 14/3/2001 về công tác sinh viên và tôn
giáo trên địa bàn Hà Nội.
- Hướng dẫn số 04 ngày 20/3/2002 của Ban Thường vụ Thành ủy về
việc sơ kết thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành.
- Đề án số 25-ĐA/TU ngày 15/4/2003 thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 (phần 2) khoá 9 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh"; về công tác
dân tộc; về công tác tôn giáo.
- Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 30/8/2007 của Thành uỷ Hà Nội về công
tác tôn giáo trong tình hình mới.
- Thông báo số 314-TB/TU ngày 11/6/2010 của Thành ủy về việc
thông báo ý kiến chỉ đạo của Thường trực Thành ủy về tiếp tục thực hiện
thông báo số 160-TB/TW ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa IX) về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong thời gian tới.
Cùng với các văn bản chỉ đạo của Thành ủy, UBND Thành phố cũng
kịp thời có nhiều văn bản pháp quy chỉ đạo việc thực hiện công tác quản lý
nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, cụ thể:
64
- Kế hoạch số 21/KH-UB ngày 03/12/1997 thực hiện Chỉ thị số 21-
CT/TU ngày 28/8/1997 của Ban Thường vụ Thành uỷ “Về tăng cường công
tác tôn giáo trong tình hình mới”.
- Kế hoạch số 2286/HD-UB ngày 15/9/1998 của UBND Thành phố về
đẩy mạnh công tác vùng giáo.
- Quyết định số 148/2005/QĐ-UB ngày 30/9/2005 về việc ban hành
quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức trong
nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài và cơ sở tôn giáo trên địa bàn Thành phố
Hà Nội.
- Đề án số 107/ĐA-UBND ngày 27/11/2009 của UBND Thành phố về
tăng cường công tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên
địa bàn Thành phố.
- Quyết định số 59/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND
Thành phố về việc quy định chi tiết một số nội dung về cấp giấy phép xây
dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Thành ủy và các cấp uỷ đảng trong
Thành phố luôn quán triệt chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân trên cơ sở pháp luật, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân
tộc, khuyến khích đồng bào các tôn giáo thực hiện "kính chúa - yêu nước"
"phụng đạo - yêu nước" "tốt đời - đẹp đạo", thực hiện tốt nghĩa vụ công dân,
góp phần tích cực xây dựng Thủ đô giàu đẹp, văn minh, hiện đại.
Đồng thời các cấp uỷ đảng luôn luôn chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần của tín đố các tôn giáo, cuộc sống của đồng bào các tôn giáo từng bước
được cải thiện số gia đình nghèo ở vùng có đông đồng bào tôn giáo hàng năm
giảm đi rõ rệt, số hộ đủ ăn, giàu có ngày một tăng đó là cơ sở hết sức quan
trọng để củng cố lòng tin của đồng bào với đảng và chế độ.
65
Việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người theo đạo Công giáo ở
những vùng có đông đồng bào Công giáo được quan tâm.
Trong công tác tôn giáo Thường vụ Thành ủy nhấn mạnh phải chủ
động, thống nhất, thận trọng, tế nhị, chặt chẽ, đúng pháp luật điều quan trọng
là khi giải quyết những vấn đề về tôn giáo các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chức
năng và các đoàn thể chính trị phải phân biệt được rõ hoạt động tôn gáo thuần
tuý với lợi dung tôn giáo để chống phá chế độ.
Trong công tác tôn giáo phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ không
chồng chéo, dẫm chân lên nhau đồng thời phải phối hợp hết sức nhịp nhàng
đồng bộ tránh kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng.
Thường trực Thành ủy phân công rõ nhiệm vụ cho các ngành, các cấp
ĐẢNG
NHÀ NƯỚC
MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ
CHỦ YẾU
theo sơ đồ.
Tham
TT
CẤP
Tham
Quản
mƣu,
Tham
Chỉ đạo
Chỉ đạo
mƣu
lý
mƣu
giúp
việc
Ban Chỉ
Ban Dân
đạo Công
Phó
Thành
Ban Dân
Ban Tôn
Đảng
1.
tộc – Tôn
tác tôn
Chủ
phố
vận
giáo
đoàn
giáo
giáo Thành
tịch
phố
Ban Dân
Phòng
Thường
Quận,
2.
Cán bộ chuyên
Ban Chỉ đạo Công tác tôn
Phó Chủ
vận
Nội vụ
trực
huyện
trách
tịch
giáo cấp huyện
Cán bộ
BCH UB
Xã,
3.
Cấp uỷ
Mặt trận UBND
Cốt cán
văn hóa
Mặt trận
phường
66
Công an làm nhiệm vụ chống địch lợi dụng, các ngành, các cấp và cơ
quan chức năng phối kết hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp uỷ
đảng, nhìn chung các cơ quan tham mưu, giúp việc không trực tiếp ký các văn
bản giải quyết các vấn đề tôn giáo. Khi có vấn đề liên quan đến tôn giáo, các
cơ quan chức năng đều báo cáo với Thường vụ Thành ủy xin chủ trương,
UBND Thành phố giải quyết cụ thể về mặt quản lý nhà nước, theo pháp luật
quy định do đó đã khắc phục cơ bản tình trạng thiếu thống nhất trong các
ngành chức năng.
* Về xây dựng bộ máy công tác tôn giáo.
Xây dựng bộ máy làm công tác tôn giáo có vai trò quyết định thành
công trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác vận động
quần chúng tín đồ thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
nhà nước. Trong nhiều năm nay Thường vụ Thành ủy luôn quan tâm tới công
tác này.
Thực hiện Nghị quyết số 13, 14 của Quốc hội, Ban Tôn giáo Thành phố
sáp nhập vào Sở Nội vụ nhưng vẫn được quan tâm kiện toàn, củng cố với các
phòng chuyên môn nghiệp vụ theo dõi công tác tôn giáo, bộ phận cán bộ theo
dõi công tác tôn giáo của Ban Dân vận, Mặt trận tổ quốc cũng được quan tâm
kiện toàn đi vào hoạt động thường xuyên nề nếp, bước đầu phát huy hiệu quả.
Ở các quận, huyện, thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ cũng tích
cực củng cố kiện toàn bộ phận làm công tác tôn giáo ở UBND và cán bộ tham
mưu công tác tôn giáo ở Ban Dân vận quận, huyện ủy.
Qua theo dõi công tác tôn giáo các quận, huyện, thị xã đến tháng
9/2014 có 30/30 UBND các quận, huyện cử cán bộ chuyên trách tôn giáo
thuộc Phòng Nội vụ quận, huyện, thị xã; đồng thời, ở Ban Dân vận các quận,
huyện có đồng chí kiêm nhiệm trực tiếp tham mưu cho cấp ủy đảng về công
67
tác tôn giáo, tuy không có điều kiện để bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi
công tác tôn giáo nhưng vẫn thường xuyên theo dõi hoạt động tôn giáo qua
kênh Mặt trận, công an để phản ảnh tham mưu với cấp uỷ Đảng.
Như vậy là các cấp uỷ Đảng, Chính quyền chưa quan tâm đúng mức,
cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được đào tạo cơ bản,việc xử lý các vụ việc
tôn giáo còn lúng túng.
Căn cứ thực tế trên cho thấy các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Mặt trận
và các đoàn thể chưa đánh giá hết vai trò, tầm quan trọng trong công tác chỉ
đạo và quản lý đối với công tác tôn giáo. Kinh phí dành cho công tác tôn giáo,
công tác vận động quần chúng tín đồ còn quá hạn hẹp, chính sách tranh thủ
cốt cán trong tín đồ, chức sắc và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo hầu
như chưa được quan tâm của cấp uỷ, chính quyền các cấp.
Những vần đề trên cần sớm được khắc phục vì công tác tôn giáo vừa
mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài.
* Công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên trong những người có đạo
Xây dựng Đảng, phát triển đảng viên vùng có đông tín đồ các tôn giáo
nhất là đạo Công giáo và Tin lành, chính là một trong những công tác quan
trọng xây dựng lực lượng chính trị, được đảng ta quan tâm ngay từ thời kỳ
cách mạng còn trong trứng nước. Trước những năm 1990 toàn Thành phố chỉ
có 97 đảng viên là người có đạo. Sau khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị
số đảng viên là người có đạo tăng lên 161 người trong đó 151 đảng viên là tín
đồ đạo Công giáo, 9 đảng viên là người theo đạo Cao Đài, 1 đảng viên là
người theo đạo Tin lành. Đến tháng 9/2004, số Đảng viên là tín đồ các tôn
giáo đã tăng lên 215 đồng chí, trong đó:
- Đạo Công giáo: Có 133 đảng viên.
- Đạo Phật: Có 80 đồng chí đảng viên.
- Đạo Tin lành: Có 02 đồng chí là đảng viên.
68
Nhìn chung, số đảng viên có đạo trong những năm gần đây so với trước
có tăng, đa số đảng viên các tôn giáo vẫn giữ được phẩm chất đạo đức, phát
huy được tác dụng, nhưng tỷ lệ so với số lượng tín đồ các tôn giáo còn quá
thấp nhất là đạo Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Số đảng viên là người có
đạo ít được bồi dưỡng về quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về công
tác tôn giáo lên việc phát huy tác dụng còn có mặt hạn chế. Một bộ phận có
biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng nên khi trong vùng có đông đồng bào
các tôn giáo có vấn đê thì hầu như không nắm bắt, phát hiện kịp thời và chưa có cơ sở vững chắc để ta đấu tranh với những hoạt động tôn giáo trái pháp luật.9
2.2.2. Công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của hệ thống
dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị cơ sở
* Tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và nhà nước trong đó
có chính sách tôn giáo cho cán bộ, hội viên và quần chúng nhân dân các tôn giáo.
Xác định công tác tuyên truyền giáo dục đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ và đồng bào tín đồ các tôn giáo có
vị trí rất quan trọng. Nên từ năm 1997 đến nay, hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị từ Thành phố đến cơ sở hàng năm đều mở các lớp
học tập bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ phối hợp với trường đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong. Riêng Thành phố từ năm 2009 đến năm 2013, mỗi năm mở 15 - 20
lớp cho cán bộ làm công tác tôn giáo, chức sắc, chức việc tôn giáo các cấp từ
phường, xã đến quận, huyện, Thành phố. Các quận, huyện, thị xã cũng đã phối
hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị tổ chức tập huấn cho cán bộ từ chi hội,
chi đoàn trở lên. Sau các đợt tập huấn do Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể tổ
chức, các cơ sở xã, phường đã có kế hoạch triển khai xuống tận chi đoàn, chi
9 Theo Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kz đổi mới (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội
hội. Các đợt bồi dưỡng báo cáo viên đã kết hợp lồng ghép giới thiệu về mặt nội
69
dung này. Do thường xuyên tổ chức tập huấn về công tác tôn giáo đến tận hội
viên lên hầu hết cán bộ, hội viên của Mặt trận và các đoàn thể đã tham gia vận
động tín đồ các tôn giáo khá hiệu quả góp phần tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, đóng góp vào công cuộc đổi
mới phát triển của Thủ đô, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những thành tựu đạt được trong công tác tuyên truyền vận động chức
sắc, tín đồ là hết sức cơ bản. Song, thực tế cho thấy công tác này vẫn còn
nhiều hạn chế. Hạn chế trước hết là đội ngũ làm công tác vận động quần
chúng trong đó có quần chúng tín đồ các tôn giáo, nhiều đồng chí chưa được
trang bị đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước đối
với các tôn giáo. Nội dung tuyên truyền giáo dục quần chúng tín đồ vẫn còn
chung chung chưa tính đến tính đặc thù riêng biệt của từng tôn giáo, từng đối
tượng. Cán bộ được phân công làm công tác vận động quần chúng tín đồ các
tôn giáo ít có điều kiện hiểu biết về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của các tôn giáo.
Vì vậy, rất ngại khi tiếp xúc với chức sắc, nhất là chức sắc Công giáo, Tin lành.
* Vận động đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào
cách mạng, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng đời sống văn hoá
mới khu dân cư
Vận động tín đồ các tôn giáo gắn bó đạo đời, giúp đồng bào nâng cao
mọi mặt, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của Thủ đô là công tác
hết sức quan trọng. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ
Đảng, việc thực hiện của các cấp chính quyền, mặt trận, đoàn thẻ, công tác
vận động tín đồ các tôn giáo thu được những thành tựu đáng kể. Đồng bào có
đạo hoà nhập cùng cộng đồng dân cư, không phân biệt lương giáo cùng nhau
phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đề ra. Phong trào thi đua
"Kính chúa - yêu nước" của tín đồ Công giáo, phong trào "Phụng đạo - yêu
nước" của tín đồ Phật giáo và phong trào thi đua của các tôn giáo khác, được
70
lồng ghép vào các phong trào cách mạng chung do Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể phát động đã đem lại hiệu quả thiết thực. Cuộc vận động "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư" do Mặt trận Tổ quốc
và chính quyền phối hợp phát động với nội dung toàn diện, thiết thực và cách
làm phù hợp hướng về cơ sở đã thu hút được nhiều lực lượng, được đông đảo
nhân dân kể cả quần chúng có đạo tham gia. Những kết quả rõ nét bước đầu
thu được là việc đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, các hoạt động nhân
đạo, từ thiện; phòng chống tệ nạn xã hội; giữ gìn trật tự an toàn ở khu dân cư;
thực hiện cuộc vận động xanh, sạch, đẹp; an toàn kỷ cương, văn minh đô
thị… các hoạt động giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, chăm lo sức
khoẻ, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc do Hội
phụ nữ phát động đã được đông đảo phụ nữ có đạo nhận thấy là bổ ích, thiết
thực và động viên nhau cùng tham gia tích cực. Hội nông dân với phong trào
sản xuất giỏi đã giúp cho đồng bào có đạo tính toán cách làm ăn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, tăng giá trị trên
đất canh tác.
* Công tác vận động chức sắc
Chức sắc tôn giáo là những người có vai trò, uy tín và ảnh hưởng rất
lớn trong quần chúng. Đối với tín đồ Phật giáo thì sư là thầy dạy đạo, đối với
đạo Công giáo, linh mục là người thay mặt cho cha dẫn dắt bày chiên "ý cha
là ý chúa". Muốn làm tốt công tác vận động quần chúng tín đồ điều trước tiên
phải tranh thủ được hàng ngũ chức sắc, vì vậy công tác vận động chức sắc có
quan hệ mật thiết với công tác vận động tín đồ.
Những năm qua, Mặt trận tổ quốc đã phối hợp với hệ thống dân vận và
chính quyền các cấp, bằng nhiều hình thức khác nhau gần gũi tiếp xúc với
chức sắc các tôn giáo nhằm vừa kết hợp nắm bắt tâm tư nguyện vọng của
chức sắc cũng như của giáo hội các tôn giáo, vừa kết hợp tuyên truyền, giải
71
thích các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với
tôn giáo; gắn bó tôn giáo với nhiệm vụ chung của đất nước và Thủ đô, qua đó
làm cho hoạt động của tôn giáo gắn đạo với đời, đồng hành với dân tộc.
Trong các dịp lễ, tết dân tộc, lễ trọng của các tôn giáo, dân vận, mặt
trận, chính quyền các cấp đến thăm hỏi động viên chúc mừng. Nhiều chức sắc
khi có khó khăn, ốm đau hoặc qua đời đều được chính quyền, mặt trận, dân
vận giúp đỡ tổ chức thăm hỏi, phùng viếng. Từ những việc làm trên đã tác
động rất lớn tới tín đồ. Nhân dịp Thủ đô và đất nước có sự kiện quan trọng, hệ
thống dân vận, mặt trận các cấp đã phối hợp với chính quyền tổ chức gặp mặt
thân mật, thẳng thắn trao đổi ý kiến vì vậy phần lớn những "nỗi niềm" của
chức sắc được giải toả, chắc sắc nhận rõ ý thức công dân, thấy được trách
nhiệm của mình với Thủ đô. Việc làm trên còn làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn
nhau, xóa bỏ định kiến, mặc cảm, giữa tôn giáo với Đảng, chính quyền, giữa
tôn giáo với nhau. Đặc biệt giúp người đứng đầu giáo hội thấy được thiện chí
của chính quyền, từng bước xoá dần sự khép kín trong trong quan hệ, dần dần
có sự giao lưu cởi mở với Đảng và nhà nước.
Công tác vận động chức sắc dưới góc độ an ninh trong những năm qua
đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Lực lượng an ninh đã nhận rõ chức
sắc các tôn giáo là bộ phận quần chúng "đặc biệt". Do vậy phương châm công
tác là "tranh thủ giáo sỹ, cải tạo giáo hội, nắm quần chúng", trước hết với số
chức sắc có những hoạt động vi phạm, lấn lướt, tư tưởng lừng chừng, công tác
an ninh có kế hoạch phân hoá, cô lập vô hiệu hoá hoạt động xấu, sau đó tác
động dần dần, tranh thủ lôi kéo họ.
Với Công giáo: Công tác an ninh tranh thủ tất cả các giáo sỹ, thường
xuyên gặp gỡ, hướng dẫn, uốn nắn họ thực hiện các quy định của Nhà nước
về tôn giáo. Số có hoạt động vi phạm, kịp thời phát hiện, đấu tranh, nhắc nhở
không để gây ảnh hưởng đến việc tranh thủ số giáo sỹ khác.
72
Với đạo Tin lành: Công tác an ninh tranh thủ số đứng đầu, sử dụng số
này tác động, cảm hoá số có hoạt động vi phạm, nhóm đối tượng đặc biệt thì
đấu tranh, cô lập.
Với Phật giáo: Nhận rõ vai trò, vị trí của chức sắc cao cấp, công tác an
ninh hết sức tranh thủ họ, thông qua số chức sắc có uy tín, cảm hoá tác động
số có vi phạm, mâu thuẫn, không để tình hình phức tạp thêm.
Tuy nhiên, công tác tranh thủ giáo sỹ vẫn còn bộc lộ một số thiếu sót sau:
- Việc tranh thủ giáo sỹ thường xuyên chủ yếu ở góc độ an ninh, mặt
trận và chính quyền, chỉ gặp gỡ nhân các ngày lễ trọng của các tôn giáo lên
rất ít có thời gian tiếp xúc, tranh thủ, cảm hoá.
- Cán bộ được giao trách nhiệm trực tiếp, tiếp xúc với chức sắc nhìn
chung chưa đủ. Khả năng, trình độ để tranh thủ cảm hoá hàng ngũ chức sắc,
cá biệt có những đồng chí cán bộ khi phân công thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể về chức sắc thì né tránh ngại gặp gỡ trao đổi.
Đối với Phật giáo:
Dưới sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền và mặt trận các cấp đã
quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho Ban Trị sự Phật giáo các cấp hoạt động.
Qua các kỳ đại hội Phật giáo, chính quyền, mặt trận đã chú ý kiện toàn Ban trị
sự Phật giáo Thành phố, Ban Trị sự phật giáo các quận, huyện về nhân sự của
các ban, ngoài các vị hoà thượng, cao tăng, các ni trưởng có uy tín trong hàng
giáo phẩm tham gia vào ban lãnh đạo, các tăng ni trẻ tuổi có năng lực và đạo
hạnh cũng được bổ sung đáng kể.
Trong nhiều năm nay phong trào phật giáo Thủ đô vẫn giữ được truyền
thống "Phụng đạo - yêu nước", không để kẻ xấu lợi dụng, kích động. Một số
sư thuộc phái Huyền Quang ở miền Nam đã có những hoạt động chia rẽ sự
thống nhất trong giáo hội phật giáo, vu cáo nhà nước ta đàn áp Phật giáo, có ý
định lôi kéo tăng ni, phật tử Hà Nội. Nhưng phật giáo Hà Nội vẫn vững vàng
73
lòng tin theo Đảng, luôn luôn cảnh giác không để kẻ xấu lợi dụng. Thiền sư
Thích Nhất Hạnh sau nhiều lần về nước đã có những phát ngôn thiếu tính xây
dựng về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhận thấy rõ thái độ
này, tăng, ni Thủ đô kiên quyết tẩy chay hoạt động của tăng thân Làng Mai
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, tổ chức Ban Trị sự Giáo hội thành phố và Ban Trị sự các
quận, huyện đang bộc lộ những vấn đề cần quan tâm.
Hiện nay có hiện tượng một bộ phận trong Ban trị sự thành phố và Ban
Trị sự các quận, huyện biểu hiện cơ hội, ích kỷ, gây bè, kéo cánh, chia rẽ nội
bộ Giáo hội thành các phe Hà Nội và Hà Tây cũ, nếu không có sự uốn nắn kịp
thời rất dễ để kẻ xấu lợi dụng, mặt khác, ở một số quận huyện lúng túng về
nhân sự, người đứng đầu không đủ tài năng để điều hành công việc, nhất là tại
một số quận, huyện thực hiện chủ trương của Ban Trị sự Thành phố suy cử
các vị tăng làm Trưởng Ban Trị sự các quận, huyện.
Trong việc tu, sửa chữa chùa cảnh và chi phí cho một số hoạt động lớn
ở các chùa có sự đầu tư của Phật giáo nước ngoài biểu hiện trên rất dễ dẫn
đến việc ly khai giáo hội. Trong khi đó, xu hướng quay về điều hành Phật sự
theo sơn môn, pháp phái làm cho vai trò của Thành hội và Ban Trị sự quận,
huyện giảm sút là nguy cơ có thật, cần hết sức chú ý.
Đối với Uỷ ban Đoàn kết Công giáo:
Hiện nay, Hà Nội vẫn duy trì được hoạt động của Uỷ ban đoàn kết công
giáo. Hiện tại Uỷ ban đoàn kết công giáo Thủ đô có 124 uỷ viên, Ban Thường
trực có 9 vị, trong đó có 01 linh mục, 08 vị còn lại là những giáo dân trí thức
tiêu biểu trong hội đồng các giáo xứ (ban hành giáo xứ họ, đạo). Ở các quận,
huyện, thị xã đều thành lập Ban đại diện Đoàn kết Công giáo, dưới có Tổ
Đoàn kết Công giáo hàng năm đều tổ chức tổng kết đánh giá tình hình thực
hiện nhiệm vụ đề ra phương hướng hoạt động cho năm sau. Mặc dù khó khăn
74
về cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí nhưng Uỷ ban Đoàn kết Công giáo
vẫn có những đóng góp thiết thực vào phong trào cách mạng của Thành phố,
tích cực các chương trình công tác của mặt trận, đẩy mạnh phong trào thi đua
"Kính chúa - yêu nước", động viên được đông đảo đồng bào Công giáo hăng
hái thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương; phản ánh tâm tư
nguyện vọng của bà con giáo dân với đảng và nhà nước thông qua mặt trận
các cấp; tổ chức tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước, nhất là chính sách tôn giáo để bàn con tín đồ công giáo biết
và thực hiện.
Hiện nay, Uỷ ban đoàn kết công giáo còn có những khó khăn cần được
tháo gỡ.
- Phong trào chưa được tổ chức thường xuyên, các Tổ Đoàn kết Công
giáo hoạt động chưa đồng đều, nhiều nơi không phát huy được tác dụng.
- Đội ngũ cán bộ cốt cán của Uỷ ban còn mỏng, vai trò hạn chế. Uỷ ban
luôn gặp khó khăn về kinh phí, phương tiện hoạt động, Mặt trận theo dõi giúp
đỡ Uỷ ban có lúc còn chưa được thường xuyên. Bên cạnh đó, số lượng thành
viên Ủy ban Đoàn kết các cấp phần lớn là những vị cao niên, nếu có lợi thế về
kinh nghiệm, tuổi tác thì lại gặp khó khăn trong việc đi lại, sôi nổi hoạt động
vì lý do sức khỏe, năng lực.
- Ủy ban Đoàn kết Công giáo thường gặp sự tẩy chay của các linh mục,
cá biệt có nơi linh mục còn không cho dự lễ nhà thờ, dọa rút phép thông công
đối với những người tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo các cấp.
* Công tác xây dựng chi đoàn, chi hội, xây dựng lực lượng cốt cán của
Mặt trận và các đoàn thể.
Công tác chăm lo xây dựng chi đoàn, chi hội vùng có đông đồng bào các
tôn giáo đặc biệt là đạo Công giáo và Tin lành có vai trò hết sức quan trọng
nhằm thu hút đông đảo quần chúng tin đồ tham gia vào hoạt động của các đoàn
75
thể. Trong mấy năm gần đây công tác xây dựng chi đoàn, chi hội vững mạnh
vùng có đông đồng bào Công giáo, Tin lành được các đoàn thể chính trị quan
tâm đẩy mạnh, số chi đoàn chi hội được công nhận vững mạnh ngày càng tăng
thu hút trên 30% số tín đồ vào tham gia hoạt động với tổ chức đoàn, tổ chức
hội (từ năm 1997 trở về trước chỉ thu hút tập hợp khoảng trên 20%) có thể nói
đây là sự cố gắng, tiến bộ đáng ghi nhận. Trong đó Hội phụ nữ, Hội nông dân,
Hội người cao tuổi có tỷ lệ thu hút tập hợp cao hơn trên 50%.
Các đoàn thể quần chúng đã quan tâm xây dựng đội ngũ những người
tích cực trong các tôn giáo làm nòng cốt, để làm tốt công tác tuyên truyền vận
động đông đồng bào tín đồ tôn giáo làm theo, không ngừng nâng cao đời sống
và tiến bộ, trưởng thành của đồng bào có đạo.
Mặt yếu của các đoàn thể trong công tác xây dựng chi đoàn, chi hội và
lực lượng nòng cốt qua nắm bắt, tìm hiểu ở cơ sở thường được đề cập như sau:
- Đoàn thể chưa chăm lo được lực lượng hội viên, đoàn viên tích cực,
cốt cán trong tổ chức chỉ tiến hành vận động chung, chưa chăm lo bồi dưỡng
riêng cán bộ chi hội, chi đoàn về các mặt để có đội ngũ công tác giỏi trong
đồng bào có đạo.
- Hiện tượng hội đoàn tôn giáo phát triển, hoạt động nề nếp, hiệu quả,
nắm chắc từng hội viên đang là vấn đề đỏi hỏi đoàn thể và mặt trận phải đổi
mới nội dung hoạt động, khắc phục tình trạng hoạt động sơ cứng, hành chính
không sâu sát từng con người như hiện nay.
- Đồng thời nhìn vào cơ sở, cũng thấy rõ điều kiện khách quan đang hạn
chế các hoạt động của mặt trận và đoàn thể. Trong khi nhà thờ, nhà chùa, nhà
nguyện đều là các điểm văn hoá khang trang. Có đầy đủ các điều kiện trang thiết
bị hoạt động, có người hàng tháng chăm lo, gìn giữ; thì các điểm văn hoá, câu
lạc bộ, sân vận động ở cơ sở vùng có đông đồng bào tôn giáo v.v… cơ sở chật
trội có nơi không có hoắc có thì nghèo nàn, ít sức hấp dẫn. Thậm trí có những
76
nơi không có chỗ cho hội viên, đoàn viên hội họp. Nếu không được tính toán kỹ
trong quy hoạch đô thị và vùng ngoại thành thì các cơ sở văn hoá không thể đáp
ứng được với yêu cầu của nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
* Đối với đội ngũ chức sắc các tôn giáo (thuyên chuyển, bổ nhiệm,…)
Các tổ chức tôn giáo trên địa bàn thành phố thường tiến hành đại hội
theo nhiệm kỳ khoảng 4 – 5 năm/lần, Giáo hội Công giáo tiến hành bổ nhiệm,
luân chuyển, nơi hoạt động tôn giáo theo nhiệm kỳ 5 năm đối với các linh
mục trong giáo phận (02 đợt); trao đổi về việc thuyên chuyển, bổ nhiệm linh
mục có hộ khẩu thường trú tại các địa phương; Giáo hội Phật giáo thường
xuyên bổ nhiệm chức sắc Phật giáo trụ trì, hoặc kiêm nhiệm trụ trì các cơ sở,
tự viện trên địa bàn, Tin lành trong thời gian gần đây tăng cường bổ sung các
chức sắc về các địa bàn trống mục sư hoặc cải thiện tình hình kiêm nhiệm quá
nhiều địa bàn. Việc thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của các chức sắc,
nhà tu hành trên thành phố tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước của UBND cấp huyện đối với hoạt động tôn
giáo đã được cụ thể tại Quyết định số 1412/QĐ-UBND ngày 30/3/2010 của
UBND Thành phố Hà Nội về phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính,
thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện; theo đó, tổ chức tôn giáo
có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến UBND cấp huyện nơi đi và có hồ
sơ đăng ký với UBND các quận, huyện nơi đến.
Thành phố luôn tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo tiến hành các hoạt
động liên quan đến chức sắc như: năm 2012, Tòa giám mục Hưng Hóa đăng ký
01 ứng sinh đi tu học tại Hoa Kỳ. Tòa Tổng giám mục Hà Nội thuyên chuyển
nơi hoạt động tôn giáo đối với 53 linh mục trong giáo phận (trong đó Hà Nội
có 33 linh mục được luân chuyển đến mục vụ tại các xứ, họ đạo trên địa bàn
Thành phố); bổ nhiệm mới 13 linh mục (trong đó Hà Nội có 02 linh mục). Tòa
77
giám mục Hưng Hóa luân chuyển hoạt động tôn giáo đối với 09 linh mục
(trong đó Hà Nội có 03 linh mục); bổ nhiệm mới 07 linh mục (trong đó Hà Nội
có 02 linh mục). Tòa giám mục Bắc Ninh bổ nhiệm mới 04 linh mục (trong đó
Hà Nội có 01 linh mục).
Trong năm 2013, Phật giáo cử 15 tu sĩ đi du học các nước Mỹ, Pháp, Ấn
Độ, Đài Loan… phong chức, bổ nhiệm, kiêm nhiệm cho 32 chức sắc tôn giáo
đủ điều kiện trên địa bàn Hà Nội.
* Đối với vấn đề đào tạo của các tôn giáo
Thành phố luôn tạo điều kiện để các tôn giáo tiến hành các hoạt động
liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng chức sắc như: Đồng ý để Tòa Tổng giám mục
Hà Nội xây dựng cơ sở 2 Đại chủng viện Hà Nội tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ
Liêm; hàng năm đều tạo điều kiện để Đại chủng viện chiêu sinh, xem xét để
các ứng sinh trên địa bàn nhập học thuận lợi; đi du học, bồi dưỡng thần học tại
nước ngoài, tĩnh tâm,....Hiện nay, Hà Nội có 10 linh mục đang đi du học (trong
đó: Pháp 04 linh mục; Italia 04 linh mục; Mỹ 02 linh mục); Tạo điều kiện để
Học viện Phật giáo Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội, Trường Trung
cấp Phật học Hà Nội tổ chức tuyển tăng, ni sinh theo học các khóa lấy bằng cử
nhân, trung cấp Phật học. Mỗi năm đến dịp An cư kiết hạ, chính quyền các cấp
luôn tạo điều kiện để Giáo hội Phật giáo thành phố Hà Nội tổ chức khóa an cư
cho các tăng, ni trên địa bàn tại 15 trường hạ, phối hợp với các cơ quan liên
quan như dân vận, mặt trận tổ chức các lớp phổ biến, tuyên truyền pháp luật để
kịp thời cung cấp thông tin về pháp luật, hướng dẫn về thủ tục cho các tăng, ni
trên địa bàn trong dịp an cư; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) được tạo
điều kiện để thành lập trường Thánh kinh Thần học Hà Nội tại số 2 Ngõ Trạm.
* Đối với vấn đề xây, sửa, cải tạo cơ sở thờ tự các tôn giáo:
Hà Nội có hơn 400 cơ sở thờ tự Công giáo (trong đó có 409 nhà thờ,
nhà nguyện và đền thánh), 12 tu viện; 2.059 cở sở tự viện Phật giáo, 04 cơ sở
78
thờ tự của đạo Tin lành, 03 cơ sở họ đạo Cao Đài và 01 thánh đường Hồi
giáo. Với số lượng cơ sở thờ tự như vậy, công tác quản lý liên quan đến xây
dựng, sửa chữa, cải tạo rất nặng nề, phức tạp.
Việc xây, sửa, cải tạo cơ sở thờ tự của các tôn giáo được thực hiện theo
quy định của pháp luật. Việc cấp Giấy phép xây dựng theo thẩm quyền đã được
UBND Thành phố giao tại điều 1 (khoản 2), điều 8 (khoản 4) Quy định chi tiết
một số nội dung về cấp giấy phép xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội
(Quyết định số 59/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND Thành phố
về việc quy định chi tiết một số nội dung về cấp giấy phép xây dựng trên địa
bàn thành phố Hà Nội); theo đó giao UBND cấp huyện xem xét cấp Giấy phép
xây dựng các công trình tôn giáo (chưa xếp hạng di tích).
Trong năm 2013, thành phố đã xem xét, tạo điều kiện cho giáo hội xây
dựng mới, nâng cấp, sửa chữa trên 75 nhà thờ, nhà nguyện, chùa; cấp đất mới
để xây dựng 03 nhà thờ họ giáo nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của
chức sắc, giáo dân.
Tuy vậy, việc quản lý cơ sở thờ tự của các tôn giáo luôn là vấn đề nóng
bỏng, đòi hỏi phải xử lý mềm dẻo, có tính có lý, nếu không dễ trở thành điểm
nóng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên đó là:
+ Việc xây mới, sửa chữa cơ sở tôn giáo nhiều nơi làm tuỳ tiện, không
xin phép chính quyền. Trong xây dựng cơ sở tôn giáo nhiều nơi có ý định làm
nhà tầng kiên cố, cá biệt có nơi xây dựng chùa theo lối khất sỹ ở miền Nam,
không theo lối kiến trúc phật giáo truyền thống, số nơi kể cả đạo Phật và
Công giáo đua nhau dựng tượng ngoài khuôn viên.
+ Việc quản lý di tích đã được xếp hạng chưa phân định rõ chức năng,
quyền hạn của ban quản lý di tích với các chức sắc trụ trì. Vấn đề thường nảy
sinh từ việc quản lý hòm công đức.
79
+ Việc tranh chấp chùa cảnh của phật giáo vì mục đích kinh tế xảy ra ở
không ít nơi đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Phật giáo và quản lý
nhà nước nơi thờ tự.
+ Việc đòi lại các cơ sở thờ tự đã được giáo hội hiến nhượng cho nhà
nước hoặc đang sử dụng vào mục đích công cộng xảy ra ở nhiều nơi đang là
những vấn đề phức tạp khó giải quyết.
* Đối với tổ chức, hoạt động của các dòng tu Công giáo:
Thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22/2005/NĐ-
CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ đã có kế hoạch số
11/TGCP-CG ngày 10/5/2006 về việc triển khai đăng ký dòng tu, tu viện và
các hình thức tu hành tập thể khác của đạo Công giáo. Triển khai kề hoạch số
11/TGCP-CG ngày 10/5/2006, Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội, Ban Tôn
giáo và Dân tộc tỉnh Hà Tây (cũ) đã có văn bản gửi Tòa Tổng giám mục Hà
Nội, Tòa giám mục Hưng Hóa, Tòa giám mục Bắc Ninh hướng dẫn các dòng
tu, tu viện trong giáo phận làm hồ sơ đăng ký theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo và Nghị định 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ.
Hiện nay ở Hà Nội có 23 dòng tu đạo Công giáo với gần 100 cơ sở, tu
viện; trong đó có 04 dòng tu, với 12 cơ sở, tu viện hoạt động ổn định từ năm
1954 đến nay Còn lại 19 dòng tu với gần 100 tu viện và cơ sở hoạt động giáo
hội tự thành lập từ năm 2000 đến nay, không đăng ký với chính quyền. Trong
số 23 dòng tu của đạo Công giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ có Hội
dòng Mến thánh giá giáo phận Hưng Hóa gửi hồ sơ đăng ký hoạt động cho 05
cơ sở tu viện trực thuôc hội dòng.
Từ thực tế trên, vấn đề đạt ra trong công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động của dòng tu của đạo Công giáo là hết sức phức tạp liên quan đến
80
nhiều ngành nhiều cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Để giải quyết vấn đề trên cần tập
trung làm tốt một số nội dung sau:
- Tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát để nắm chắc tình hình tổ chức,
hoạt động cơ sở vật chất của các dòng tu, qua đó xây dựng hồ sơ từng dòng,
thường xuyên cập nhật tình hình giúp cho công tác quản lý chủ động, kịp thời.
Tăng cường công tác tập huấn, tuyên truyền chính sách, pháp luật về tôn giáo
cho các tu sĩ.
- Thống nhất với các ngành, địa phương có liên quan để có biện pháp
giải quyết cụ thể.
- Gặp gỡ trao đổi với người đứng đầu tổ chức tôn giáo (Tổng giám mục
Hà Nội, Giám mục giáo phận Hưng Hóa, Giám mục giáo phận Bắc Ninh) và
người đứng đầu các dòng tu có cơ sở hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội
để hướng dẫn họ thực hiện việc đăng ký hoạt động theo quy định của pháp
luật.
Quá trình triển khai cần thận trọng, trước mắt ưu tiên hướng dẫn các
dòng tu có nguồn gốc tại Việt Nam thuộc thẩm quyền của Giám mục giáo
phận, triển khai trước để rút kinh nghiệm.
* Đối với vấn đề sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự:
Hàng năm các tổ chức tôn giáo hợp pháp đăng ký chương trình hoạt
động tôn giáo với chính quyền các cấp và được chính quyền các cấp xem xét
tạo điều kiện để sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường tại nơi thờ tự. Những
hoạt động tôn giáo thuần túy được bảo đảm tự do hành đạo, bên cạnh đó có
những hoạt động trái phép với tập quán tôn giáo đôi khi cũng diễn ra cần phải
được nhắc nhở ngăn chặn hoặc giải quyết bằng phương pháp hành chính.
Ngoài những sinh hoạt thông thường, c òn có những hoạt động bất thường đó
là những hoạt động không có trong chương trình đăng ký hàng năm, hoặc có
81
đăng ký nhưng quy mô lớn hơn so với thường lệ thì phải thông báo với chính
quyền, khi chính quyền cho phép mới tiến hành.
Như vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước về tôn giáo phải làm việc với
các tôn giáo để xây dựng nội dung hoạt động thông thường của sinh hoạt tôn
giáo; phải nắm được các nội dung, phạm vi giữa các loại hình sinh hoạt tôn
giáo thông thường và các sinh hoạt biểu hiện xa lạ với tín ngưỡng, văn hoá.
Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng ký hàng năm và thực
hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
Những hoạt động tôn giáo vượt ra khỏi khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa
đang ký hàng năm phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Theo chương trình mục vụ hàng năm, các xứ, họ đạo Công giáo đã tổ
chức các Thánh lễ như: Lễ tro nhân dịp mùa chay, mừng lễ Thánh Giuse; Lễ
lá; đêm canh thức vượt qua, Truyền Dầu, tiệc ly, mừng Chúa phục sinh, tháng
dâng hoa kính Đức mẹ, lễ mừng Giáng sinh…; Phật giáo với nhiều hoạt động
như lễ Phật đản, lễ Vu lan, lễ tạ pháp… tình hình diễn ra bình thường, thuần
túy tôn giáo. Đối với hoạt động tôn giáo diễn ra ngoài chương trình đăng ký
hàng năm ngoài cơ sở thờ tự; căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương để
cho phép tổ chức lễ với quy mô, hình thức đúng nội dung, chương trình như
đơn đề nghị, bảo đảm an ninh trật tự, vệ sinh mội trường, an toàn thực phẩm,
phòng chống cháy nổ, không để ảnh hưởng đến các khu vực xung quanh.
Tuy nhiên, vấn đề là trong quá trình thực hiện, một số chức sắc các tôn giáo
không đăng ký hoạt động ngoài chương trình như Tòa Tổng giám mục Hà Nội không
đăng ký lễ phong chức linh mục tại Nhà thờ Lớn cho các chủng sinh đã tốt nghiệp
chủng viện hoặc cố tình thông báo việc tổ chức hoạt động Đại hội giới trẻ năm 2013
tại giáo xứ Hà Đông quá muộn; nhà sư Thích Chân Quang tổ chức hướng dẫn sinh
hoạt tôn giáo cho các cụ thuộc Hội người cao tuổi Việt Nam tại Cung Văn hóa Hà
Nội nhưng núp dưới danh nghĩa giới thiệu sách; nhóm Tin lành quốc tế do ông
82
Bloomberg đứng đầu tổ chức sinh hoạt tôn giáo tại Tòa nhà Detech, số 17 Tôn Thất
Thuyết cho 450 người nước ngoài… Những vi phạm pháp luật trên chỉ là điển hình
trong nhiều vụ việc sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự hoặc ngoài chương trình
đăng ký nhưng không được sự chấp thuận của chính quyền địa phương.
* Đối lễ hội tôn giáo trên địa bàn thành phố:
Lễ hội của tôn giáo thường giới hạn trong phạm vi cơ sở thờ tự, thường
bao gồm 2 phần, phần lễ và phần hội, trong các lễ hội tôn giáo thì rất nhiều lễ
hội tôn giáo đã trở nên phổ biến rộng khắp cho cả những người không theo
tôn giáo như lễ Vu lan của Phật giáo, lễ Giáng sinh của Công giáo, Tin lành.
Nhiều cơ sở thờ tự, các lễ hội kỷ niệm những danh nhân, người có công với
đất nước như lễ hội Hai Bà Trưng tại chùa Vua (quận Hai Bà Trưng), lễ hội
Thánh Gióng (chùa Non, Sóc Sơn)… được tổ chức quy mô, thu hút rất nhiều
tín đồ, Phật tử. Nghiên cứu lễ hội tôn giáo, chúng ta sẽ thu được những kinh
nghiệm quý báu trong công tác tổ chức và ý thức trách nhiệm của từng thành
viên trong lễ hội.
Những năm qua, công tác quản lý và tổ chức lễ hội tôn giáo có nhiều
chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của giáo dân công giáo. Thành
phố có văn bản hướng dẫn tổ chức, quản lý lễ hội tôn giáo; tuy nhiên, thời
gian gần đây, việc tổ chức lễ hội đã và đang xuất hiện những biểu hiện tiêu
cực, phản cảm như mở rộng quy mô lễ hội một cách tràn lan; trách nhiệm của
người quản lý và ý thức của người tham gia lễ hội còn nhiều hạn chế, bất cập
dẫn đến thái độ và hành vi, ứng xử chưa văn hóa đối với một số lễ hội; các
hiện tượng tiêu cực như xâm phạm cảnh quan môi trường, an ninh trật tự
không đảm bảo... Thực trạng trên đang làm giảm đi giá trị chân thực vốn có
và làm sai lệch giá trị bản sắc văn hóa của nhiều lễ hội, gây bức xúc trong dư
luận xã hội.
83
Để chấn chỉnh tình trạng trên, đồng thời nâng cao công tác quản lý và tổ
chức lễ hội trong thời gian tới, các cơ sở tôn giáo khi tổ chức lễ hội phải chịu trách
nhiệm về nội dung, chương trình, công tác tổ chức, quy mô, cấp độ của lễ hội.
UBND các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những sai
phạm trong lĩnh vực tổ chức và quản lý lễ hội, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu
cực trong lễ hội. Ban tổ chức lễ hội phải chủ động bảo vệ cơ sở thờ tự, cảnh quan
môi trường, phòng chống cháy nổ, đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường,
có kế hoạch cụ thể trình các cấp có thẩm quyền để có sự chỉ đạo, tổ chức, kiểm tra
chặt chẽ...
* Đối với vấn đề chia tách, thành lập các tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ
chức trực thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo. Việc thành
lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải được sự chấp
thuận của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung
là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh); khi tổ chức tôn giáo có nguyện vọng các cơ
quan quản lý nhà nước về tôn giáo cần xem xét, tạo điều kiện cho họ thực hiện. Vấn
đề chia tách, thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc thường chỉ xuất hiện trong hoạt
động của đạo Công giáo và Tin lành.
Thời gian qua, đạo Công giáo ở Hà Nội đã gửi hồ sơ và được chính
quyền chấp thuận cho giáo phận Hưng Hóa thành lập mới 09 xứ tách ra từ 06
xứ; giáo phận Hà Nội thành lập mới 02 xứ tách ra từ 02 xứ (xứ Bái Đô tách ra
từ xứ Hoàng Nguyên, xứ Gò Cáo tách ra từ xứ Tân Hội).
Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đề nghị cấp con dấu cho các
chi hội thánh trực thuộc, một hình thức nâng cao vai trò và ảnh hưởng của các
hội thánh địa phương.
* Đối với hoạt động từ thiện, y tế, giáo dục của các tôn giáo:
84
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, qui định của pháp luật tại
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, UBND Thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện để
các tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo, y tế, giáo dục theo
đúng qui định của pháp luật, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, có sự
công bằng trong việc đối xử với các tôn giáo.
Đối với các cơ sở Công giáo tham gia hoạt động động từ thiện nhân
đạo, y tế, giáo dục, UBND Thành phố tạo điều kiện để khoá đào tạo kỹ năng
cơ bản để giáo dục và chăm sóc trẻ tự kỷ được tiến hành với sự tham gia của
164 học viên gồm 46 nữ tu của dòng Mến Thánh giá thuộc Hà Nội, Hải
Phòng, Bùi Chu, Hưng Hoá và dòng Phao Lô Hà Nội, số giáo viên của Trung
tâm Sao Mai, trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội là 30, còn lại là phụ huynh
có con em tự kỷ.
Luôn quan tâm chỉ đạo địa phương xem xét, tạo điều kiện để các tôn
giáo nói chung, đạo Công giáo nói riêng tham gia vào các hoạt động từ thiện,
y tế, giáo dục như: xem xét, tạo điều kiện thành lập Ủy ban Bác ái Xã hội –
Caritas của Giáo phận Hà Nội và giáo phận Hưng Hóa, cấp con dấu để Ủy
ban đi vào hoạt động đúng qui định pháp luật; xem xét để các Dòng tu nữ như
Dòng Mến Thánh giá, Dòng Phaolo tổ chức các lớp, nhóm trẻ tư thục; khám
chữa bệnh miễn phí hàng năm của Caritas các giáo phận trên địa bàn; đang
xem xét, chấp thuận để Tòa Tổng giám mục Hà Nội thành lập Trung tâm bảo
trợ xã hội nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật trên địa bàn Thành phố tại giáo xứ
Hoàng Nguyên, xã Tri Thủy, huyện Phú Xuyên,...
Đối với các cơ sở Phật giáo tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo, y tế,
giáo dục, chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm đến việc nuôi dưỡng
người già cô đơn, trẻ em không nơi nương tựa của các cơ sở Phật giáo, tránh
lặp lại tình trạng buông lỏng quản lý dẫn đến sự việc như tại chùa Bồ Đề thời
gian qua. Bên cạnh các cơ sở nuôi dưỡng như trên, Giáo hội Phật giáo Việt
85
Nam còn tích cực phát triển các phòng mạch Đông y, trung tâm cộng đồng
cho người nhiễm HIV và đặc biệt là tổ chức các đoàn Phật tử thăm, giúp đỡ,
ủng hộ đồng bào bị thiên tai trong nước.
* Đối với hoạt động quan hệ quốc tế của các tôn giáo và hoạt động tôn
giáo của người nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các chức sắc, nhân sỹ tôn giáo ở Thủ đô đã và đang mở rộng quan hệ
quốc tế nhằm tăng cường trao đổi thông tin, góp phần hiểu biết lẫn nhau, mở
rộng giao lưu vì giáo lý của các tôn giáo, thể hiện tình đồng đạo của những
người cùng chung đức tin và tinh thần yêu hoà bình, thiện chí hợp tác hữu
nghị của nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới vì lợi ích của
đất nước và của giáo hội, góp phần đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái,
xuyên tạc, vu cáo của các thế lực xấu thiếu thiện chí với Việt Nam; tranh thủ
được sự giúp đỡ đào tạo được đội ngũ tăng tài, giáo sĩ có trình độ cao.
- Công giáo: Thường xuyên có khoảng 300-400 tín đồ người nước ngoài
đang sinh sống, học tập, làm việc dài hạn trên địa bàn thành phố Hà Nội tham
gia sinh hoạt tôn giáo. Từ nhiều năm nay, được UBND Thành phố chấp thuận,
Tòa Tổng giám mục Hà Nội có thánh lễ hàng tuần (sáng thứ bảy, chủ nhật) cho
người nước ngoài bằng tiếng Anh, Pháp tại nhà thờ Cửa Bắc cho khoảng 200-
300 người nước ngoài thuộc các quốc tịch Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Italia, Braxin...; thánh lễ hàng tuần (sáng chủ nhật) cho khoảng 70 người Hàn
Quốc tại nhà nguyện Đức mẹ Phatima trong khuôn viên trụ sở Tòa Tổng giám
mục Hà Nội.
- Phật giáo: Là trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo của cả nước, Hà Nội
thường xuyên đón tiếp đoàn của các tổ chức Phật giáo quốc tế thăm, giao lưu,
hướng dẫn khóa tu...
86
+ Năm 2008, nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc Vesak, thành phố
Hà Nội đã đón tiếp hơn 2000 đại biểu Phật giáo quốc tế đến từ 73 quốc gia, vùng
lãnh thổ.
+ Từ năm 2008 đến năm 2012, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội đón nhiều đoàn Phật giáo quốc
tế đến thăm, giao lưu, truyền pháp như: Đoàn Phật giáo vương quốc Bhutan
hành lễ và thăm viếng tại chùa Quang Ân, huyện Thanh Trì và thăm một số
danh thắng tại Thủ đô Hà Nội; Đoàn Phật giáo Tây Tạng do Pháp vương
GyalWang Drukpa đời thứ XII và tăng đoàn truyền thừa Drukpa đến Hà Nội
thăm chùa Quang Ân, chùa Hương, chùa Thầy và làm lễ khai đàn cầu cho
quốc thái dân an, đại lễ cầu siêu, cầu nguyện hòa bình, phóng sinh và pháp
thoại; Mời và tiếp 05 phái đoàn Phật giáo các nước đến thăm, làm việc tại Việt
Nam trong đó có Hà Nội: Phái đoàn Phật giáo Ấn Độ do Pháp Vương Jim Pwa
làm trưởng đoàn sang thăm, giao lưu và tổ chức Lễ cầu nguyện hòa bình tại
chùa Quang Ân (huyện Thanh Trì); Tiếp Đoàn kiều bào tiêu biểu gồm 190
người từ 134 quốc gia trên thế giới do Ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng
Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước
ngoài dẫn đầu tới thăm trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Đoàn
Phật giáo Campuchia đến thăm và làm việc tại Trung ương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam và Học viện Phật giáo tại Sóc Sơn; Thượng tọa Dorji, quốc tịch
Bhutan sang thăm và giao lưu, trao đổi kinh nghiệm tu hành với Tăng Ni, Phật tử
chùa Quang Ân (xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì); Tăng đoàn Tu viện Namgyal
Dharamsala (Ấn Độ) đến thăm và dự lễ khai pháp tại chùa Vạn Niên, phường
Xuân La, quận Tây Hồ; đoàn Phật giáo Vương quốc Campuchia gồm 15
thành viên do Hòa thượng Đại Tăng thống HT. Tep Vong làm trưởng đoàn đã
có chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Trong thời gian ở Hà Nội,
đoàn tới thăm chùa Quán Sứ, Trụ sở T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vào
87
viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham quan danh lam thắng cảnh thủ đô và
Học viện Phật giáo Việt Nam tại Sóc Sơn, Pháp sư Thích Ngộ Thông (quốc
tịch Mỹ, Úc) giảng Phật pháp tại các chùa thuộc huyện Gia Lâm, Đông Anh,
Sóc Sơn...
+ Đại sứ của nhiều quốc gia có mối quan hệ quốc tế với Việt Nam thường
xuyên tham gia các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội như năm
2009, đại sứ Pakistan đến thăm Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại sứ Ấn Độ đến
dự lễ Phật đản Phật lịch 2556 - Dương lịch 2012, năm 2012, đại sứ quán Thái
Lan tổ chức hoạt động tôn giáo tại chùa Nam Thiên, làng Nội Phật, huyện Sóc
Sơn, ông Judd Birdsall-Văn phòng tự do tôn giáo quốc tế - Bộ ngoại giao Hoa
Kỳ đã tới thăm và làm việc tại Văn phòng I Trung ương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, ông Hoàng Chí Bằng - Trưởng đại diện Văn phòng Kinh tế - Văn
hóa Đài Bắc thuộc vùng lãnh thổ Đài Loan cùng phái đoàn đã đến thăm và
làm việc tại Học viện Phật giáo Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội, ...
- Một số điểm nhóm Tin lành thuộc các tổ chức, hệ phái chưa được công
nhận tư cách pháp nhân:
Điểm nhóm Tin lành Nhân chứng Giêhôva do ông Dương Ngọc Hồng
làm trưởng nhóm tại số 29C ngõ 236 Khương Đình, quận Thanh Xuân (đã được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt đạo Tin lành theo điểm nhóm) thường
xuyên tổ chức sinh hoạt tôn giáo có sự tham gia của tín đồ là người Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Canada...
Điểm nhóm Tin lành Mormon (Các thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu
Kitô) do ông Hoàng Văn Tùng làm trưởng nhóm thường xuyên có tín đồ là nhân
viên làm việc tại Đại sứ quán Hoa Kỳ sinh hoạt. Năm 2007, đoàn Giáo hội Các
Thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu Kytô do ông Robert Wayne Winegar,
Chủ tịch truyền giáo đặt tại Phnompenh, Campuchia, chịu trách nhiệm về các
hoạt động của Giáo hội tại khu vực Đông Nam Á đã được chấp thuận vào
88
thăm và tham dự một số thánh lễ tại điểm nhóm. Trong chuyến thăm và hoạt
động tôn giáo, ông R.W.Winegar cùng phái đoàn đã đến chào thăm và làm
việc với Ban Tôn giáo Thành phố và Sở Ngoại vụ, tại buổi làm việc, ông
R.W.Winegar đánh giá cao về trách nhiệm và xử lý của Thành phố đối với
hoạt động của tổ chức Tin lành Mormon trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Một số cá nhân, tổ chức Tin lành nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà
Nội tự phát hoạt động: Bên cạnh hoạt động tôn giáo của người nước ngoài được
thực hiện tại các cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo Việt Nam, xuất hiện một số
hoạt động của cá nhân, tổ chức quốc tế trên địa bàn thành phố Hà Nội như:
Tổ chức “Hội thánh Tin lành Hàn Quốc trên địa bàn thành phố Hà Nội”
có sự tham gia sinh hoạt của khoảng 600 người Hàn Quốc sinh sống, học tập,
làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ năm 1994, được UBND thành
phố Hà Nội chấp thuận, nhóm tín đồ này sinh hoạt tại cơ sở của Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Bắc) nhưng do số lượng đông, nhóm đã tự lập văn
phòng đại diện tại khu đô thị Trung Hòa – Nhân Chính, quận Thanh Xuân.
Sau đó, do nhu cầu sửa chữa, cải tạo cơ sở, Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Bắc) đã tạo điều kiện cho nhóm tín đồ Hàn Quốc do mục sư Paul
B.Han, người Hoa Kỳ, phụ trách được thuê nhà để tổ chức sinh hoạt tại xã
Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm.
Tổ chức Tin lành tín hữu quốc tế trên địa bàn thành phố Hà Nội (Hà
Nội International Fellowship) tự thành lập từ năm 1995, hiện do ông Jacob
Bloemberg, quốc tịch Hà Lan đại diện, có số lượng khoảng 450 tín đồ đến từ
38 quốc gia, vùng lãnh thổ, từng tổ chức sinh hoạt khách sạn Hà Nội Club,
Crown Plaza, Hà Nội Intercontinental, Bảo Sơn, Daewo, Asean... Năm 2012,
nhóm đã nhờ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đứng đơn đăng ký
hoạt động tôn giáo với Ban Tôn giáo Chính phủ nhưng không được chấp
thuận.
89
- Hồi giáo: Thứ 6 hàng tuần, tại thánh đường Al Noor số 12 phố Hàng
Lược, quận Hoàn Kiếm thường xuyên tổ chức Thánh lễ với sự tham gia của
khoảng 300 tín đồ là người nước ngoài đến từ các quốc gia có đạo Hồi (OIC).
Do tính chất tôn giáo, tại Thánh đường thường xuyên có hoạt động giảng
dạy tiếng Ả rập và kinh Coran cho người lớn và trẻ em là người nước ngoài
như năm 2007, ông Habibur Rahman, sinh năm 1965, quốc tịch Apganistan tổ
chức lớp học tiếng Arab và kinh Coran cho người lớn và trẻ em vào thứ 7 và
chủ nhật hàng tuần tại thánh đường Hồi giáo số 12 phố Hàng Lược, có 20
người nước ngoài là tín đồ Hồi giáo thường xuyên tham dự lớp học, chủ yếu
là con em của nhân viên các Đại sứ quán.
Ngoài ra, Ban Quản trị Thánh đường thường xuyên kết hợp với các Đại
sứ quán các nước Hồi giáo tổ chức đón tiếp các đoàn chức sắc Hồi giáo vào
Hà Nội tham gia giảng dạy, chủ trì lễ nghi tôn giáo như việc năm 2012, Bộ
Hồi giáo Ả-rập Xê-út cử Giáo sỹ Alsulaiman Ibrahim Nazal K quốc tịch Ả-
rập Xê-út sang hướng dẫn lễ trong tháng Ramadan (từ 20/7 đến 20/8/2012) tại
Thánh đường Hồi giáo, số 12 Hàng Lược.
Hiện nay, Ban Quản trị Thánh đường đang xúc tiến việc thành lập
Trung tâm đóng dấu chứng thực Halal (được phép) đối với các thực phẩm
xuất khẩu sang các quốc gia Hồi giáo và tiêu thụ trong nước.
Hoạt động quốc tế của cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài tại Việt
Nam dưới sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền Thành phố phần nào
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tin ngưỡng, tôn giáo chính đáng của người nước
ngoài sinh sống, cư trú, làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội, thúc đẩy sự
gắn bó, đoàn kết dân tộc và hợp tác hữu nghị giữa các tôn giáo tại Thủ đô với
tôn giáo quốc tế, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển Thủ đô và đất
nước. Sự quan tâm của lãnh đạo Thành ủy, UBND Thành phố đối với hoạt
động quốc tế của cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài trên địa bàn thành phố
90
Hà Nội cũng đồng thời thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần thúc đẩy hợp tác hữu nghị giữa Nhà nước và nhân dân ta với các quốc gia và dân tộc trên thế giới.10
* Các hoạt động khác của các tôn giáo Hà Nội:
Đối với các hoạt động khác như xuất nhập khẩu đồ thờ tự, kinh sách,
hội đoàn tôn giáo…, UBND Thành phố luôn chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành
Thành phố phối hợp cùng chính quyền địa phương xem xét, tạo điều kiện để
hoạt động của các tôn giáo diễn ra đúng qui định pháp luật hiện hành; ngăn
chặn kịp thời các hoạt động phát sinh, trái pháp luật gây ảnh hưởng đến tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2.2.4. Công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành đã chú trọng phát động quần chúng đẩy
mạnh phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc vùng đồng bào có đạo, có những điển
hình tốt như: phường Yên Sở (Hoàng Mai), phường Hàng Bông, Hàng Trống,
Trần Hưng Đạo (Hoàn Kiếm). Lực lượng an ninh đã có nhiều cố gắng đi sâu
nắm chắc tình hình, phát hiện kịp thời các biểu hiện lợi dụng tôn giáo làm
những điều sai trái, vi phạm pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo trong các vấn đề lựa chọn, đào tạo, phong chức, phong phẩm, phân công
chức sắc, cho các chức sắc đi nước ngoài, quan hệ giữa người nước ngoài với
các đối tượng tôn giáo trên địa bàn, tổ chức và hoạt động của các Hội đoàn trái
pháp luật, đấu tranh, xử lý các đối tượng tuyên truyền đạo lạ .
Song, trên thực tế, một số nơi vẫn còn những lúng túng trong xử lý, một
phần do chưa có đầy đủ chế tài, phần khác do chưa phân biệt rõ vấn đề tôn giáo
10 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2013), Chuyên đề Hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo tại thành phố Hà Nội.
bình thường với lợi dụng tôn giáo, mê tín dị đoan; giữa lợi dụng tôn giáo vì lợi
91
ích cá nhân với lợi dụng vì lợi ích tôn giáo và lợi dụng vì mục đích chính trị
phản động. Trong khi đó, các hành vi này đan xen với nhau, rất khó phân biệt
và dễ chuyển hoá. Lúc đầu có thể là lợi dụng tôn giáo vì lợi ích cá nhân hoặc
lợi ích tôn giáo, nhưng nếu giải quyết không tốt, có sơ hở, vi phạm thì có thể bị
các thế lực thù địch lợi dụng trở thành vấn đề chính trị. Do đó, trong đấu tranh
chống lợi dụng tôn giáo vẫn còn có mặt hạn chế, nhất là ở cơ sở, có nơi “tả
khuynh”, nơi “hữu khuynh” (chủ yếu là “hữu khuynh”) đã ảnh hưởng đến lòng
tin của quần chúng đối với chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Chưa
thật nhạy bén, chủ động, thiếu kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh với vận động
quần chúng và tranh thủ chức sắc, còn có biểu hiện né tránh, đùn đẩy.
Trong những năm gần đây, các tôn giáo lớn trên địa bàn Hà Nội tập
trung quan tâm củng cố, đào tạo chức sắc, tăng cường các hoạt động nhập thế,
tranh thủ mở trộng ảnh hưởng trong cộng đồng xã hội, đồng thời tiến hành
xây sửa các cơ sở thờ tự, tăng cường các hoạt động đối ngoại.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong thời gian qua cũng nổi lên một số vấn đề: thứ nhất, một số bộ
phận chức sắc vẫn có biểu hiện lấn lướt chính quyền, một số linh mục, tu sĩ
lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tự do dân chủ để thực hiện diễn biến hòa bình,
điển hình như một số chức sắc đạo Công giáo: Tổng giám mục Ngô Quang
Kiệt, Linh mục Lê Trọng Cung, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Khắc Quế…Việc
chống đối của các linh mục tập trung ở một số hoạt động như phong chức,
phong phẩm cho các tu sĩ không báo cáo cơ quan chức năng; Không đăng kí
chương trình sinh hoạt tôn giáo hàng năm, không đăng kí tổ chức các hoạt
động ngoài chương trình đăng kí hàng năm với cơ quan có thẩm quyền các
cấp. Đặc biệt các Linh mục dòng Chúa Cứu thế Thái Hà kích động chức sắc
và tín đồn Công giáo khiếu kiện đông người, vu cáo chính quyền đàn áp tôn
giáo. Một vụ việc gần đây gây mất trật tư an ninh, vi phạm pháp luật tại giáo
92
điểm Con Cuông, giáo phận Vinh, tỉnh Nghệ An, giáo xứ Thái Hà liên tục tổ
chức cá hoạt động ủng hộ như thấp nến nguyện hiệp thông, gửi thư ủng hộ, tổ
chức đoàn thăm hỏi giáo dân. Ngoài ra, bộ phận linh mục, tu sĩ này còn
thường xuyên rao giảng những nội dung xuyên tạc chính sách tôn giáo của
Đảng và nhà nước, đòi nhà nước phải sửa đổi Hiến pháp, pháp luật về tôn
giáo… Thứ hai, các tranh chấp liên quan đến vấn đề quản lý sử dụng nhà đất
có nguồn gốc tôn giáo. Đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Các thế lực thù
địch thường xuyên lợi dụng vấn đề này để kích động quần chúng nhân dân
khiếu kiện đông người, biểu tình bất hợp pháp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình hình an ninh trật tự của Thành phố.
2.2.5. Thành tựu, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân
* Từ năm 2000 đến nay, việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đạt được những
thành tựu:
Một là: tình hình an ninh trật tự ở các khu vực đông đồng bào có đạo
nhìn chung ổn định; đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo phấn khởi, ngày
càng tin tưởng vào đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Quá trình giải quyết không xảy ra xô xát, góp phần giữ vững ổn định chính trị
tại Thủ đô, tạo ra xu thế gắn bó đoàn kết lương - giáo trong khối đại đoàn kết
dân tộc. Giúp đỡ chức sắc, tín đồ các tôn giáo tiếp tục phát huy xu thế "gắn
bó, đồng hành cùng dân tộc", tán thành và tham gia tích cực trong các phong trào
cách mạng tại địa phương, hòa nhập vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
Hai là: Kịp thời phát hiện, đấu tranh với các hành vi sai trái, đối sách có
hiệu quả với những biểu hiện gây rối, manh động. áp dụng kịp thời, đa dạng
các hình thức giải quyết, xử lý, đưa các hoạt động tôn giáo đi vào nền nếp,
93
từng bước giúp cho các chức sắc tín đồ hành đạo trong khuôn khổ pháp luật,
tuân thủ sự quy định của chính quyền, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Ba là: Thông qua công tác giải quyết những hiện tượng phức tạp, hệ
thống cán bộ làm công tác quản lý tôn giáo ở cấp thành phố ngày càng chuyên
sâu, ở quận huyện, phường, xã dần dần hình thành và ổn định; năng lực cán
bộ trong việc vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước ngày càng được nâng cao. Qua đó góp phần đổi mới, hoạch
định chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo.
* Nguyên nhân của thành công:
Thứ nhất: Đảng ta đề xướng đường lối đổi mới và lãnh đạo thực hiện
đường lối đó thành công; trong đó, Đảng và Nhà nước kịp thời đề ra các chủ
trương, chính sách tôn giáo đúng đắn theo tinh thần đổi mới. Thành ủy Hà
Nội chủ động, sáng tạo trong quá trình lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tổ
chức hoạt động thực tiễn, kiên quyết thực hiện các chủ trương chính sách đó
trên đời sống tôn giáo ở Thủ đô.
Thứ hai: Đa số quần chúng giáo dân ở Hà Nội là nhân dân lao động có
tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc, luôn thực hiện đường hướng "tốt đời
đẹp đạo" qua các phong trào "Kính Chúa yêu nước", “phụng sự Thiên Chúa,
phục vụ dân tộc”. Trong tiến trình cách mạng, tín đồ tôn giáo Thủ đô luôn
được Đảng quan tâm giáo dục, bồi dưỡng nên họ đã giác ngộ, hiểu rõ đường
lối chính sách của Đảng, thấy rõ âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo phá hoại cách mạng. Từ đó quần chúng đã tự giác đấu tranh với mọi biểu
hiện vi phạm, đắc lực giúp đỡ các cấp chính quyền trong công tác quản lý
Nhà nước.
Thứ ba: Lãnh đạo thành phố tích cực chỉ đạo từng bước xây dựng, củng
cố, kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo của cơ quan
Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể nhân dân, lực lượng vũ trang theo yêu
94
cầu tình hình mới, có phân công, phân cấp nhiệm vụ, chức năng hợp lý cho
từng cơ quan trong công tác tôn giáo.
Thứ tư: Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Hà
Nội được các cấp, các ngành, đặt trong tổng thể, gắn với các nhiệm vụ kinh
tế, xã hội ở Thủ đô, phục vụ cho chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Mặc dù đội ngũ cán bộ tôn giáo ở thành phố và các quận huyện vừa
thiếu, vừa mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu, chưa có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn nhưng Lãnh đạo Thành phố đã coi trọng công tác phối hợp, sử dụng
bộ máy sẵn có ở các cấp, các ngành, thống nhất từ khâu phát hiện tình hình,
chủ trương chỉ đạo, thống nhất thông tin và công tác giải quyết, xử lý ngay từ
cơ sở (phường, xã, quận, huyện) nên đạt hiệu quả cao.
* Về hạn chế
Một là: Công tác phát hiện các biểu hiện phức tạp còn chậm. Công tác
nắm tình hình có lúc còn chưa theo kịp với diễn biễn thực tế, với yêu cầu giải
quyết. Vì vậy trong nhiều vụ việc phức tạp còn phải bị động đối phó.
Hai là: Quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở Hà Nội
thiếu một đường hướng lâu dài, còn chạy theo vụ việc; một số trường hợp còn
kéo dài, chưa dứt điểm; nhất là những vụ liên quan đến nhà đất. Việc xử lý
các vi phạm giữa các ngành còn thiếu thống nhất, thể hiện sự lúng túng, nhất
là đối với những vấn đề mới phát sinh, như việc đòi lại cơ sở vật chất, xây
dựng, cải tạo lại nơi thờ tự, thuyên chuyển giáo sĩ từ các tỉnh khác về Hà Nội,
xuất bản, xuất nhập khẩu các ấn phẩm có nội dung tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo
của tín đồ người nước ngoài, quan hệ hợp tác quốc tế trong đào tạo chức sắc
tôn giáo tại chỗ ...v...v...
Một số cán bộ làm công tác quản lý tôn giáo cấp quận (huyện), phường
(xã) còn chưa nắm được nghị quyết của Đảng, những qui định của Nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo. Do đó khi giải quyết, xử lý các vấn đề phức tạp lại
95
hay "đơn giản hóa", thuần túy, vì vậy dễ rơi vào hai thái cực: hoặc buông
lỏng, hữu khuynh để tôn giáo lấn lướt, gây thanh thế; hoặc tả khuynh, thô bạo,
gây bất bình trong giáo sĩ, tín đồ.
Ba là: Trong các vụ việc, sự hướng dẫn chỉ đạo của một số cơ quan còn
bất cập, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Trong một số trường hợp, sự
hướng dẫn, trả lời này chưa phù hợp với chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước. Vì vậy đã gây nên một số vụ việc phức tạp không đáng có để cho địa
phương phải giải quyết hậu quả.
* Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất: Từ trước đến nay, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cơ hội
thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống lại cách mạng nước ta. Một số
người đã tập hợp giáo dân, có kế hoạch, chủ trương tiến hành làm thử một số
vụ việc, nếu thành công sẽ nhân rộng ra các địa phương khác. Vì vậy, trong
nhiều vụ việc, bằng nhiều cách, họ cố tình làm cho tình hình thêm căng thẳng
phức tạp, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.
Thứ hai: Nhiều đồng chí cấp ủy và cán bộ đảng viên ở cơ sở chưa nhận
thức được tầm quan trọng của công tác tôn giáo, chưa thấy được trách nhiệm
của ngành mình, cấp mình đối với công tác này, nên chưa phát huy được sức
mạnh của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, mà phổ biến còn giao
khoán cho Mặt trận Tổ quốc và các ngành chức năng.
Suốt thời kỳ dài, hệ thống cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được cấp
ủy, chính quyền quan tâm kiện toàn và bồi dưỡng chuyên sâu. Nhiều cán bộ
chưa được đào tạo có hệ thống để đáp ứng nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu
dài. Ngay ở vùng giáo, ở khu vực trọng điểm cũng không có biên chế cán bộ
làm công tác tôn giáo ở cấp phường (xã). Cán bộ làm công tác tôn giáo cấp
quận(huyện) nhiều nơi còn kiêm nhiệm và thay đổi luôn qua các kỳ bầu Hội
đồng nhân dân.
96
Thứ ba: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của các cấp
chính quyền còn nhiều sơ hở, việc xây dựng những qui định, văn bản pháp
qui để chủ động hướng dẫn các tôn giáo thực hiện chính sách tôn giáo theo sự
quản lý của Nhà nước địa phương còn nhiều hạn chế.
Công tác tuyên truyền giáo dục, nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên
lĩnh vực tôn giáo ở Thủ đô nói riêng, mới bắt đầu từng bước được quan tâm
chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, lãnh đạo thành phố chưa có sơ sở đề ra
chiến lược công tác tôn giáo ở Thủ đô, cũng như giúp cho Nhà nước hoạch
định chủ trương, giải pháp quản lý đối với tôn giáo.
Thứ tư: Việc nắm tình hình, tổ chức tập hợp và xây dựng phong trào
quần chúng giáo dân có lúc còn chưa được Mặt trận và các đoàn thể coi trọng.
Công tác vận động chức sắc tuy đạt được một số kết quả song chưa được coi
trọng thường xuyên. Kinh phí cho công tác vận động, tranh thủ giáo sĩ, giáo
dân còn quá hạn hẹp và đã trở nên lỗi thời trong tình hình kinh tế thị trường.
Công tác xây dựng Đảng trong vùng có đông đồng bào có đạo hiện
chưa có hướng dẫn cụ thể. Việc xây dựng lực lượng chính trị trong vùng giáo
nhiều khi chưa được chính quyền cơ sở và các đoàn thể quan tâm. Do vậy, đội
ngũ nòng cốt, cốt cán, đảng viên, đoàn viên còn ít, tác dụng còn hạn chế.
Qua những thành công, hạn chế, cùng những nguyên nhân của nó trong
công tác quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy
tính chất phức tạp của các hiện tượng nổi lên rất gay gắt trên nhiều lĩnh vực từ
đất đai, xây dựng tới tranh chấp quyền quản lý, trông nom cơ sở thờ tự, phát
triển tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Nhiều vụ việc liên quan
đến nhiều cấp, từ Trung ương đến cơ sở, vì vậy, công tác quản lý đòi hỏi bảo
đảm sự thống nhất của các lực lượng. Sự thống nhất đó trước hết từ nhận
thức, tiếp đến là quá trình xử lý thực tế các vụ việc.
97
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chương 2 trình bày thực trạng hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên
địa bàn thành phố Hà Nội từ cơ cấu tổ chức, đặc điểm của tín đồ, chức sắc,
nhà tu hành, chức việc, cơ sở thở tự đến các nét hoạt động chính của các tổ
chức tôn giáo. Đồng thời, phản ánh thực trạng công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay như công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, các chủ trương, chính sách về tôn giáo,
mô hình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tham mưu quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo của các cấp chính quyền trên địa bàn thành phố Hà Nội,
công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của các hệ thống và đoàn thể
chính trị cơ sở, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, công tác
đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo. Từ thực trạng đó, nhìn nhận những kết
quả đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong quá trình
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ
đó, làm cơ sở tìm ra phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong thời gian tới.
98
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm về công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động
tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới
3.1.1. Dự báo tình hình tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
thời gian tới
Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba, cùng với cả nước vững bước trên con
đường đổi mới, từ nay đến năm 2020, Thủ đô đang chuyển mình mạnh mẽ.
Công cuộc đổi mới tiếp tục giành thắng lợi củng cố niềm tin của nhân dân,
đặc biệt sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa có sức cuốn hút mạnh mẽ.
Công tác tôn giáo được toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành quan tâm.
Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có những chuyển biến
nhanh chóng và phức tạp. Việt Nam đang "thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế"11 . Công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo sẽ có nhiều
thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, nguy cơ, thử thách. Các thế lực
thù địch vẫn tiếp tục ý đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.
Các thế lực phản động khác sẽ tăng cường thực hiện chiến lược "diễn
biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, đến tư tưởng,
trong đó lĩnh vực dân tộc và tôn giáo được chúng chọn làm "ngòi nổ". Chúng
tiếp tục tìm mọi cách để kích động, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo; đòi "tự
do tôn giáo", nhằm từng bước tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước,
biến nó thành lực lượng chính trị đối lập và đối trọng với Đảng, Nhà nước ta.
11 Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG Hà Nội, tr 119.
Chúng sẽ tìm mọi cách "quốc tế hóa" các vấn đề tôn giáo trong nước để tạo
99
cớ can thiệp, gây mất ổn định chính trị xã hội, tiến tới bạo loạn, xóa bỏ chế độ
Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong những năm tới, trước xu thế tôn giáo trong nước và thế giới, hoạt
động của các tôn giáo ở Hà Nội sẽ tiếp tục sôi động, phát triển đa dạng. Các
chức sắc, nhà tu hành vừa tích cực hòa nhập, vừa tranh thủ mở rộng vai trò,
ảnh hưởng, gây thanh thế trong xã hội. Lực lượng chức sắc, tín đồ các tôn
giáo sẽ gia tăng và được tổ chức lại; cơ sở vật chất của tôn giáo được cải
thiện; kinh phí của các tổ chức tôn giáo được tăng lên từ nhiều nguồn trong và
ngoài nước. Các hoạt động đều nhằm phát triển tôn giáo, tín ngưỡng, củng cố
niềm tin, tập hợp quần chúng nhằm mục đích lâu dài. Vì vậy, không loại trừ
khả năng xuất hiện những vụ việc khiếu kiện, những điểm nóng phức tạp về
tôn giáo, gây áp lực đòi Nhà nước giải quyết theo hướng có lợi cho Giáo hội;
bọn chống đối bên ngoài có cơ hội vu cáo xuyên tạc, thậm chí can thiệp bằng
các hình thức khác nhau nếu ta giải quyết, xử lý không khôn khéo. Công tác
quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo sẽ đặt ra nhiều vấn đề mới;
bởi vì, xét về mặt lâu dài thì lĩnh vực tôn giáo vẫn tiềm ẩn nhiều khả năng gây
nên những biến động phức tạp. Trong khi đó, nhiều hiện tượng tôn giáo mới ở
trong nước sẽ tiếp tục xuất hiện; một số hiện tượng tôn giáo mới ở nước ngoài
cũng tìm cách xâm nhập, truyền bá, gây ảnh hưởng... làm cho đời sống tôn
giáo ở Thủ đô có nhiều diễn biến. Do đó, phải có chính sách, biện pháp phù
hợp, góp phần thực hiện hiệu quả chiến lược phát huy nội lực, kết hợp với
ngoại lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tương xứng
với tầm vóc của Thủ đô.
Cần lưu ý, giải quyết vấn đề tôn giáo hiện nay cần có sự hợp tác, phối
hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương và không thể tách rời việc
giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội. Cho nên, công tác tôn giáo, nhất là công
tác giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến các tôn giáo cần phải có
100
một hệ thống các giải pháp mang tính cơ bản và toàn diện bao gồm các giải
pháp kinh tế, chính trị và các giải pháp văn hoá tinh thần. Trong đó, giải pháp
chính trị mặc dù không phải là giải pháp duy nhất quyết định, song bao giờ nó
cũng có vị trí quan trọng và đôi khi quyết định trong tình hình cụ thể nào đó.
Thời gian tới, công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo tại Thủ đô cần quán triệt tinh thần: "Dĩ bất biến ứng vạn biến", "Giữ
vững bên trong để mở cửa quan hệ với bên ngoài". Khu biệt vấn đề tại đây,
hiện nay, trong chính trị cần hướng đến các giải pháp nhằm tạo ra sự đổi mới
hơn nữa trên các nhân tố căn bản của chính trị. Đó là: giải pháp đổi mới và
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, chủ trương, đổi mới bộ máy, công
cụ chính trị; đổi mới công tác cán bộ và đào tạo cán bộ; đặc biệt, cần quan
tâm đến công tác xây dựng lực lượng chính trị trong các vùng tôn giáo điển
hình, xây dựng giáo hội hoạt động theo đường hướng gắn bó với dân tộc, với
đất nước, tuân thủ luật pháp, nâng cao cảnh giác, chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng.12
3.1.2. Quan điểm về công tác tôn giáo
* Quan điểm chung
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình
12 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2009), Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu lực quản l{ nhà nước trong công tác giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo ở Hà Nội trong thời gian tới
đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
101
mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích
động chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
- Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính
trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn
giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo
cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở cơ sở, những địa bàn trọng điểm có
đông đồng bào tôn giáo. Tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Thống nhất phương châm “Kiên trì – đồng bộ - linh hoạt – đúng
pháp luật” trên cơ sở chính sách tôn giáo và các quy định của Luật để giải
quyết các vấn đề tôn giáo. Trong quá trình giải quyết, phải tranh thủ cảm hóa,
tạo được sự đồng tình, ủng hộ của các chức sắc, tín đồ tiến bộ, chấp hành tốt
pháp luật, kết hợp chặt chẽ với công tác tuyên truyền, vận động, đối thoại
thuyết phục để giải quyết kiến nghị, khiếu nại đòi nhà, đất có nguồn gốc tôn
giáo và giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến tôn giáo. Cụ thể là: Kiên
trì vận động, thuyết phục giáo sỹ, giáo dân chấp hành đúng pháp luật; thực
hiện đồng bộ các biện pháp vừa kiên trì vận động, thuyết phục, vừa tuyên
truyền, phê phán, lên án, tập trung phân hóa, cô lập, đấu tranh với các đối
tượng chủ mưu, xúi giục, xử lý bằng pháp luật đối với những đối tượng quá
khích để răn đe, chuẩn bị sẵn sàng các phương án đối phó với hoạt động quá
khích biểu tình, gây rối hoặc cưỡng chế giải tỏa khi cần thiết; linh hoạt trong
việc thực hiện các biện pháp xử lý trong từng trường hợp và từng thời điểm
cụ thể. Tuyệt đối không để xảy ra sai sót, không đúng quy định của pháp luật
trong quá trình xử lý các vụ việc, tình huống phức tạp để tạo cớ cho các đối
tượng xấu lợi dụng, tuyên truyền xuyên tạc, kích động.
- Tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của các cơ quan Trung ương trong việc hỗ
trợ cung cấp thông tin, quan điểm chỉ đạo xử lý, giải quyết đối với từng vụ
102
việc phức tạp trên địa bàn. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các tỉnh,
thành phố liên quan trong cả nước để chủ động làm tốt công tác ngăn ngừa,
giảm thiểu số lượng giáo dân bị tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo, kích động tập
trung về Hà Nội và có những hành vi vi phạm pháp luật.
- Thống nhất quan điểm xử lý đòi nhà, đất có nguồn gốc tôn giáo trên
địa bàn Thủ đô Hà Nội phải được giải quyết theo đúng quy định của Luật,
đồng thời, quan tâm giải quyết nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của giáo sỹ,
giáo dân. Vì vậy, các cấp chính quyền cần tuyên truyền vận động, đối thoại,
thuyết phục, kiên quyết không chấp nhận các giáo sỹ, giáo dân đòi lại nhà đất
có nguồn gốc tôn giáo mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng từ ngày
01/7/1991 trở về trước (theo tinh thần Nghị quyết số 23 của Quốc hội khóa
XI). Đồng thời, phải chủ động trong giải quyết các nhu cầu chính đáng của
các tôn giáo về đất đai, cơ sở vật chất phù hợp với các quy định của Luật, Chỉ
thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất
liên quan đến tôn giáo, Công văn số 3371/BNV-TH ngày 16/10/2009 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của
Thủ tướng Chính phủ, tránh tư tưởng cực đoan, cứng nhắc trong chỉ đạo và tổ
chức thực hiện ở cơ sở.
* Quan điểm cụ thể:
Một là, đối với nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì
Nhà nước tôn trọng và đảm bảo.
Hai là, đối với những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc, nhân
dân thì được khuyến khích.
Ba là, đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu thì đều
bị nghiêm cấm và xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
- Đối với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ: Tín đồ các tôn giáo
được tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự, nghiêm cấm việc phân
103
biệt đối xử, được đảm bảo các điều kiện như có chức sắc, có nơi thờ tự, có
kinh sách phục vụ sinh hoạt tôn giáo.
- Đối với hoạt động của chức sắc, nhà tu hành: Chức sắc, nhà tu hành
được đi lại hoạt động bình thường trong phạm vi phụ trách, là người chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động tôn giáo trong phạm vi phụ trách.
- Đối với các tổ chức tôn giáo: Các tổ chức tôn giáo có đường hướng
hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ mục đích, có Hiến chương, Điều lệ
phù hợp với pháp luật, có cơ cấu tổ chức hợp lý và bộ máy nhân sự đảm bảo
tốt về hai mặt đạo và đời, được xem xét để được phép hoạt động.
- Đối với các hoạt động về mặt tổ chức của tôn giáo: Các tổ chức tôn
giáo hợp pháp về tổ chức, được tiến hành các hoạt động như tổ chức đại hội,
hội nghị,mở trường đào tạo chức sắc, phong chức, suy cử, bổ nhiệm và điều
chuyển chức sắc, nhà tu hành theo đúng quy định pháp luật.
- Đối với việc tôn giáo tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội: Các
chức sắc, nhà tu hành được hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội như mọi công
dân. Việc tổ chức lao động, sản xuất làm dịch vụ để tự túc của chức sắc, nhà
tu hành theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước thì được khuyến khích.
Các hoạt động từ thiện nhân đạo được tạo điều kiện khuyến khích.
- Đối với hoạt động quốc tế của tôn giáo: Nhà nước nói chung và Thủ
đô nói riêng luôn tôn trọng mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo. Quan hệ
quốc tế của các tôn giáo phải tôn trọng chủ quyền, pháp luật của Nhà nước
Việt Nam và thông lệ quốc tế. Những quan hệ với tư cách cá nhân được thực
hiện như mọi công dân. Những quan hệ với tư cách thành viên hoặc có mối
13 UBND Thành phố Hà Nội (27/11/2009), Đề án tăng cường công tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên địa bàn Thành phố, số 107/ĐA-UBND
quan hệ về cơ cấu, tổ chức của các tổ chức quốc tế thì phải được chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.13
104
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của chức sắc, tín đồ
Trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo, pháp luật
có vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo. Pháp luật
là phương tiện bảo vệ các quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, bảo
đảm hoạt động bình thường của các tôn giáo. Pháp luật là phương tiện đấu
tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; ngăn chặn các hành vi lợi dụng dân
chủ để cố tình khiếu kiện gây tình hình phức tạp hoặc khiếu nại, tố cáo sai sự
thật. Do đó, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện công tác quản lý
Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói
riêng. Đồng thời, pháp luật còn có tác dụng định hướng những hoạt động,
những giá trị tích cực mà các tôn giáo cần phát huy, đồng thời ngăn ngừa, bài
trừ những biểu hiện tiêu cực trong đời sống tôn giáo.
Với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, những năm qua, đa số quần
chúng tín đồ và chức sắc tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng
được quán triệt, nắm vững pháp luật cũng như các qui định về hoạt động tôn
giáo để thực hiện, phản ảnh hoặc kiến nghị. Đồng thời, với chức trách và
quyền hạn theo qui định của pháp luật, các cơ quan Nhà nước ta, từ Trung
ương đến cơ sở càng ngày càng quán triệt, nắm vững pháp luật trong quá trình
bảo hộ mọi hoạt động tôn giáo hợp pháp của mọi chức sắc, tín đồ. Do đó, mối
quan hệ giữa tôn giáo với xã hội, giữa Nhà nước ta với các giáo hội, các tổ
chức tôn giáo, giữa công dân có tín ngưỡng tôn giáo với công dân không có
105
tín ngưỡng tôn giáo và ngược lại, không ngừng được cải thiện, củng cố, phát
triển vì lợi ích chung của dân tộc, vì lợi ích của đồng bào có đạo.
Hiện nay các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng tôn giáo
chống phá Việt Nam. Chúng tìm mọi cách tác động làm cho các giáo hội đi
theo hướng "độc lập với Nhà nước", thậm chí "đối trọng với Nhà nước",
nhằm từng bước chuyển hóa, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Mặt khác,
“tranh chấp dân sự và khiếu kiện của dân là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về chính sách, luật pháp chưa hoàn chỉnh”14. Vì vậy, việc đổi
mới hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong quản lý Nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo nói riêng là một nhu cầu tất yếu và bức
xúc hiện nay. Công tác này gồm một số nội dung sau:
- Một là bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật đã ban hành.
Nhiệm vụ đầu tiên đặt ra trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật về quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là phải tổ chức
rà soát lại toàn bộ những văn bản pháp luật đã ban hành liên quan đến lĩnh
vực này; trên cơ sở đó phân loại văn bản để có phương hướng hoàn thiện:
Loại văn bản ban hành đúng thẩm quyền: là loại đã ban hành đúng thủ
tục cần thiết, nhưng nội dung có điểm chưa rõ ràng, còn sơ hở, chưa hợp lý.
Loại cần được luật pháp hóa: là những qui định có nội dung thiết thực,
hợp lý nhưng trước đây mới chỉ là các qui định của cơ quan thực thi pháp luật
hướng dẫn cụ thể, nay cần luật pháp hóa .
Loại cần pháp điển hóa thành một văn bản: gồm những qui định đã
ban hành đúng thẩm quyền, vẫn cần thiết, nhưng do bổ sung nhiều lần, phân
14 Ban Chấp hành Trung ương (6/3/2002), Chỉ thị của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo hiện nay, số 09-CT/TW, tr 2.
tán ở nhiều văn bản, khó thực hiện, phải pháp điển hóa thành một văn bản mới.
106
Loại phải bãi bỏ: gồm những văn bản qui định không đúng thẩm quyền
hoặc nội dung không còn phù hợp, gây cản trở cho công tác quản lý.
Trên cơ sở hệ thống, phân loại như trên, cần đề xuất một chương trình
xây dựng pháp luật cụ thể, trong đó kiến nghị bổ sung, sửa đổi từng văn bản
đệ trình Nhà nước giao cho cơ quan chức năng của các Bộ, Ngành có liên
quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung thành các văn bản mới để xem xét, ban hành.
- Hai là xây dựng các văn bản pháp luật mới.
Song song với việc rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện
hành, cần đề xuất Nhà nước xây dựng một số văn bản pháp luật mới về quản
lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các văn bản pháp
luật này cần xác định rõ:
Một, Biện pháp chế tài và cơ quan xử lý hành vi vi phạm pháp luật của
pháp nhân, thể nhân tôn giáo và những cán bộ làm công tác tôn giáo lại vi
phạm chính sách, pháp luật về tôn giáo.
Hai, Những nguyên tắc cơ bản trong việc quản lý hoạt động và xử lý vi
phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực tôn giáo để vừa đảm bảo
chính sách tôn giáo của Đảng, vừa góp phần vào việc củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.
Từ ngày 15/11/2004, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực. Để
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, để
giảm thiểu những vụ việc khiếu kiện liên quan đến các tôn giáo do các quy
định của pháp luật còn thiếu tính minh định, nên chăng cần có lộ trình để
khẩn trương xây dựng Luật về hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam với
những yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Về đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của Luật về các hoạt động tôn giáo ở nước ta bao
gồm: trước hết là các thể nhân và các pháp nhân tôn giáo; đồng thời, các thể
107
nhân dân sự và các pháp nhân dân sự khác có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hoạt động tôn giáo, kể cả các thể nhân dân sự và pháp nhân dân sự có
yếu tố nước ngoài.
Trong các đối tượng trên đây cần tập trung điều chỉnh 5 đối tượng cơ
bản là:
+ Công dân Việt Nam là tín đồ tôn giáo và Việt Kiều, công dân nước
ngoài là tín đồ tôn giáo hiện cư trú hợp pháp, có thời hạn tại Việt Nam.
+ Các giáo hội và các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam cho phép hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc ở từng địa
phương và các tôn giáo chưa có tư cách pháp nhân.
+ Giáo hội nước ngoài và các tổ chức tôn giáo quốc tế có quan hệ chỉ
đạo giáo hội (hoặc các tổ chức tôn giáo) ở Việt Nam theo qui định của giáo
hội hoặc lịch sử truyền giáo ở Việt Nam; các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
của các tôn giáo hoặc của các tổ chức quốc tế liên quan đến tôn giáo trong
quá trình hoạt động ở Việt Nam.
Thứ hai: Về phạm vi điều chỉnh:
Phạm vi điều chỉnh của Luật về hoạt động tôn giáo ở nước ta vừa toàn
diện vừa có trọng điểm, nhằm giải quyết hài hòa giữa vấn đề do lịch sử để lại
với vấn đề đã, đang và sẽ đặt ra. Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mọi công
dân có tín ngưỡng tôn giáo và không có tín ngưỡng tôn giáo và giữa các tôn
giáo với nhau trong cộng đồng xã hội nói chung và cộng đồng tín ngưỡng nói riêng.
Theo nghiên cứu bước đầu, nên chăng, cần lựa chọn 4 phạm vi điều
chỉnh với những yêu cầu chủ yếu:
Tôn giáo với dân tộc: các qui phạm pháp luật của Luật phải đảm bảo
tôn giáo đồng hành với dân tộc, với chế độ mới, không làm phương hại đến
lợi ích dân tộc, tích cực bảo vệ lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia. Khuyến
108
khích mọi cộng đồng tôn giáo phấn đấu vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh" trong tiến trình đổi mới và xây dựng đất nước.
Tôn giáo với Nhà nước: các qui phạm pháp luật của Luật phải đảm bảo
quá trình Nhà nước bảo hộ các tôn giáo; không can thiệp vào nội bộ tôn giáo
thuần tuý, bảo đảm vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng tôn
giáo của quần chúng, vừa hướng dẫn các giáo hội, các tổ chức tôn giáo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật Nhà nước và tuân thủ sự quản lý của Nhà
nước. Bảo đảm sự hài hòa giữa đời sống tôn giáo với đời sống xã hội giữa tôn
giáo với Nhà nước, giữa tôn giáo với tín ngưỡng truyền thống, giữa tôn giáo
này với tôn giáo khác, giữa qui phạm pháp luật Việt Nam với giáo luật của
các tôn giáo và các thông lệ, tập quán quốc tế, nhằm phát huy nội lực của khối
đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết toàn dân.
Tôn giáo với xã hội: bảo đảm quyền của các tôn giáo tham gia vào quá
trình phát triển kinh tế - văn hóa - đạo đức xã hội và bảo vệ Tổ Quốc Việt
Nam XHCN. Đồng thời, Nhà nước tạo điều kiện để các tôn giáo thích nghi
với xã hội hiện đại trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tôn giáo này với tôn giáo khác: đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ trước pháp luật của các tôn giáo. Các tôn giáo phải tôn trọng lẫn
nhau, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, duy trì bản sắc văn hóa của
từng tôn giáo trong văn hóa tôn giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Bảo
đảm hoạt động bình thường của các tôn giáo; đồng thời kiên quyết đấu tranh
chống mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, của các phần tử xấu
trong và ngoài nước tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Tổ Quốc, dân tộc
và cách mạng.
Thứ ba: Về phương pháp điều chỉnh cần chú ý những vấn đề sau đây:
109
Loại hình phổ biến: các qui phạm pháp luật phải xác định rõ những
hoạt động khuyến khích và không khuyến khích; cho phép và không hoặc
chưa cho phép; được làm và không được làm; hạn chế và nghiêm cấm; phải
xin phép và không phải xin phép; bắt buộc phải đăng ký và không phải đăng
ký; thông báo và không phải thông báo...
Loại hình đặc thù: các qui phạm pháp luật phải qui định cụ thể, chính
xác về các loại chế tài.
Cần coi trọng giáo dục hành chính để giác ngộ các thể nhân và các
pháp nhân tôn giáo trong quá trình tuân thủ pháp luật Nhà nước. Các chế tài
hành chính theo các mức độ từ thấp lên cao: giáo dục hành chính - xử lý hành
chính - xử phạt hành chính và cưỡng chế hành chính.
- Tổ chức làm tốt công tác thông tin pháp luật.
Để toàn bộ các văn bản mang tính qui phạm từ các đạo luật cho đến các
quyết định cá biệt được tuyên truyền đầy đủ, chính xác, kịp thời đến người
thực hiện cũng như người áp dụng pháp luật. Đối với các chức sắc tín đồ tôn
giáo phải hiểu pháp luật Nhà nước qui định về các hoạt động tôn giáo giúp họ
thực hiện đúng, tránh được vi phạm do thiếu hiểu biết. Trong các cơ quan
chức năng, trước hết là lực lượng làm công tác quản lý Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương, một mặt phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc các
qui định của pháp luật về những vấn đề có liên quan đến hoạt động tôn giáo.
Mặt khác, phải làm nòng cốt trong việc tuyên truyền phổ biến và tổ chức thực
hiện pháp luật, bảo đảm quản lý hoạt động của các tôn giáo theo trong hành
lang quy định của pháp luật Nhà nước.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động của các tôn giáo.
Một là: Qui định rõ thẩm quyền, nội dung, phạm vi và cơ chế hoạt động
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với hoạt
110
động của các tôn giáo của từng cơ quan như Thanh tra Nhà nước, Thanh tra
của các ngành. Thanh tra của Ban Tôn giáo làm nhiệm vụ tham mưu, hướng
dẫn, đôn đốc, giúp đỡ các ngành thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối
với các hoạt động của các tôn giáo trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế
văn hóa, tư tưởng...; khắc phục tình trạng nhiều nội dung công tác thuộc chức
năng quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này không được chú ý kiểm tra, kịp thời
đánh giá kết quả thực hiện để chỉ đạo, uốn nắn.
Hai là: Cần qui định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước,
người có thẩm quyền khi có vi phạm hoặc sơ hở, yếu kém trong quản lý để
phát huy vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong công tác quản lý Nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo. Đồng thời, xác định rõ những căn cứ cho
việc thanh tra, kiểm tra đánh giá hiệu quả của quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực này. Đây là vấn đề hết sức khó khăn nhưng nếu không thực hiện thì bản
thân hoạt động thanh tra, kiểm tra cũng như tác dụng của nó đối với quản lý
Nhà nước sẽ bị hạn chế.
Ba là: Phát huy vai trò thanh tra, kiểm tra tại chỗ trong nội bộ từng
ngành, cơ quan, đơn vị của chính cấp ủy, thủ trưởng cơ quan trong suốt quá
trình thực hiện nhiệm vụ quản lý các hoạt động tôn giáo, từ thu thập thông tin,
dự báo tình hình, ra quyết định, tổ chức thực hiện cho đến đánh giá kết quả
của hoạt động quản lý.
Bốn là: Cụ thể hóa và phát huy vai trò của Ban Tôn giáo các cấp trong
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo của các ngành, các tổ chức xã hội mà pháp luật qui định.
3.2.2. Nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và đội ngũ cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
Thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
trong nhiều năm cho thấy: nhiều cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về tính chất
111
phức tạp trong hoạt động quản lý này; vì vậy, có trường hợp đã xảy ra sự cố
đáng tiếc. Tính chất phức tạp được thể hiện:
- Một là: Các thế lực thù địch, đặc biệt là chính quyền Mỹ, luôn tìm
kiếm các sự kiện trong các tôn giáo để kiếm cớ can thiệp.
Trong tiến trình cách mạng nước ta, nhất là từ năm 1954 đến nay, các
thế lực thù địch đứng đầu là chính quyền Mỹ luôn chú trọng lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam15.
Từ khi nước ta đổi mới, mở cửa, những năm gần đây, các thế lực thù
địch càng tăng cường các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo nhằm xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tháng 11/1996, Chính phủ Mỹ đã thành lập "Ủy ban cố vấn về tự do tôn giáo
ở nước ngoài" và "Ủy ban đối thoại và hiểu biết về Phật giáo" thuộc Hạ nghị
viện Mỹ. Các tổ chức này đã cử người vào nước ta với nhiều danh nghĩa để
tìm hiểu, thu thập thông tin về hoạt động tôn giáo và tình hình "đàn áp tôn
giáo" ở Việt Nam. Tháng 7/1997, Ngoại trưởng Mỹ trình bày "Báo cáo về
quyền tự do tôn giáo các nước trên thế giới" trước Quốc hội Mỹ, đã đưa ra
danh sách 78 nước (tháng 4/1998 là 36 nước, tháng 9/1999 là 194 nước...) "có
vấn đề tự do tôn giáo" trong đó có Việt Nam. Mỹ đưa ra luật HR.2431 về "tự
do tôn giáo quốc tế", Luật HR.3194 về "Kinh phí cho hoạt động đối ngoại"
nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để can thiệp vào nội bộ các nước trong đó có
Việt Nam, đồng thời kích động sự chống đối từ bên trong các nước. Bộ Ngoại
giao Mỹ thường xuyên vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, bắt bớ đàn áp
tôn giáo, ngược đãi tín đồ, giam giữ một số chức sắc. Tổng thống Mỹ và
15 Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo - Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (7.1998), Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kz mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, tr 171 – 178.
nhiều nhân vật trong chính giới Mỹ có nhiều cuộc tiếp xúc với các tổ chức tôn
112
giáo người Việt lưu vong ở Mỹ, Pháp; dung túng cho số này hoạt động chống
Việt Nam, đòi Việt Nam trả tự do cho một số chức sắc tôn giáo phạm tội bị
bắt, đòi trả lại cơ sở tôn giáo, trực tiếp can thiệp cho các công dân Mỹ vi
phạm chính sách tôn giáo Việt Nam bị ta xử lý. Họ coi vấn đề tôn giáo là mũi
nhọn cho "đấu tranh nhân quyền ở Việt Nam". Hạ nghị viện Mỹ đã 2 lần
thông qua và đệ trình lên Thượng Nghị viện Mỹ "Đạo luật nhân quyền tại
Việt Nam" HR.2863 (ngày 07/9/2001), HR.1587 (ngày 19/7/2004) vu cáo
Việt Nam về vấn đề nhân quyền, tôn giáo. Tháng 9/2004, Bộ Ngoại giao Mỹ
đưa Việt Nam vào danh sách những nước cần đặc biệt quan tâm về vấn đề tôn
giáo. Thực hiện chính sách 2 mặt: vừa hợp tác, vừa lôi kéo, can thiệp sâu vào
công việc nội bộ nước ta, Mỹ và một số nước phương Tây nhằm tới thực hiện
mưu đồ chuyển hóa nội bộ Việt Nam, hy vọng làm cho Việt Nam “tự diễn biến”16.
- Hai là: Trong nội bộ các tôn giáo luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp.
Ngày 07/11/1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thống nhất từ 9 hệ
phái: 1. Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam. 2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam
thống nhất. 3. Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam. 4. Ban liên lạc Phật giáo
yêu nước thành phố Hồ Chí Minh. 5. Giáo hội Tăng già nguyên thủy Việt Nam.
6. Hội sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ. 7. Giáo phái khất sĩ Việt Nam. 8.
Giáo hội Phật giáo Thiên thai quán. 9. Hội Phật học Nam Việt.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội là tổ chức được hình
thành bởi các tăng, ni từ nhiều sơn môn khác nhau (Thành hội Phật giáo Hà
Nội cũ hình thành từ 7 sơn môn: Bà Đá, Quảng Bá, Trấn Quốc, Hồng Phúc,
Liên Phái, Trung Hậu, Nam Đồng). Tuy nhiên, trình độ Phật học của một số
16 Theo Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội, Tình hình an ninh tư tưởng ở trong nước, Thông báo nội bộ phục vụ sinh hoạt chi bộ tháng 3/2003.
nhà sư, nhất là sư nữ, ở miền thôn quê còn rất hạn chế. Trong thời buổi kinh
113
tế thị trường, phẩm hạnh một số vị sư sa sút, có nhà sư coi việc đi tu là nghề
kiếm sống. Hòm công đức đặt ở chùa nay trở thành nguồn thu kinh phí. Vì
vậy, đã xẩy ra việc tranh chấp hòm công đức giữa các nhà sư trong chùa, giữa
nhà sư với ban hộ tự, thậm chí giữa nhà sư với chính quyền sở tại. Những
chùa có nguồn thu nhiều thì nhiều sư muốn ở lại trụ trì, ở miền quê nghèo thì
có sư không chịu về. Phật giáo ở Hà Nội cũng như Phật giáo trong cả nước
đang có xu hướng quy lại sơn môn, hệ phái. Các sư được thuyên chuyển theo
chùa thuộc sơn môn, hệ phái nhiều khi bất chấp cả sự điều chuyển của Giáo
hội và Thành hội. Từ đó, nẩy sinh việc mâu thuẫn chia rẽ bè cánh, lôi kéo tín
đồ đi khiếu kiện, tranh chấp chùa cảnh; có những vụ việc phải nhờ đến chính
quyền và cơ quan pháp luật can thiệp.
"Sự ra đời, phát triển của Giáo hội Công giáo Việt Nam gắn liền với
quá trình thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta; chỉ sau năm 1975,
mới có điều kiện và khả năng để Giáo hội thoát khỏi sự ràng buộc của chủ nghĩa đế quốc"17. Điều đó khiến cho khó phân biệt được giữa tôn giáo và thực
dân đội lốt tôn giáo, khiến cho Công giáo là một trong những tôn giáo ở Việt
Nam có nhiều vấn đề phức tạp nhất. Với chính sách "chia để trị" của chủ
nghĩa đế quốc, Công giáo được các chính quyền giả hiệu ưu tiên hơn, muốn
áp đặt thành quốc giáo ở nước ta.
Đến nay, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hoà
bình", ra sức lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn, định kiến giữa Công giáo với
cách mạng mà chúng đã gieo rắc nhiều năm nay. Thực hiện sự chỉ đạo của
Tòa Thánh Vatican, nhiều giáo sĩ Công giáo ở Hà Nội muốn đặt giáo quyền
lên trên pháp luật Nhà nước, thể hiện khuyếch trương thanh thế, lấn lướt
17 Nguyễn Văn Long (1999), Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với Thiên Chúa
giáo hiện nay ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
chính quyền, nhằm thoát ly sự quản lý của Nhà nước. Tòa Tổng giám mục Hà
114
Nội có chủ trương, kế hoạch tiến hành thí điểm một số vụ việc, nếu thành
công sẽ nhân rộng ra các địa phương khác.
Hội Thánh Tin Lành miền Bắc vốn là tổ chức gắn bó với dân tộc, có
nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến. Nhưng từ ngày đất nước bước vào
thời kỳ đổi mới, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, nhiều cá nhân, tổ chức ở
nước ngoài tìm cách chi phối Hội Thánh, nhất là thông qua các khoản tài trợ.
Vì vậy, đã xuất hiện tư tưởng ngộ nhận, muốn lìa bỏ truyền thống tốt đẹp của
Hội Thánh. Số chức sắc trẻ tuy sinh ra và lớn lên trong môi trường XHCN,
được xét tuyển tư cách công dân nghiêm ngặt trước khi vào Trường Kinh
Thánh thần học nhưng sau khi ra trường đã liên tục vi phạm pháp luật. Mục
sư nhiệm chức Âu Quang Vinh cho rằng: "Nhà nước can thiệp gây sức ép đối
với Hội Thánh Tin Lành với đường hướng tham gia vào các tiến trình chính trị, xã hội là sai lầm ".18
Mặt khác, sự tác động của các cá nhân, tổ chức quốc tế đã có tác dụng
ngầm "cổ xúy" tinh thần cho một số chức sắc Công giáo và Tin Lành vốn có
tư tưởng “vọng ngoại”. Họ coi đây là yếu tố hậu thuẫn, là nơi có thể "gửi
gắm", "bấu víu" khi tiến hành các hoạt động khiếu kiện, với hy vọng phía
nước ngoài sẽ can thiệp cho họ.
- Ba là: Tính chất của công tác quản lý rất phức tạp
Thứ nhất: Nội dung diễn biến của các vụ việc rất phức tạp.
Ở đây, xảy ra 2 khuynh hướng:
Một, các chức sắc đã sử dụng quần chúng đấu tranh với nhau hoặc tập
trung đông người đến các cơ quan ở Trung ương và địa phương để khiếu kiện
18 Âu Quang Vinh - Tiểu sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam - Luận án tốt nghiệp Trường Kinh Thánh thần học, dẫn lại của Nguyễn Xuân Hùng - Đạo Tin Lành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Những vấn đề lịch sử và hiện tại - Báo cáo ngày 13/3/1996 lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
vượt cấp, gây sức ép, cung cấp diễn biến vụ việc cho các cơ quan thông tin
115
đại chúng hoặc thông qua mạng internet gửi bài đăng tải trên các trang web ở
nước ngoài hy vọng các lực lượng ở bên ngoài tác động. Họ còn sử dụng một
số giáo dân thiếu hiểu biết, bị ngộ nhận, thông qua tổ chức chính trị của ta
(Ủy ban đoàn kết Công giáo, Hội Liên hiệp Phụ nữ...), thông qua các linh mục
là đại biểu Quốc hội để kiến nghị với lãnh đạo Đảng và Nhà nước với hy vọng
chính quyền thành phố sẽ phải chấp nhận sự vi phạm, lấn lướt của họ. Tiêu
biểu là các vụ: Tòa Tổng giám mục Hà Nội hướng dẫn giáo dân đấu tranh đòi
5285 m2 nhà đất ở 193 Bà Triệu (trước đây là đền thờ Đức Mẹ Phatima), vụ
đòi lại Nhà Văn hóa quận Hoàn Kiếm, vụ tranh chấp trụ trì chùa Một Cột
(quận Ba Đình)...
Hai, do có những bức xúc nên quần chúng tín đồ có hành động bột
phát; nếu không ứng xử kịp thời sẽ xẩy ra hậu quả xấu về chính trị. Điển hình
như trong vụ kiến nghị Bộ Quốc phòng trả lại khu vực đất chùa Pháp Vân
(trước đây HTX cho đơn vị 559 mượn), nhân dân đã cắt điện, cắt nước của
đơn vị bộ đội. Thậm chí, họ còn thuê xe tải đổ đất chặn lối ra vào đơn vị.
Trong vụ tranh chấp ranh giới với chùa Thúy Lĩnh (xã Lĩnh Nam, huyện
Thanh Trì), một số cụ trong Hội Người Cao tuổi xã Lĩnh Nam đã mâu thuẫn quyết liệt dẫn đến việc trói nhà sư trụ trì chùa...19
Thứ hai: Công tác giải quyết diễn ra cũng rất phức tạp, trong rất nhiều
công việc, các cơ quan Nhà nước không thống nhất về quan điểm, chủ trương,
phương pháp giải quyết.
Rất nhiều hoạt động tôn giáo ban đầu không xuất phát từ mục đích hoặc
lý do chính trị nhưng quá trình diễn biến rất phức tạp. Nó tiềm ẩn nguy cơ gây
ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị của Thủ đô. Trên lĩnh vực kinh tế, nó
19 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2009), Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo ở Hà Nội trong thời gian tới.
chưa gây ra những thiệt hại đáng kể nhưng trong nhiều vụ việc, điều đáng
116
quan tâm là nó đã làm suy giảm nghiêm trọng lòng tin của chức sắc, tín đồ đối
với chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Điều đáng nói nữa là, qua công tác quản lý, giải quyết, vô tình đã tạo
nên sự thiếu thống nhất giữa các cấp, các ngành, các cơ quan trong việc thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng, làm ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý
của Nhà nước.
Ở đây, vấn đề đặt ra là, cần phải hình dung hết tính chất nghiêm trọng
trong hoạt động tôn giáo xảy ra ở Hà Nội. Bởi vì, khác với các địa phương
khác, Hà Nội là Thủ đô của cả nước, nếu các vụ việc này không được giải
quyết kịp thời, thu hẹp ảnh hưởng thì sẽ lan tỏa, thậm chí cộng hưởng đối với
các địa phương khác. Nó trực tiếp tạo nên nguy cơ mất ổn định chính trị,
phương hại đến chính sách đối ngoại của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý
Nhà nước, từ đó các thế lực thù địch có thể lợi dụng để vu cáo Việt Nam về
nhân quyền, tôn giáo để kiếm cớ can thiệp.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tại các vùng
đồng bào có đạo trọng điểm
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khóa VI) đã khẳng định rằng nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối
với con người. Bác Hồ cũng đã nói: "Dễ mười phần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong". Điều đó có nghĩa là, quần chúng nhân dân lao
động có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng, quyết định sự thành, bại của
cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước. Vì vậy, công tác vận động
quần chúng phải được đặt lên hàng đầu.
Tuyệt đại đa số quần chúng tín đồ tôn giáo ở Thành phố Hà Nội là
người lao động, có tinh thần yêu nước, nhưng có một bộ phận do nhận thức,
trình độ văn hóa yếu kém dễ bị bọn phản động, phần tử xấu tuyên truyền lừa
bịp, xuyên tạc nên có một bộ phận tín đồ cho rằng chính sách tôn giáo đang
117
hạn chế hoạt động của tôn giáo; số này trở thành cuồng tín, dễ bị kích động
lôi kéo vào các hoạt động chống chính quyền. Vì vậy, yêu cầu của công tác
vận động quần chúng là làm cho quần chúng tín đồ tin tưởng vào chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước, để từ đó họ hăng hái thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết tâm tham gia công cuộc đổi
mới do Đảng bộ và chính quyền địa phương lãnh đạo. thấy được âm mưu của
địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
Trong công tác vận động quần chúng, phải chú ý khơi dậy và phát huy
lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân của quần chúng. Do đó, phải tin
tưởng vào lòng yêu nước của quần chúng, không thành kiến và phải phân biệt
rõ những người do tư tưởng lạc hậu, cuồng tín mà câu kết với các phần tử
phản động cố tình chống đối.
Trong công tác vận động quần chúng, cần tranh thủ hàng ngũ chức sắc.
Đây là đội ngũ giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống đạo của các tôn giáo.
Làm tốt công tác tranh thủ chức sắc là biện pháp rất quan trọng trong việc
hướng lái đường hướng hoạt động các tôn giáo trong công tác quản lý. Làm
tốt công tác tranh thủ chức sắc còn có tác dụng thiết thực trong công tác nắm
tín đồ.
Vì vậy, phải tập trung bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
hướng dẫn cho mọi chức sắc biết và hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật
hiện hành của Nhà nước. Bên cạnh phương châm quản lý “Kiên trì – đồng bộ
- linh hoạt – đúng pháp luật”, công tác đối với chức sắc cần phải thực hiện
phương châm: "Gần - Hiểu - Cảm hóa - Bồi dưỡng và Sử dụng". Lôi kéo họ
về với cách mạng, không được đẩy chức sắc về phía bên kia để kẻ thù lôi kéo,
lợi dụng nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị phản động.
Hiện nay, có thể tạm phân chia hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở Hà
Nội đã phân hóa thành ba loại: loại tiến bộ, loại lưng chừng và loại cực đoan
118
có thái độ xấu. Trên cơ sở xác định đúng thái độ chính trị của từng loại chức
sắc mà có đối sách thích hợp. Nhìn chung, công tác tranh thủ các chức sắc tập
trung ở các điểm sau đây:
+ Đối với chức sắc tiến bộ: Coi trọng họ, cởi mở, chân thành, giúp đỡ
họ tiến bộ và thực hành tốt các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cho đúng quy
định của pháp luật. Bảo vệ họ, không để kẻ xấu khống chế, đả kích, cô lập, ly
gián họ với tín đồ. Tuy nhiên, phải cảnh giác với các phần tử cơ hội, giả danh
tiến bộ.
+ Đối với chức sắc cực đoan: Phải đi sâu nắm chắc đối tượng cụ thể để
có sự phân biệt chức sắc lạc hậu về chính trị. Nghiên cứu kỹ để có kế hoạch
đối phó với hành động từng người, tập trung các biện pháp nhằm cô lập, phân
hóa học trong hàng ngũ chức sắc và với giáo dân. Phát động tín đồ đấu tranh
gây dư luận lên án, phê phán, kết hợp với sự trấn áp và răn đe của chính
quyền. Xử lý thích đáng những người ngoan cố và làm cho quần chúng hiểu
để đấu tranh với các phần tử cực đoan lợi dụng tôn giáo nhằm thực hiện mưu
đồ chính trị xấu.
+ Đối với chức sắc lưng chừng: Tùy theo tình hình và khả năng cụ thể
mà cấp ủy và chính quyền huyện, xã, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho
họ tiến hành các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đúng quy định pháp luật. Chú
trọng việc tiếp cận, lôi kéo, cảm hóa nhằm nâng cao nhận thức của họ về tính
đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Đối
với họ, nên trân trọng đúng mức, tốt nhất là thông qua tín đồ có uy tín trong
địa phương để gần gũi, giúp đỡ và cảm hóa họ.
Muốn làm tốt công tác này, trước hết cấp ủy, chính quyền phải quan
tâm đúng mức, đầu tư sự chỉ đạo và tạo điều kiện vật chất cần thiết. Điều
quan trọng là phải có sự thống nhất, phối - kết hợp chặt chẽ giữa các ngành
hữu quan. Tránh tình trạng cùng một con người, nhưng ngành này coi là đối
119
tượng tranh thủ, ngành khác lại coi là đối tượng đấu tranh.
Để làm tốt công tác vận động quần chúng, Đảng bộ và chính quyền địa
phương phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi thiết thực
khác của quần chúng, động viên quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, trong đó, trọng tâm phát triển kinh tế, quan tâm tới những gia đình khó
khăn về kinh tế, tạo điều kiện về vốn, hướng dẫn họ làm kinh tế, thực hiện
xóa đói, giảm nghèo. Ngoài ra, phải tôn trọng đời sống tín ngưỡng của quần
chúng. Có như vậy, quần chúng tín đồ các tôn giáo mới yên tâm, tin tưởng
tham gia các phong trào ở địa phương.
Làm tốt công tác tuyên truyền trong quần chúng bằng các hình thức
phù hợp, đa dạng và phong phú. Tiến hành các hoạt động tuyên truyền chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước thông qua hệ thống loa
truyền thanh của phường, xã, các cuộc họp tại khu dân cư. Kịp thời biểu
dương gương người tốt, việc tốt, sống "Tốt đời, đẹp đạo".
Trong tuyên truyền phải biết đề cao những thắng lợi, những khởi sắc
trong công cuộc đổi mới quê hương, chú trọng động viên mặt tích cực của
giáo dân, tập trung tuyên truyền giáo dục những người chậm tiến; phải kiên
trì, thuyết phục có lý, có tình; tránh lời nói, việc làm xúc phạm đến tình cảm
tôn giáo.
Vận động tập hợp quần chúng vào các tổ chức cách mạng, không để
cho quần chúng bị lôi kéo vào các hội đoàn tôn giáo tiêu cực và các tổ chức
bất hợp pháp.
Công tác vận động thanh, thiếu niên là cực kỳ quan trọng, vì nó có tác
dụng trước mắt và lâu dài. Đảng phải nắm chắc được lớp trẻ, dìu dắt họ tiến
bộ về tư tưởng, giúp họ vươn lên trở thành lực lượng tiên phong trong mọi
phong trào của địa phương.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phải tổ chức cho thanh, thiếu
120
niên tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao ở địa
phương. Đoàn thanh niên phối hợp chặt chẽ với các ngành văn hóa thông
tin, giáo dục để tăng cường các hoạt động phù hợp với lứa tuổi thanh, thiếu
niên... để thu hút họ vào tổ chức.
Phụ nữ theo các tôn giáo thường ít được hội họp, nhưng họ là những
người có ảnh hưởng quan trọng trong gia đình. Vì vậy, yêu cầu của công tác
vận động là làm cho chị em tích cực lao động sản xuất, tham gia phong trào
"xóa đói giảm nghèo", "sinh đẻ có kế hoạch" thực hiện nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa mới. Để đạt được yêu cầu trên, trước hết phải chăm lo quyền
lợi thiết thực của chị em, tạo điều kiện cho chị em được bình đẳng trong công
việc, trong sinh hoạt chính trị - xã hội; phải chú ý đào tạo cán bộ nữ trong
vùng giáo; giúp họ khắc phục khó khăn, bồi dưỡng, dìu dắt để họ yên tâm
công tác.
Công tác phát triển đảng viên và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới đã khẳng định: "Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng tín đồ" [44,49]. Để làm tốt công tác này cần phải
xây dựng lực lượng chính trị mà trước hết là công tác xây dựng Đảng. Đây là
nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, thường xuyên và lâu dài.
Trước hết cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối tượng đảng là người
có đạo. Đối tượng được quan tâm trước hết là các chức danh chủ chốt ở cơ sở
(chính quyền, đoàn thể), quần chúng có uy tín với đồng bào theo đạo, lực
lượng thanh niên có văn hóa chuyên môn khá; chú trọng các địa bàn trọng
điểm về tôn giáo.
Trong công tác phát triển Đảng tránh tình trạng chạy theo số lượng,
phải chú ý đến chất lượng Đảng viên. Sau khi kết nạp quần chúng vào Đảng,
tổ chức cơ sở Đảng phải phân công cho đảng viên bồi dưỡng nâng cao nhận
121
thức, quan điểm, lập trường và bản lĩnh chính trị; nhận thức tốt chủ trương,
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho họ. Đảm bảo cho quần chúng
sau khi được vào Đảng vẫn tham gia sinh hoạt tôn giáo.
Các cấp ủy Đảng cần tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
và nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Tổ chức
cơ sở Đảng ở xã, phường, thị trấn phải nắm vững và thực hiện đúng chức năng
là hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện ở cơ sở. Sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững nề nếp, chế độ sinh
hoạt của tổ chức Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 về những vấn đề
cấp bách trong giai đoạn hiện nay, chú ý phê bình và tự phê bình. Thường
xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy, chi bộ; nâng cao
tính giáo dục, tính chiến đấu và tính lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; xây dựng
và thực hiện tốt nội dung, quy chế của tổ chức cơ sở Đảng đề ra.
Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Bởi vì chi bộ là tế
bào, đơn vị chiến đấu cơ bản, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Chất
lượng của tổ chức cơ sở Đảng phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng chi bộ. Các
chi bộ duy trì nề nếp sinh hoạt, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê
bình, kiểm tra nhiệm vụ đã phân công cho Đảng viên. Trong nội dung sinh hoạt
cần quán triệt đầy đủ và cặn kẽ các nghị quyết, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về các mặt kinh tế - xã hội nói chung và tôn giáo nói riêng.
Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, nâng cao trình độ nhận thức
của đội ngũ Đảng viên về mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo. Hơn
nữa, Đảng viên gốc đạo phải được giáo dục, học tập những kiến thức cơ bản về
thế giới quan duy vật và phương pháp duy vật biện chứng, quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về tôn giáo. Đồng
thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ của người
đảng viên Cộng sản với nhu cầu đời sống tín ngỡng, tôn giáo của họ.
122
Đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng cốt cán
Hiện nay, ở các vùng tôn giáo trọng điểm, đội ngũ nòng cốt, cốt cán là
tín đồ và chức sắc tiến bộ có chiều hướng giảm hoặc không phát huy được vai
trò, tác dụng; trong khi đó, do trong thời gian qua công tác xây dựng lực
lượng cốt cán chưa được quan tâm đúng mức, nên đội ngũ cán bộ cốt cán mới
còn rất mỏng. Bởi vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cốt cán làm nòng cốt
trong các phong trào cách mạng ở địa phương có nhiều giáo dân trở thành vấn
đề cấp bách. Trước mắt, cần tăng cường củng cố lực lượng cốt cán đã có; cần
có kế hoạch tạo nguồn để phát triển lâu dài đội ngũ cốt cán mới ở những địa
bàn trọng điểm tôn giáo. Cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chính trị, hiểu biết các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn
giáo cho đội ngũ cốt cán; cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cả về vật chất
lẫn tinh thần đối với lực lượng này.
Qua trình bày trên cho thấy, để xây dựng một lực lượng chính trị vững
mạnh trong các vùng tôn giáo, cần tăng cường công tác xây dựng Đảng nhằm
tạo ra một đội ngũ cán bộ, Đảng viên gốc giáo đông về số lượng và có chất
lượng cao; củng cố các đoàn thể quần chúng nhằm tập hợp, thu hút đồng
bào tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng, phát triển đội ngũ cốt cán
là tín đồ, chức sắc để nắm sâu hơn và chắc hơn quần chúng có đạo. Từ đó,
những cán bộ, Đảng viên này sẽ là nhân tố tập hợp quần chúng tạo tiếng nói
của tín đồ tôn giáo Thủ đô góp phần gắn bó, đồng hành của dân tộc của các
tôn giáo.
3.2.4. Kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp từ cấp Thành
phố đến cấp xã
Đảng ta luôn luôn coi trọng việc phát triển đội ngũ cán bộ và xem đó là
một nhân tố quyết định. Xuất phát từ nhận thức về thực trạng việc thực hiện
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta vừa qua, về yêu cầu của việc
123
đảm bảo chính sách đó ở thời kỳ phát triển mới, Đảng ta đã xem đổi mới một
cách căn bản và toàn diện đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo là một vấn đề
cấp bách. Đối với Hà Nội, vấn đề này lại càng rõ.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, đội ngũ chức sắc, nhà tu hành có gần
2.500 người, Hầu hết họ được các Giáo hội bồi dưỡng, đào tạo cơ bản, có hệ
thống và thường xuyên. Trong đó, tỷ lệ có trình độ đại học khá đông. Bên
cạnh việc đào tạo ban đầu, việc đào tạo lại các chức sắc cũng được tiến hành
đều đặn hàng năm qua các kỳ an cư kiết hạ của Phật giáo, các kỳ tĩnh tâm của
Công giáo và các kỳ bồi linh của Hội thánh Tin lành. Chức sắc, nhà tu hành
các tôn giáo khá đông, có trình độ học vấn và trình độ thần học tương đối cao,
có năng lực tổ chức điều hành với một đạo hạnh cá nhân tương xứng. Vì thế,
đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng phải có trình độ học vấn và trình
độ chuyên môn cao, có năng lực thực tiễn phong phú, có phẩm chất chính trị
vững vàng, có đạo đức và uy tín cá nhân cao.
Để đào tạo, xây dựng, hoàn thiện đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối
với tôn giáo cần tập trung vào một số vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, cần tiến hành phân loại đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể; cần có căn cứ định rõ tiêu
chuẩn đối với mỗi loại cán bộ.
Việc phân loại cán bộ làm công tác tôn giáo có thể tiến hành theo
những cơ sở khác nhau. Chẳng hạn, phân loại theo tính chất chức năng,
chuyên môn của nhiệm vụ. Từ đó, có loại cán bộ của Đảng, cán bộ nghiên
cứu giảng dạy, cán bộ trực tiếp quản lý nhà nước đối với tôn giáo, cán bộ
công an, cán bộ Mặt trận và các đoàn thể. Phân loại theo các cấp hành
chính, sẽ có loại cán bộ làm công tác tôn giáo ở cấp Thành phố, cấp huyện
và cơ sở...
Dựa trên sự phân loại như vậy, chúng ta sẽ có căn cứ để xây dựng ch-
124
ơng trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng loại cán bộ, nó cho phép tránh
tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nội dung kiến thức dẫn tới quá căng thẳng, dồn
nén thông tin hoặc sự nhạt nhẽo, hụt hẫng không đáng có trong tâm lý của
người cán bộ.
Thứ hai, cần có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tầm quan trọng của
công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Đào tạo cán bộ phải toàn diện, chuyên sâu nhằm đáp ứng yêu cầu từng
lĩnh vực quản lý, từng khâu công tác và theo chức danh, tiêu chuẩn cán bộ.
Hướng đào tạo và hoàn thiện đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
đối với tôn giáo phải đạt được những yêu cầu cơ bản sau:
+ Về chính trị: Phải trang bị cho cán bộ những kiến thức lý luận cơ sở
về chủ nghĩa Mác - Lênin; về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
nhất là đường lối, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước
trong giai đoạn hiện nay.
+ Về nghiệp vụ quản lý hành chính: Mỗi cán bộ phải được đào tạo cơ
bản về quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với
tôn giáo nói riêng. Đây là điều kiện để cán bộ quản lý nhà nước có kiến thức
nhằm từng bước hình thành các kỹ năng, thao tác trong nghiệp vụ chuyên
môn của mình, khắc phục tác phong quan liêu, trì trệ.
+ Về pháp luật: Phải có trình độ, kiến thức nhất định về pháp luật, nhất
là luật Hành chính, luật Dân sự, luật Hình sự. Hiểu pháp luật và làm theo pháp
luật là thước đo trình độ năng lực của người cán bộ làm công tác quản lý, là
một trong những điều kiện để tiêu chuẩn hóa cán bộ. Hiện nay, trình độ hiểu
biết pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý nói chung, quản lý tôn giáo nói
riêng còn thấp so với yêu cầu thực tiễn, nên việc triển khai thực hiện kế hoạch
đào tạo về pháp luật cho cán bộ quản lý nhà nước đối với tôn giáo là cần thiết.
Duy trì các hình thức bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn về pháp luật cho cán bộ.
125
Tổ chức phổ biến các văn bản pháp luật mới, thông báo, trao đổi kinh nghiệm
quản lý để bổ trợ kịp thời tình trạng thiếu hụt kiến thức như hiện nay.
+ Về kiến thức tôn giáo: Đây cũng là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với
đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo nói chung
và đạo Công giáo nói riêng. Mặt khác, do đội ngũ cán bộ làm công tác này
trong thời gian qua không ổn định; do chưa được đào tạo có hệ thống và cơ
bản kiến thức về tôn giáo nên, nói chung, cán bộ còn thiếu am hiểu sâu sắc về
tôn giáo. Vì vậy, cần tập trung đào tạo kiến thức về tôn giáo. Có thể đào tạo
ngắn hạn, dài hạn, đào tạo tại chỗ hoặc tuyển sinh viên ở các trường về, sau
đó đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về tôn giáo và quản lý
tôn giáo. Thực tế, việc này đã được tiến hành nhưng mới chỉ ở mức độ đơn lẻ,
cá nhân chứ chưa toàn diện và có chiều sâu.
Thứ ba, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ đi liền với quy hoạch đào
tạo và bồi dưỡng.
Quy hoạch cán bộ phải tiến hành ở cả ba cấp: cán bộ làm công tác tôn
giáo ở xã, phường, huyện, thị, thành, Thành phố; trong đó, phải đặc biệt chú ý
quy hoạch cán bộ quản lý ở Ban tôn giáo Thành phố.
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ theo yêu cầu định hướng trên đây, cần
quy hoạch đào tạo (bao gồm đào tạo ban đầu và đào tạo lại), quy hoạch bồi
dưỡng (bao gồm bồi dưỡng định kỳ hàng năm theo chuyên đề và bồi dưỡng
đột xuất theo tình huống công việc).
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt.
Phẩm chất đạo đức là một chuẩn mực chung cho mọi cán bộ, công chức
Nhà nước; nhưng đối với các cơ quan, đơn vị làm công tác quản lý nhà nước
đối với tôn giáo phải được đặc biệt coi trọng, vì biểu hiện tiêu cực của cán bộ
trong lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của quần chúng tín đồ
và các chức sắc tôn giáo đối với Đảng và Nhà nước, tạo sơ hở cho kẻ địch và
126
các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động, phá hoại.
Phải giáo dục cho cán bộ quản lý có ý thức tôn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội quy, kỷ luật của cơ quan; làm đúng
những thủ tục hành chính, quy trình công tác đã quy định. Có thái độ tôn trọng
đúng mực, chống thái độ hách dịch cửa quyền và mọi biểu hiện tiêu cực (như
tham ô, nhận hối lộ, làm sai nguyên tắc). Có thái độ xây dựng đoàn kết trong cơ
quan, đơn vị, tích cực đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với tôn giáo cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức là
hai mặt quan trọng, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch, vững
mạnh, đủ năng lực, đủ trình độ, phẩm chất, hoàn thiện tốt nhiệm vụ, chức
năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
- Cần có chính sách tạo sự ổn định cần thiết cho đội ngũ cán bộ được
phân công trực tiếp làm công tác tôn giáo của Thành phố.
Chính sách này phải là những quy định cụ thể - từ việc quy hoạch và
tuyển chọn người làm công tác tôn giáo cho đến quy định về việc sử dụng và
đãi ngộ đối với họ. Điều này phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII) về chiến lược phát triển cán bộ trong thời kỳ mới. Phải ban hành
các quy chế cụ thể trong hệ thống công tác tổ chức cán bộ, để từ đó, các chính
sách, quy định nhanh chóng đi vào cuộc sống. Khi có đủ số lượng biên chế
thích hợp, với một chất lượng ngày càng nâng cao, có sự nhiệt tình, có phẩm
chất đảm bảo, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo sẽ là nhân tố quyết định
cho sự thành công của việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện để Công giáo ở
Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo,
cũng cần tập trung đổi mới hoàn thiện Ban tôn giáo thuộc hệ thống hành
pháp từ thành phố đến quận, huyện, thị xã.
127
Ban tôn giáo từ cấp thành phố đến cấp quận, huyện, thị xã cần có địa vị
pháp lý và thẩm quyền đầy đủ của một cơ quan hành chính nhà nước có chức
năng thực thi quyền lực công tác trong quá trình quản lý nhà nước đối với tôn
giáo theo quy định của pháp luật; có khả năng xác lập được cơ chế thông tin
hai chiều thông suốt, chính xác, kịp thời, đảm bảo điều kiện hoạt động cần
thiết của từng đơn vị trong hệ thống.
Về địa vị pháp lý: Ban tôn giáo là cơ quan thuộc ủy ban nhân dân thành
phố, huyện, thị.
Về thẩm quyền pháp lý: Có chức năng quản lý nhà nước đối với tôn
giáo trong phạm vi địa phương theo luật định.
Về chế độ công vụ: Giúp việc cho ủy ban nhân dân trong quá trình ban
hành các quyết định hành chính quản lý nhà nước đối với tôn giáo theo đúng
sự phân cấp quản lý của ủy ban nhân dân Thành phố và chỉ thị công tác của
cấp trên (ngành dọc).
Trên thực tế, trong việc quản lý nhà nước đã có nhiều vụ, việc tôn giáo
không được nắm bắt, phát hiện kịp thời ngay tại cơ sở. Do đó, khi tiến hành
giải quyết gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng này, cần phải có
người chuyên trách ở cơ sở. Ở Thành phố Hà Nội có 580 xã, phường, thị trấn,
trong đó, có đến gần 100 xã phường, thị trấn là địa bàn trọng điểm của tôn giáo.
Nhiều xã, phường có khu dân cư, thôn là vùng Công giáo toàn tòng. Do vậy
những cơ sở này cần bố trí một định suất biên chế làm công tác tôn giáo. Cán
bộ này có chức năng giúp việc cho thường trực ủy ban nhân dân trong công
tác quản lý hành chính nhà nước đối với tôn giáo theo quy định của chính
sách, pháp luật trong phạm vi địa phương mình.
3.2.5. Phát triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào có đạo
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, do vậy muốn thay đổi
nó, trước hết phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy
128
sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc vật chất kinh tế - xã hội
gây nên những ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn
giáo là đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng chứ không phải là trực
tiếp tấn công vào thần thánh và những biểu hiện tín ngưỡng khác. Một thế giới
như thế chỉ có thể là kết quả của một quá trình lâu dài thực hiện nhiệm vụ cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần - trí
tuệ cho con người. Chỉ nhờ kết quả đạt được trong quá trình đó, những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội mới dần dần được loại bỏ,
những mâu thuẫn tôn giáo sẽ tự tiêu vong.
Cần phải có nhiều biện pháp tích cực và vững chắc nhằm thực hiện cho
được ba mục tiêu chủ yếu: xóa được đói giảm được nghèo; ổn định và cải
thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo; nâng cao
dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
- Phát triển văn hóa - xã hội.
Đảng ta, trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) một lần nữa khẳng
định vai trò to lớn của văn hóa: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội". Nghị
quyết đó cũng xác định: "Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc". Những quan điểm nền tảng đó không những giúp chúng
ta nhận thức sâu sắc về vai trò của văn hóa và con đường phát triển của văn
hóa Việt Nam, mà còn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong khi giải
quyết các vấn đề văn hóa cũng nh các vấn đề xã hội cụ thể. Để xây dựng và
phát triển đời sống văn hóa của đồng bào Công giáo ở Hà Nội, coi đó là một
trong những giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo đang nổi cộm, thì không thể
không dựa trên những quan điểm nêu trên của Đảng ta về văn hóa.
Để nâng cao đời sống văn hóa cho đồng bào có đạo ở Hà Nội hiện nay,
cần làm tốt các công tác sau:
129
+ Phát triển công tác giáo dục: Trên chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ, việc đầu tư cho giáo dục cần được quan niệm như đầu tư vào kinh tế
và có giá trị như kinh tế. Công tác giáo dục vừa phục vụ nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội trước mắt, vừa chuẩn bị công tác đào tạo con người, đào tạo
cán bộ cho tương lai.
Đối với vùng trọng điểm tôn giáo, ngành giáo dục cần đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng chương trình dạy và học cho phù hợp. Coi trọng kinh phí
đầu tư của Nhà nước; tu sửa, mở thêm các trường tại khu vực đông dân cư
+ Phát triển y tế: Xây dựng, củng cố mạng lưới y tế ở các xã, nâng cao
chất lượng các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Thực
hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về phòng chống dịch bệnh. Phổ biến
kiến thức dân số - kế hoạch hóa gia đình cho quần chúng tín đồ.
Trong thời gian tới, cần phát huy phong trào văn hóa quần chúng ở cơ
sở; phát triển các loại hình văn nghệ như tốp ca xung kích. Tuyên truyền, vận
động xây dựng các làng văn hóa, khối phố văn hóa gắn với xây dựng gia đình
văn hóa nhằm đạt 4 tiêu chuẩn: Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, đoàn
kết, giúp đỡ nhau trong tình làng nghĩa xóm; thực hiện kế hoạch hóa gia đình,
nuôi dạy con khỏe mạnh, chăm sóc tốt người nhà; thực hiện nghĩa vụ công
dân; xóa bỏ các phong tục, tập quán, tín ngưỡng lạc hậu, mê tín dị đoan. Có
kế hoạch bảo vệ, kế thừa và phát huy vốn văn hóa truyền thống. Đầu tư xây
dựng nhiều hơn các khu vui chơi, giải trí để thanh, thiếu niên sinh hoạt.
Đối với công tác thông tin tuyên truyền, cần nâng cao chất lượng và
thời lượng phát sóng của hệ thống truyền thanh tại các xã, phường, thị trấn.
Nội dung các buổi phát sóng chú ý đến công tác tuyên truyền chính sách tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta; biểu dương gương người tốt
việc tốt trong đồng bào có đạo; đấu tranh chống các hoạt động mê tín, dị đoan
và truyền đạo trái phép.
130
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trên cơ sở lý luận về quản lý, tôn giáo, quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo và thực trạng hoạt động tôn giáo, hoạt động quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội, chương 3 dự báo tình hình tôn
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới, nêu lên quan điểm
chung, quan điểm cụ thể, phương châm của công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới như hoàn thiện hệ thống
pháp luật, nâng cao nhận thức của cán bộ nói chung và cán bộ làm công tác tôn
giáo nói riêng, nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ vùng tôn
giáo trọng điểm, kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp, nâng cao đời
sống kinh tế, xã hội, dân trí trong đồng bào có đạo./.
131
KẾT LUẬN
Hà Nội với vị trí là Thủ đô, tôn giáo trên địa bàn Hà Nội có những nét
đặc thù khác hẳn với các địa phương trong cả nước. Là địa phương đa dạng về
loại hình tôn giáo và có đông tín đồ, chức sắc các tôn giáo, trung tâm và trụ sở
Trung ương đầu não của các tôn giáo lớn; đồng thời Hà Nội là trung tâm chính
trị - hành chính, văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, nơi
có trụ sở của các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các tổ chức
chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi
diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước; do vậy, Công
tác tôn giáo cũng như quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Hà Nội có vị trí rất
quan trọng, có ảnh hưởng không chỉ ở Thủ đô mà còn tác động, ảnh hưởng đến cả
nước và quốc tế.
Trong xu thế đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước
xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về công tác tôn giáo và quản lý nhà
nước tôn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vừa bổ
sung, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho công tác tôn giáo, vừa phù hợp với tình
hình thực tế cũng như tạo điều kiện cho các tôn giáo tích cực tham gia vào
công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp
phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới. Đó chính là
cơ sở lý luận và thực tiễn đề học viên chọn nghiên cứu vấn đề cụ thể quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
Từ Luận văn có thể nêu khái quát một số vấn đề sau:
1) Một trong những vấn đề cơ bản của Luận văn là làm rõ khái niệm và
đặc trưng của tôn giáo, hoạt động tôn giáo, cũng như sự cần thiết phải quản lý
Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Hệ thống hóa những quan điểm cơ bản,
132
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về
tôn giáo.
Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã và đang xây dựng, hoàn thiện một cách hệ
thống những quan điểm cơ bản về tôn giáo gắn với tình hình thực tiễn tôn
giáo trong nước và quốc tế; vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở nước
ta là vấn đề xuyên suốt trong quá trình nhận thức và hành động cách mạng
của nhân dân ta. Hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách về công tác tôn giáo như: Nghị quyết 24 -
NQ/TW, Nghị quyết 25–NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định
22/2005/NĐ-CP của Chính phủ... các văn bản đó đã thể hiện quan điểm nhất quán
của Đảng và nhà nước ta về công tác tôn giáo.
2) Tổng hợp, phân tích và đánh giá khách quan các điều kiện tự nhiên,
tình hình kinh tế, văn hóa- xã hội có liên quan và khái quát thực trạng tôn giáo
và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có ảnh hưởng lớn đến các tỉnh, thành phố
trong nhiều lĩnh vực, trong đó có tôn giáo. Các tôn giáo hoạt động tại Hà Nội thể
hiện tính chất đa dạng, ảnh hưởng nhiều đến việc tăng cường và phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Điều này đã để lại mối quan hệ đạo – đời hết sức phức tạp.
Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng, Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội đã đề ra các biện pháp nhằm thực hiện tốt quản lý nhà nước đối với tôn
giáo trên địa bàn, thông qua chủ chương, chính sách đã được cụ thể hoá ở các
cấp các ngành, Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội
đã từng bước đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân
có đạo, hướng dẫn và đảm bảo cho hoạt động tôn giáo phù hợp với luật pháp
133
và lợi ích của dân tộc, góp phần đoàn kết lương giáo, giữ vững trật tự an ninh,
chống lợi dụng tôn giáo trên địa bàn, đồng thời thúc đẩy kinh tế vùng giáo
phát triển. Qua đó, quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo tích cực tham gia
xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo, các phong trào cách mạng, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; song, do tình hình tôn giáo trong
nước nói chung, Hà Nội nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù
địch đang tìm cách kích động, lợi dụng tôn giáo chống lại Nhà nước ta, vì
vậy, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn bộ lộ những
hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
3) Từ thực trạng và dự báo tình hình có liên quan, Luận văn đã đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội, phù hợp trong bối cảnh phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương, có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, đáp ứng được
công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Dựa trên quan điểm cơ bản của Đảng, các đường lối, chính sách tôn giáo
của Nhà nước về công tác tôn giáo, tham khảo các kết quả công trình nghiên
cứu của những người đi trước và gắn nhiệm vụ chủ yếu của đề tài đặt ra trong
bối cảnh hiện nay, luận văn đã xác định giá trị khoa học đặt cơ sở lý luận cho
việc đưa ra những giải pháp quản lý nhằm phát huy kết quả đạt được, đồng
thời khắc phục những hạn chế đang đặt ra, góp phần nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một vấn đề
lớn, phức tạp, cả về lý luận và thực tiễn còn nhiều điểm chưa được thống
nhất. Quá trình nghiên cứu, tác giả đã tuân thủ quy trình và phương pháp
nghiên cứu khoa học. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng, thời gian
134
nghiên cứu hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả
mong muốn được sự chỉ bảo của các thầy, các cô, của Hội đồng Khoa học,
của các chuyên gia đóng góp, trao đổi để nâng cao chất lượng đề tài với hy
vọng sẽ được tiếp tục nghiên cứu đề tài này ở cấp học cao hơn./.
135
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (21.3.2003),
Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo, Báo Hà Nội mới số 1225, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 24/TW – Ban Dân vận Trung ương
(30.02.1998), Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TƯ của Bộ
Chính trị khóa VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Phương hướng công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 01-BC/BCĐ.
3. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới
(Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương (6/3/2002), Chỉ thị của Ban Bí thư về
một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo
hiện nay, số 09-CT/TW.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội, Tình hình an ninh tư
tưởng ở trong nước, Thông báo nội bộ phục vụ sinh hoạt chi bộ tháng 3/2003.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (2010), Văn kiện Đại hội
đại biểu lần thứ XV Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Quy định một số điểm về kết nạp
đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn
giáo, số 123-QĐ/TW.
8. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc; về công tác
tôn giáo, số 57-QĐ/TW.
136
9. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận của Ban Bí thư về xây
dựng cốt cán trong tôn giáo, số 08-KL/TW.
10. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (26/7/1999), Báo cáo Tình hình thực
hiện Chỉ thị số 21 của Thành ủy "Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới", số 12-BC/DV.
11. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (02/4/2005), Báo cáo Tình hình
khiếu kiện liên quan đến tôn giáo ở Thủ đô Hà Nội, số 48 – BC/DVTU.
12. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2009), Tăng cường công tác dân
vận của chính quyền cơ sở ở Hà Nội trong tình hình hiện nay, Nxb Giao
thông vận tải, Hà Nội.
13. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998), Báo cáo đề tài khoa học:
Đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động quần chúng tôn giáo, xây
dựng cơ sở chính trị vùng giáo Hà Nội, góp phần thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới ở Thủ đô.
14. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998), Công tác dân vận của hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới
(Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội.
15. Ban Quản trị Thánh đường Hồi giáo Hà Nội (2013), Quy chế hoạt
động của Ban Quản trị Thánh đường Hồi giáo Hà Nội.
16. Ban Tôn giáo của Chính phủ (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam,
Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 1993.
17. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (08/5/2002), Báo cáo Sơ kết thực
hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin Lành, số 57/BC-TG.
18. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (2003), đề tài khoa học cấp thành phố
Hoạt động của đạo Tin Lành tại Thủ đô Hà Nội: Thực trạng – Giải pháp, Hà Nội.
137
19. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (20/12/2002), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2002. Định hướng chương trình công tác năm 2003, số
195/BC-TG.
20. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (09/12/2003), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2003. Định hướng chương trình công tác năm 2004, số
186/BC-TG.
21. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (15/12/2004), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2004. Định hướng chương trình công tác năm 2005, số
190/BC-TG.
22. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (18/12/2005), Báo cáo công tác tôn
giáo năm 2005, số 193/BC-TG.
23. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (12/12/2006), Báo cáo công tác tôn
giáo năm 2006, số 181/BC-TG.
24. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (21/12/2007), Báo cáo công tác tôn
giáo năm 2007, số 189/BC-TG.
25. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (19/12/2008), Báo cáo tình hình
tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2008, phương
hướng nhiệm vụ năm 2009, số 216/BC-TG.
26. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (11/12/2009), Báo cáo tình hình
tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2009, phương
hướng nhiệm vụ năm 2010, số 204/BC-TG.
27. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (09/12/2010), Báo cáo tình hình
tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2010, phương
hướng nhiệm vụ năm 2011, số 192/BC-TG.
28. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (07/12/2011), Báo cáo tình hình
tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2011, phương
hướng nhiệm vụ năm 2012, số 189/BC-TG.
138
29. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (25/11/2012), Báo cáo tình hình
tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2012, phương
hướng nhiệm vụ năm 2013, số 182/BC-TG.
30. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (04/12/2013), Báo cáo tình hình
tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2013, phương
31. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội, Báo cáo Tình hình thực hiện Thông
hướng nhiệm vụ năm 2014, số 196/BC-TG.
tư số 25/2004/TT-BNV của Bộ Nội vụ, số 122/BC-TG.
32. Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo đề tài khoa học
“Thực trạng Công giáo Thành phố Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc –
Thuận lợi, khó khăn. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”. Đề án “Công giáo
Việt Nam thực hiện đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc” của Ban
Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội.
33. Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2013), Chuyên đề Hoạt động
quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo tại thành phố Hà Nội.
34. Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2009), Chuyên đề Giải pháp
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác giải quyết các vụ việc
khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo ở Hà Nội trong thời gian tới.
35. Ban Tổ chức Trung ương (2005), Hướng dẫn thực hiện Quy định số
123-QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị “Một số điểm về kết nạp đảng
viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo, số
40-HD/BTCTW.
36. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (28/8/1997), Chỉ thị Về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 21-CT/TU.
37. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (19/8/2007), Chỉ thị Về tiếp tục
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 19-CT/TU.
139
38. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (30/6/2002), Báo cáo Sơ kết thực
hiện chủ trương đối với đạo Tin Lành, số 24-BC/TU.
39. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (15/4/2003), Đề án Thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX),
số 25-ĐA/TU.
40. Bộ Ngoại giao (bản số 00203), Báo cáo về vấn đề nhân quyền và
công tác đấu tranh chống các thế lực lợi dụng nhân quyền để chống ta.
41. Trương Bá Cần (2/2008), “Về nhà đất ở Tòa Khâm sứ Hà Nội”,
Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, (158).
42. Trương Bá Cần (10/2008), “Về vụ nhà đất ở Tòa Khâm sứ Hà Nội”,
Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, (166).
43. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị
định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX về công tác
tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Hồng Dương (2008), Kitô giáo ở Hà Nội, Nhà xuất bản
Tôn giáo, Hà Nội.
47. Nguyễn Hồng Dương (chủ biên), (2008), Công giáo Việt Nam-Một
số vấn đề nghiên cứu, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
48. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của Đảng về
tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
140
49. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Hiến Chương Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
50. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo
tổng kết công tác Phật sự nhiệm kỳ VI (2007-2012).
51. Giáo Hoàng Benedichto XVI (2009), Sứ điệp nói với các Giám mục
Việt Nam nhân dịp Ad Limina năm 2009.
52. Hạ Nghị viện Hoa Kỳ, Đạo luật nhân quyền cho Việt Nam HR.2863
( bản tiếng Anh và bản tiếng Việt - Tài liệu tham khảo ).
53. Hạ Nghị viện Hoa Kỳ, Đạo luật nhân quyền cho Việt Nam HR.1587
(bản tiếng Anh và bản tiếng Việt - Tài liệu tham khảo).
54. Hội đồng Giám Mục Việt Nam (2007), Bộ Giáo luật 1983, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
55. Nguyễn Xuân Hùng - Đạo Tin Lành trên địa bàn thành phố Hà Nội,
Những vấn đề lịch sử và hiện tại - Báo cáo ngày 13/3/1996 lưu trữ tại Viện
Nghiên cứu Tôn giáo.
56. http://tonggiaophanhanoi.org: Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, Sứ
điệp của Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, 22.9.2013
57. http://www.hdgmvietnam.org: Hội đồng Giám mục Việt Nam
(01/5/1980), Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, 15.9.2013
58. Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối
quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
59. Dương Ngọc Kiên (2003), Bước đầu tìm hiểu công tác quản lý nhà
nước đối với đạo Công giáo hiện nay trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Khóa luận
tốt nghiệp cử nhân Quản lý xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Hà Nội.
141
60. Nguyễn Văn Long (1999), Vận dụng quan điểm khoa học về tôn
giáo trong công tác đối với Thiên Chúa giáo hiện nay ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ triết học, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
61. Trần Đức Lương - Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội: Phấn đấu
để Hà Nội mãi mãi xứng danh "Thủ đô Anh hùng", Báo Nhân dân chủ nhật
16524 ngày 8/10/2000.
62. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2007), lý luận về tôn giáo và chính
sách tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
63. Quốc hội Hoa Kỳ, Luật Tự do tôn giáo quốc tế HR.2431 (bản tiếng
Việt - Tài liệu tham khảo).
64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2001, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Thành ủy Hà Nội (30.8.2007), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Chỉ thị 21-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy “về cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới (1997-2007), Số 87-BC/TU.
66. Tòa Tổng Giám mục Hà Nội (1992), Giáo lý của Hội Thánh Công
Giáo, Bản đánh máy.
67. Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo - Học Viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh (7.1998), Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: “Mối quan
hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Hà Nội.
68. Thành ủy Hà Nội (20/5/2001), Chương trình bảo đảm an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội ở Thủ đô giai đoạn 2001 - 2005, số 03-CTr/TU.
69. ThS. Văn Đức Thu - Chuyên luận khoa học Tác động của xu thế
toàn cầu hóa, khu vực hóa đối với hoạt động tôn giáo ở Thủ đô Hà Nội: Thực
142
trạng và giải pháp - thuộc đề tài: "Những tác động của xu thế toàn cầu hóa,
khu vực hóa đối với việc xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở Thủ đô
Hà Nội" mã số 01X-12/03-2002-02 do Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội chủ trì
và thực hiện.
70. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/PL-UBTVQH11),
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
71. UBND Thành phố Hà Nội (27/11/2009), Đề án tăng cường công
tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên địa bàn Thành
phố, số 107/ĐA-UBND.
72. Văn phòng Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012),
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, từ đại hội đến đại hội (1981-2012), Nhà xuất
bản Tôn giáo, Hà Nội.
73. Đặng Nghiêm Vạn (1997), Vấn đề tôn giáo và đặc điểm tôn giáo
hiện nay, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
74. Âu Quang Vinh - Tiểu sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam - Luận án
tốt nghiệp Trường Kinh Thánh thần học, dẫn lại của Nguyễn Xuân Hùng -
Đạo Tin Lành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Những vấn đề lịch sử và hiện
tại - Báo cáo ngày 13/3/1996 lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
75. John Renard (Người dịch Lưu Văn Hy và nhóm Trí tri - 2005), Tri
thức tôn giáo qua các vấn nạn và giải đáp, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
143