ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------

DƢƠNG NGỌC KIÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Khoa học quản lý

Hà Nội, tháng 10/ 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------

DƢƠNG NGỌC KIÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Khoa học quản lý

Đào tạo thí điểm

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân

Hà Nội, tháng 10/ 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn

giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” là công trình nghiên cứu của

riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn Thanh Xuân.

Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính

khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014

Tác giả

Dương Ngọc Kiên

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 2 3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 5 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 6 5. Địa bàn nghiên cứu .................................................................................. 6 6. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 6 7. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 6 8. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 7 9. Kết cấu của Luận văn .............................................................................. 8 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................... 9 1.1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ................................ 9 1.1.1. Những khái niệm ............................................................................. 9 1.1.2. Cơ sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo..................................................... 177 1.2. Khái lƣợc về các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội ............ 244 1.2.1. Khái quát tình hình tôn giáo Thành phố Hà Nội ...................... 244 1.2.2. Đường hướng hoạt động của các tôn giáo ................................ 277 * Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................. 344 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................... 355 2.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội .................................................................................................................... 355 2.1.1. Cơ cấu tổ chức của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố ........ 355 2.1.2. Thực trạng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Thành phố ........... 399 2.1.3. Tình hình hoạt động của hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo ... 455 2.1.4. Thực trạng cơ sở thờ tự của các tôn giáo .................................. 566 2.2. Công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................................................................... 599 2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng về tôn giáo ......... 599 2.2.2. Công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị cơ sở ................ 699 2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ...... 777 2.2.4. Công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo ....................... 91

2.2.5. Thành tựu, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân ........................... 933 * Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................. 988 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................... 999 3.1. Quan điểm về công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới ......................................... 999 3.1.1. Dự báo tình hình tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới ............................................................................................ 999 3.1.2. Quan điểm về công tác tôn giáo .................................................. 101 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới1055 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của chức sắc, tín đồ .................. 1055 3.2.2. Nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ..... 11111 3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tại các vùng đồng bào có đạo trọng điểm ................................................................ 1177 3.2.4. Kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp từ cấp Thành phố đến cấp xã ..................................................................................... 1233 3.2.5. Phát triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào có đạo1288 * Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................. 13131 KẾT LUẬN .............................................................................................. 13232 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 1366

Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được rất nhiều sự

động viên và giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức. Tôi vô cùng biết ơn

tất cả!

Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn

LỜI CẢM ƠN

nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học KHXH&NV, Phòng Sau Đại học

đã giúp đỡ cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành chương

trình Thạc sỹ này.

Xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy, cô trong Khoa Khoa học

quản lý, Trường Đại học KHXH&NV đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong

quá trình học tập.

Thanh Xuân, người hướng dẫn khoa học tận tình và chu đáo trong suốt quá trình

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014

Tác giả

Dương Ngọc Kiên

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

UBND : Ủy ban nhân dân

CSVN : Cộng sản Việt Nam

BHG : Ban hành giáo

HĐMV : Hội đồng mục vụ

HĐGX : Hội đồng giáo xứ

NXB : Nhà xuất bản

QLNN : Quản lý nhà nước

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hà Nội với vị trí là Thủ đô, đồng thời là trung tâm chính trị - hành chính

quốc gia, trung tâm về văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.

Hà Nội là nơi có trụ sở của các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các

tổ chức chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là

nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước. Đồng thời,

là nơi có trụ sở của Trung ương Giáo hội một số tôn giáo như: Phật giáo, Công

giáo, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Do vậy, những diễn biến và

hoạt động tôn giáo trong cả nước đều tác động trực tiếp đến tôn giáo ở Hà Nội,

từ đó, ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội Thủ đô. Mặt khác, những động

thái tôn giáo ở Hà Nội có quan hệ trực tiếp đến động thái tôn giáo cả nước.

Sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội, thành phố Hà Nội

được mở rộng về diện tích bao gồm: thành phố Hà Nội (cũ), toàn bộ diện tích

của tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 04 xã thuộc huyện Lương

Sơn, tỉnh Hòa Bình. Thành phố Hà Nội được mở rộng có diện tích 3.324,92 km²

(nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới), dân số 6.232.940 người, tại 29 quận,

huyện, thị xã; 580 xã, phường, thị trấn (gồm: 154 phường, 404 xã và 22 thị trấn).

Theo đó, các tổ chức tôn giáo và số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự của các

tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng tăng lên cả về số lượng cũng như

mức độ phức tạp trong công tác quản lý.

Hiện nay, Hà Nội có 7 tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận tư

cách pháp nhân là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Baha’i,

Minh sư đạo; đồng thời, còn tồn tại một số hiện tượng tôn giáo khác (đạo lạ)

như: Long hoa Di lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Bạch Chân Không, Thanh Hải

Vô thượng sư, Pháp luân công, Pháp môn Diệu âm… Các Tín ngưỡng dân gian

1

có: 5211 di tích đình, đền, nhà thờ họ, lăng, miếu, …. Trong đó, di tích được xếp

hạng: cấp Quốc gia khoảng 1.200 di tích; cấp Thành phố khoảng 900 di tích.

Trong những năm gần đây, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt

động tôn giáo đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của

chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của một số tổ chức tôn giáo, chức sắc

tôn giáo có nhiều diễn biến phức tạp, không tuân thủ các quy định của pháp luật.

Mặt khác, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo vẫn còn

có một số hạn chế. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, Đảng viên về chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo còn có sự bất cập, thiếu

nhất quán tạo mâu thuẫn trong công tác quản lý, gây bức xúc trong nhân dân

và đồng bào có đạo.

Vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo cần

nhanh chóng được tổng kết, đánh giá chính xác thực trạng, rút ra những bài

học kinh nghiệm; từ đó, đề ra các chủ trương, giải pháp quản lý phù hợp, định

hướng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội theo hướng

tuân thủ pháp luật, gắn bó, đồng hành cùng đất nước và dân tộc, góp phần ổn

định tình hình chính trị - tôn giáo tại Thủ đô. Đây là một đòi hỏi cấp bách cả

về lý luận và thực tiễn. Vì thế, tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn

tốt nghiệp của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Từ trước đến nay, hoạt động của các tôn giáo và công tác quản lý hành

chính nhà nước đối với hoạt động trên tại địa bàn thành phố Hà Nội đã được

tiếp cận ở một số góc độ khác nhau trong một số xuất bản phẩm như:

- Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, PGS.TS

Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo (2007). Công trình đề cập đến chủ

2

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng; tôn giáo

trên thế giới, các tôn giáo lớn ở Việt Nam, chính sách và việc thực hiện chính

sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng

dân gian ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo

(2005). Công trình đề cập đến những bài viết về vai trò tín ngưỡng dân gian

trong đời sống tinh thần người dân Việt Nam; một số lễ hội điển hình trong

tín ngưỡng dân gian Việt nam; thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân

tộc ở nước ta...

- Những thay đổi của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới, Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Kỷ yếu hội thảo

khoa học (2006). Công trình đề cập gồm những bài viết của nhiều tác giả

nghiên cứu về sự phát triển quan điểm về tôn giáo trong quá trình đổi mới đất

nước; đời sống tín ngưỡng Việt Nam trước tác động của sự biến đổi xã hội thế

giới và trong nước; đổi mới quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời kỳ

đổi mới...

- Mai Thanh Hải (1998), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam,

Nxb.CAND và TS.Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam,

Nxb.Tôn giáo, tuy là hai cuốn sách của hai tác giả khác nhau, nhưng về cơ bản

đã cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về lịch sử, giáo lý, cơ cấu

tổ chức của các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam.

- GS.Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn

giáo ở Việt Nam, Nxb.Chính trị, là cuốn sách cung cấp những kiến thức căn

bản và quan trọng về lý luận tôn giáo học mác-xít đồng thời người đọc có thể

nhìn nhận được khái quát thực trạng một số tôn giáo ở Việt Nam.

- GS.TS Đỗ Quang Hưng (2003) với hai cuốn sách: Nhà nước và giáo

hội và Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ nhà nước và giáo hội, Nxb.Tôn giáo,

3

tác giả đã lý giải sâu sắc về vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước

thế tục đương đại đối với tổ chức giáo hội các tôn giáo và Vấn đề tôn giáo

trong cách mạng Việt Nam- lý luận và thực tiễn,Nxb Lý luận chính trị;

Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn

giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS. TS Ngô Hữu Thảo- chủ

nhiệm đề tài(1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ

mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS. TS

Hoàng Minh Đô- Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam-

Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong

công tác lãnh đạo, quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,…

- PGS.TS Hoàng Minh Đô (2007), Dòng tu Công giáo ở nước ta hiện

nay và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước. Đề tài cấp Bộ,

Viện Nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh. Đề tài đã trình bày rõ thực trạng, phân tích những vấn đề đặt ra và đề

xuất giải pháp giải quyết vấn đề dòng tu ở Việt Nam.

Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo có các đề tài sau:

Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Tập bài giảng tôn giáo và công tác

quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam; Nxb Tôn giáo;

- Bùi Đức Luận (chủ biên), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối

với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, 2005;

Một số tôn giáo ở Việt Nam (Nhà xuất bản Tôn giáo – Ban Tôn giáo

Chính phủ), đây là tác phẩm có nội dung khái quát đầy đủ nhất về các tôn giáo

ở Việt Nam, giới thiệu về hầu hết các tôn giáo lớn tại Việt Nam, từ quá trình

hình thành, quá trình du nhập vào Việt Nam, đặc điểm, ảnh hưởng…

4

Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội (Ban Tôn

giáo Chính phủ), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (Phó

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Lữ), phân tích khá kỹ lưỡng về chính sách tôn

giáo ở Việt Nam trong lịch sử cận, hiện đại.

Ngoài những tác phẩm giới thiệu về các tôn giáo chung, các tác phẩm

bàn về chính sách tôn giáo qua các thời kỳ, còn có một số tác phẩm bàn về các

tôn giáo trong quá trình truyền đạo, phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội

như Lịch sử truyền giáo (Mục sư Hoàng Lê Phu), Tin lành và Công giáo (Mục

sư Bùi Hoành Thử), Kitô giáo ở Hà Nội (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hồng

Dương), Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981-2012)

(Văn phòng Hội đồng Trị sự - Giáo hội Phật giáo Việt Nam),

Về các đề tài khoa học, tiêu biểu có các công trình như Đổi mới nội

dung, phương pháp công tác vận động quần chúng tôn giáo, xây dụng cơ sở

chính trị Công giáo Hà Nội góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới

thủ đô của Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998); Đề tài khoa học: Hoạt động

của đạo Tin lành ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp của Ban Tôn giáo Thành

phố Hà Nội (2003),... Đồng thời, còn một số công trình nghiên cứu (trong đó

có một phần đề cập đến hoạt động của các tôn giáo và công tác quản lý nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội) hiện lưu

trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn

giáo – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Thông tin – Ban

Tôn giáo Chính phủ... Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn

diện về hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trên phương

diện quản lý nhà nước. Tuy nhiên, các công trình trên sẽ được sử dụng như tài

liệu tham khảo trực tiếp, kế thừa bổ ích cho quá trình thực hiện Luận văn.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các

tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua. Từ đó, đề xuất giải pháp

5

nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt

động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới.

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu trên phương diện quản lý nhà nước của

chính quyền và hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội đối với hoạt động của

các tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Baha’i, Hồi giáo, Minh sư

đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2004 đến nay.

5. Địa bàn nghiên cứu

Luận văn tập trung vào một số địa bàn trọng điểm về hoạt động của các

tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo như

quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, thị xã Sơn Tây, huyện Sóc Sơn, huyện Từ Liêm.

6. Câu hỏi nghiên cứu

- Nhận diện khái quát hoạt động của một số tôn giáo trên địa bàn thành

phố Hà Nội. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn

giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây như thế nào?

Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.

- Làm thế nào để nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước

đối với các hoạt động tôn giáo ở Hà Nội trong tình hình mới.

7. Giả thuyết nghiên cứu

Sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn và ban hành Pháp lệnh

tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số

22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp

lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và sau đó là Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày

08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo tại Thủ đô đã

có những biến chuyển rõ rệt, nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đúng

pháp luật của chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố

6

đã được đáp ứng về cơ bản. Hầu hết các hoạt động tôn giáo diễn ra theo

hướng chấp hành các quy định của Pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn có

những bất cập, hạn chế như: trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác quản

lý còn hạn chế, sự thay đổi về tổ chức, đội ngũ làm công tác quản lý; sự phối

hợp, thống nhất trong tham mưu, chỉ đạo, thực hiện công tác quản lý của các

cấp, các ngành chưa thống nhất, đồng bộ, kịp thời... Bên cạnh đó, bản thân

nội tại các tổ chức tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng còn có diễn

biến phức tạp như quan điểm sai lệch, vọng ngoại, sự lấn lướt chính quyền,...

trong hoạt động của một bộ phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo. Những vấn đề

trên đã làm hạn chế rất nhiều những thành tựu trong công tác quản lý nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thủ đô.

Do đó, việc nghiên cứu toàn diện hoạt động của các tôn giáo và công

tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động này trên địa bàn thành phố, đánh

giá kết quả đã thực hiện được, những hạn chế, thành công, nguyên nhân để từ

đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác

quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà

Nội là việc cần thiết về lý luận và có tính ứng dụng thực tiễn cao.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn được tiến hành trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về

tôn giáo và quản lý hành chính nhà nước về tôn giáo.

- Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn thường đối với một số cán

bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo tại các địa

bàn trọng điểm về tôn giáo như: quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, thị xã Sơn

7

Tây, huyện Sóc Sơn, huyện Từ Liêm. Đồng thời, luận văn còn sử dụng

phương pháp quan sát, thống kê, tổng hợp, phân tích tài liệu, tổng kết thực tiễn.

9. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.

8

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nƣớc về tôn giáo

1.1.1. Những khái niệm

* Quản lý: Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người,

trong đó chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng những phương

pháp và công cụ khác nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý một cách hiệu

quả nhất trong điều kiện biến động của môi trường.

Từ định nghĩa này, có thể thấy rằng:

- Quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, đó là

quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý.

- Quản lý là tác động có ý thức,

- Quản lý là tác động bằng quyền lực,

- Quản lý là tác động theo quy trình,

- Quản lý là phối hợp các nguồn lực,

- Quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung,

- Quản lý tồn tại trong một môi trường luôn biến đổi.

Như vậy, quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ

thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ, phương tiện quản

lý, cách thức quản lý (có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình) và môi

trường quản lý. Những nhân tố đó có quan hệ và tác động lẫn nhau để hình

thành nên quy luật và tính quy luật quản lý.

- Các đặc trưng của quản lý: Bởi vì quản lý vừa là khoa học, vừa là

nghệ thuật, lại là loại hình lao động đặc biệt nên quản lý có những đặc trưng

nổi bật để phân biệt với các khoa học và nghệ thuật khác như:

9

- Quản lý là hoạt động mang tính tất yếu và phổ biến; Hoạt động quản lý

biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người; Quản lý là tác động có ý

thức; Quản lý là tác động bằng quyền lực; Quản lý là tác động theo quy trình;

Quản lý là hoạt động để phối hợp các nguồn lực; Quản lý nhằm hướng tới

thực hiện mục tiêu chung; Quản lý là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa

mang tính nghệ thuật; Mối quan hệ giữa quản lý và tự quản.

- Vai trò của quản lý

Quản lý là một hoạt động hay là một hình thức lao động đặc biệt. Nó

lấy các hoạt động cụ thể làm đối tượng để tác động vào nhằm định hướng,

thiết kế, duy trì, phát triển, điều chỉnh và phối hợp các hoạt động đó thành

một hợp lực để hướng tới hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Chính vì vậy, xét

về mặt tổng thể hay xét như một quy trình, quản lý có những vai trò sau: định

hướng, thiết kế, duy trì và thúc đẩy, điều chỉnh, phối hợp.

* Nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,

một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng

quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai

cấp thống trị trong xã hội.

- Đặc điểm của nhà nước: Các nhà nước trong lịch sử có sự khác nhau

về bản chất, nhưng đều có đặc điểm chung. Những đặc điểm của nhà nước

cho phép phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội do giai cấp

thống trị tổ chức ra.

Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, thiết

lập một quyền lực công cộng đặc biệt tách ra khỏi xã hội (không hòa nhập vào

dân cư như xã hội nguyên thủy), đó là quyền lực nhà nước. Để thực hiện

quyền lực này và quản lý xã hội, nhà nước tạo ra lớp người chuyên làm nhiệm

vụ quản lý, họ được tổ chức thành các cơ quan và hình thành nên bộ máy

10

cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, buộc các giai

cấp và tầng lớp dân cư trong xã hội phải phục tùng ý chí giai cấp thống trị.

Nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ, phân chia lãnh thổ thành các

đơn vị hành chính. Việc phân chia này không phụ thuộc huyết thống, chính

kiến, nghề nghiệp, giới tính... Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước với

các tổ chức chính trị xã hội khác. Trong thiết chế chính trị xã hội thì chỉ nhà

nước mới xác lập lãnh thổ của mình và chia lãnh thổ đó thành các bộ phận

cấu thành nhỏ hơn: thành phố, tỉnh, huyện, xã...

Nhà nước có chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà

nước về tất cả các vấn đề của chính sách đối nội và chính sách đối ngoai,

không phụ thuộc quyền lực bên ngoài. Trong thiết chế chính trị - xã hội, nhà

nước là tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia. Đây là thuộc tính không thể

tách rời của nhà nước.

Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý bắt buộc với mọi

công dân. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, nhà

nước và pháp luật là hai hiện tượng gắn bó hữu cơ với nhau không thể tách

rời. Nhà nước có bộ máy cưỡng chế để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện

và thực hiện sự quản lý bắt buộc với mọi thành viên trong xã hội.

Nhà nước quy định các loại thuế và thực hiện thu thuế dưới hình thức

bắt buộc. Việc thu thuế nhằm tạo ra nguồn tài chính đảm bảo bộ máy nhà

nước hoạt động, đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo việc thực hiện vai trò xã

hội của nhà nước.

* Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là

một hiện tượng xã hội được hình thành trong những điều kiện tồn tại vật chất

của xã hội ở những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Tôn giáo ra đời cách

đây khoảng 95000 - 35000 năm vào thời đại đá cũ với người Néanderthal,

11

hình thành con người hiện đại, khi con người biết tổ chức thành xã hội thị tộc-

bộ lạc; hay có thể nói khi con người xã hội đã hình thành.

Vậy tôn giáo là gì? Có rất nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng tập trung

tâm huyết để nghiên cứu và cố gắng định nghĩa nó. Các nhà triết học duy tâm,

các nhà thần học thừa nhận sự tồn tại của thực thể siêu nhiên, họ cho rằng tôn

giáo là cái có sẵn, đó là một đấng siêu nhiên, thần thánh nào đó điều khiển xã

hội, từ đó nảy sinh niềm tin tôn giáo.

E. Tylor đã viết: “Có lẽ nên đặt niềm tin vào những thực thể tinh thần

(hay siêu nhiên) như một định nghĩa tối thiểu về tôn giáo” [73,2]. Quan điểm

trên của Tylor có thể nói là phát ngôn của các nhà duy tâm khẳng định sự tồn

tại không phụ thuộc vào con người của đáng thần thánh, siêu nhiên và tôn

giáo chính là biểu hiện niềm tin của con người đối với đấng siêu nhiên đó.

Đối lập với các nhà duy tâm, các nhà duy vật biện chứng mà tiêu biểu

là Mác- Ăngghen cho rằng tôn giáo không thể do bất cứ một đấng siêu nhiên

nào tạo nên. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, của con người, do con người

sáng tạo ra rồi lại bị nó chi phối, “con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không

phải tôn giáo sáng tạo ra con người”[73,1]. Phát triển quan điểm của Mác,

Ăngghen đã chỉ rõ tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh thần thánh hóa

những lực lượng trần thế áp bức con người trong sinh hoạt hàng ngày. Trong

tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ăngghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua

là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những lực lượng ở bên ngoài chi

phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực

lượng trần thế đã mang hình thức siêu trần thế”[73,2].

Sau Mác - Ăngghen, nhiều nhà khoa học khác cũng đã nêu lên những

định nghĩa về tôn giáo xuất phát từ quan điểm của mình. Từ góc độ thế giới

quan, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội; từ góc độ tâm lý học, tôn giáo là

một dạng biểu hiện đặc thù của tình cảm thành tín ngưỡng; từ góc độ xã hội

12

học và chính trị học, tôn giáo là một thể chế trong cơ cấu xã hội; từ góc độ

nhận thức luận, tôn giáo là hệ thống nhận thức dưới hình thức niềm tin không

cần kiểm chứng; từ góc độ thể chế, tôn giáo là những cộng đồng người có

chung một tín ngưỡng nhất định.

Tất cả các định nghĩa đều tiến tới một quan niệm phổ quát nhất về tôn

giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thể hiện trong những quan niệm

của con người (hay nhóm người) dưới dạng niềm tin vào một sức mạnh siêu

nhiên tự nhiên hay là những nhân vật được thần thánh hóa, thể hiện bằng

những nghi thức, sinh hoạt nhất định, giống nhau của từng thành viên trong

nhóm đó.

Từ góc độ khoa học quản lý, tôn giáo là một hoạt động được tổ chức

chặt chẽ, nó là tổng hợp những yếu tố liên quan đến con đường thỏa mãn

những nhu cầu tín ngưỡng của con người. Để nhận thức tôn giáo đúng với

những hoạt động, những sức mạnh của niềm tin, của thể chế bên trong các tôn

giáo cụ thể, cần nhìn nhận tôn giáo bao gồm các yếu tố: giáo lý, giáo luật,

giáo lễ và giáo hội.

* “Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ

thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được

Nhà nước công nhận.

Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm

ban hộ tự hoặc ban quản trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của đạo Công giáo,

chi hội của đạo Tin lành, họ đạo của đạo Cao Đài, ban trị sự xã, phường, thị

trấn của Phật giáo Hoà hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo khác.

- Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ

nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.

13

- Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt

động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo

được Nhà nước công nhận.

- Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.

- Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống

riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.

- Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.” [70, điều 3]

* Mối liên hệ giữa các khái niệm

- Quản lý nhà nước: Quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong

việc duy trì và phát triển xã hội loài người. Trên thực tế, hoạt động quản lý đã

tồn tại từ rất lâu và mang nhiều hình thức khác nhau trong mỗi thời kỳ khác

nhau. Một trong các hình thức quản lý xã hội tiên tiến nhất mà xã hội loài

người đang áp dụng chính là quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là một hình

thức quản lý được thực hiện ở cấp vĩ mô, trong phạm vi một quốc gia, một

chế độ xã hội. Đây chính là việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội một

cách có ý thức dưới một hình thức tổ chức xã hội đạt trình độ cao - Nhà nước.

Quản lý nhà nước đề cập đến sự tác động của nhiều tác nhân đến xã hội thông

qua nhà nước. Các tác nhân này bao gồm nhà nước, các tổ chức xã hội, các

cộng đồng, nhóm người, thậm chí cả cá nhân công dân. Trong đó, nhà nước là

tác nhân chủ yếu giữ vai trò trung tâm. Xuất phát từ những cơ sở đó ta có thể

thấy được quản lý nhà nước là sự tác động, điều chỉnh có tổ chức bằng quyền

lực đối với các quá trình và quan hệ xã hội, các hành vi của các cộng đồng,

các tổ chức và cá nhân trong xã hội nhằm duy trì trật tự, củng cố và bảo vệ

quyền lực của chủ thể cầm quyền, phục vụ sự phát triển xã hội theo mục đích

của chủ thể đó, song có tính đến nhu cầu của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác

trong mức độ không làm ảnh hưởng lớn đến mục tiêu của thể chế cầm quyền.

14

Quản lý nhà nước không thể thiếu trong một xã hội tồn tại các giai cấp

và nhà nước bởi vì nhà nước là một thiết chế chính trị - xã hội vừa có nhiệm

vụ trấn áp các giai cấp đối lập với giai cấp cầm quyền (thực hiện chức năng

thống trị chính trị giai cấp), vừa có nhiệm vụ tổ chức quản lý mọi mặt của đời

sống xã hội (thực hiện chức năng xã hội). Tất cả các nhà nước đều thực hiện

chức năng xã hội bởi vì có tổ chức, quản lý tốt xã hội mới duy trì được quyền

lực chính trị và bảo vệ được sự thống trị của giai cấp cầm quyền đối với toàn

thể xã hội.

Quản lý nhà nước được đặc trưng bởi việc sử dụng pháp luật, tính đơn

phương mệnh lệnh, tính khoa học và tính kế hoạch cao, tính liên tục, tính toàn

diện và tổng hợp, tính thống nhất và vĩ mô đối với xã hội. Những đặc trưng

này giúp các nhà nghiên cứu, nhà khoa học tránh được sự lầm lẫn giữa quản

lý nhà nước và quản lý của các tổ chức khác.

Có thể hiểu quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp

của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà

nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá

trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung

ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm

vụ của nhà nước.

Ở một số nước, chẳng hạn như Cộng hòa Pháp, do tồn tại thể chế đa

nguyên, đa đảng, quản lý được chia làm hai hình thức khác nhau: quản lý

công và quản lý tư, khái niệm quản lý công có nội hàm gần giống với khái

niệm quản lý nhà nước được thừa nhận ở nước ta. Quản lý tư là hình thức

quản lý mà chủ thể quản lý không phải là nhà nước và một trong các lĩnh vực

xã hội không đặt dưới sự quản lý hành chính công chính là tôn giáo. Điều này

khác với Việt Nam. Ở Việt Nam, cơ cấu vận hành xã hội là Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Nước ta chỉ có một Đảng duy nhất

15

lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ máy Nhà nước hiện nay được xây

dựng trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”,

Nhà nước là người đại diện cho toàn dân thực hiện công tác quản lý nên quản

lý hành chính nhà nước ở nước ta là công tác quản lý đối với mọi mặt của đời

sống xã hội, trong đó có cả tôn giáo. Tuy nhiên công tác quản lý hành chính

nhà nước không phải được thực hiện với các tôn giáo mà là với các hoạt động

tôn giáo.

- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là dạng quản lý

mang tính Nhà nước nhằm điều chỉnh các quá trình hoạt động tôn giáo của

các pháp nhân và các thể nhân tôn giáo bằng quyền lực Nhà nước. Trong đó,

hoạt động tôn giáo là những hoạt động như hoạt động tín ngưỡng tôn giáo của

tín đồ, hoạt động hành chính tôn giáo của chức sắc, hoạt động của các hội

đoàn, tổ chức tôn giáo... Pháp nhân tôn giáo là những tổ chức tôn giáo có có

tư cách pháp nhân, tư cách pháp nhân là cho Nhà nước thừa nhận; thể nhân

tôn giáo là tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo, thể nhân này do các

tổ chức tôn giáo thừa nhận. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo

là quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật với những phương pháp và

phương tiện đặc trưng. Đối với tôn giáo, nghiên cứu các giải pháp, các

phương pháp, các thủ pháp giải quyết, dàn xếp từng trường hợp cụ thể như là

tính nghệ thuật thì quản lý phải là hướng ưu tiên. Có nghĩa là không giống với

các lĩnh vực quản lý nhà nước khác, quản lý nhà nước đối với các hoạt động

tôn giáo lấy việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục là chính chứ

không lấy việc thực hiện quản lý mang tính mệnh lệnh đơn phương một chiều

làm chủ đạo. Người làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn

giáo phải đảm bảo được đường lối, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà

nước, đảm bảo đời sống tín ngưỡng của nhân dân phát triển bình thường và

16

thể hiện được quan điểm ở Việt Nam hiện nay, Sự phát triển của tôn giáo phải gắn bó đồng thời với sự phát triển của đất nước, của dân tộc. 1

1.1.2. Cơ sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo

- Cơ sở pháp luật của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động

tôn giáo: Trong những năm gần đây, Nhà nước ta tiến hành đổi mới toàn diện

theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, vấn đề quản lý nhà nước đối với các hoạt

động tôn giáo được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là những chính sách

xã hội quan trọng có tính đặc thù. Tuy nhiên các quan điểm của Đảng Cộng

sản Việt Nam vẫn trước sau như một, chủ trương thi hành nhất quán chính

sách tôn giáo, kế thừa những nhân tố hợp lý trong các chủ trương trước đó

nhưng đồng thời cũng có những sự bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình

mới, thời đại mới cũng như những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Tháng 10 năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24 đề cập công tác

tôn giáo trong tình hình mới. Ngày 2/7/1998, Bộ Chính trị ra tiếp chỉ thị 37-

CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, định hướng các hoạt động

quản lý của Nhà nước và vận động của các tổ chức xã hội trong công tác tôn

giáo. Ngày 19/4/1999, Nghị định của Chính phủ về hoạt động tôn giáo số

26/1999/NĐ-CP đã chỉ đạo các hoạt động quản lý Nhà nước đối với các hoạt

động tôn giáo cũng như quy định quyền hạn và thẩm quyền của các ban

ngành, các cấp có liên quan. Nghị quyết số 25 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa IX năm 2003 về công tác tôn giáo đã được công

1 Theo Dương Ngọc Kiên (2003), Bước đầu tìm hiểu công tác quản lý nhà nước đối với đạo Công giáo hiện nay trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Quản lý xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội 2003, tr13-15

bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, khẳng định: “Đảng và

17

Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa

rất quan trọng”[2,1]. “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm

tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc,

phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp

Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ

quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh”[1,4]. Xuất phát từ quan điểm có tính định hướng như vậy, Đảng ta

luôn xác định rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ

nghĩa Xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn

kết dân tộc”[1,4]. Từ đó, trong thời gian chỉ 10 năm nhưng hệ thống các văn

bản pháp luật về tôn giáo có tính pháp quy liên tục ra đời và đi vào cuộc sống

như: Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005 ngày 18/6/2004 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội, Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 11/8/2012 về quy định chi

tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/CT-

TTg ngày 01/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đối với đạo Tin

lành; Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về

nhà đất có liên quan đến tôn giáo...

Đảng ta khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tất yếu khách quan

trong đời sống của một bộ phận quần chúng nhân dân nên Đảng luôn nhất

quán thực hiện chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo

hoặc không theo một tôn giáo nào. Người theo đạo có quyền sinh hoạt tôn

giáo bình thường theo pháp luật, các tôn giáo được hoạt động trong khuôn

khổ pháp luật và được đối xử bình đẳng.

Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết

đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và

đồng bào không theo tôn giáo. Mọi người dân Việt Nam dù thuộc dân tộc nào,

18

theo hoặc không theo một tôn giáo nào đều phải nhận thức trước hết ta là

người Việt Nam, bổn phận của công dân dù có tín ngưỡng hay không cũng

phải có trách nhiệm vun đắp, xây dựng và củng cố cho cái nền tảng khách

quan ấy. Mọi hành vi phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn

giáo, hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt

động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân,

chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia đều bị nghiêm cấm.

Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần

chúng. Trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay, đời sống dân chủ, đời sống

kinh tế, quan hệ quốc tế ngày một phát triển. Có rất nhiều hiện tượng xã hội

xuất hiện cùng với quá trình đổi mới đất nước trong đó có nhiều hiện tượng

xã hội mà muốn giải quyết tốt phải có sự kết hợp giữa các giải pháp của quản

lý Nhà nước và công tác vận động quần chúng. Hơn nữa, trong quản lý Nhà

nước, việc sử dụng các phương pháp vận động thuyết phục vẫn là hướng ưu

tiên đối với phương pháp sử dụng các chế tài.

Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do

Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác

tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác

quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo

để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.

Cuối cùng, vấn đề theo đạo và truyền đạo phải được tiến hành hợp pháp

theo quy định của pháp luật, không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà

đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.

Những quan điểm này của Đảng đã và đang được cụ thể hoá, từng bước

thực hiện bằng các chính sách của Nhà nước như chính sách “tự do tín

ngưỡng, lương giáo đoàn kết”, chủ trương “tốt đời, đẹp đạo”, các phong trào

“kính Chúa, yêu nước”, “yêu nước phụng đạo”, “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ

19

nghĩa Xã hội”..., các văn bản triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng,

các kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết, triển khai thực hiện nghị quyết,

các Hội nghị tổng kết, kiểm tra việc thực hiện...

- Mục đích của quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được

xác định trên cơ sở của quan điểm của Đảng về tôn giáo cũng như Hiến pháp

và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, đồng thời cũng tính đến sự tồn tại và

phát triển của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

Từ việc xác định cơ sở như trên, quản lý nhà nước đối với các hoạt

động tôn giáo là nhằm thực hiện ba mục đích chính như sau:

- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo

nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng nhân dân được giải quyết một

cách hợp lý.

Trong Chủ nghĩa Xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn tồn tại và nhu

cầu tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tất yếu khách quan của một bộ phận quần

chúng nhân dân, do vậy quản lý xã hội cũng như quản lý nhà nước đối với các

hoạt động tôn giáo cần phải đảm bảo cho nhu cầu này được tôn trọng và bảo

đảm trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo tồn

tại đan xen với các nhu cầu khác, do vậy đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn

giáo không có nghĩa là vi phạm tới các nhu cầu chính đáng khác của con

người. Như vậy, quản lý tôn giáo là phải đặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo

trong quan hệ, trong sự tương tác với các nhu cầu khác của con người nhằm

phát huy những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo để góp phần vào việc

nâng cao những giá trị đạo đức và nhân văn của đời sống con người.

- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm chống lại sự

lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, mà hiện nay là góp phần vào việc

đấu tranh chống “Diễn biến hoà bình”. Chúng ta biết rằng các thế lực thù địch

với Dân tộc, với Chủ nghĩa Xã hội, với Đảng Cộng sản đã, đang và sẽ còn tìm

20

mọi cách nhằm tác động tới tôn giáo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân,

ngăn cản con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội, phá hoại độc lập dân tộc, do vậy

quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo phải gắn với mục đích là

chống lại sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Tất nhiên khi thực

hiện mục đích này của sự quản lý không thể tách rời với các mục đích cụ thể

khác.

- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo còn nhằm đảm bảo

cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo không bị

xâm phạm và lợi dụng ở cả hai phía chủ thể và đối tượng của quản lý. Xét ở

khía cạnh này thì quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm

làm cho hoạt động tôn giáo và cả quản lý về hoạt động tôn giáo tuân theo

khuôn khổ của Hiếp pháp và pháp luật.

- Nội dung quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

Cơ sở xác định nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo:

+ Nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo được xác định

phù hợp với thẩm quyền pháp lý của chủ thể quản lý (Chính phủ, cơ quan của

Chính phủ, UBND các cấp, ban chuyên môn của Chính phủ). Những nội dung

được trình bày dưới đây dựa trên những quan điểm, những qui định hiện hành

của Đảng, Nhà nước về tôn giáo (Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nghị quyết 24

của BCT, Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005

ngày 18/6/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định số 92/NĐ-CP

ngày 11/8/2012 về quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 01/3/2005 của Thủ tướng

Chính phủ về công tác đối với đạo Tin lành,...).

+ Nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo dựa trên tình

hình cụ thể của hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Trên thực tế hiện

nay, cơ sở chính sách pháp luật về tôn giáo của nước ta vẫn còn đang trong

21

quá trình hoàn thiện, chưa được luật hóa. Do đó, việc thực hiện chủ trương

chung diễn ra ở mỗi địa phương, ngoài việc thực hiện theo các văn bản quy

phạm pháp luật, sự hướng dẫn của Ban Tôn giáo Chính phủ còn phải căn cứ

vào tình hình kinh tế xã hội, an ninh trật tự của địa phương, tình hình hoạt

động của các tôn giáo tại địa phương đó.

Việc xác định nội dung (và cả phương pháp) quản lý nhà nước đối với

các hoạt động tôn giáo tuân thủ các nguyên tắc sau:

+ Mọi công dân đều bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật.

+ Mọi tôn giáo đều phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và

pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo tính thống nhất

giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hoá, bảo đảm sự thống nhất, hài

hoà lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia, xã hội.

+ Tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động hành đạo tách khỏi hoạt động

Nhà nước và trường học.

Các nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo:

+ Việc xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo.

+ Việc xét duyệt xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự.

+ Việc xét duyệt chương trình mục vụ thường xuyên và đột xuất.

+ Việc xét duyệt việc đào tạo chức sắc tôn giáo.

+ Việc xét duyệt việc sản xuất lưu thông đồ dùng đạo.

+ Việc xét duyệt một số việc hành chính đạo.

+ Việc xét duyệt các hoạt động từ thiện xã hội.

+ Việc xét xử khiếu tố, khiếu nại liên quan đến chính sách tôn giáo và

vi phạm chính sách tôn giáo.

+ Việc xét duyệt các hoạt động Quốc tế và đối ngoại.

+ Việc đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo .

22

Mười nội dung trên của quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn

giáo liên quan tới nhiều hoạt động khác nhau của tôn giáo với tư cách là một

bộ phận của đời sống xã hội; việc xác định 10 nội dung trên là trong khuôn

khổ của Hiến pháp và pháp luật, chịu sự kiểm soát của pháp luật

- Phương pháp của quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo

Quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo gắn với các yếu tố có liên

quan và các phương pháp của quản lý Nhà nước nói chung. Về yếu tố có liên

quan gồm yếu tố xã hội, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền uy,...

Về phương pháp, cụ thể như phương pháp hành chính, phương pháp tổ chức,

phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục thuyết phục,... Tôn giáo với tư

cách là một hiện tượng xã hội chứa đựng trong nó tính phức tạp, sự ứng xử

của nó và đối với nó là hết sức tế nhị, do vậy phương pháp của quản lý Nhà

nước về hoạt động tôn giáo một mặt phải tuân thủ các phương pháp mang tính

chung, mặt khác cần phải biết nhấn mạnh, đề cao một số phương pháp cụ thể

nào đó để nâng cao hiệu quả của quản lý. Trong các phương pháp quản lý

Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo thì phương pháp được chú trọng nhiều là

phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục.

Phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục: là phương pháp quan

trọng nhất trong quản lý xã hội nói chung và quản lý Nhà nước nói riêng về

tôn giáo, bởi vì đối tượng của sự quản lý ở đây là giáo dân, chức sắc các tôn

giáo, họ là những người coi trọng niềm tin tôn giáo, thậm chí có trường hợp

hy sinh để bảo vệ niềm tin, đồng thời họ cũng là những người có sự nhạy cảm

khi bị đụng chạm tới niềm tin. Điều đó dẫn tới đòi hỏi chủ thể quản lý phải

tôn trọng niềm tin tôn giáo chính đáng của họ, tuyền truyền, giáo dục thuyết

phục họ tuân thủ, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước. Trong phương pháp này có thể còn phải có các biện pháp như gần

23

để hiểu, đối thoại để cảm hoá, và cần thiết cả bồi dưỡng và sử dụng, qua đó

giúp cho việc nâng cao hiệu quả của quản lý.

Phương pháp tổ chức: Phương pháp tổ chức gắn với việc ban hành các

văn bản pháp luật về tôn giáo (Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh, nghị định...)

để làm công cụ, phương tiện cho quản lý.

Phương pháp hành chính: Ban hành các quyết định quản lý có tính đơn

phương, một chiều buộc đối tượng của sự quản lý phải thực hiện để xử lý các

vụ việc gắn với việc vi phạm pháp luật. (Cần lưu ý đến luận điểm của

Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về việc ứng xử đối với tôn giáo).

Các phương pháp khác: Việc quản lý Nhà nước về tôn giáo, ngoài việc

sử dụng ba phương pháp trên còn cần phải sử dụng một số phương pháp khác

như: Phương pháp xã hội học, phương pháp thống kê xã hội, phương pháp dự

báo,... đồng thời phải nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng

những người có tín ngưỡng tôn giáo để tạo sự ổn định chính trị - xã hội giúp

cho công việc quản lý đạt hiệu quả cao hơn.

Các phương pháp của quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo

phải được sử dụng kết hợp, sáng tạo, chủ động, phải biết vận dụng đối với

từng trường hợp cụ thể. Trong quá trình sử dụng các phương pháp trên đòi hỏi

phải được thường xuyên phát triển, bổ sung, chỉnh sửa để nâng cao hiệu quả

của quản lý song không được làm sai với những nguyên tắc của quản lý Nhà

nước về tôn giáo.

1.2. Khái lƣợc về các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội

1.2.1. Khái quát tình hình tôn giáo Thành phố Hà Nội

Hiện nay, Hà Nội có 7 tôn giáo được nhà nước công nhận tư cách pháp

nhân là:

- Phật giáo: Trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 1.806 Tăng, Ni. Trong

đó, Tỷ khiêu 275 vị; Tỷ khiêu Ni 1.228 vị; Sa di 30 vị; Thức xoa, Sa di Ni 93

24

vị; hình đồng 180 vị. Ngoài số lượng Tăng Ni thành viên chính thức thuộc

Thành hội Phật giáo Hà Nội nêu trên hiện còn tồn tại một số Tăng Ni không

phải là thành viên của Thành hội nhưng hiện nay đang ở các chùa trên địa bàn

Thành phố (Trường hợp Tăng Ni thụ giới ngoài Giáo hội hoặc từ các tỉnh,

thành khác chuyển đến chưa đầy đủ thủ tục giấy tờ).

Số lượng tự viện có 2.059 ngôi chùa. Trong đó có 209 chùa được công

nhận di tích cấp Quốc gia; 299 chùa được công nhận di tích cấp Thành phố.

Số lượng tín đồ khoảng hơn 400.000 người.

- Công giáo: 82 giáo xứ, 306 họ giáo; 04 giám mục (01 Tổng giám

mục, 01 giám mục, 02 giám mục phụ tá), 82 linh mục, gần 2000 chức việc;

hơn 400 cơ sở thờ tự; khoảng 185.000 tín đồ; 19 cộng đoàn tu sĩ ở 20 tu viện

với 273 tu sĩ; là địa bàn duy nhất trong cả nước có các xứ, họ đạo thuộc sự

quản lý của 03 Toà giám mục: Hà Nội, Hưng Hoá, Bắc Ninh.

Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Thành phố: gồm 124 thành viên do linh

mục Dương Phú Oanh làm Chủ tịch. Quá trình hoạt động, UBĐK Công giáo

Thành phố đã phát động được các phong trào thi đua yêu nước như: “Xây

dựng xứ, họ đạo tiên tiến”, “xây dựng làng văn hoá và gia đình văn hoá”,

phong trào thi đua “sống tốt đời, đẹp đạo”,“mỗi người Công giáo Thủ đô là

một công dân tốt”...và đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đáng khích lệ.

- Tin lành: Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện có 30 hệ phái Tin lành

đang hoạt động; trong đó: 7/30 hệ phái được Nhà nước công nhận tư cách

pháp nhân; 158 điểm nhóm với khoảng: 6.000 tín đồ người Việt; 400 tín đồ

người Hàn Quốc; 30 tín đồ người Hoa Kỳ; 10 tín đồ người Trung Quốc; 450

tín đồ người nước ngoài thuộc 40 quốc tịch khác nhau đang sinh sống và làm

việc trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là tổ chức tôn giáo Tin lành

lớn nhất trên địa bàn thành phố Hà Nội với 03 mục sư, 10 mục sư nhiệm

25

chức; hơn 1.500 tín đồ, có 04 chi hội tại: phường Yên Sở, quận Hoàng Mai;

xã Thọ An, huyện Đan Phượng; xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín; Chi hội Tin

lành Hà Nội ở số 2 Ngõ Trạm, quận Hoàn Kiếm đồng thời là trụ sở của Tổng

hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).

Cùng với Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), trên địa bàn Hà Nội

có 06/8 hệ phái được Ban Tôn giáo Chính phủ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt

động tôn giáo là: hệ phái Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, hệ phái Cơ đốc Phục lâm

Việt Nam, hệ phái Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, hệ phái Báptít Việt Nam (Nam

Phương), hệ phái Tổng hội Baptit Việt Nam (Ân điển – Nam phương), hệ phái

Tin lành Trưởng lão Việt Nam. Tổng số tín đồ của 06 hệ phái này là khoảng hơn

1.000 tín đồ sinh hoạt tại 29 điểm nhóm. Trong đó, có 02 tổ chức tôn giáo cơ sở

đã được cấp đăng ký hoạt động là: Hội Thánh Bắp tít Hồng Ân tại phường Bưởi,

quận Ba Đình thuộc Hội Thánh Bắp tít Việt Nam (Ân điển- Nam Phương) và

điểm nhóm/hội thánh Cơ đốc Phục Lâm Hà Nội tại phường Hoàng Liệt, quận

Hoàng Mai thuộc Giáo hội Cơ đốc Phục Lâm Việt Nam.

- Cao Đài: Trên địa bàn Thành phố có 03 họ đạo Cao Đài thuộc Cao

Đài Bến Tre Ban chỉnh đạo (01 họ: họ đạo Cao Đài Thủ đô tại số 48 phố Hòa

Mã) và Cao đài Tây Ninh (02 họ: họ đạo Phúc Đức, huyện Quốc Oai, họ đạo

Đặng Giang, huyện Ứng Hòa); với 21 chức sắc; gần 400 tín đồ;

- Hồi giáo: 01 Thánh đường tên Al Noor tại số 12 phố Hàng Lược,

Hoàn Kiếm, Hà Nội, đây là thánh đường Hồi giáo duy nhất còn đến nay tại

các tỉnh, thành phố phía Bắc; 64 tín đồ người Việt (Bên cạnh đó, có khoảng

300 tín đồ là người Chăm Islam tại Tây Ninh đang sinh sống, làm nghề tự do

tại bến xe Gia Lâm (quận Long Biên) và bến xe Nước Ngầm (quận Hoàng

Mai); hơn 500 tín đồ là nhân viên Sứ quán, doanh nhân của 18 nước khối Ả

Rập công tác trên địa bàn thành phố Hà Nội; 01 Ban Quản trị gồm 05 thành

viên;

26

- Đạo Baha’i: Hiện nay trên địa bàn Thành phố có 15 Hội đồng tinh

thần địa phương, trong đó 03 Hội đồng tinh thần địa phương đã được UBND

Thành phố công nhận: Hai Bà Trưng, Thanh Trì, Thạch Thất, với khoảng 400

tín đồ.

- Minh sƣ đạo: 01 tổ chức Minh sư có 01 chức sắc với khoảng 50 tín đồ.

- Đồng thời, còn một số hiện tượng tôn giáo mới như: Long hoa Di lặc,

Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Bạch Chân Không, Thanh Hải Vô thượng sư, Pháp

luân công, Pháp môn Diệu âm…các Tín ngưỡng dân gian có: 5211 di tích đình,

đền, nhà thờ họ, lăng, miếu….Trong đó, di tích được xếp hạng: cấp Quốc gia khoảng 1.200 di tích; cấp Thành phố khoảng 900 di tích.2

1.2.2. Đường hướng hoạt động của các tôn giáo

- Phật giáo:

Đường hướng là hướng đi nhắm đến mục đích (cứu cánh). Đường

hướng là phương tiện. Như vậy bất cứ một tổ chức nào cũng đều có hướng đi

cho chính mình. Cứu cánh và phương tiện ấy trong Phật Giáo là một, từng

bước phương tiện đều hiện hữu cứu cánh (đến trong từng bước đi đúng

hướng). Như vậy trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đường hướng là

mục đích, cứu cánh của Giáo Hội. Đường hướng của Giáo hội Phật giáo Việt

Nam đã được giới thiệu khá rõ nét qua lời nói đầu của Hiến Chương Giáo hội

Phật giáo Việt Nam “lý tưởng giác ngộ chân lý, hòa hợp chúng, hòa bình và

công bằng xã hội của giáo lý đức Phật, nhằm phục vụ dân tộc Tổ quốc và

Nhân loại chúng sinh là lập trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Phương châm hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Đạo pháp - Dân

tộc - Chủ nghĩa xã hội… Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo đúng

2 Theo UBND Thành phố Hà Nội (27/11/2009), Đề án tăng cường công tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên địa bàn Thành phố, số 107/ĐA-UBND. Phần Phụ lục, tr1-4

Luật Phật và Luật pháp Nhà nước quy định”[49,2]. Tất cả Tăng Ni nhất là

27

những vị ra gánh vác Phật sự cần quán triệt đường hướng của Giáo Hội làm

chỉ nam cho mình trên bước đường hoằng pháp lợi sanh.

Đường hướng hoạt động của Thành hội phật giáo Hà Nội cũng không

nằm ngoài đường hướng hoạt động của Giáo hội mà còn thể hiện rõ nét thông

qua công tác Phật sự, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố lần thứ VII

(nhiệm kỳ 2012-2017) vừa qua Thành hội đã khẳng định “luôn luôn hoạt

động trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, Hiến chương,

Nghị quyết của Giáo hội trên cơ sở nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành

động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức”; với lý tưởng giác ngộ chân lý, hoà

hợp chúng, hoà bình và công bằng xã hội của giáo lý Đức Phật nhằm phục vụ

đất nước với phương châm “Đạo pháp – Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” [50,5].

- Công giáo:

Trong Sứ điệp nói với các Giám mục Việt Nam nhân dịp Ad Limina

năm 2009, Giáo Hoàng Benedichto XVI đã đề cập tới tới vai trò và trách

nhiệm công dân của mỗi người Công giáo tại Việt Nam với quê hương và Tổ

quốc thân yêu của mình. Ông nhấn mạnh: “Bằng đời sống xây nền trên đức

ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em giáo dân phải chứng tỏ

rằng là người công giáo tốt cũng là người công dân tốt” [51,4].

Thư chung năm 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã xác định

rõ: “Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó

với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hoà mình vào cuộc

sống hiện tại của đất nước” và “Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân

loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới. Vậy chúng ta phải

3 http://www.hdgmvietnam.org: Hội đồng Giám mục Việt Nam (01/5/1980), Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, 15.9.2013

đồng hành với dân tộc mình để phục vụ với tính cách vừa là công dân, vừa là thành phần Dân Chúa“.3

28

Trong đường hướng mục vụ “Sống đức tin giữa lòng dân tộc” như thế,

mọi thành phần Dân Chúa của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đang cố gắng

thực thi sứ mạng đóng góp vào công cuộc phát triển xã hội, dựa trên nền tảng

Đức Tin và Đức Ái Kitô Giáo. Tôn trọng và thi hành quyền, nghĩa vụ Công

dân phải luôn trở nên một định hướng trong đời sống của người tin hữu Công

giáo.

Sứ điệp của Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010 một lần nữa Giáo hội đã

khẳng định: Hội Thánh ngày nay cũng phải dấn thân vào việc xây dựng đất

nước về mọi mặt: văn hóa xã hội, cũng như kinh tế chính trị, vì ý thức rằng:

"Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, đối với người Công giáo, không những là một

tình cảm tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi của Phúc âm...Hội thánh có

thể góp phần mình vào đời sống của Đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi

người dân...Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng

công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng người công giáo tốt cũng là người công dân tốt".4

- Tin lành:

Là một tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Tin lành đã có mặt ở Việt Nam hơn

100 năm. Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Tin lành đã chọn lựa

các hình thức hoạt động mềm dẻo, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hoá, quần

chúng hoá. Ở nhiều nơi đạo Tin lành đã thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán

của người địa phương, số lượng tín đồ đạo Tin lành ngày càng gia tăng.

Trong số các hệ phái Tin lành, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền

Bắc) và Tổng liên hội Hội thành Tin lành Việt Nam (miền Nam) được đánh

giá là hệ phái Tin lành có đường hướng hoạt động rõ dàng hơn cả trong hơn

4 http://tonggiaophanhanoi.org: Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, Sứ điệp của Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, 22.9.2013

80 hệ phái Tin lành tại Việt Nam. Tin lành được truyền đến Thủ đô Hà Nội

29

năm 1916. Sau năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, nhiều chức sắc tín đồ đã

di cư vào Nam, chỉ còn lại khoảng gần 1.000 tín đồ cùng hơn một chục mục sư,

giảng sư. Năm 1955, được Đảng và Nhà nước giúp đỡ, các mục sư, truyền đạo và

số tín đồ còn lại lập Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc). Hội Thánh hoạt

động theo đường hướng tiến bộ: “Phụng sự Thiên Chúa, Phục vụ Tổ Quốc”.

Cộng đồng Tin lành ở Hà Nội luôn “kính Chúa, yêu nước” “sống phúc âm,

phục vụ giáo hội, phục vụ tổ quốc” như đường hướng hoạt động của Hội thánh Tin

lành miền Bắc đã nêu trong Hiến chương Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Bắc

thông qua tại Đại hội đồng lần thứ 34 được tổ chức vào tháng 10/2013 ở Hà Nội.

* Các tôn giáo khác:

Ngoài Phật giáo, Tin lành, Công giáo, trên địa bàn Thành phố còn có

các tôn giáo khác như : Cao đài, Minh sư, Baha’i, Hồi giáo...là những tôn giáo

đã được công nhận tư cách pháp nhân, có những đường hướng hoạt động khác

nhau nhưng đều xác định đường hướng tiến bộ là “gắn bó với dân tộc và tuân

thủ pháp luật”. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo có định hướng khác nhau như:

- Cao Đài Ban Chỉnh đạo Bến Tre: Tiếp nối truyền thống quí báu

trong thời kỳ xây dựng bảo vệ Tổ quốc từ Đại hội Nhơn sanh lần thứ nhất

(1997) đến nay, Hội thánh Cao đài Ban Chỉnh đạo tiếp tục khẳng định phương

châm hành đạo theo đường lối của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương cho đến

ngày Thành đạo, phát huy tinh thần yêu nước vận động được đông đảo chức

sắc, tín đồ tham gia các phong trào thi đua, cũng như các hoạt động kinh tế,

văn hoá, xã hội ở địa phương, tích cực làm từ thiện, hoạt động đạo đạt nhiều

kết quả tốt, tạo được niềm tin trong chức sắc, tín đồ.

- Bên cạnh đó, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh cũng không nằm ngoài

đường hướng chung của các họ đạo Cao Đài trên cả nước, đưa ra các đường

hướng hoạt động nhiệm kỳ mới theo “nước vinh - đạo sáng”, tiếp tục phát huy

tình đoàn kết đạo đời, phát triển các mối quan hệ hữu hảo trong xã hội, củng

30

cố các mặt sinh hoạt tôn giáo thuần túy, từng bước đưa việc hành đạo đi vào

nền nếp, ổn định và có bước phát triển. Tại Đại hội Nhơn sanh nhiệm kỳ

2012-2017 vừa qua, Hội thành cũng đưa ra phương hướng hành đạo là: “Tiếp tục

tăng cường đoàn kết nội bộ đạo, các thành phần tổ chức xã hội; cùng tham gia

thực hiện công tác xã hội từ thiện, hướng dẫn toàn đạo làm tròn bổn phận công

dân, nghiêm tùng phép nước, hành đạo thuần túy vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

- Hồi giáo tại Việt Nam hiện nay chưa có một tổ chức Giáo hội thống

nhất, tuy nhiên đối với Hồi giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi UBND

Thành phố Hà Nội cho phép thành lập Ban Quản trị (lâm thời) năm 2011 cho

đến khi Đại hội lần thứ I Ban Quản trị thánh đường Hồi giáo Hà Nội (nhiệm kỳ

2013-2017) cũng đã xác định cho mình một đường hướng hành đạo gắn bó, tuân

thủ pháp luật Việt Nam. Hồi giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã xác định tôn

chỉ, mục đích: “Thiên kinh Quran & Sunnah - Thiết lập cộng đồng Islam đoàn

kết, thống nhất, phù hợp với luật pháp Việt Nam”.[15,3] Quy chế hoạt động đi sâu

vào một số nội dung như:

“Thiết lập cộng đồng Hồi giáo thống nhất, tuân phục Allah, dựa trên

nền tảng thiên kinh Qur’ran và Sunnah làm kim chỉ nam để hành đạo; Ban

quản trị Thánh đường là cầu nối giữa cộng đồng Hồi giáo trong Thành phố với

các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể chính quyền các cấp nhằm vận động, phổ

biến chủ trương, chính sách của Nhà nước đến toàn thể tín đồ, phấn đấu thực

hiện và nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước sở tại; Xây

dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo với phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”;

Phát triển môi trường nhân sinh nhằm đưa cộng đồng Hồi giáo thoát khỏi nạn

đói nghèo và cùng hoà nhập với cộng đồng tôn giáo khác trong Thành phố, góp

phần xây dựng đất nước, xây dựng Thủ đô ngày càng giầu đẹp”.[15,5]

31

Như vậy, có thể nói Hồi giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã xác

định cho mình một đường hướng hành đạo tuân thủ pháp luật, hướng đến sự

đoàn kết, thống nhất trên nền tảng kinh Quran & Sunnah.

Về cơ bản các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội đều có đường

hướng hoạt động hướng đến việc tuân thủ pháp luật trên cơ sở phát huy

truyền thống phụng đạo yêu nước, gắn kết cộng đồng vì một xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh. Các tôn giáo đã xác định cho mình một đường

hướng hoạt động gắn bó với xã hội. Hoạt động của các tôn giáo đã mang tính

mở, có sự kế thừa, kết hợp hài hoà giữa tôn giáo với tín ngưỡng, văn hoá Việt,

biến đổi một cách uyển chuyển để tạo nên một sắc thái mới trong tôn giáo.

* Một số đặc điểm cơ bản của tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội

- Tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội có tính đa dạng, phong phú thể

hiện ở việc tập trung hầu hết các tôn giáo lớn được công nhận tư cách pháp nhân

cũng như nhiều tôn giáo chưa được công nhận hiện có tại Việt Nam.

- Các tôn giáo tồn tại hài hòa, xen kẽ với nhau và với cộng đồng thể

hiện ở việc tín đồ các tôn giáo không sống tập trung thành khu vực riêng mà

sinh sống xen kẽ với nhau, với người không theo đạo; các tôn giáo có mối

quan hệ hữu hảo, thường xuyên thăm nom, chia sẻ với nhau.

- Hà Nội có trụ sở của Trung ương Giáo hội một số tôn giáo lớn như: Phật

giáo, Công giáo, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Do vậy, những diễn

biến và hoạt động tôn giáo trong cả nước đều tác động trực tiếp đến tôn giáo ở Hà

Nội, từ đó, ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội Thủ đô. Mặt khác, những

động thái tôn giáo ở Hà Nội có quan hệ trực tiếp đến động thái tôn giáo cả nước.

- Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu là nông dân.

- Các tổ chức tôn giáo ở thành phố Hà Nội có mối quan hệ quốc tế rộng rãi

với các tổ chức tôn giáo và quốc gia trên thế giới.

32

- Các tổ chức tôn giáo ở thành phố Hà Nội có số lượng chức sắc đông đảo, được

đào tạo chính quy, có trình độ, uy tín trong tổ chức tôn giáo và cộng đồng tín đồ.

33

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Chương 1 trình bày cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo cũng như khái quát về các tôn giáo tại thành phố Hà Nội, đề

cập đến những khái niệm công cụ như: quản lý, tôn giáo, nhà nước, mối liên

hệ giữa các khái niệm: quản lý nhà nước, hoạt động tôn giáo và quản lý nhà

nước đối với hoạt động tôn giáo. Nêu lên những nội dung cơ bản nhất của cơ

sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo. Bên cạnh đó, chương 1 khái lược về các tôn giáo trên địa

bàn thành phố Hà Nội, đường hướng hành đạo và một vài đặc điểm của tôn

giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Trên đây là một số nét chung về tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà

Nội. Chương 2 sẽ trình bày thực trạng hoạt động tôn giáo và công tác quản

lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

34

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố

Hà Nội

2.1.1. Cơ cấu tổ chức của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố

- Phật giáo:

Trên địa bàn Hà Nội có 2059 chùa, 1.806 tăng ni; 01 học viện Phật giáo

tại xã Phù Ninh, huyện Sóc Sơn với 300 tăng ni sinh; 01 trường Trung cấp

Phật học tại 02 cơ sở (chùa Bà Đá số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm và

chùa Mỗ Lao, quận Hà Đông); có 288 tăng, ni sinh.

Tổ chức Giáo hội: Có 03 cấp. Cấp Trung ương có trụ sở tại chùa Quán

Sứ, quận Hoàn Kiếm. Cấp tỉnh: Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam

thành phố Hà Nội có 47 thành viên chính thức và 30 thành viên dự khuyết.

Cấp quận, huyện, thị xã có 29 Ban Trị sự, mỗi Ban đại diện có từ 04 đến 15

thành viên. Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội tại chùa Bà

Đá, số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm, có 02 văn phòng của Ban Trị sự

Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội, văn phòng 1 đặt tại trụ sở

Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội (chùa Bà Đá, số 3 phố Nhà

Thờ, quận Hoàn Kiếm), văn phòng 2 tại chùa Mỗ Lao, quận Hà Đông.

Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội gồm 01

Trưởng Ban, 05 Phó Trưởng Ban, 13 tiểu ban: Giáo dục, hoằng pháp, hướng

dẫn phật tử, nghi lễ, tăng sự, đặc trách ni giới, kinh tế tài chính, truyền thông,

phật giáo quốc tế, từ thiện xã hội, kiểm soát, pháp chế, văn hóa.

- Công giáo:

Trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 01 Toà Tổng giám mục Hà Nội (số

40 phố Nhà Chung, Hoàn Kiếm) ; 01 Toà Giám mục Hưng Hoá (số 70 phố Lê

35

Lợi, phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây) nhưng các giáo xứ lại chịu sự quản lý

của 03 Toà giám mục gồm: Hà Nội, Hưng Hoá, Bắc Ninh.

- Trong mỗi Toà Giám mục có Văn phòng và 11 Uỷ ban giúp việc gồm:

Uỷ ban Giáo sĩ và chủng sinh; Uỷ ban Tu sĩ; Uỷ ban Giáo lý; Uỷ ban Giáo

dân; Uỷ ban Phụng sự; Uỷ ban Văn hoá; Uỷ ban Bắc ái – Xã hội (Caritas); Uỷ

ban Loan báo Tin mừng; Uỷ ban Di dân; Uỷ ban Sinh viên và Giới trẻ; Uỷ

ban Thánh nhạc.

- Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Hà Nội có trụ sở tại số 37 phố Hai Bà

Trưng, quận Hoàn Kiếm; ngoài ra còn có sự hiện diện của 22 dòng tu khác

trên địa bàn như: Donbosco, Chúa Cứu thế, Mến Thánh giá,....

- Trên địa bàn có: 82 giáo xứ, 306 họ giáo; 04 giám mục (01 Tổng giám

mục, 01 giám mục, 02 giám mục phụ tá), 82 linh mục, gần 2.000 chức việc;

hơn 400 cơ sở thờ tự; khoảng 185.000 tín đồ; 19 cộng đoàn tu sĩ ở 20 tu viện

với 273 tu sĩ.

- Tin lành:

Các tổ chức Tin lành có tư cách pháp nhân thuộc Hội thánh Tin lành Việt

Nam (miền Bắc) với 13 mục sư, 1.506 tín đồ sinh họat ở 04 chi hội tại trụ sở:

phường Yên Sở, quận Hoàng Mai; xã Thọ An, huyện Đan Phượng; xã Tự Nhiên,

huyện Thường Tín; số 2 Ngõ Trạm quận Hoàn Kiếm cũng là trụ sở của Tổng hội

Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).

Sau Đại hội đồng lần thứ 34 nhiệm kỳ 2013-2017, Hội thánh Tin lành Việt

Nam (miền Bắc) đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý thành lập Trường Thánh

kinh thần học Hà Nội, địa điểm tạm thời đặt tại số 2 Ngõ Trạm, Hoàn Kiếm, Hà

Nội, đã tuyển sinh khóa I với 25 học viên.

Cùng với Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), trên địa bàn Hà Nội

có 06/8 hệ phái được Ban Tôn giáo Chính phủ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt

động tôn giáo là: hệ phái Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, hệ phái Cơ đốc Phục lâm

36

Việt Nam, hệ phái Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, hệ phái Báptít Việt Nam (Nam

Phương), hệ phái Tổng hội Baptit Việt Nam (Ân điển – Nam phương), hệ phái

Tin lành Trưởng lão Việt Nam. Tổng số tín đồ của 06 hệ phái này là 1.029 tín đồ

sinh hoạt tại 29 điểm nhóm. Tuy nhiên, ngoài 02 hệ phái Tin lành đã được chính

quyền thành phố Hà Nội cấp đăng ký hoạt động cho tổ chức tôn giáo cơ sở, các hệ

phái còn lại chỉ dừng ở việc đăng ký sinh hoạt đạo Tin lành theo điểm nhóm.

- Các điểm nhóm Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân

thuộc 23 hệ phái với 117 điểm nhóm, 4.018 tín đồ. Đã có 34 điểm nhóm

(thuộc 8 hệ phái) đã được chính quyền địa phương cấp Giấy chứng nhận đăng

ký sinh họat điểm nhóm (nhân chứng Giêhôva 08 điểm nhóm; Tin lành Việt

Nam truyền giáo 01 điểm nhóm; Tin lành Bắp tít Thiên Ái 03 điểm nhóm; Tin

lành Hội chúng Ngũ tuần Việt Nam 01 điểm nhóm; Mormon 1 điểm nhóm;

Lời sự sống 03 điểm nhóm; Tin lành Đoàn truyền giáo Bắp tít Việt Nam 01

điểm nhóm; Phúc âm toàn vẹn 15 điểm nhóm). Cụ thể:

- Hội Thánh Tin lành Báp-tít Việt Nam (Nam Phương): có 05 điểm

nhóm tham gia khoảng 40 người, đứng đầu là ông Đoàn Xuân Tiến, ở số nhà

567D phố Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ (đã được cấp đăng ký sinh hoạt).

- Hội Thánh Phúc âm Ngũ Tuần Việt Nam: có 11 điểm nhóm có 365

người tham gia. Đứng đầu là ông Đỗ Văn Bắc, thường trú tại số nhà 53/153,

phường Đức Giang, quận Long Biên.

- Hệ phái Tin lành Phúc Âm toàn vẹn: có 15 điểm nhóm, đứng đầu là ông

Lê Văn Tỉnh tạm trú tại tổ 51 phường Phú Thượng, quận Tây Hồ với khoảng 30

tín đồ thường xuyên sinh hoạt tôn giáo tại tổ 36, thôn Tiền, phường Quan Hoa,

quận Cầu Giấy.

- Hội Thánh Cơ đốc Phục lâm: có 42 người tham gia, họ thường xuyên

sinh hoạt đạo tại nhà bà Nguyễn Thị Thuấn ở xã Vân Nội, nhà ông Lương ở xã

37

Kim Ngọc, huyện Đông Anh, đứng đầu là ông Từ Phi Sơn (đã được cấp đăng

ký sinh hoạt).

- Hội Thánh Liên hữu Cơ Đốc: có 7 điểm nhóm tham gia khoảng 90

người (đã được cấp đăng ký sinh hoạt).

- Hệ phái Việt Nam Truyền giáo: có 07 nhóm với 60 người tham gia. Do

ông Chu Minh Sơn ở số nhà 27, tổ 20, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân

đứng đầu.

- Hệ phái Liên hiệp truyền giáo: có 02 điểm nhóm với khoảng 25 tín đồ

tham gia.

- Hệ phái Hội thánh địa phương: có 01 điểm nhóm với khoảng 30 tín đồ

sinh hoạt tôn giáo tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm do ông Trần Văn Hợp

đứng đầu.

- Nhân chứng Giêhôva: có 8 điểm nhóm sinh hoạt tại các phường: Hạ

Đình (quận Thanh Xuân), Cống Vị, Liễu Giai (quận Ba Đình), Long Biên

(quận Long Biên), Bách Khoa (quận Hai Bà Trưng), Vật Lại (huyện Ba Vì),

Phúc La (quận Hà Đông), Sơn Tây (thị xã Sơn Tây) với khoảng 1.250 tín đồ

thường xuyên dự lễ do ông Dương Ngọc Hồng, ở số nhà 29c, ngõ 236 đường

Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội phụ trách (đã được cấp đăng ký

sinh hoạt).

- Hệ phái Tin lành Các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu Kytô

(Mormon): hiện có 01 điểm nhóm sinh hoạt tại quận Cầu Giấy, tham gia

khoảng 30 tín đồ, đứng đầu là ông Hoàng Văn Tùng, trú tại 11 phố Đặng Tất,

phường Quan Thánh, quận Ba Đình.

- Hệ phái Tin lành Matxcơva: có 01 Hội Thánh với 03 điểm nhóm với

khoảng 60 tín đồ do ông Nguyễn Văn Bình ở phường Đức Giang, quận Long

Biên phụ trách.

38

- Hệ phái Liên hiệp Báptít: có 03 điểm nhóm khoảng 150 tín đồ; trong

đó có gần 60 sinh viên của các trường Đại học Ngoại ngữ, Ngoại thương tham

gia, do ông Nguyễn Văn Sâm ở số nhà 640 phố Hoàng Hoa Thám, Hà Nội

quản nhiệm.

- Hệ phái Đoàn truyền giáo Báptít Việt Nam: có 02 điểm nhóm với

khoảng 25 tín đồ.

- Hệ phái Tin lành Truyền giáo Việt Nam (AGAPE) có 02 điểm nhóm

với khoảng 50 tín đồ.

- Hệ phái Tin lành Liên đoàn truyền giáo Phúc âm Việt Nam: có 01

điểm nhóm với khoảng 40 tín đồ.

- Các tôn giáo khác: Với số lượng tín đồ không nhiều, các tôn giáo đã

được công nhận tư cách pháp nhân còn lại như Cao Đài, Baha’i, Hồi giáo,

Mính sư đều có tổ chức tôn giáo cơ sở trên địa bàn Hà Nội với người đứng

đầu là các chức sắc có uy tín trong cộng đồng tín đồ, đều được bầu cử qua các

kỳ đại hội của các tổ chức tôn giáo cơ sở.

2.1.2. Thực trạng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Thành phố

Tổng số lượng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hơn

590.000 tín đồ, chiếm khoảng 7% dân số Thủ đô, trong đó tín đồ Phật giáo và

Công giáo chiếm đa số (khoảng 585.000 tín đồ). Đa số tín đồ các tôn giáo ở

Thủ đô Hà Nội luôn thể hiện lòng yêu nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.

Nhiều gia đình có đạo đã có công với cách mạng, gắn bó với cuộc kháng

chiến của nhân dân ta chống xâm lược. Bước vào thời kỳ đổi mới, đồng bào

tín đồ các tôn giáo làm ăn phấn khởi hơn, tạo ra được những kết quả mới

trong đời sống kinh tế, xã hội, mức sống có bước cải thiện. Đã có nhiều gia

đình làm ăn khá giả, giàu lên. Nhiều cơ sở thay đổi bộ mặt làm được nhà kiên

cố, đường làng ngõ phố được tu bổ sạch, đẹp, cuộc sống cộng đồng khởi sắc.

39

Với chủ trương đổi mới của Đảng, nhà nước, các tôn giáo được sinh

hoạt bình thường, bà con tín đồ tôn giáo đều vui mừng phấn khởi, cơ sở thờ tự

được sang sửa lại, các sinh hoạt tôn giáo sôi động hơn trước đồng bào tín đồ

các tôn giáo ủng hộ chủ trương mới, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thực

hiện các chính sách của Đảng, nhà nước ta ở địa phương.

Ở không ít cơ sở có đông đồng bào có đạo đã có cuộc sống ổn định, trật

tự an ninh tốt các tệ nạn xã hội ít hơn các vùng khác. Đa số tín đồ tôn giáo có

niềm tin chân thực, bền vững. Trong lòng mỗi tin đồ hướng tới cái thiện,

tương trợ giúp nhau vượt qua khó khăn.

* Đặc điểm tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội

- Thành phần: Tín đồ các tôn giáo đa phần là nông dân, do đó trình độ

và nhận thức nhìn chung là thấp. Tín đồ các tôn giáo sinh sống và làm việc tại

các quận nội thành có trình độ và nhận thức cao hơn các tín đồ sinh sống và

làm việc tại các huyện ngoại thành.

- Niềm tin tôn giáo: Tín đồ tôn giáo là người có đức tin tôn giáo, họ coi

niềm tin tôn giáo rất thiêng liêng và gắn bó với niềm tin ấy một cách tự

nguyện, niềm tin tôn giáo ấy mặc dù là hư ảo nhưng là một định hướng giá trị

có tính bền vững. Ví dụ như việc tín đồ đạo Công giáo tin vào Thiên Chúa và

sự mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tín đồ các tôn giáo gắn bó chặt chẽ với tổ

chức giáo hội, coi trọng và tích cực tham gia các hoạt động của cộng đồng tôn

giáo tại Thủ đô cũng như trên cả nước, họ gắn bó với các hoạt động từ thiện,

cứu trợ xã hội. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ các tôn giáo đã thành

nếp, đó là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của họ như:

đọc kinh cầu nguyện sớm, tối ngày thường, đi lễ các ngày thứ 7, chủ nhật và

các ngày lễ trọng…

- Trình độ, nhận thức: Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Hà Nội bao gồm

nhiều thành phần trong xã hội. Song phần đông là người lao động, chủ yếu là

40

nông dân, họ là những người cần cù lao động, gắn bó với quê hương, có tinh

thần đoàn kết cộng đồng, sống chân thật. Đa phần họ là người có tinh thần

yêu nước, có ý thức dân tộc.

- Tham gia các hoạt động tôn giáo: Trong thời gian trước đây, do nhiều

yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hóa…, số lượng tín đồ các tôn giáo thường

không phát triển, cơ sở thờ tự ít được xây dựng, sửa chữa, hiện tượng “khô

đạo, nhạt đạo” khá phổ biến nhưng cùng với chính sách kinh tế, tôn giáo phù

hợp hơn, cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một nâng cao thì chúng ta lại

thấy số người tìm đến với tôn giáo lại không ngừng tăng. Niềm tin tôn giáo

ngày càng được củng cố, hiện tượng khô đạo, nhạt đạo không còn diễn ra như

trước đây mà đã được các chức sắc tôn giáo củng cố niềm tin qua các hoạt

động tôn giáo. Việc giáo dân tham gia các hoạt động tôn giáo diễn ra thường

xuyên hơn, ngay cả những người khuyết tật, những bệnh nhân phong... cũng

duy trì thường xuyên các hoạt động tôn giáo.

- Tham gia các hoạt động xã hội: những năm gần đây, nhận thức của

tín đồ các tôn giáo có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức và hiểu biết về

các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng được

nâng cao. Đồng bào có đạo ngày càng nhận thức rõ lợi ích của quốc gia dân

tộc và lợi ích của công cuộc đổi mới gắn bó mật thiết với lợi ích của bản thân

và lợi ích của tôn giáo mình. Vì vậy, những năm gần đây tín đồ các tôn giáo

nhiệt tình, tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa

phương và cơ sở, tích cực tham gia sinh hoạt văn hóa, đẩy mạnh áp dụng

chuyển giao các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ. Ngoài việc tham gia

hoạt động tại các hội đoàn tôn giáo, tín đồ các tôn giáo còn tích cực tham gia

41

các đoàn thể của Nhà nước như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ Nữ, Hội người Cao tuổi, Hội Nông dân…5

Tuy nhiên, vẫn còn có một số tín đồ tôn giáo sinh sống tại các huyện,

đặc biệt là các xã dân tộc so với yêu cầu chung thì vẫn còn chưa đáp ứng

được, giác ngộ chính trị còn thấp, một số thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức

vươn lên làm chủ chưa cao. Một bộ phận tín đồ thiếu hiểu biết đã và đang

tham gia vào các hoạt động chống đối chính quyền, thể hiện sự bất hợp tác

trong việc tham gia các phong trào phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Đi sâu vào tin đồ của từng tôn giáo, vẫn còn những vấn đề đáng quan tâm.

Về tín đồ đạo Phật.

Tín đồ thuần thành (tổng số quy) giữ tam quy ngũ giới thường xuyên

đến chùa sinh hoạt tôn giáo có khoảng 192.000 người chủ yếu là giới phụ nữ

trung niên và nhiều tuổi. Ngoài ra, mấy năm gần đây do điều kiện kinh tế phát

triển (phú quý sinh lễ nghĩa) giới trẻ cũng đua nhau đến chùa để cầu tài, cầu

lộc, dâng sao, giải hạn. Điều đáng quan tâm là không những cúng lễ ở đình

chùa, miếu, điện và trong gia đình mà nhiều chợ, những nơi có người chết vì

tai nạn giao thông, cơ sở sản xuất kinh doanh và tại công sở cũng đặt bàn thờ

để cúng lễ, làm cho đời sống tâm linh phát triển, tín ngưỡng, mê tín dị đoan

đang bị pha trộn.

Theo kết quả phiếu trưng cầu ý kiến (Điều tra xã hội) tháng 9/2004

dùng cho người theo đạo Phật với số phiếu phát ra là 320 phiếu, số phiếu thu

về là 319 phiếu cho thấy số người thường xuyên đi lễ ở đền phủ là 112/319

phiếu đạt 35,11%; số người xem, chọn ngày giờ tốt khi có việc làm hệ trọng

5 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo đề tài khoa học “Thực trạng Công giáo Thành phố Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc – Thuận lợi, khó khăn. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”. Đề án “Công giáo Việt Nam thực hiện đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc” của Ban Tôn giáo Chính phủ 2012, tr26

là 224/319 phiếu đạt 70,20%; đốt vàng mã, khi gia đình có cúng giỗ ông, bà,

42

tổ tiên là 231/319 phiếu đạt 72,41%... Xu hướng thương mại hoá trong các hoạt

động tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng gia tăng, gần đây nhiều sinh hoạt tôn giáo

trong chùa diễn ra ngoài giới luật nhưng vẫn không được hạn chế, khắc phục.

Tín đồ Công giáo.

Qua kết quả phiếu trưng cầu ý kiến (Điều tra xã hội) tháng 9/2004

dùng cho người theo đạo Công giáo với số phiếu phát ra là 300 phiếu, số

phiếu thu về là 280 phiếu cho thấy đức tin tôn giáo của giáo dân Hà Nội được

củng cố và phát triển nhanh: Số người (ngoan đạo) thường xuyên tham gia

các ngày lễ trọng là 203/280 phiếu đạt 72,50%; số người thường xuyên tham

gia các ngày Thánh lễ chủ nhật là 177/280 phiếu đạt 63,21%; số người

thường tham gia bí tích xưng tội có 215/280 phiếu đạt 76,79%...Số liệu trên

cho thấy tỷ lệ người thường xuyên đi xưng tội, chịu lễ khá cao, giáo dân ở

vùng ngoại thành ngoan đạo hơn, nhưng đức tin vào thiên chúa không sâu sắc

bằng tín đồ Công giáo trong nội thành.

Nhìn chung đức tin của đồng bào Công giáo được củng cố, các xứ, họ

đạo hoạt động có nề nếp và phong phú hơn trước. Tuy vậy, do ảnh hưởng của

một vài linh mục có khuynh hướng thoát ly khởi sự quản lý của nhà nước, nên

một số giáo dân đã bị cuốn hút vào những việc làm vi phạm pháp luật như tổ

chức rước lễ vượt ra khỏi khuân viên nơi thờ tự, tụ tập đông người đòi lại đất

trước đây đã hiến, nhượng cho nhà nước… một số người tích cực tham gia

các hội đoàn trái phép. Những việc làm trên nếu không được phát hiện, uốn

nắn kịp thời sẽ tạo ra kẽ hở để kẻ địch lợi dụng tín đồ, lôi kéo, tập hợp lực

lượng chống đối chế độ.

Về tín đồ đạo Tin lành.

Chi hội Thánh Tin lành Hà Nội có trụ sở ở số 2 ngõ Trạm, Hoàn Kiếm,

Hà Nội có số lượng tín đồ ít, tốc độ phát triển chậm, trong nhiều năm nay số

lượng tín đồ thay đổi không nhiều. Ngoài ra còn có trên 400 tín đồ là người

43

Hàn Quốc đang lao động, công tác, học tập trên địa bàn thành phố Hà Nội. Số

này nhóm lễ riêng vào sáng thứ tư và chủ nhật hàng tuần tại nhà thờ số 2 ngõ

Trạm. Nhìn chung tín đồ, Tin lành Hà Nội vẫn gắn bó với cộng động, chấp

hành đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Song mấy năm gần đây

sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ cũng có phần được tăng cường, số người đến

dự lễ đông đúc và đều đặn hơn, điều đáng quan tâm hiện nay là đạo Tin lành

Hà Nội được tổ chức Tin lành nước ngoài trong đó có Mỹ và Hàn Quốc đầu

tư tiền, đào tạo ủng hộ Tin lành Hà Nội mở rộng địa bàn hoạt động phát triển

tín đồ, một bộ phận học sinh du học ở các nước có đạo Tin lành, sau khi học

xong về nước đều theo đạo Tin lành và là những nhân tố tích cực truyền đạo.

Về tín đồ đạo Cao Đài.

Theo kết quả thống kê tình hình đạo Cao Đài trên địa bàn thành phố Hà

Nội ngày 20/9/2004 với số phiếu là 229 phiếu cho thấy Hà Nội có khoảng 233

tín đồ, tín đồ thường xuyên đến chịu lễ là 174 tín đồ, qua theo dõi hoạt động

của đạo Cao Đài trong mấy năm gần đây tín đồ có chiều hướng xa sút. Bà con

tín đồ đạo Cao Đài Hà Nội gắn bó với cộng đồng dân tộc, thực hiện nghiêm

chỉnh đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, thực hiện tốt

đường hướng "Phụng đạo, yêu nước" vui mừng phấn khởi, tin tưởng vào

đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước đối với tín đồ đạo Cao

Đài.

Về tín đồ Hồi giáo

Theo kết quả thống kê tình hình đạo Hồi trên địa bàn thành phố Hà Nội

cho thấy Hà Nội có 65 tín đồ là người Việt Nam và khoảng trên 400 tín đồ là

nhân viên nước ngoài đang công tác tại Việt Nam và nhân viên các Đại sứ

quán như: Malaixia, Pakistan… nhóm lễ vào ngày thứ sáu hàng tuần tại

Thánh đường số 12 phố Hàng Lược (quận Hoàn Kiếm). Do ít tín đồ, điều kiện

sinh hoạt tôn giáo ở phạm vi gọn, việc phát triển tín đồ gặp khó khăn, nên

44

nhìn chung chưa có biểu hiện phức tạp. Tuy nhiên đây là một tôn giáo có lịch sử rất phức tạp nên cũng không được chủ quan trong công tác quản lý.6

2.1.3. Tình hình hoạt động của hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo

* Đối với chức sắc Phật giáo

Trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 1.806 Tăng, Ni. Trong đó, Tỷ khiêu

275 vị; Tỷ khiêu Ni 1.228 vị; Sa di 30 vị; Thức xoa, Sa di Ni 93 vị; hình đồng

180 vị.

Nhìn chung trong 5 năm trở lại đây số lượng chức sắc, nhà tu hành

trong đạo Phật vẫn tiếp tục tăng vì Phật giáo Hà Nội có một đặc điểm là

chùa chưa có sư trụ trì còn khá nhiều nhất là ở Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh

Oai, Ba Vì. Chức sắc, nhà tu hành Phật giáo số đông vẫn tiếp tục phát huy

truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, chấp hành chủ trương, chính

sách của Đảng và nhà nước theo tinh thần hiến chương "Đạo Pháp - dân tộc

và chủ nghĩa xã hội", chưa phát hiện có hành vi chống đối lại giáo hội phật

giáo Việt Nam, hoặc lợi dụng tôn giáo vào mưu đồ chính trị. Mấy năm gần

đây để thực hiện công cuộc "Hoàng dương, phật pháp" Phật giáo Thủ đô tích

cực đào tạo tăng tài nên lớp tăng, ni trẻ nhiều người có trình độ trung cấp,

đại học phật giáo, có một số người đỗ tiến sỹ phật học ở nước ngoài, có quan

hệ rộng rãi với phật giáo quốc tế. Song một số tăng ni về mặt chân tu, phẩm

hạn còn hạn chế nên nảy sinh sự mẫu thuẫn giữa lớp trẻ với già, thậm trí có

những trường hợp tranh chấp chùa cảnh, vi phạm vào những điều tối kỵ

trong Phật giáo (đoạt tự như đoạt thê), nói xấu bề trên gây mất đoàn kết nội

bộ, tranh giành lợi lộc…

* Đối với chức sắc, chức việc đạo Công giáo.

Có 04 giám mục (01 Tổng giám mục, 01 giám mục, 02 giám mục phụ

6 Theo Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kz đổi mới (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội, tr5-7

tá), 82 linh mục, gần 2000 chức việc; 19 cộng đoàn tu sĩ ở 20 tu viện với 273

45

tu sĩTrong đạo Công giáo Hà Nội hàng ngũ giáo phẩm, chức sắc có thể tạm

phân làm 03 bộ phận.

Số đông hàng ngũ linh mục hoạt động lễ nghi tôn giáo theo các quy

định, không tỏ rõ thái độ chính trị.

Một bộ phận chức sắc phần lớn mới được đào tạo, vâng phục bề trên,

thực hiện sự chỉ đạo của Tòa thánh Vatican. Bề ngoài thì nêu đường hướng

"Sống phúc âm trong lòng dân tộc" nhưng bên trong thực chất tìm mọi cách

"canh tân"; "thích nghi" để tồn tại và phát triển, tiếp tục thực hiện đối sách

"vừa hợp tác - vừa kháng cự" chỉ hợp tác những gì có lợi cho giáo hội, có tư

tưởng “vọng ngoại” đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và nhà

nước bằng cách lồng vào sinh hoạt tôn giáo. Với số này luôn tìm cách né

tránh quản lý, lấn lướt Chính quyền thực hiện các việc ngoài quy định.

Một bộ phận nhỏ có chức vị cao, chỉ đạo tinh vi, chặt chẽ các hoạt động

củng cố tổ chức, mở rộng giáo hội và làm giản uy tín, cô lập cán bộ cơ sở

vùng giáo. Cấm không cho các chức sắc tham gia các tổ chức chính trị - xã

hội, cô lập Uỷ ban Đoàn kết Công giáo và những người tham gia vào tổ chức

này, tìm cách loại bỏ người tiến bộ và đưa người trung thành với mình vào

những vùng giáo quan trọng để củng cố và phát triển đạo, nâng cao vị thế của

giáo hội. Thực hiện nhiều hình thức như làm nhân đạo từ thiện tặng quà cho

kẻ khó, cho người nghèo vay không cần thế chấp. Qua làm việc với một số

cấp uỷ, chính quyền cơ sở đều nhận định hoạt động từ thiện của đạo công

giáo nặng về khía cạnh mở rộng thanh thế, gây uy tín, thu hút nhân tâm, phát

triển tín đồ cho nên cấp uỷ, chính quyền, mặt trận một số nơi có thái độ cảnh

giác đối với loại hoạt động này, nhất là khi xét đề nghị của Công giáo mở các

điểm từ thiện như nhà trẻ, lớp mẫu giáo.

Mặt khác cần nói tới là những hoạt động nhân đạo từ thiện của đạo

công giáo chỉ là khoản rất nhỏ so với các khoản đầu tư của nhà nước trong

46

những năm vừa qua. Nhưng cách làm của giáo hội gây được ấn tượng trong

dân, những người khó khăn được chức sắc tới thăm, đúng lúc; các nhà trẻ,

mẫu giáo hoạt động giảm phí, chất lượng tốt, có trường hợp còn miền phí khi

giữ trẻ.

Điều đáng chú ý là họ tìm mọi cách để tập hợp và truyền đạo cho giới

trẻ, hàng năm đều mở đại hội giới trẻ nhằm tranh thủ với phương châm "Thà

mất một ngôi nhà thờ, còn hơn để mất một tâm hồn trẻ thơ". Tìm cách lấn

lướt chính quyền vi phạm quy định hoạt động tôn giáo của nhà nước như;

phong chức đào tạo, bổ nhiệm, mở lớp đào tạo giáo lý viên, thúc dục tín đồ

đòi lại đất, cơ sở thờ tự, in ấn, tán phát tài liệu kinh bổn trái phép.

Việc thụ phong chức sắc đạo Công giáo được Giáo hội tiến hành theo

Hiến chương, Điều lệ của Giáo hội. Tuy nhiên, từ năm 2008 trở về trước, Tòa

Tổng giám mục Hà Nội vẫn thực hiện việc đăng ký phong chức, phong phẩm

đối với chức sắc Công giáo trên địa bàn Thành phố đúng theo qui định của

pháp luật, có hồ sơ đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xem xét

về tư cách công dân. Từ năm 2008 đến nay, việc thụ phong linh mục Tòa

Tổng giám mục Hà Nội tự ra quyết định và tiến hành bổ nhiệm linh mục về

các xứ, họ đạo làm công tác mục vụ; không đăng ký với chính quyền Thành

phố, chỉ thông báo đến địa phương nơi chức sắc được điều chuyển đến hoạt

động tôn giáo. Bên cạnh đó, đối với chức sắc Công giáo thuộc quyền quản lý

của Tòa Giám mục Hưng Hóa và Tòa Giám mục Bắc Ninh vẫn được tiến

hành các thủ tục đúng theo qui định của Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn

thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

Trong việc thuyên chuyển hoạt động tôn giáo đối với các linh mục

thuộc Giáo phận Hà Nội, Tòa Tổng giám mục Hà Nội trực tiếp ra quyết định

nhưng không tiến hành lập hồ sơ theo qui định thông báo nơi đi và đăng ký

nơi đến đối với các chức sắc. Trong năm 2012 và đầu năm 2013, Tòa Tổng

47

giám mục Hà Nội đã luân chuyển 34 linh mục trong giáo phận, trong đó Hà

Nội có 15 linh mục được được điều chuyển trong nội bộ và điều chuyển đến

hoạt động mục vụ tại các xứ, họ đạo. Tuy nhiên, đối với Giáo phận Hưng Hóa

và Giáo phận Bắc Ninh vẫn tiến hành việc thuyên chuyển mục vụ theo đúng

qui định pháp luật, không phát sinh tình hình phức tạp. Một số năm gần đây,

xuất hiện hiện tượng các linh mục Dòng thuyên chuyển đến Hà Nội để phục

vụ bên Triều với ý định khôi phục, phát triển các Dòng tu trên địa bàn thành

phố Hà Nội, nhưng trong Qui định của Giáo hội và pháp luật không có qui

định cụ thể về việc này dẫn đến không có cơ sở pháp lý để xử lý, giải quyết

việc linh mục Dòng thuyên chuyển đến hoạt động tôn giáo.

Điều đáng chú ý việc thuyên chuyển chức sắc tại giáo phận Hà Nội từ

khi nguyên Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt nghỉ hưu và về Châu Sơn, Ninh

Bình thì Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn đã có sự luận chuyển hợp lý hơn,

hợp tác với chính quyền để điều chuyển một số linh mục có tư tưởng chống

đối chính quyền ra khỏi địa bàn Hà Nội về các tỉnh lân cận thuộc Giáo phận

như việc điều chuyển: Linh mục Nguyễn Văn Lý (Giáo xứ Hàm Long) về Hà

Nam, linh mục Nguyễn Văn Bình (Giáo xứ Yên Kiện) về Nam Định, linh

mục Nguyễn Khắc Quế (Giáo xứ Thạch Bích) về Nam Định,....đây là những

linh mục luôn có tư tưởng chống đối chính quyền, bất hợp tác, thường xuyên

kích động giáo dân có đơn khiếu kiện liên quan đến nhà, đất có nguồn gốc tôn

giáo, tổ chức các hoạt động tôn giáo ngoài chương trình không đăng ký với

chính quyền hoặc tổ chức ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự. Những linh mục

được điều chuyển về Hà Nội mục vụ, bước đầu được đánh giá là có tư tưởng

ôn hòa, gần gũi hơn với chính quyền,....

Việc đào tạo đã được các giáo phận trên địa bàn tăng cường củng cố,

không chỉ đào tạo ngắn hạn, dài hạn trong nước mà đã cử một số linh mục đi

đào tạo dài hạn ở nước ngoài như: Mỹ, Pháp, Ý, Úc,...Được Chính phủ cho

48

phép, từ năm 2007, Đại chủng viện Hà Nội đã nâng thời gian học tập của các

chủng sinh từ 7 năm lên thành 8 năm (trong đó 7 năm học tại Chủng viện, 1

năm đi thực tập mục vụ). Bên cạnh việc đào tạo các linh mục triều, Dòng tu

nam cũng đã tổ chức gửi các tập tu đào tạo tại Trường Dòng để tạo nguồn linh

mục, tuy nhiên việc các Dòng tu nam cử tập tu đi đào tạo không tuân thủ theo

đúng các qui định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; họ tự ý gửi đào tạo sau

đó tự nhờ giám mục phong chức linh mục, không cần có ý kiến của chính

quyền các cấp; Dòng Chúa Cứu thế Thái Hà tự ý tổ chức tuyển sinh các tập tu

và đào tạo ngay tại Giáo xứ, không đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước

theo đúng qui định pháp luật.

Nhìn chung các hoạt động Công giáo trên địa bàn Thành phố những

năm qua (từ khi Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn thay Giám mục Ngô

Quang Kiệt) cơ bản ổn định, thuần túy tôn giáo, không phát sinh những điểm

nóng phức tạp. Qua tìm hiểu, Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn là người ôn

hòa, chủ trương của Tòa Tổng giám mục Hà Nội là hoạt động thuần túy tôn

giáo, tuân thủ pháp luật, không tổ chức các hoạt động khiếu kiện đông người

hay kêu gọi giáo dân chống đối chính quyền, giải quyết các vấn đề còn chưa

thống nhất với chính quyền các cấp bằng các biện pháp ôn hòa, tránh “bạo động”.7

Ban hành giáo xứ họ đạo

Năm 2007, Thành phố Hà Nội (cũ) có khoảng 40.000 giáo dân, 14

BHG xứ, 52 BHG họ đạo, 1.242 người tham gia BHG xứ, họ đạo [65, tr.6].

Sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây, toàn Thành phố Hà Nội có 79 BHG xứ, 632

7 Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo đề tài khoa học “Thực trạng Công giáo Thành phố Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc – Thuận lợi, khó khăn. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”. Đề án “Công giáo Việt Nam thực hiện đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc” của Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội, tr33-35

BHG họ, gần 2000 người tham gia, bình quân mỗi BHG xứ, họ đạo có

49

khoảng 4 chức việc [71].

Loại hình tổ chức xứ, họ đạo và tên gọi các chức danh của Ban hành

giáo xứ, họ đạo Công giáo ở Hà Nội khá đa dạng, không có sự thống nhất mà

tùy theo phong tục ở mỗi địa phương và cách quản lý của mỗi giáo phận khác

nhau. Qua khảo sát thực tế cho thấy, hiện đang tồn tại 3 loại mô hình là Ban

hành giáo xứ, họ đạo; Hội đồng giáo xứ và Hội đồng mục vụ giáo xứ.

Mô hình Ban hành giáo xứ vẫn khá phổ biến. Giáo xứ Cát Thuế (xã

Vân Côn, huyện Hoài Đức), thuộc giáo phận Hà Nội theo mô hình Ban hành

giáo xứ, lấy giáo họ chính xứ làm trung tâm, Ban hành giáo họ chính xứ lãnh

đạo Ban hành giáo các họ lẻ. Ban hành giáo xứ có 6 người: 1 chánh trương, 1

phó trương kiêm thư ký, 1 thủ quỹ và 3 trùm họ đạo.

Theo mô hình Hội đồng giáo xứ, có các giáo xứ như Dị Nậu (xã Dị

Nậu, huyện Thạch Thất) thuộc giáo phận Hưng Hóa, có Ban thường trực và

các ủy viên gồm 21 người. Ban thường trực Hội đồng giáo xứ có 1 chủ tịch, 1

phó chủ tịch nội vụ phụ trách đối nội, 1 phó chủ tịch ngoại vụ phụ trách đối

ngoại, 1 thư ký, 1 thủ quỹ và 3 trùm trưởng họ đạo. Mỗi họ đạo có 1 Ban

hành giáo gồm 5 người: 1 trưởng ban, 1 phó ban, 1 thư ký, 1 thủ quỹ và 1

người phụ trách các công tác khác.

Theo mô hình Hội đồng mục vụ giáo xứ như giáo xứ Đồng Trì (xã Tứ

Hiệp, Thanh Trì), giáo phận Hà Nội. Hội đồng mục vụ giáo xứ 5 thành viên: 1

trưởng ban, 2 phó trưởng ban, 1 thư ký và 1 thủ quỹ. Mỗi họ đạo lẻ có 1 Ban

hành giáo gồm 5 người. Giáo xứ Hàm Long (quận Hoàn Kiếm) có 2 họ lẻ tại

quận Hai Bà Trưng, theo mô hình Hội đồng mục vụ giáo xứ, lấy họ đạo chính

xứ làm trung tâm. Ban hành giáo họ đạo có 4 người 1 trưởng ban, 1 phó ban,

1 thư ký và 1 thủ quỹ.

Trên thực tế cho thấy vấn đề cơ bản của giáo hội cơ sở là nắm và chỉ

đạo giáo xứ, họ đạo, đây là lực lượng chức việc, chân rết của giáo hội Công

50

giáo cho nên các linh mục chính xứ rất chú trọng đến tuyển chọn nhân sự, đưa

người vào nắm tổ chức này. Tiêu chuẩn nhân sự Ban hành giáo xứ họ đạo

được đổi mới và nâng cao hơn trước người vào Ban hành giáo xứ, họ đạo

trước hết phải có uy tín với cộng đoàn tín hữu am hiểu lễ nghi, giáo luật, gia

đình có kinh tế khá, ở độ tuổi trẻ nếu là bộ đội xuất ngũ hoặc cán bộ ở xã,

phường thì tốt nhất hoặc có thể chọn những người gia đình có công với cách

mạng, để có quan hệ tranh thủ chính quyền, khi có vấn đề thì chính quyền

cũng rất khó xử lý những đối tượng này.

Hoạt động của các hội đoàn

Giáo hội công giáo Hà Nội tích cực thực hiện việc củng cố, phát triển

Hội đoàn, ngoài những hội đoàn phục vụ lễ nghi tôn giáo như hội hát, hội kèn,

hội trắc, hội dâng hoa, hội trống, nhiều hội đoàn có xu hướng, phát triển như:

hội cầu nguyện, hội ông Thánh Giê su, hội Bà Thánh Anna, hội ông Thánh

Gioan Kim, hội dòng ba, hội Thiếu nhi Thánh thế, hội Thánh Têrêza, hội Mân

côi, hội ông già, hội tương trợ, hội các bà, hội gia trưởng…

Những hội đoàn được khôi phục và thành lập đều không xin phép chính

quyền, hoạt động của các hội đoàn chủ yếu trong khuôn viên nhà thờ. Mục

đích của các hội đoàn, phục vụ thánh lễ, củng cố, tăng cường đức tin đồng

thời tạo mối liên hệ, gắn bó với giáo hội, thể hiện tính tổ chức trong cộng

đồng giáo dân làm sầm uất các hoạt động tôn giáo ở xứ, họ đạo.

Trong các hình thức hoạt động của hội đoàn đáng chú ý là hội Thiếu

nhi Thánh thể, thu hút số trẻ em có đạo ở lứa tuổi từ 7 đến 15, đây thực chất là

hình thức bồi dưỡng, tạo ra lớp giáo dân có đức tin cao, biết vâng lời. Cho đến

nay các loại hội đoàn nhìn chung đều mang tính tôn giáo thuần tuý, một số

hội đoàn được linh mục chính xứ sử dụng vào hoạt động từ thiện như đi thăm,

tặng quà cho các trại phong, trẻ em, người già cô đơn, người tàn tật.

51

Tính phức tạp của hội đoàn ở chỗ nó tập hợp đông đảo lực lượng tín đồ

ở mọi lứa tuổi, đoàn ngũ hoá tín đồ đây là sức mạnh vật chất mà giáo hội

công giáo đang tích cực thực hiện đồng thời cũng là bài toán cần có lời giải đối với các đoàn thể chính trị của ta hiện nay.8

* Về chức sắc đạo Tin lành Hà Nội.

Tổng hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) có trụ sở chung với chi

hội Thánh Tin lành Hà Nội tại số 2 Ngõ Trạm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Năm 1996, mục sư Bùi Hoành Thử - Phó Hội trưởng, kiêm Tổng Thư

ký Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Quản nhiệm chi hội Tin lành Hà

Nội qua đời, ban lãnh đạo Tổng hội có sự khủng hoảng về nhân sự, nhất là từ

khi mục sư, hội trưởng Hoàng Kim Phúc qua đời năm 2001, Tổng hội Thánh

Tin lành Việt Nam (miền Bắc) không có người lãnh đạo, kinh phí hoạt động

của giáo hội phụ thuộc phần lớn vào nước ngoài. Từ năm 1996 đến nay sau

nhiều năm không tổ chức được đại hội đồng lần thứ 32, sau Hội nghị thường

niên tháng 3/2002 Tổng hội Thánh Tin lành đã lập ra được ban trù bị đại hội,

bầu được chủ toạ, định ra đường hướng lãnh đạo (2003- 2005) tình hình nội

bộ, và hoạt động của tổng hội cũng có phần ổn định hơn. Tuy nhiên để tiến tới

đại hội đồng 32 cũng còn rất nhiều vấn đề đặt ra phải giải quyết.

Ngày 30/11 - 2/12/2004 Đại Hội Đồng lần thứ 32 Hội thánh Tin lành

Việt Nam( miền Bắc) đã bầu Ban trị sự Tổng hội mới gồm 13 người, trong đó

Hội Trưởng là mục sư Phùng Quang Huyến, phó Hội Trưởng là Giảng sư

Nguyễn Gia Huấn, Tổng Thư ký là Giảng sư Âu quang Vinh.

Đáng chú ý trong những năm gần đây các thế lực thù địch đứng đầu là

Mỹ đã lợi dụng những khó khăn của Tin lành Hà Nội tiến hành nhiều hoạt

8 Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kz đổi mới (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội, tr8-11

động (công khai, bí mật) nhằm tác động, ủng hộ, cổ vũ cả về mặt tinh thần,

52

vật chất để từng bước mua chuộc, lôi kéo ban trị sự tổng hội Tin lành Việt

Nam (miền Bắc) và chi hội thánh Tin lành Hà Nội.

Sứ quán Mỹ và các tổ chức Tin lành nước ngoài khi đến Hà Nội đều

gặp gỡ tiếp xúc với những người đứng đầu Tin lành trong đó có nhóm truyền

đạo Âu Quang Vinh để tìm hiểu sơ hở, thiếu sót của ta trong việc thực hiện

đường lối, chính sách về tôn giáo. Điều họ rất quan tâm là việc truyền đạo lên

các tỉnh miền tây bắc và vùng dân tộc Tây Nguyên…đây là vấn đề phức tạp

và nhạy cảm, cần theo dõi chặt chẽ và đề ra những giải pháp không cho kẻ

xấu lợi dụng chống phá cách mạng nước ta.

Đại hội Đồng lần thứ 33 (2009-2013) và Đại hội Đồng lần thứ 34

(2013-2017) đã đánh dấu sự trở lại mạnh mẽ của Hội thánh Tin lành Việt

Nam (miền Bắc). Cả 2 lần Đại hội Đồng, mục sư Nguyễn Hữu Mạc đều được

tín nhiệm bầu cử làm Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc),

Phó Hội trưởng là mục sư Phùng Quang Huyến, mục sư Bùi Văn Sản, Tổng

thư ký là mục sư Nguyễn Đức Đồng. Trong quá trình hoạt động, Ban Trị sự

Hội thánh đã có nhiều đóng góp cùng phối hợp với chính quyền các cấp, đặc

biệt Ban Tôn giáo Chính phủ, UBND thành phố Hà Nội giải quyết các nhu

cầu của Hội thánh từ tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, mở rộng quan

hệ trong và ngoài nước với các tổ chức tôn giáo bạn, thay đổi phong cách điều

hành và đa dạng hóa các hoạt động của Hội thánh. Những thay đổi cơ bản trên

đã góp phần giúp hoạt động của Tin lành Việt Nam (miền Bắc) trên địa bàn

thành phố Hà Nội trở nên sôi nổi. Đặc biệt, sau khi mục sư Âu Quang Vinh

cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ, hoạt động của chi hội thánh Tin lành Hà

Nội đã được giúp đỡ, tạo điều kiện để có những điều chỉnh mạnh mẽ, mục sư

nhiệm chức Bùi Quốc Phong được bổ nhiệm làm Quản nhiệm Hội thánh Tin

lành Hà Nội, mục sư Hoàng Văn Luân được bổ nhiệm làm Quản nhiệm Hội

thánh Tin lành Tự Nhiên (xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín), mục sư nhiệm

53

chức Phạm Bá Toàn được bổ nhiệm làm Quản nhiệm Hội thánh Tin lành Sở

Thượng (quận Hoàng Mai), mục sư nhiệm chức Phạm Bá Hạnh được bổ

nhiệm giúp lễ điểm nhóm Tin lành Định Công (quận Hoàng Mai).

Về cơ bản, các mục sư, mục sư nhiệm chức của Hội thánh Tin lành

Việt Nam (miền Bắc) đang hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội là những

người có trình độ, được đào tạo thần học bài bản, có nhận thức và trách nhiệm

với tín hữu trong cộng đồng, có quan hệ tốt với chính quyền địa phương và

tuân thủ đường hướng hoạt động của Hội thánh “sống Phúc âm trong lòng dân tộc”.

* Về chức sắc các tôn giáo khác

- Cao Đài: Trên địa bàn Hà Nội có 3 tổ chức tôn giáo cơ sở thuộc đạo

Cao Đài gồm họ đạo Cao Đài Thủ đô thuộc Cao Đài Ban Chỉnh đạo, họ đạo Cao

Đài Phúc Đức, họ đạo Cao Đài Đặng Giang thuộc Cao Đài Tây Ninh. Chức sắc

các họ đạo Cao Đài trên địa bàn Thủ đô phần lớn là những người trung niên và

làm nghề nông. Hoạt động của các họ đạo Cao Đài phần lớn phụ thuộc vào kinh

phí do tổ chức Cao Đài trung ương cung cấp nên khá hạn chế, tập trung chủ yếu

vào nhóm tín đồ thuần thành, ít có các hoạt động khuyếch trương.

- Baiha’i: Do đặc điểm đạo Baiha’i không có chức sắc, các Hội đồng

tinh thần Baha’i đều do tín đồ bầu vào các kỳ đại hội diễn ra mỗi năm 1 lần.

Trên địa bàn thành phố Hà Nội, phần lớn các hoạt động của Hội đồng tinh

thần Baha’i chủ yếu diễn ra tại số 9 Đội Cấn, trụ sở Hội đồng tinh thần Baha’i

Hà Nội là tổ chức tôn giáo cơ sở đầu tiên của đạo Baha’i trên địa bàn thành

phố Hà Nội và là tổ chức có số lượng tín đồ đông nhất. Mặc dù mỗi năm Hội

đồng tinh thần Baha’i tổ chức đại hội 1 lần nhưng qua nhiều năm theo dõi,

chức sắc đạo Baha’i chủ yếu tập trung vào một số người như ông Nguyễn

Văn Bình, Nguyễn Văn Duyên… là những người có uy tín trong cộng đồng

tôn giáo Baha’i trên địa bàn thành phố Hà Nội và là thành viên Hội đồng tinh

thần Baha’i Việt Nam. Hoạt động chủ yếu của nhóm chức sắc Baha’i trên địa

54

bàn thành phố Hà Nội tập trung vào việc hướng dẫn lễ nghi tôn giáo cho tín

đồ tại các điểm nhóm, từng bước củng cố nhân sự thành lập Hội đồng tinh

thần tại các quận, huyện và hỗ trợ hoạt động của Hội đồng tinh thần Baha’i

Việt Nam.

- Hồi giáo: Trước năm 2011, tại thánh đường Hồi giáo, số 12 phố Hàng

Lược, quận Hoàn Kiếm không có tổ chức tôn giáo, chỉ có ông Đoàn Hồng

Cương, kiều dân Pakistan trông coi thánh đường, có 01 Ban Quản trị do đại

sứ các nước thuộc cộng đồng Hồi giáo (OIC) luân phiên phụ trách nhằm phục

vụ hoạt động của các tín đồ Hồi giáo là người nước ngoài đang sinh sống, học

tập, làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ năm 2011, được sự quan tâm

của chính quyền thành phố, Ban Quản trị lâm thời thánh đường Hồi giáo Hà

Nội đã được thành lập gồm 3 người do ông Miêu Abbas làm Trưởng Ban.

Đến năm 2013, Đại hội lần thứ I thánh đường Hồi giáo Hà Nội đã được tổ

chức và bầu ra Ban Quản trị thánh đường gồm 05 người do ông Miêu Abbas

làm Trưởng Ban. Ban Quản trị đã suy cử ông Miêu Abbas làm Imâm, chức

sắc Hồi giáo đầu tiên của Hà Nội, góp phần tạo điều kiện tự chủ hoạt động

của Ban Quản trị, không còn phải nhờ chức sắc Hồi giáo từ nơi khác hoặc để

chức sắc nước ngoài làm lễ phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ

trong thánh đường.

- Minh sư đạo: Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện chỉ có bà Phạm Thị

Là, hiệu Bảo Ngọc, phong phẩm Dẫn Ân là chức sắc được Giáo hội Minh sư

đạo thừa nhận, hoạt động của bà Phạm Thị Là tập trung chủ yếu vào việc

phục vụ nhu cầu sinh hoạt của tín đồ tại chùa Diệu Nam, số 60 phố Đại La.

Hiện nay, hoạt động của Minh sư đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu

là thỏa thuận với Giáo hội Phật giáo Việt Nam về quyền quản lý, sử dụng

chùa Diệu Nam, số 60 phố Đại La.

55

2.1.4. Thực trạng cơ sở thờ tự của các tôn giáo

Qua theo dõi tình hình các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội, cơ

sở thờ tự của các tôn giáo có số lượng khá lớn, đặc biệt, Phật giáo Hà Nội có

số lượng chùa lớn nhất cả nước, Công giáo Hà Nội có địa bàn chịu sự quản lý

khá phức tạp của 3 Tòa Giám mục: Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Hóa.

- Đạo Công giáo: Trên địa bàn Hà Nội có 02 toà tổng giám mục, 82 nhà

thờ xứ, 327 nhà thờ họ, nhà nguyện và điện thờ, 12 nhà dòng tu (dòng chúa cứu

thế, dòng thánh Phaolô, dòng Mến Thánh giá Hà Nội, Mến thánh giá Hưng

Hóa…) và chủng viện liên địa phận Hà Nội. Trong đó, giáo phận Bắc Ninh có

40 nhà thờ xứ, họ, giáo phận Hưng Hóa có 109 nhà thờ xứ, họ, nhà nguyện, điện

thờ, giáo phận Hà Nội có 260 nhà thờ xứ, họ, nhà nguyện và điện thờ.

- Đạo Phật: Có trụ sở của Trung ương giáo hội phật giáo Việt Nam tại

chùa Quán Sứ, số 73 phố Quán Sứ Hoàn Kiếm, Hà Nội; có Văn phòng 1 Giáo

hội PGVN (chùa Quán Sứ), có hai trường phật học: 1 trường Học viện phật

giáo Việt nam (chùa Quán Sứ), 1 trường trung cấp phật học của Thành hội

phật giáo(chùa Mỗ Lao) và 2.059 chùa, trong đó có 209 chùa được công nhận

di tích cấp Quốc gia; 299 chùa được công nhận di tích cấp Thành phố.

- Đạo Tin lành: Có trụ sở Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền

Bắc) và chi hội thánh Tin lành Hà Nội ở số 2 Ngõ Trạm,Hoàn Kiếm, Hà Nội,

trường Thánh kinh Thần học Hà Nội cũng tạm thời đặt tại địa chỉ trên; 03 cơ

sở tôn giáo khác là nhà thờ Tin lành Sở Thượng, phường Yên Sở, quận Hoàng

Mai, nhà thờ Tin lành Tự Nhiên, xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín và nhà thờ

Tin lành Thọ An, xã Thọ Xuân, huyện Đan Phượng.

Các hệ phái Tin lành được công nhận tư cách pháp nhân còn lại đang

có tổ chức tôn giáo cơ sở, điểm nhóm Tin lành trên địa bàn Hà Nội (06 hệ

phái) không có cơ sở thờ tự mà chỉ thuê nhà làm nơi sinh hoạt tôn giáo như

Hội thánh Tin lành Cơ đốc Phục lâm Việt Nam có trụ sở thuê tại số 98 đường

56

Kim Giang, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai; Hội thánh Tin lành Trưởng

lão Việt Nam thuê tại ngõ 35, ngách 75, Cát Linh, quận Đống Đa; Hội thánh

Tin lành Liên hữu Cơ đốc Việt Nam thuê nhà số 287 Định Công, phường

Định Công, quận Hoàng Mai; Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam, ở thôn

Ái Mộ, Thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm; Hội thánh Báp tít Việt Nam (Nam

phương), 285 đường Bưởi, quận Tây Hồ; Tổng hội Báp tít Việt Nam (Ân

Điển – Nam Phương), thôn Hồng Ngự, xã Thuỵ Phương, huyện Từ Liêm.

- Đạo Cao Đài: Có 01 Thánh thất đạo Cao Đài ở 48 phố Hoà Mã, quận

Hai Bà Trưng, 02 cơ sở thuộc Cao Đài Tây Ninh tại thôn Đặng Giang, huyện

Ứng Hòa; tại thôn Phúc Đức, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai.

- Đạo Hồi: Có một Thánh đường ở 12 phố Hàng Lược, Hoàn Kiếm, Hà Nội .

Nhìn chung, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được sửa

chữa lại, trang hoàng đẹp hơn, nhiều nơi có trang bị âm thanh, ánh sáng tốt,

cảnh quan đẹp đẽ, tăng vẻ hấp dẫn làm cho tín đồ thêm trân trọng cơ sở thờ

tự, đồng thời thấy rõ chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.

Mặt khác trong tu sửa, xây dựng lại nơi thờ tự cũng đã huy động khá

nhiều công sức và tiền của trong dân ngoài ra có phần tài trợ từ nước ngoài.

Tuy vậy việc quản lý về cơ sở thờ tự của các tôn giáo cũng còn khá

nhiều điều phải quan tâm giải quyết.

- Một số nơi sửa chữa nơi thờ tự tuỳ tiện không xin phép hoặc làm trái

phép, tập trung chủ yếu ở Phật giáo, đáng chú ý một số chùa khi xây sửa phá

bỏ kiến trúc cũ xây dựng nhà mái bằng, kiên cố hoặc bắt trước kiến trúc chùa

miền Nam (xây 02 tầng) làm mất đi cảnh quản và phong cách kiến trúc truyền

thống của chùa Bắc Bộ như chùa Thiên Phúc, quận Hoàn Kiếm, chùa Cự

Khối, quận Long Biên...

Hiện nay số lượng chùa chưa có sư trụ trì khá đông (khoảng 500) –

theo thống kê cơ sở thờ tự trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2013, nhiều sư

57

ở tỉnh ngoài đến sinh hoạt tôn giáo không tuân thủ quy định của Giáo hội

Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội và sự quản lý của nhà nước, thậm trí có

sư miền Nam ra tổ chức xây dựng lại chùa theo môn phái khất sỹ không có

báo cáo xin phép chính quyền các cấp.

Bên cạnh đó, qua theo dõi tình hình tôn giáo trên địa bàn Hà Nội, Phật

giáo và Công giáo có nhiều khiếu kiện kéo dài liên quan đến đất đai có nguồn

gốc tôn giáo như sau:

- Phật giáo có tổng số 46 khiếu kiện tranh chấp liên quan đến cơ sở thờ

tự, chủ yếu là khiếu kiện về việc các hộ dân cư trú trong khuôn viên cơ sở thờ

tự như chùa Bà Đá, chùa Linh Ứng, chùa Liên Phái, chùa Tĩnh Lâu…

- Đạo Công giáo có 08 khiếu kiện kéo dài về đất đai có nguồn gốc tôn

giáo như trường Trung học cơ sở Hoàn Kiếm, Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba,

khách sạn La Thành, hồ Ba Giang, nhà thờ Đa Minh trong khu vực bảo vệ

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh…

Mặc dù trong thời gian qua, thực hiện Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày

31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, UBND các quận, huyện, thị xã rất nỗ

lực giải quyết các khiếu kiện liên quan đến đất đai có nguồn gốc tôn giáo như

di dời, giải tỏa các hộ dân cư trú trong khuôn viên chùa, nhất là các chùa được

công nhận di tích như di dời 17 hộ tại chùa Liên Phái, 02 hộ tại chùa Bà

Đá…; bàn giao lại hành lang bên trái cơ sở dòng tu Thánh Phao lô tại 37 Hai

Bà Trưng, cạnh Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba và Viện Mắt Hà Nội; xây dựng

công viên 1-6 cạnh nhà thờ Thái Hà, vườn hoa Hàng Trống tại số 42 phố Nhà Chung; bàn giao 20,46 m2 đất tại số 1 Nguyễn Văn Tố cho Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc); bàn giao 45.5 m2 đất từ trường Trung học cơ sở Hoàn

Kiếm cho Tòa Tổng giám mục Hà Nội quản lý, sử dụng nhưng do nhiều

nguyên nhân, trong đó chủ yếu là thiếu quỹ đất tái định cư, hạn chế về kinh

phí di dời, hoặc do quan điểm chưa phù hợp với đường lối, chính sách của

58

Đảng và Nhà nước của một bộ phận chức sắc, tín đồ mà tình hình khiếu kiện

đất đai có liên quan đến tôn giáo vẫn tiếp tục kéo dài.

2.2. Công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo trên địa

bàn thành phố Hà Nội

2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng về tôn giáo

Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng và Nhà

nước ta đã từng bước đổi mới về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong

quá trình đó, tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo ngày

càng được thể hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn theo quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ XI

của Đảng chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn

giáo phù hợp với quan điểm của Đảng".

Nghị quyết số 25 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa

IX) của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 12/3/2003, đã tổng kết và phát triển tư

duy lý luận đổi mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và

những điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo với lý tưởng của chủ

nghĩa xã hội. Nghị quyết 25 của Đảng đã phát triển lên một bước mới, khẳng

định rõ hơn tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên

chủ nghĩa xã hội" [44,49], định hướng đưa các tôn giáo đồng hành, gắn bó

cùng dân tộc. Luận điểm này đã cụ thể hoá quan điểm "tồn tại lâu dài" của tôn

giáo, nhưng phát triển rõ hơn trong mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và

chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên phương diện nhận thức, quan điểm này

tránh được các cuộc tranh luận không cần thiết về vấn đề tôn giáo sẽ tồn tại

đến khi nào. Đồng thời khắc phục được tư tưởng chủ quan, duy ý trí, nóng vội

59

cho rằng tôn giáo sẽ mất đi nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa

xã hội.

Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân

dân. Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi mới tư duy lý

luận của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Quan điểm nhìn nhận mới khẳng định rõ

thái độ của những người cộng sản Việt Nam về sự tôn trọng nhu cầu đời sống

tâm linh của nhân dân, một nhu cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có

đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng

bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín

ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống như việc bảo đảm các

quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tự do, nhân

quyền, dân chủ v.v.

Ba là, thừa nhận và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn

hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Bốn là, "giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống

thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân

dân"[44,49]. Quan điểm này hoàn toàn mới, có tính sáng tạo trong tư duy lý

luận của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Lần đầu tiên nội

hàm của tín ngưỡng được Đảng ta đề cập tới một cách chính thức trong văn

kiện của mình. Đây là quan điểm đúng đắn, phản ánh rõ truyền thống thờ

cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với làng, với nước của nhân dân

ta. Trong tâm thức của người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những có

công với dân, với nước không đơn thuần chỉ là một loại hình tín ngưỡng mà

cao hơn đó còn là một đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Đó là một

truyền thống lâu đời đã ăn sâu trong tiềm thức, đời sống tâm linh, văn hóa,

tinh thần của mỗi người dân Việt Nam, trở thành một di sản văn hóa phi vật

thể đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Chính vì vậy,

60

các tôn giáo ngoại nhập, kể cả những tôn giáo độc thần như Công giáo khi vào

Việt Nam cũng phải thừa nhận, tiếp thu loại hình tín ngưỡng truyền thống này.

Từ những nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã

nêu lên những quan điểm mới về công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội.

Một là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng

của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đế

phá hoại cách mạng. Trong quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh đến hai nội

dung rất quan trọng của công tác tôn giáo. Đó là chăm lo đến đời sống tôn

giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần

chúng. Đây là quan điểm thể hiện tư duy lý luận sâu sắc của Đảng ta về công

tác quần chúng nói chung, công tác tôn giáo nói riêng. Suy cho cùng, công tác

vận động quần chúng có đạo là công tác đối với con người, đó là những con

người-công dân-tín đồ. Họ là một đối tượng quần chúng đặc thù, có điểm

giống, nhưng cũng có điểm khác với các đối tượng quần chúng khác. Ở họ,

giữa con người công dân với con người tín đồ luôn quyện chặt vào nhau, bổ

xung cho nhau không thể tách rời và luôn hướng tới "tốt đời, đẹp đạo". Trong

họ, quyền lợi và nghĩa vụ song trùng giữa con người công dân có quyền lợi,

nghĩa vụ với Tổ quốc và con người tín đồ có quyền lợi, bổn phận với đạo, với

giáo hội của mình. Bởi vậy, công tác vận động quần chúng có đạo không đơn

thuần chỉ là công tác tuyên truyền giáo dục mà còn là công tác tập hợp tín đồ

các tôn giáo trong các đoàn thể quần chúng, công tác xây dựng cốt cán, công

tác đối với các chức sắc, nhà tu hành, các nhân sỹ trí thức trong các tôn giáo.

Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống

chính trị do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở xác định công tác tôn giáo mang nét

đặc thù với sự tinh tế trong nhiều mối quan hệ, không chỉ là giải quyết chính

61

sách đối với tín đồ, ứng xử với chức sắc và tổ chức giáo hội mà còn là công

tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo, liên quan đến chính sách đối nội,

đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do vậy, Đảng ta xác định lực lượng làm

công tác tôn giáo trong thời kỳ mới là toàn bộ hệ thống chính trị. Gồm Đảng,

chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị,... Toàn bộ hệ thống chính trị

tham gia làm công tác tôn giáo, nhưng mỗi ngành tuỳ theo chức năng có

những nhiệm vụ cụ thể: Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo

thông qua chủ trương, đường lối mang tính định hướng đối với tôn giáo nói

chung và đối với từng tôn giáo cụ thể. Đồng thời, thông qua mặt trận và các

đoàn thể thực hiện công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng cốt cán

trong tín đồ, chức sắc. Các cấp chính quyền có trách nhiệm thể chế hóa chủ

trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo; thực hiện

quản lý các hoạt động tôn giáo, đưa cáo hoạt động tôn giáo vào khuôn khổ

của pháp luật. Mặt khác, các cấp chính quyền còn phải chăm lo đến đời sống

vật chất và tinh thần của tín đồ các tôn giáo bằng các chính sách phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội và đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo

nhằm làm lành mạnh hóa các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt trận và các

đoàn thể tuyên truyền, vận động quần chúng, đưa quần chúng tín đồ các tôn

giáo theo từng giới, từng lứa tuổi tham gia các đoàn thể chính trị-xã hội, các

đoàn thể xã hội và các đoàn thể nghề nghiệp khác.

Bốn là, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt

động, truyền đạo và quản đạo) phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Cùng với

việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức tôn

giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước

thừa nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động

tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay

ép buộc người khác theo đạo. Điều đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn

62

giáo trong khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị-xã hội mà còn

bảo vệ các tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị

đoan nhằm làm lành mạnh hoá môi trường sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu,

nguyện vọng chính đáng của quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo.

Có thể nói, những quan điểm đổi mới nêu trên đã từng bước được thể

chế hóa bằng chính sách, pháp luật của nhà nước, như Nghị định 69/HĐBT

năm 1991 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ); Nghị định 26

CP năm 1999 của Chính phủ, đặc biệt Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của

UBTV Quốc hội (2004); Nghị định 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của

Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo; Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối

với đạo Tin lành. Đó là những văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhằm giải

quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Theo đó, nhiều vấn đề cơ bản,

quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết, như sinh hoạt tôn giáo

của tín đồ; vấn đề đào tạo chức sắc, in ấn kinh sách, đồ dùng việc đạo; vấn đề

đất đai, cơ sở thờ tự; đặc biệt vấn đề thừa nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ

chức của các tôn giáo (đến nay đã có 12 tôn giáo với 32 tổ chức, hệ phái tôn

giáo đã được thừa nhận); vấn đề hoạt động từ thiện, nhân đạo, văn hóa, xã

hội, giáo dục y tế, đối ngoại,. . . của tôn giáo. Điều đó đã tạo nên niềm tin

tưởng, phấn khởi của đại đa số tín đồ, chức sắc các tôn giáo, có tác dụng động

viên, khuyến khích họ tích cực tham gia công cuộc đổi mới đất nước.

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng đề ra trong Nghị quyết 25 (Nghị

quyết Trung ương 7 (phần 2) "làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của

toàn bộ hệ thống chính trị của Đảng lãnh đạo" [44,49], đối với Hà Nội, từ

trước đến nay, công tác tôn giáo được coi là nhiệm vụ trọng tâm được các cấp

uỷ đảng từ Thành phố đến cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Chỉ tính từ năm

1997 sau khi tổng kết Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "tăng cường công

63

tác tôn giáo trong tình hình mới", đến nay, chỉ tính riêng Thành ủy đã có rất

nhiều các chỉ thị, thông báo về chủ chương công tác tôn giáo cho đảng bộ cơ

sở, cụ thể như sau:

- Chỉ thị 21-CT/TW ngày 28/8/1997 "về tăng cường công tác tôn giáo

trong tình hình mới".

- Kế hoạch số 34-KH/TU ngày 12/8/1998, thực hiện Chỉ thị 37-CT/TW

ngày -2/7/1998 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng "về công tác tôn giáo

trong tình hình mới".

- Thông báo số 18-TB/TU ngày 14/3/2001 về công tác sinh viên và tôn

giáo trên địa bàn Hà Nội.

- Hướng dẫn số 04 ngày 20/3/2002 của Ban Thường vụ Thành ủy về

việc sơ kết thực hiện chủ trương đối với đạo Tin lành.

- Đề án số 25-ĐA/TU ngày 15/4/2003 thực hiện Nghị quyết Trung

ương 7 (phần 2) khoá 9 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì mục

tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh"; về công tác

dân tộc; về công tác tôn giáo.

- Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 30/8/2007 của Thành uỷ Hà Nội về công

tác tôn giáo trong tình hình mới.

- Thông báo số 314-TB/TU ngày 11/6/2010 của Thành ủy về việc

thông báo ý kiến chỉ đạo của Thường trực Thành ủy về tiếp tục thực hiện

thông báo số 160-TB/TW ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(khóa IX) về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong thời gian tới.

Cùng với các văn bản chỉ đạo của Thành ủy, UBND Thành phố cũng

kịp thời có nhiều văn bản pháp quy chỉ đạo việc thực hiện công tác quản lý

nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, cụ thể:

64

- Kế hoạch số 21/KH-UB ngày 03/12/1997 thực hiện Chỉ thị số 21-

CT/TU ngày 28/8/1997 của Ban Thường vụ Thành uỷ “Về tăng cường công

tác tôn giáo trong tình hình mới”.

- Kế hoạch số 2286/HD-UB ngày 15/9/1998 của UBND Thành phố về

đẩy mạnh công tác vùng giáo.

- Quyết định số 148/2005/QĐ-UB ngày 30/9/2005 về việc ban hành

quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức trong

nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài và cơ sở tôn giáo trên địa bàn Thành phố

Hà Nội.

- Đề án số 107/ĐA-UBND ngày 27/11/2009 của UBND Thành phố về

tăng cường công tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên

địa bàn Thành phố.

- Quyết định số 59/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND

Thành phố về việc quy định chi tiết một số nội dung về cấp giấy phép xây

dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Thành ủy và các cấp uỷ đảng trong

Thành phố luôn quán triệt chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín

ngưỡng của nhân dân trên cơ sở pháp luật, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân

tộc, khuyến khích đồng bào các tôn giáo thực hiện "kính chúa - yêu nước"

"phụng đạo - yêu nước" "tốt đời - đẹp đạo", thực hiện tốt nghĩa vụ công dân,

góp phần tích cực xây dựng Thủ đô giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Đồng thời các cấp uỷ đảng luôn luôn chăm lo đời sống vật chất, tinh

thần của tín đố các tôn giáo, cuộc sống của đồng bào các tôn giáo từng bước

được cải thiện số gia đình nghèo ở vùng có đông đồng bào tôn giáo hàng năm

giảm đi rõ rệt, số hộ đủ ăn, giàu có ngày một tăng đó là cơ sở hết sức quan

trọng để củng cố lòng tin của đồng bào với đảng và chế độ.

65

Việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người theo đạo Công giáo ở

những vùng có đông đồng bào Công giáo được quan tâm.

Trong công tác tôn giáo Thường vụ Thành ủy nhấn mạnh phải chủ

động, thống nhất, thận trọng, tế nhị, chặt chẽ, đúng pháp luật điều quan trọng

là khi giải quyết những vấn đề về tôn giáo các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chức

năng và các đoàn thể chính trị phải phân biệt được rõ hoạt động tôn gáo thuần

tuý với lợi dung tôn giáo để chống phá chế độ.

Trong công tác tôn giáo phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ không

chồng chéo, dẫm chân lên nhau đồng thời phải phối hợp hết sức nhịp nhàng

đồng bộ tránh kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng.

Thường trực Thành ủy phân công rõ nhiệm vụ cho các ngành, các cấp

ĐẢNG

NHÀ NƯỚC

MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ

CHỦ YẾU

theo sơ đồ.

Tham

TT

CẤP

Tham

Quản

mƣu,

Tham

Chỉ đạo

Chỉ đạo

mƣu

mƣu

giúp

việc

Ban Chỉ

Ban Dân

đạo Công

Phó

Thành

Ban Dân

Ban Tôn

Đảng

1.

tộc – Tôn

tác tôn

Chủ

phố

vận

giáo

đoàn

giáo

giáo Thành

tịch

phố

Ban Dân

Phòng

Thường

Quận,

2.

Cán bộ chuyên

Ban Chỉ đạo Công tác tôn

Phó Chủ

vận

Nội vụ

trực

huyện

trách

tịch

giáo cấp huyện

Cán bộ

BCH UB

Xã,

3.

Cấp uỷ

Mặt trận UBND

Cốt cán

văn hóa

Mặt trận

phường

66

Công an làm nhiệm vụ chống địch lợi dụng, các ngành, các cấp và cơ

quan chức năng phối kết hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp uỷ

đảng, nhìn chung các cơ quan tham mưu, giúp việc không trực tiếp ký các văn

bản giải quyết các vấn đề tôn giáo. Khi có vấn đề liên quan đến tôn giáo, các

cơ quan chức năng đều báo cáo với Thường vụ Thành ủy xin chủ trương,

UBND Thành phố giải quyết cụ thể về mặt quản lý nhà nước, theo pháp luật

quy định do đó đã khắc phục cơ bản tình trạng thiếu thống nhất trong các

ngành chức năng.

* Về xây dựng bộ máy công tác tôn giáo.

Xây dựng bộ máy làm công tác tôn giáo có vai trò quyết định thành

công trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác vận động

quần chúng tín đồ thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và

nhà nước. Trong nhiều năm nay Thường vụ Thành ủy luôn quan tâm tới công

tác này.

Thực hiện Nghị quyết số 13, 14 của Quốc hội, Ban Tôn giáo Thành phố

sáp nhập vào Sở Nội vụ nhưng vẫn được quan tâm kiện toàn, củng cố với các

phòng chuyên môn nghiệp vụ theo dõi công tác tôn giáo, bộ phận cán bộ theo

dõi công tác tôn giáo của Ban Dân vận, Mặt trận tổ quốc cũng được quan tâm

kiện toàn đi vào hoạt động thường xuyên nề nếp, bước đầu phát huy hiệu quả.

Ở các quận, huyện, thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ cũng tích

cực củng cố kiện toàn bộ phận làm công tác tôn giáo ở UBND và cán bộ tham

mưu công tác tôn giáo ở Ban Dân vận quận, huyện ủy.

Qua theo dõi công tác tôn giáo các quận, huyện, thị xã đến tháng

9/2014 có 30/30 UBND các quận, huyện cử cán bộ chuyên trách tôn giáo

thuộc Phòng Nội vụ quận, huyện, thị xã; đồng thời, ở Ban Dân vận các quận,

huyện có đồng chí kiêm nhiệm trực tiếp tham mưu cho cấp ủy đảng về công

67

tác tôn giáo, tuy không có điều kiện để bố trí cán bộ chuyên trách theo dõi

công tác tôn giáo nhưng vẫn thường xuyên theo dõi hoạt động tôn giáo qua

kênh Mặt trận, công an để phản ảnh tham mưu với cấp uỷ Đảng.

Như vậy là các cấp uỷ Đảng, Chính quyền chưa quan tâm đúng mức,

cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được đào tạo cơ bản,việc xử lý các vụ việc

tôn giáo còn lúng túng.

Căn cứ thực tế trên cho thấy các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Mặt trận

và các đoàn thể chưa đánh giá hết vai trò, tầm quan trọng trong công tác chỉ

đạo và quản lý đối với công tác tôn giáo. Kinh phí dành cho công tác tôn giáo,

công tác vận động quần chúng tín đồ còn quá hạn hẹp, chính sách tranh thủ

cốt cán trong tín đồ, chức sắc và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo hầu

như chưa được quan tâm của cấp uỷ, chính quyền các cấp.

Những vần đề trên cần sớm được khắc phục vì công tác tôn giáo vừa

mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài.

* Công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên trong những người có đạo

Xây dựng Đảng, phát triển đảng viên vùng có đông tín đồ các tôn giáo

nhất là đạo Công giáo và Tin lành, chính là một trong những công tác quan

trọng xây dựng lực lượng chính trị, được đảng ta quan tâm ngay từ thời kỳ

cách mạng còn trong trứng nước. Trước những năm 1990 toàn Thành phố chỉ

có 97 đảng viên là người có đạo. Sau khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị

số đảng viên là người có đạo tăng lên 161 người trong đó 151 đảng viên là tín

đồ đạo Công giáo, 9 đảng viên là người theo đạo Cao Đài, 1 đảng viên là

người theo đạo Tin lành. Đến tháng 9/2004, số Đảng viên là tín đồ các tôn

giáo đã tăng lên 215 đồng chí, trong đó:

- Đạo Công giáo: Có 133 đảng viên.

- Đạo Phật: Có 80 đồng chí đảng viên.

- Đạo Tin lành: Có 02 đồng chí là đảng viên.

68

Nhìn chung, số đảng viên có đạo trong những năm gần đây so với trước

có tăng, đa số đảng viên các tôn giáo vẫn giữ được phẩm chất đạo đức, phát

huy được tác dụng, nhưng tỷ lệ so với số lượng tín đồ các tôn giáo còn quá

thấp nhất là đạo Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Số đảng viên là người có

đạo ít được bồi dưỡng về quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về công

tác tôn giáo lên việc phát huy tác dụng còn có mặt hạn chế. Một bộ phận có

biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng nên khi trong vùng có đông đồng bào

các tôn giáo có vấn đê thì hầu như không nắm bắt, phát hiện kịp thời và chưa có cơ sở vững chắc để ta đấu tranh với những hoạt động tôn giáo trái pháp luật.9

2.2.2. Công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của hệ thống

dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị cơ sở

* Tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và nhà nước trong đó

có chính sách tôn giáo cho cán bộ, hội viên và quần chúng nhân dân các tôn giáo.

Xác định công tác tuyên truyền giáo dục đường lối, chính sách của Đảng

và Nhà nước về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ và đồng bào tín đồ các tôn giáo có

vị trí rất quan trọng. Nên từ năm 1997 đến nay, hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể chính trị từ Thành phố đến cơ sở hàng năm đều mở các lớp

học tập bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ phối hợp với trường đào tạo cán bộ Lê

Hồng Phong. Riêng Thành phố từ năm 2009 đến năm 2013, mỗi năm mở 15 - 20

lớp cho cán bộ làm công tác tôn giáo, chức sắc, chức việc tôn giáo các cấp từ

phường, xã đến quận, huyện, Thành phố. Các quận, huyện, thị xã cũng đã phối

hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị tổ chức tập huấn cho cán bộ từ chi hội,

chi đoàn trở lên. Sau các đợt tập huấn do Dân vận, Mặt trận và các đoàn thể tổ

chức, các cơ sở xã, phường đã có kế hoạch triển khai xuống tận chi đoàn, chi

9 Theo Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kz đổi mới (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội

hội. Các đợt bồi dưỡng báo cáo viên đã kết hợp lồng ghép giới thiệu về mặt nội

69

dung này. Do thường xuyên tổ chức tập huấn về công tác tôn giáo đến tận hội

viên lên hầu hết cán bộ, hội viên của Mặt trận và các đoàn thể đã tham gia vận

động tín đồ các tôn giáo khá hiệu quả góp phần tăng cường khối đại đoàn kết

toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, đóng góp vào công cuộc đổi

mới phát triển của Thủ đô, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Những thành tựu đạt được trong công tác tuyên truyền vận động chức

sắc, tín đồ là hết sức cơ bản. Song, thực tế cho thấy công tác này vẫn còn

nhiều hạn chế. Hạn chế trước hết là đội ngũ làm công tác vận động quần

chúng trong đó có quần chúng tín đồ các tôn giáo, nhiều đồng chí chưa được

trang bị đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước đối

với các tôn giáo. Nội dung tuyên truyền giáo dục quần chúng tín đồ vẫn còn

chung chung chưa tính đến tính đặc thù riêng biệt của từng tôn giáo, từng đối

tượng. Cán bộ được phân công làm công tác vận động quần chúng tín đồ các

tôn giáo ít có điều kiện hiểu biết về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của các tôn giáo.

Vì vậy, rất ngại khi tiếp xúc với chức sắc, nhất là chức sắc Công giáo, Tin lành.

* Vận động đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào

cách mạng, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng đời sống văn hoá

mới khu dân cư

Vận động tín đồ các tôn giáo gắn bó đạo đời, giúp đồng bào nâng cao

mọi mặt, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của Thủ đô là công tác

hết sức quan trọng. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ

Đảng, việc thực hiện của các cấp chính quyền, mặt trận, đoàn thẻ, công tác

vận động tín đồ các tôn giáo thu được những thành tựu đáng kể. Đồng bào có

đạo hoà nhập cùng cộng đồng dân cư, không phân biệt lương giáo cùng nhau

phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đề ra. Phong trào thi đua

"Kính chúa - yêu nước" của tín đồ Công giáo, phong trào "Phụng đạo - yêu

nước" của tín đồ Phật giáo và phong trào thi đua của các tôn giáo khác, được

70

lồng ghép vào các phong trào cách mạng chung do Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể phát động đã đem lại hiệu quả thiết thực. Cuộc vận động "Toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư" do Mặt trận Tổ quốc

và chính quyền phối hợp phát động với nội dung toàn diện, thiết thực và cách

làm phù hợp hướng về cơ sở đã thu hút được nhiều lực lượng, được đông đảo

nhân dân kể cả quần chúng có đạo tham gia. Những kết quả rõ nét bước đầu

thu được là việc đoàn kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, các hoạt động nhân

đạo, từ thiện; phòng chống tệ nạn xã hội; giữ gìn trật tự an toàn ở khu dân cư;

thực hiện cuộc vận động xanh, sạch, đẹp; an toàn kỷ cương, văn minh đô

thị… các hoạt động giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, chăm lo sức

khoẻ, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc do Hội

phụ nữ phát động đã được đông đảo phụ nữ có đạo nhận thấy là bổ ích, thiết

thực và động viên nhau cùng tham gia tích cực. Hội nông dân với phong trào

sản xuất giỏi đã giúp cho đồng bào có đạo tính toán cách làm ăn, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, tăng giá trị trên

đất canh tác.

* Công tác vận động chức sắc

Chức sắc tôn giáo là những người có vai trò, uy tín và ảnh hưởng rất

lớn trong quần chúng. Đối với tín đồ Phật giáo thì sư là thầy dạy đạo, đối với

đạo Công giáo, linh mục là người thay mặt cho cha dẫn dắt bày chiên "ý cha

là ý chúa". Muốn làm tốt công tác vận động quần chúng tín đồ điều trước tiên

phải tranh thủ được hàng ngũ chức sắc, vì vậy công tác vận động chức sắc có

quan hệ mật thiết với công tác vận động tín đồ.

Những năm qua, Mặt trận tổ quốc đã phối hợp với hệ thống dân vận và

chính quyền các cấp, bằng nhiều hình thức khác nhau gần gũi tiếp xúc với

chức sắc các tôn giáo nhằm vừa kết hợp nắm bắt tâm tư nguyện vọng của

chức sắc cũng như của giáo hội các tôn giáo, vừa kết hợp tuyên truyền, giải

71

thích các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với

tôn giáo; gắn bó tôn giáo với nhiệm vụ chung của đất nước và Thủ đô, qua đó

làm cho hoạt động của tôn giáo gắn đạo với đời, đồng hành với dân tộc.

Trong các dịp lễ, tết dân tộc, lễ trọng của các tôn giáo, dân vận, mặt

trận, chính quyền các cấp đến thăm hỏi động viên chúc mừng. Nhiều chức sắc

khi có khó khăn, ốm đau hoặc qua đời đều được chính quyền, mặt trận, dân

vận giúp đỡ tổ chức thăm hỏi, phùng viếng. Từ những việc làm trên đã tác

động rất lớn tới tín đồ. Nhân dịp Thủ đô và đất nước có sự kiện quan trọng, hệ

thống dân vận, mặt trận các cấp đã phối hợp với chính quyền tổ chức gặp mặt

thân mật, thẳng thắn trao đổi ý kiến vì vậy phần lớn những "nỗi niềm" của

chức sắc được giải toả, chắc sắc nhận rõ ý thức công dân, thấy được trách

nhiệm của mình với Thủ đô. Việc làm trên còn làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn

nhau, xóa bỏ định kiến, mặc cảm, giữa tôn giáo với Đảng, chính quyền, giữa

tôn giáo với nhau. Đặc biệt giúp người đứng đầu giáo hội thấy được thiện chí

của chính quyền, từng bước xoá dần sự khép kín trong trong quan hệ, dần dần

có sự giao lưu cởi mở với Đảng và nhà nước.

Công tác vận động chức sắc dưới góc độ an ninh trong những năm qua

đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Lực lượng an ninh đã nhận rõ chức

sắc các tôn giáo là bộ phận quần chúng "đặc biệt". Do vậy phương châm công

tác là "tranh thủ giáo sỹ, cải tạo giáo hội, nắm quần chúng", trước hết với số

chức sắc có những hoạt động vi phạm, lấn lướt, tư tưởng lừng chừng, công tác

an ninh có kế hoạch phân hoá, cô lập vô hiệu hoá hoạt động xấu, sau đó tác

động dần dần, tranh thủ lôi kéo họ.

Với Công giáo: Công tác an ninh tranh thủ tất cả các giáo sỹ, thường

xuyên gặp gỡ, hướng dẫn, uốn nắn họ thực hiện các quy định của Nhà nước

về tôn giáo. Số có hoạt động vi phạm, kịp thời phát hiện, đấu tranh, nhắc nhở

không để gây ảnh hưởng đến việc tranh thủ số giáo sỹ khác.

72

Với đạo Tin lành: Công tác an ninh tranh thủ số đứng đầu, sử dụng số

này tác động, cảm hoá số có hoạt động vi phạm, nhóm đối tượng đặc biệt thì

đấu tranh, cô lập.

Với Phật giáo: Nhận rõ vai trò, vị trí của chức sắc cao cấp, công tác an

ninh hết sức tranh thủ họ, thông qua số chức sắc có uy tín, cảm hoá tác động

số có vi phạm, mâu thuẫn, không để tình hình phức tạp thêm.

Tuy nhiên, công tác tranh thủ giáo sỹ vẫn còn bộc lộ một số thiếu sót sau:

- Việc tranh thủ giáo sỹ thường xuyên chủ yếu ở góc độ an ninh, mặt

trận và chính quyền, chỉ gặp gỡ nhân các ngày lễ trọng của các tôn giáo lên

rất ít có thời gian tiếp xúc, tranh thủ, cảm hoá.

- Cán bộ được giao trách nhiệm trực tiếp, tiếp xúc với chức sắc nhìn

chung chưa đủ. Khả năng, trình độ để tranh thủ cảm hoá hàng ngũ chức sắc,

cá biệt có những đồng chí cán bộ khi phân công thực hiện một số nhiệm vụ cụ

thể về chức sắc thì né tránh ngại gặp gỡ trao đổi.

Đối với Phật giáo:

Dưới sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền và mặt trận các cấp đã

quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho Ban Trị sự Phật giáo các cấp hoạt động.

Qua các kỳ đại hội Phật giáo, chính quyền, mặt trận đã chú ý kiện toàn Ban trị

sự Phật giáo Thành phố, Ban Trị sự phật giáo các quận, huyện về nhân sự của

các ban, ngoài các vị hoà thượng, cao tăng, các ni trưởng có uy tín trong hàng

giáo phẩm tham gia vào ban lãnh đạo, các tăng ni trẻ tuổi có năng lực và đạo

hạnh cũng được bổ sung đáng kể.

Trong nhiều năm nay phong trào phật giáo Thủ đô vẫn giữ được truyền

thống "Phụng đạo - yêu nước", không để kẻ xấu lợi dụng, kích động. Một số

sư thuộc phái Huyền Quang ở miền Nam đã có những hoạt động chia rẽ sự

thống nhất trong giáo hội phật giáo, vu cáo nhà nước ta đàn áp Phật giáo, có ý

định lôi kéo tăng ni, phật tử Hà Nội. Nhưng phật giáo Hà Nội vẫn vững vàng

73

lòng tin theo Đảng, luôn luôn cảnh giác không để kẻ xấu lợi dụng. Thiền sư

Thích Nhất Hạnh sau nhiều lần về nước đã có những phát ngôn thiếu tính xây

dựng về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhận thấy rõ thái độ

này, tăng, ni Thủ đô kiên quyết tẩy chay hoạt động của tăng thân Làng Mai

trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Tuy nhiên, tổ chức Ban Trị sự Giáo hội thành phố và Ban Trị sự các

quận, huyện đang bộc lộ những vấn đề cần quan tâm.

Hiện nay có hiện tượng một bộ phận trong Ban trị sự thành phố và Ban

Trị sự các quận, huyện biểu hiện cơ hội, ích kỷ, gây bè, kéo cánh, chia rẽ nội

bộ Giáo hội thành các phe Hà Nội và Hà Tây cũ, nếu không có sự uốn nắn kịp

thời rất dễ để kẻ xấu lợi dụng, mặt khác, ở một số quận huyện lúng túng về

nhân sự, người đứng đầu không đủ tài năng để điều hành công việc, nhất là tại

một số quận, huyện thực hiện chủ trương của Ban Trị sự Thành phố suy cử

các vị tăng làm Trưởng Ban Trị sự các quận, huyện.

Trong việc tu, sửa chữa chùa cảnh và chi phí cho một số hoạt động lớn

ở các chùa có sự đầu tư của Phật giáo nước ngoài biểu hiện trên rất dễ dẫn

đến việc ly khai giáo hội. Trong khi đó, xu hướng quay về điều hành Phật sự

theo sơn môn, pháp phái làm cho vai trò của Thành hội và Ban Trị sự quận,

huyện giảm sút là nguy cơ có thật, cần hết sức chú ý.

Đối với Uỷ ban Đoàn kết Công giáo:

Hiện nay, Hà Nội vẫn duy trì được hoạt động của Uỷ ban đoàn kết công

giáo. Hiện tại Uỷ ban đoàn kết công giáo Thủ đô có 124 uỷ viên, Ban Thường

trực có 9 vị, trong đó có 01 linh mục, 08 vị còn lại là những giáo dân trí thức

tiêu biểu trong hội đồng các giáo xứ (ban hành giáo xứ họ, đạo). Ở các quận,

huyện, thị xã đều thành lập Ban đại diện Đoàn kết Công giáo, dưới có Tổ

Đoàn kết Công giáo hàng năm đều tổ chức tổng kết đánh giá tình hình thực

hiện nhiệm vụ đề ra phương hướng hoạt động cho năm sau. Mặc dù khó khăn

74

về cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí nhưng Uỷ ban Đoàn kết Công giáo

vẫn có những đóng góp thiết thực vào phong trào cách mạng của Thành phố,

tích cực các chương trình công tác của mặt trận, đẩy mạnh phong trào thi đua

"Kính chúa - yêu nước", động viên được đông đảo đồng bào Công giáo hăng

hái thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương; phản ánh tâm tư

nguyện vọng của bà con giáo dân với đảng và nhà nước thông qua mặt trận

các cấp; tổ chức tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của nhà nước, nhất là chính sách tôn giáo để bàn con tín đồ công giáo biết

và thực hiện.

Hiện nay, Uỷ ban đoàn kết công giáo còn có những khó khăn cần được

tháo gỡ.

- Phong trào chưa được tổ chức thường xuyên, các Tổ Đoàn kết Công

giáo hoạt động chưa đồng đều, nhiều nơi không phát huy được tác dụng.

- Đội ngũ cán bộ cốt cán của Uỷ ban còn mỏng, vai trò hạn chế. Uỷ ban

luôn gặp khó khăn về kinh phí, phương tiện hoạt động, Mặt trận theo dõi giúp

đỡ Uỷ ban có lúc còn chưa được thường xuyên. Bên cạnh đó, số lượng thành

viên Ủy ban Đoàn kết các cấp phần lớn là những vị cao niên, nếu có lợi thế về

kinh nghiệm, tuổi tác thì lại gặp khó khăn trong việc đi lại, sôi nổi hoạt động

vì lý do sức khỏe, năng lực.

- Ủy ban Đoàn kết Công giáo thường gặp sự tẩy chay của các linh mục,

cá biệt có nơi linh mục còn không cho dự lễ nhà thờ, dọa rút phép thông công

đối với những người tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo các cấp.

* Công tác xây dựng chi đoàn, chi hội, xây dựng lực lượng cốt cán của

Mặt trận và các đoàn thể.

Công tác chăm lo xây dựng chi đoàn, chi hội vùng có đông đồng bào các

tôn giáo đặc biệt là đạo Công giáo và Tin lành có vai trò hết sức quan trọng

nhằm thu hút đông đảo quần chúng tin đồ tham gia vào hoạt động của các đoàn

75

thể. Trong mấy năm gần đây công tác xây dựng chi đoàn, chi hội vững mạnh

vùng có đông đồng bào Công giáo, Tin lành được các đoàn thể chính trị quan

tâm đẩy mạnh, số chi đoàn chi hội được công nhận vững mạnh ngày càng tăng

thu hút trên 30% số tín đồ vào tham gia hoạt động với tổ chức đoàn, tổ chức

hội (từ năm 1997 trở về trước chỉ thu hút tập hợp khoảng trên 20%) có thể nói

đây là sự cố gắng, tiến bộ đáng ghi nhận. Trong đó Hội phụ nữ, Hội nông dân,

Hội người cao tuổi có tỷ lệ thu hút tập hợp cao hơn trên 50%.

Các đoàn thể quần chúng đã quan tâm xây dựng đội ngũ những người

tích cực trong các tôn giáo làm nòng cốt, để làm tốt công tác tuyên truyền vận

động đông đồng bào tín đồ tôn giáo làm theo, không ngừng nâng cao đời sống

và tiến bộ, trưởng thành của đồng bào có đạo.

Mặt yếu của các đoàn thể trong công tác xây dựng chi đoàn, chi hội và

lực lượng nòng cốt qua nắm bắt, tìm hiểu ở cơ sở thường được đề cập như sau:

- Đoàn thể chưa chăm lo được lực lượng hội viên, đoàn viên tích cực,

cốt cán trong tổ chức chỉ tiến hành vận động chung, chưa chăm lo bồi dưỡng

riêng cán bộ chi hội, chi đoàn về các mặt để có đội ngũ công tác giỏi trong

đồng bào có đạo.

- Hiện tượng hội đoàn tôn giáo phát triển, hoạt động nề nếp, hiệu quả,

nắm chắc từng hội viên đang là vấn đề đỏi hỏi đoàn thể và mặt trận phải đổi

mới nội dung hoạt động, khắc phục tình trạng hoạt động sơ cứng, hành chính

không sâu sát từng con người như hiện nay.

- Đồng thời nhìn vào cơ sở, cũng thấy rõ điều kiện khách quan đang hạn

chế các hoạt động của mặt trận và đoàn thể. Trong khi nhà thờ, nhà chùa, nhà

nguyện đều là các điểm văn hoá khang trang. Có đầy đủ các điều kiện trang thiết

bị hoạt động, có người hàng tháng chăm lo, gìn giữ; thì các điểm văn hoá, câu

lạc bộ, sân vận động ở cơ sở vùng có đông đồng bào tôn giáo v.v… cơ sở chật

trội có nơi không có hoắc có thì nghèo nàn, ít sức hấp dẫn. Thậm trí có những

76

nơi không có chỗ cho hội viên, đoàn viên hội họp. Nếu không được tính toán kỹ

trong quy hoạch đô thị và vùng ngoại thành thì các cơ sở văn hoá không thể đáp

ứng được với yêu cầu của nhân dân trong thời kỳ đổi mới.

2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo

* Đối với đội ngũ chức sắc các tôn giáo (thuyên chuyển, bổ nhiệm,…)

Các tổ chức tôn giáo trên địa bàn thành phố thường tiến hành đại hội

theo nhiệm kỳ khoảng 4 – 5 năm/lần, Giáo hội Công giáo tiến hành bổ nhiệm,

luân chuyển, nơi hoạt động tôn giáo theo nhiệm kỳ 5 năm đối với các linh

mục trong giáo phận (02 đợt); trao đổi về việc thuyên chuyển, bổ nhiệm linh

mục có hộ khẩu thường trú tại các địa phương; Giáo hội Phật giáo thường

xuyên bổ nhiệm chức sắc Phật giáo trụ trì, hoặc kiêm nhiệm trụ trì các cơ sở,

tự viện trên địa bàn, Tin lành trong thời gian gần đây tăng cường bổ sung các

chức sắc về các địa bàn trống mục sư hoặc cải thiện tình hình kiêm nhiệm quá

nhiều địa bàn. Việc thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của các chức sắc,

nhà tu hành trên thành phố tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, thực

hiện chức năng quản lý nhà nước của UBND cấp huyện đối với hoạt động tôn

giáo đã được cụ thể tại Quyết định số 1412/QĐ-UBND ngày 30/3/2010 của

UBND Thành phố Hà Nội về phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính,

thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp huyện; theo đó, tổ chức tôn giáo

có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến UBND cấp huyện nơi đi và có hồ

sơ đăng ký với UBND các quận, huyện nơi đến.

Thành phố luôn tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo tiến hành các hoạt

động liên quan đến chức sắc như: năm 2012, Tòa giám mục Hưng Hóa đăng ký

01 ứng sinh đi tu học tại Hoa Kỳ. Tòa Tổng giám mục Hà Nội thuyên chuyển

nơi hoạt động tôn giáo đối với 53 linh mục trong giáo phận (trong đó Hà Nội

có 33 linh mục được luân chuyển đến mục vụ tại các xứ, họ đạo trên địa bàn

Thành phố); bổ nhiệm mới 13 linh mục (trong đó Hà Nội có 02 linh mục). Tòa

77

giám mục Hưng Hóa luân chuyển hoạt động tôn giáo đối với 09 linh mục

(trong đó Hà Nội có 03 linh mục); bổ nhiệm mới 07 linh mục (trong đó Hà Nội

có 02 linh mục). Tòa giám mục Bắc Ninh bổ nhiệm mới 04 linh mục (trong đó

Hà Nội có 01 linh mục).

Trong năm 2013, Phật giáo cử 15 tu sĩ đi du học các nước Mỹ, Pháp, Ấn

Độ, Đài Loan… phong chức, bổ nhiệm, kiêm nhiệm cho 32 chức sắc tôn giáo

đủ điều kiện trên địa bàn Hà Nội.

* Đối với vấn đề đào tạo của các tôn giáo

Thành phố luôn tạo điều kiện để các tôn giáo tiến hành các hoạt động

liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng chức sắc như: Đồng ý để Tòa Tổng giám mục

Hà Nội xây dựng cơ sở 2 Đại chủng viện Hà Nội tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ

Liêm; hàng năm đều tạo điều kiện để Đại chủng viện chiêu sinh, xem xét để

các ứng sinh trên địa bàn nhập học thuận lợi; đi du học, bồi dưỡng thần học tại

nước ngoài, tĩnh tâm,....Hiện nay, Hà Nội có 10 linh mục đang đi du học (trong

đó: Pháp 04 linh mục; Italia 04 linh mục; Mỹ 02 linh mục); Tạo điều kiện để

Học viện Phật giáo Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội, Trường Trung

cấp Phật học Hà Nội tổ chức tuyển tăng, ni sinh theo học các khóa lấy bằng cử

nhân, trung cấp Phật học. Mỗi năm đến dịp An cư kiết hạ, chính quyền các cấp

luôn tạo điều kiện để Giáo hội Phật giáo thành phố Hà Nội tổ chức khóa an cư

cho các tăng, ni trên địa bàn tại 15 trường hạ, phối hợp với các cơ quan liên

quan như dân vận, mặt trận tổ chức các lớp phổ biến, tuyên truyền pháp luật để

kịp thời cung cấp thông tin về pháp luật, hướng dẫn về thủ tục cho các tăng, ni

trên địa bàn trong dịp an cư; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) được tạo

điều kiện để thành lập trường Thánh kinh Thần học Hà Nội tại số 2 Ngõ Trạm.

* Đối với vấn đề xây, sửa, cải tạo cơ sở thờ tự các tôn giáo:

Hà Nội có hơn 400 cơ sở thờ tự Công giáo (trong đó có 409 nhà thờ,

nhà nguyện và đền thánh), 12 tu viện; 2.059 cở sở tự viện Phật giáo, 04 cơ sở

78

thờ tự của đạo Tin lành, 03 cơ sở họ đạo Cao Đài và 01 thánh đường Hồi

giáo. Với số lượng cơ sở thờ tự như vậy, công tác quản lý liên quan đến xây

dựng, sửa chữa, cải tạo rất nặng nề, phức tạp.

Việc xây, sửa, cải tạo cơ sở thờ tự của các tôn giáo được thực hiện theo

quy định của pháp luật. Việc cấp Giấy phép xây dựng theo thẩm quyền đã được

UBND Thành phố giao tại điều 1 (khoản 2), điều 8 (khoản 4) Quy định chi tiết

một số nội dung về cấp giấy phép xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội

(Quyết định số 59/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND Thành phố

về việc quy định chi tiết một số nội dung về cấp giấy phép xây dựng trên địa

bàn thành phố Hà Nội); theo đó giao UBND cấp huyện xem xét cấp Giấy phép

xây dựng các công trình tôn giáo (chưa xếp hạng di tích).

Trong năm 2013, thành phố đã xem xét, tạo điều kiện cho giáo hội xây

dựng mới, nâng cấp, sửa chữa trên 75 nhà thờ, nhà nguyện, chùa; cấp đất mới

để xây dựng 03 nhà thờ họ giáo nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của

chức sắc, giáo dân.

Tuy vậy, việc quản lý cơ sở thờ tự của các tôn giáo luôn là vấn đề nóng

bỏng, đòi hỏi phải xử lý mềm dẻo, có tính có lý, nếu không dễ trở thành điểm

nóng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên đó là:

+ Việc xây mới, sửa chữa cơ sở tôn giáo nhiều nơi làm tuỳ tiện, không

xin phép chính quyền. Trong xây dựng cơ sở tôn giáo nhiều nơi có ý định làm

nhà tầng kiên cố, cá biệt có nơi xây dựng chùa theo lối khất sỹ ở miền Nam,

không theo lối kiến trúc phật giáo truyền thống, số nơi kể cả đạo Phật và

Công giáo đua nhau dựng tượng ngoài khuôn viên.

+ Việc quản lý di tích đã được xếp hạng chưa phân định rõ chức năng,

quyền hạn của ban quản lý di tích với các chức sắc trụ trì. Vấn đề thường nảy

sinh từ việc quản lý hòm công đức.

79

+ Việc tranh chấp chùa cảnh của phật giáo vì mục đích kinh tế xảy ra ở

không ít nơi đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Phật giáo và quản lý

nhà nước nơi thờ tự.

+ Việc đòi lại các cơ sở thờ tự đã được giáo hội hiến nhượng cho nhà

nước hoặc đang sử dụng vào mục đích công cộng xảy ra ở nhiều nơi đang là

những vấn đề phức tạp khó giải quyết.

* Đối với tổ chức, hoạt động của các dòng tu Công giáo:

Thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22/2005/NĐ-

CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp

lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ đã có kế hoạch số

11/TGCP-CG ngày 10/5/2006 về việc triển khai đăng ký dòng tu, tu viện và

các hình thức tu hành tập thể khác của đạo Công giáo. Triển khai kề hoạch số

11/TGCP-CG ngày 10/5/2006, Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội, Ban Tôn

giáo và Dân tộc tỉnh Hà Tây (cũ) đã có văn bản gửi Tòa Tổng giám mục Hà

Nội, Tòa giám mục Hưng Hóa, Tòa giám mục Bắc Ninh hướng dẫn các dòng

tu, tu viện trong giáo phận làm hồ sơ đăng ký theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo và Nghị định 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ.

Hiện nay ở Hà Nội có 23 dòng tu đạo Công giáo với gần 100 cơ sở, tu

viện; trong đó có 04 dòng tu, với 12 cơ sở, tu viện hoạt động ổn định từ năm

1954 đến nay Còn lại 19 dòng tu với gần 100 tu viện và cơ sở hoạt động giáo

hội tự thành lập từ năm 2000 đến nay, không đăng ký với chính quyền. Trong

số 23 dòng tu của đạo Công giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ có Hội

dòng Mến thánh giá giáo phận Hưng Hóa gửi hồ sơ đăng ký hoạt động cho 05

cơ sở tu viện trực thuôc hội dòng.

Từ thực tế trên, vấn đề đạt ra trong công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động của dòng tu của đạo Công giáo là hết sức phức tạp liên quan đến

80

nhiều ngành nhiều cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Để giải quyết vấn đề trên cần tập

trung làm tốt một số nội dung sau:

- Tổ chức các cuộc điều tra, khảo sát để nắm chắc tình hình tổ chức,

hoạt động cơ sở vật chất của các dòng tu, qua đó xây dựng hồ sơ từng dòng,

thường xuyên cập nhật tình hình giúp cho công tác quản lý chủ động, kịp thời.

Tăng cường công tác tập huấn, tuyên truyền chính sách, pháp luật về tôn giáo

cho các tu sĩ.

- Thống nhất với các ngành, địa phương có liên quan để có biện pháp

giải quyết cụ thể.

- Gặp gỡ trao đổi với người đứng đầu tổ chức tôn giáo (Tổng giám mục

Hà Nội, Giám mục giáo phận Hưng Hóa, Giám mục giáo phận Bắc Ninh) và

người đứng đầu các dòng tu có cơ sở hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội

để hướng dẫn họ thực hiện việc đăng ký hoạt động theo quy định của pháp

luật.

Quá trình triển khai cần thận trọng, trước mắt ưu tiên hướng dẫn các

dòng tu có nguồn gốc tại Việt Nam thuộc thẩm quyền của Giám mục giáo

phận, triển khai trước để rút kinh nghiệm.

* Đối với vấn đề sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự:

Hàng năm các tổ chức tôn giáo hợp pháp đăng ký chương trình hoạt

động tôn giáo với chính quyền các cấp và được chính quyền các cấp xem xét

tạo điều kiện để sinh hoạt tôn giáo diễn ra bình thường tại nơi thờ tự. Những

hoạt động tôn giáo thuần túy được bảo đảm tự do hành đạo, bên cạnh đó có

những hoạt động trái phép với tập quán tôn giáo đôi khi cũng diễn ra cần phải

được nhắc nhở ngăn chặn hoặc giải quyết bằng phương pháp hành chính.

Ngoài những sinh hoạt thông thường, c òn có những hoạt động bất thường đó

là những hoạt động không có trong chương trình đăng ký hàng năm, hoặc có

81

đăng ký nhưng quy mô lớn hơn so với thường lệ thì phải thông báo với chính

quyền, khi chính quyền cho phép mới tiến hành.

Như vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước về tôn giáo phải làm việc với

các tôn giáo để xây dựng nội dung hoạt động thông thường của sinh hoạt tôn

giáo; phải nắm được các nội dung, phạm vi giữa các loại hình sinh hoạt tôn

giáo thông thường và các sinh hoạt biểu hiện xa lạ với tín ngưỡng, văn hoá.

Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng ký hàng năm và thực

hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.

Những hoạt động tôn giáo vượt ra khỏi khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa

đang ký hàng năm phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Theo chương trình mục vụ hàng năm, các xứ, họ đạo Công giáo đã tổ

chức các Thánh lễ như: Lễ tro nhân dịp mùa chay, mừng lễ Thánh Giuse; Lễ

lá; đêm canh thức vượt qua, Truyền Dầu, tiệc ly, mừng Chúa phục sinh, tháng

dâng hoa kính Đức mẹ, lễ mừng Giáng sinh…; Phật giáo với nhiều hoạt động

như lễ Phật đản, lễ Vu lan, lễ tạ pháp… tình hình diễn ra bình thường, thuần

túy tôn giáo. Đối với hoạt động tôn giáo diễn ra ngoài chương trình đăng ký

hàng năm ngoài cơ sở thờ tự; căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương để

cho phép tổ chức lễ với quy mô, hình thức đúng nội dung, chương trình như

đơn đề nghị, bảo đảm an ninh trật tự, vệ sinh mội trường, an toàn thực phẩm,

phòng chống cháy nổ, không để ảnh hưởng đến các khu vực xung quanh.

Tuy nhiên, vấn đề là trong quá trình thực hiện, một số chức sắc các tôn giáo

không đăng ký hoạt động ngoài chương trình như Tòa Tổng giám mục Hà Nội không

đăng ký lễ phong chức linh mục tại Nhà thờ Lớn cho các chủng sinh đã tốt nghiệp

chủng viện hoặc cố tình thông báo việc tổ chức hoạt động Đại hội giới trẻ năm 2013

tại giáo xứ Hà Đông quá muộn; nhà sư Thích Chân Quang tổ chức hướng dẫn sinh

hoạt tôn giáo cho các cụ thuộc Hội người cao tuổi Việt Nam tại Cung Văn hóa Hà

Nội nhưng núp dưới danh nghĩa giới thiệu sách; nhóm Tin lành quốc tế do ông

82

Bloomberg đứng đầu tổ chức sinh hoạt tôn giáo tại Tòa nhà Detech, số 17 Tôn Thất

Thuyết cho 450 người nước ngoài… Những vi phạm pháp luật trên chỉ là điển hình

trong nhiều vụ việc sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự hoặc ngoài chương trình

đăng ký nhưng không được sự chấp thuận của chính quyền địa phương.

* Đối lễ hội tôn giáo trên địa bàn thành phố:

Lễ hội của tôn giáo thường giới hạn trong phạm vi cơ sở thờ tự, thường

bao gồm 2 phần, phần lễ và phần hội, trong các lễ hội tôn giáo thì rất nhiều lễ

hội tôn giáo đã trở nên phổ biến rộng khắp cho cả những người không theo

tôn giáo như lễ Vu lan của Phật giáo, lễ Giáng sinh của Công giáo, Tin lành.

Nhiều cơ sở thờ tự, các lễ hội kỷ niệm những danh nhân, người có công với

đất nước như lễ hội Hai Bà Trưng tại chùa Vua (quận Hai Bà Trưng), lễ hội

Thánh Gióng (chùa Non, Sóc Sơn)… được tổ chức quy mô, thu hút rất nhiều

tín đồ, Phật tử. Nghiên cứu lễ hội tôn giáo, chúng ta sẽ thu được những kinh

nghiệm quý báu trong công tác tổ chức và ý thức trách nhiệm của từng thành

viên trong lễ hội.

Những năm qua, công tác quản lý và tổ chức lễ hội tôn giáo có nhiều

chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị

di sản văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của giáo dân công giáo. Thành

phố có văn bản hướng dẫn tổ chức, quản lý lễ hội tôn giáo; tuy nhiên, thời

gian gần đây, việc tổ chức lễ hội đã và đang xuất hiện những biểu hiện tiêu

cực, phản cảm như mở rộng quy mô lễ hội một cách tràn lan; trách nhiệm của

người quản lý và ý thức của người tham gia lễ hội còn nhiều hạn chế, bất cập

dẫn đến thái độ và hành vi, ứng xử chưa văn hóa đối với một số lễ hội; các

hiện tượng tiêu cực như xâm phạm cảnh quan môi trường, an ninh trật tự

không đảm bảo... Thực trạng trên đang làm giảm đi giá trị chân thực vốn có

và làm sai lệch giá trị bản sắc văn hóa của nhiều lễ hội, gây bức xúc trong dư

luận xã hội.

83

Để chấn chỉnh tình trạng trên, đồng thời nâng cao công tác quản lý và tổ

chức lễ hội trong thời gian tới, các cơ sở tôn giáo khi tổ chức lễ hội phải chịu trách

nhiệm về nội dung, chương trình, công tác tổ chức, quy mô, cấp độ của lễ hội.

UBND các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những sai

phạm trong lĩnh vực tổ chức và quản lý lễ hội, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu

cực trong lễ hội. Ban tổ chức lễ hội phải chủ động bảo vệ cơ sở thờ tự, cảnh quan

môi trường, phòng chống cháy nổ, đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường,

có kế hoạch cụ thể trình các cấp có thẩm quyền để có sự chỉ đạo, tổ chức, kiểm tra

chặt chẽ...

* Đối với vấn đề chia tách, thành lập các tổ chức tôn giáo trực thuộc.

Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ

chức trực thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo. Việc thành

lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải được sự chấp

thuận của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung

là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh); khi tổ chức tôn giáo có nguyện vọng các cơ

quan quản lý nhà nước về tôn giáo cần xem xét, tạo điều kiện cho họ thực hiện. Vấn

đề chia tách, thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc thường chỉ xuất hiện trong hoạt

động của đạo Công giáo và Tin lành.

Thời gian qua, đạo Công giáo ở Hà Nội đã gửi hồ sơ và được chính

quyền chấp thuận cho giáo phận Hưng Hóa thành lập mới 09 xứ tách ra từ 06

xứ; giáo phận Hà Nội thành lập mới 02 xứ tách ra từ 02 xứ (xứ Bái Đô tách ra

từ xứ Hoàng Nguyên, xứ Gò Cáo tách ra từ xứ Tân Hội).

Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đề nghị cấp con dấu cho các

chi hội thánh trực thuộc, một hình thức nâng cao vai trò và ảnh hưởng của các

hội thánh địa phương.

* Đối với hoạt động từ thiện, y tế, giáo dục của các tôn giáo:

84

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, qui định của pháp luật tại

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, UBND Thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện để

các tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo, y tế, giáo dục theo

đúng qui định của pháp luật, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, có sự

công bằng trong việc đối xử với các tôn giáo.

Đối với các cơ sở Công giáo tham gia hoạt động động từ thiện nhân

đạo, y tế, giáo dục, UBND Thành phố tạo điều kiện để khoá đào tạo kỹ năng

cơ bản để giáo dục và chăm sóc trẻ tự kỷ được tiến hành với sự tham gia của

164 học viên gồm 46 nữ tu của dòng Mến Thánh giá thuộc Hà Nội, Hải

Phòng, Bùi Chu, Hưng Hoá và dòng Phao Lô Hà Nội, số giáo viên của Trung

tâm Sao Mai, trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội là 30, còn lại là phụ huynh

có con em tự kỷ.

Luôn quan tâm chỉ đạo địa phương xem xét, tạo điều kiện để các tôn

giáo nói chung, đạo Công giáo nói riêng tham gia vào các hoạt động từ thiện,

y tế, giáo dục như: xem xét, tạo điều kiện thành lập Ủy ban Bác ái Xã hội –

Caritas của Giáo phận Hà Nội và giáo phận Hưng Hóa, cấp con dấu để Ủy

ban đi vào hoạt động đúng qui định pháp luật; xem xét để các Dòng tu nữ như

Dòng Mến Thánh giá, Dòng Phaolo tổ chức các lớp, nhóm trẻ tư thục; khám

chữa bệnh miễn phí hàng năm của Caritas các giáo phận trên địa bàn; đang

xem xét, chấp thuận để Tòa Tổng giám mục Hà Nội thành lập Trung tâm bảo

trợ xã hội nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật trên địa bàn Thành phố tại giáo xứ

Hoàng Nguyên, xã Tri Thủy, huyện Phú Xuyên,...

Đối với các cơ sở Phật giáo tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo, y tế,

giáo dục, chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm đến việc nuôi dưỡng

người già cô đơn, trẻ em không nơi nương tựa của các cơ sở Phật giáo, tránh

lặp lại tình trạng buông lỏng quản lý dẫn đến sự việc như tại chùa Bồ Đề thời

gian qua. Bên cạnh các cơ sở nuôi dưỡng như trên, Giáo hội Phật giáo Việt

85

Nam còn tích cực phát triển các phòng mạch Đông y, trung tâm cộng đồng

cho người nhiễm HIV và đặc biệt là tổ chức các đoàn Phật tử thăm, giúp đỡ,

ủng hộ đồng bào bị thiên tai trong nước.

* Đối với hoạt động quan hệ quốc tế của các tôn giáo và hoạt động tôn

giáo của người nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội

Các chức sắc, nhân sỹ tôn giáo ở Thủ đô đã và đang mở rộng quan hệ

quốc tế nhằm tăng cường trao đổi thông tin, góp phần hiểu biết lẫn nhau, mở

rộng giao lưu vì giáo lý của các tôn giáo, thể hiện tình đồng đạo của những

người cùng chung đức tin và tinh thần yêu hoà bình, thiện chí hợp tác hữu

nghị của nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới vì lợi ích của

đất nước và của giáo hội, góp phần đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái,

xuyên tạc, vu cáo của các thế lực xấu thiếu thiện chí với Việt Nam; tranh thủ

được sự giúp đỡ đào tạo được đội ngũ tăng tài, giáo sĩ có trình độ cao.

- Công giáo: Thường xuyên có khoảng 300-400 tín đồ người nước ngoài

đang sinh sống, học tập, làm việc dài hạn trên địa bàn thành phố Hà Nội tham

gia sinh hoạt tôn giáo. Từ nhiều năm nay, được UBND Thành phố chấp thuận,

Tòa Tổng giám mục Hà Nội có thánh lễ hàng tuần (sáng thứ bảy, chủ nhật) cho

người nước ngoài bằng tiếng Anh, Pháp tại nhà thờ Cửa Bắc cho khoảng 200-

300 người nước ngoài thuộc các quốc tịch Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha,

Italia, Braxin...; thánh lễ hàng tuần (sáng chủ nhật) cho khoảng 70 người Hàn

Quốc tại nhà nguyện Đức mẹ Phatima trong khuôn viên trụ sở Tòa Tổng giám

mục Hà Nội.

- Phật giáo: Là trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo của cả nước, Hà Nội

thường xuyên đón tiếp đoàn của các tổ chức Phật giáo quốc tế thăm, giao lưu,

hướng dẫn khóa tu...

86

+ Năm 2008, nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc Vesak, thành phố

Hà Nội đã đón tiếp hơn 2000 đại biểu Phật giáo quốc tế đến từ 73 quốc gia, vùng

lãnh thổ.

+ Từ năm 2008 đến năm 2012, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,

Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội đón nhiều đoàn Phật giáo quốc

tế đến thăm, giao lưu, truyền pháp như: Đoàn Phật giáo vương quốc Bhutan

hành lễ và thăm viếng tại chùa Quang Ân, huyện Thanh Trì và thăm một số

danh thắng tại Thủ đô Hà Nội; Đoàn Phật giáo Tây Tạng do Pháp vương

GyalWang Drukpa đời thứ XII và tăng đoàn truyền thừa Drukpa đến Hà Nội

thăm chùa Quang Ân, chùa Hương, chùa Thầy và làm lễ khai đàn cầu cho

quốc thái dân an, đại lễ cầu siêu, cầu nguyện hòa bình, phóng sinh và pháp

thoại; Mời và tiếp 05 phái đoàn Phật giáo các nước đến thăm, làm việc tại Việt

Nam trong đó có Hà Nội: Phái đoàn Phật giáo Ấn Độ do Pháp Vương Jim Pwa

làm trưởng đoàn sang thăm, giao lưu và tổ chức Lễ cầu nguyện hòa bình tại

chùa Quang Ân (huyện Thanh Trì); Tiếp Đoàn kiều bào tiêu biểu gồm 190

người từ 134 quốc gia trên thế giới do Ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng

Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước

ngoài dẫn đầu tới thăm trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Đoàn

Phật giáo Campuchia đến thăm và làm việc tại Trung ương Giáo hội Phật giáo

Việt Nam và Học viện Phật giáo tại Sóc Sơn; Thượng tọa Dorji, quốc tịch

Bhutan sang thăm và giao lưu, trao đổi kinh nghiệm tu hành với Tăng Ni, Phật tử

chùa Quang Ân (xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì); Tăng đoàn Tu viện Namgyal

Dharamsala (Ấn Độ) đến thăm và dự lễ khai pháp tại chùa Vạn Niên, phường

Xuân La, quận Tây Hồ; đoàn Phật giáo Vương quốc Campuchia gồm 15

thành viên do Hòa thượng Đại Tăng thống HT. Tep Vong làm trưởng đoàn đã

có chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Trong thời gian ở Hà Nội,

đoàn tới thăm chùa Quán Sứ, Trụ sở T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vào

87

viếng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham quan danh lam thắng cảnh thủ đô và

Học viện Phật giáo Việt Nam tại Sóc Sơn, Pháp sư Thích Ngộ Thông (quốc

tịch Mỹ, Úc) giảng Phật pháp tại các chùa thuộc huyện Gia Lâm, Đông Anh,

Sóc Sơn...

+ Đại sứ của nhiều quốc gia có mối quan hệ quốc tế với Việt Nam thường

xuyên tham gia các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội như năm

2009, đại sứ Pakistan đến thăm Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại sứ Ấn Độ đến

dự lễ Phật đản Phật lịch 2556 - Dương lịch 2012, năm 2012, đại sứ quán Thái

Lan tổ chức hoạt động tôn giáo tại chùa Nam Thiên, làng Nội Phật, huyện Sóc

Sơn, ông Judd Birdsall-Văn phòng tự do tôn giáo quốc tế - Bộ ngoại giao Hoa

Kỳ đã tới thăm và làm việc tại Văn phòng I Trung ương Giáo hội Phật giáo

Việt Nam, ông Hoàng Chí Bằng - Trưởng đại diện Văn phòng Kinh tế - Văn

hóa Đài Bắc thuộc vùng lãnh thổ Đài Loan cùng phái đoàn đã đến thăm và

làm việc tại Học viện Phật giáo Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội, ...

- Một số điểm nhóm Tin lành thuộc các tổ chức, hệ phái chưa được công

nhận tư cách pháp nhân:

Điểm nhóm Tin lành Nhân chứng Giêhôva do ông Dương Ngọc Hồng

làm trưởng nhóm tại số 29C ngõ 236 Khương Đình, quận Thanh Xuân (đã được

cấp Giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt đạo Tin lành theo điểm nhóm) thường

xuyên tổ chức sinh hoạt tôn giáo có sự tham gia của tín đồ là người Hoa Kỳ,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Canada...

Điểm nhóm Tin lành Mormon (Các thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu

Kitô) do ông Hoàng Văn Tùng làm trưởng nhóm thường xuyên có tín đồ là nhân

viên làm việc tại Đại sứ quán Hoa Kỳ sinh hoạt. Năm 2007, đoàn Giáo hội Các

Thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu Kytô do ông Robert Wayne Winegar,

Chủ tịch truyền giáo đặt tại Phnompenh, Campuchia, chịu trách nhiệm về các

hoạt động của Giáo hội tại khu vực Đông Nam Á đã được chấp thuận vào

88

thăm và tham dự một số thánh lễ tại điểm nhóm. Trong chuyến thăm và hoạt

động tôn giáo, ông R.W.Winegar cùng phái đoàn đã đến chào thăm và làm

việc với Ban Tôn giáo Thành phố và Sở Ngoại vụ, tại buổi làm việc, ông

R.W.Winegar đánh giá cao về trách nhiệm và xử lý của Thành phố đối với

hoạt động của tổ chức Tin lành Mormon trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Một số cá nhân, tổ chức Tin lành nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà

Nội tự phát hoạt động: Bên cạnh hoạt động tôn giáo của người nước ngoài được

thực hiện tại các cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo Việt Nam, xuất hiện một số

hoạt động của cá nhân, tổ chức quốc tế trên địa bàn thành phố Hà Nội như:

Tổ chức “Hội thánh Tin lành Hàn Quốc trên địa bàn thành phố Hà Nội”

có sự tham gia sinh hoạt của khoảng 600 người Hàn Quốc sinh sống, học tập,

làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ năm 1994, được UBND thành

phố Hà Nội chấp thuận, nhóm tín đồ này sinh hoạt tại cơ sở của Hội thánh Tin

lành Việt Nam (miền Bắc) nhưng do số lượng đông, nhóm đã tự lập văn

phòng đại diện tại khu đô thị Trung Hòa – Nhân Chính, quận Thanh Xuân.

Sau đó, do nhu cầu sửa chữa, cải tạo cơ sở, Hội thánh Tin lành Việt Nam

(miền Bắc) đã tạo điều kiện cho nhóm tín đồ Hàn Quốc do mục sư Paul

B.Han, người Hoa Kỳ, phụ trách được thuê nhà để tổ chức sinh hoạt tại xã

Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm.

Tổ chức Tin lành tín hữu quốc tế trên địa bàn thành phố Hà Nội (Hà

Nội International Fellowship) tự thành lập từ năm 1995, hiện do ông Jacob

Bloemberg, quốc tịch Hà Lan đại diện, có số lượng khoảng 450 tín đồ đến từ

38 quốc gia, vùng lãnh thổ, từng tổ chức sinh hoạt khách sạn Hà Nội Club,

Crown Plaza, Hà Nội Intercontinental, Bảo Sơn, Daewo, Asean... Năm 2012,

nhóm đã nhờ Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đứng đơn đăng ký

hoạt động tôn giáo với Ban Tôn giáo Chính phủ nhưng không được chấp

thuận.

89

- Hồi giáo: Thứ 6 hàng tuần, tại thánh đường Al Noor số 12 phố Hàng

Lược, quận Hoàn Kiếm thường xuyên tổ chức Thánh lễ với sự tham gia của

khoảng 300 tín đồ là người nước ngoài đến từ các quốc gia có đạo Hồi (OIC).

Do tính chất tôn giáo, tại Thánh đường thường xuyên có hoạt động giảng

dạy tiếng Ả rập và kinh Coran cho người lớn và trẻ em là người nước ngoài

như năm 2007, ông Habibur Rahman, sinh năm 1965, quốc tịch Apganistan tổ

chức lớp học tiếng Arab và kinh Coran cho người lớn và trẻ em vào thứ 7 và

chủ nhật hàng tuần tại thánh đường Hồi giáo số 12 phố Hàng Lược, có 20

người nước ngoài là tín đồ Hồi giáo thường xuyên tham dự lớp học, chủ yếu

là con em của nhân viên các Đại sứ quán.

Ngoài ra, Ban Quản trị Thánh đường thường xuyên kết hợp với các Đại

sứ quán các nước Hồi giáo tổ chức đón tiếp các đoàn chức sắc Hồi giáo vào

Hà Nội tham gia giảng dạy, chủ trì lễ nghi tôn giáo như việc năm 2012, Bộ

Hồi giáo Ả-rập Xê-út cử Giáo sỹ Alsulaiman Ibrahim Nazal K quốc tịch Ả-

rập Xê-út sang hướng dẫn lễ trong tháng Ramadan (từ 20/7 đến 20/8/2012) tại

Thánh đường Hồi giáo, số 12 Hàng Lược.

Hiện nay, Ban Quản trị Thánh đường đang xúc tiến việc thành lập

Trung tâm đóng dấu chứng thực Halal (được phép) đối với các thực phẩm

xuất khẩu sang các quốc gia Hồi giáo và tiêu thụ trong nước.

Hoạt động quốc tế của cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài tại Việt

Nam dưới sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền Thành phố phần nào

đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tin ngưỡng, tôn giáo chính đáng của người nước

ngoài sinh sống, cư trú, làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội, thúc đẩy sự

gắn bó, đoàn kết dân tộc và hợp tác hữu nghị giữa các tôn giáo tại Thủ đô với

tôn giáo quốc tế, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển Thủ đô và đất

nước. Sự quan tâm của lãnh đạo Thành ủy, UBND Thành phố đối với hoạt

động quốc tế của cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài trên địa bàn thành phố

90

Hà Nội cũng đồng thời thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại

đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần thúc đẩy hợp tác hữu nghị giữa Nhà nước và nhân dân ta với các quốc gia và dân tộc trên thế giới.10

* Các hoạt động khác của các tôn giáo Hà Nội:

Đối với các hoạt động khác như xuất nhập khẩu đồ thờ tự, kinh sách,

hội đoàn tôn giáo…, UBND Thành phố luôn chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành

Thành phố phối hợp cùng chính quyền địa phương xem xét, tạo điều kiện để

hoạt động của các tôn giáo diễn ra đúng qui định pháp luật hiện hành; ngăn

chặn kịp thời các hoạt động phát sinh, trái pháp luật gây ảnh hưởng đến tình

hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

2.2.4. Công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo

Trên cơ sở quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo của

Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành đã chú trọng phát động quần chúng đẩy

mạnh phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc vùng đồng bào có đạo, có những điển

hình tốt như: phường Yên Sở (Hoàng Mai), phường Hàng Bông, Hàng Trống,

Trần Hưng Đạo (Hoàn Kiếm). Lực lượng an ninh đã có nhiều cố gắng đi sâu

nắm chắc tình hình, phát hiện kịp thời các biểu hiện lợi dụng tôn giáo làm

những điều sai trái, vi phạm pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng tôn

giáo trong các vấn đề lựa chọn, đào tạo, phong chức, phong phẩm, phân công

chức sắc, cho các chức sắc đi nước ngoài, quan hệ giữa người nước ngoài với

các đối tượng tôn giáo trên địa bàn, tổ chức và hoạt động của các Hội đoàn trái

pháp luật, đấu tranh, xử lý các đối tượng tuyên truyền đạo lạ .

Song, trên thực tế, một số nơi vẫn còn những lúng túng trong xử lý, một

phần do chưa có đầy đủ chế tài, phần khác do chưa phân biệt rõ vấn đề tôn giáo

10 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2013), Chuyên đề Hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo tại thành phố Hà Nội.

bình thường với lợi dụng tôn giáo, mê tín dị đoan; giữa lợi dụng tôn giáo vì lợi

91

ích cá nhân với lợi dụng vì lợi ích tôn giáo và lợi dụng vì mục đích chính trị

phản động. Trong khi đó, các hành vi này đan xen với nhau, rất khó phân biệt

và dễ chuyển hoá. Lúc đầu có thể là lợi dụng tôn giáo vì lợi ích cá nhân hoặc

lợi ích tôn giáo, nhưng nếu giải quyết không tốt, có sơ hở, vi phạm thì có thể bị

các thế lực thù địch lợi dụng trở thành vấn đề chính trị. Do đó, trong đấu tranh

chống lợi dụng tôn giáo vẫn còn có mặt hạn chế, nhất là ở cơ sở, có nơi “tả

khuynh”, nơi “hữu khuynh” (chủ yếu là “hữu khuynh”) đã ảnh hưởng đến lòng

tin của quần chúng đối với chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Chưa

thật nhạy bén, chủ động, thiếu kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh với vận động

quần chúng và tranh thủ chức sắc, còn có biểu hiện né tránh, đùn đẩy.

Trong những năm gần đây, các tôn giáo lớn trên địa bàn Hà Nội tập

trung quan tâm củng cố, đào tạo chức sắc, tăng cường các hoạt động nhập thế,

tranh thủ mở trộng ảnh hưởng trong cộng đồng xã hội, đồng thời tiến hành

xây sửa các cơ sở thờ tự, tăng cường các hoạt động đối ngoại.

Tuy nhiên, tình hình hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố

Hà Nội trong thời gian qua cũng nổi lên một số vấn đề: thứ nhất, một số bộ

phận chức sắc vẫn có biểu hiện lấn lướt chính quyền, một số linh mục, tu sĩ

lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tự do dân chủ để thực hiện diễn biến hòa bình,

điển hình như một số chức sắc đạo Công giáo: Tổng giám mục Ngô Quang

Kiệt, Linh mục Lê Trọng Cung, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Khắc Quế…Việc

chống đối của các linh mục tập trung ở một số hoạt động như phong chức,

phong phẩm cho các tu sĩ không báo cáo cơ quan chức năng; Không đăng kí

chương trình sinh hoạt tôn giáo hàng năm, không đăng kí tổ chức các hoạt

động ngoài chương trình đăng kí hàng năm với cơ quan có thẩm quyền các

cấp. Đặc biệt các Linh mục dòng Chúa Cứu thế Thái Hà kích động chức sắc

và tín đồn Công giáo khiếu kiện đông người, vu cáo chính quyền đàn áp tôn

giáo. Một vụ việc gần đây gây mất trật tư an ninh, vi phạm pháp luật tại giáo

92

điểm Con Cuông, giáo phận Vinh, tỉnh Nghệ An, giáo xứ Thái Hà liên tục tổ

chức cá hoạt động ủng hộ như thấp nến nguyện hiệp thông, gửi thư ủng hộ, tổ

chức đoàn thăm hỏi giáo dân. Ngoài ra, bộ phận linh mục, tu sĩ này còn

thường xuyên rao giảng những nội dung xuyên tạc chính sách tôn giáo của

Đảng và nhà nước, đòi nhà nước phải sửa đổi Hiến pháp, pháp luật về tôn

giáo… Thứ hai, các tranh chấp liên quan đến vấn đề quản lý sử dụng nhà đất

có nguồn gốc tôn giáo. Đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Các thế lực thù

địch thường xuyên lợi dụng vấn đề này để kích động quần chúng nhân dân

khiếu kiện đông người, biểu tình bất hợp pháp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến

tình hình an ninh trật tự của Thành phố.

2.2.5. Thành tựu, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân

* Từ năm 2000 đến nay, việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối

với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đạt được những

thành tựu:

Một là: tình hình an ninh trật tự ở các khu vực đông đồng bào có đạo

nhìn chung ổn định; đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo phấn khởi, ngày

càng tin tưởng vào đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

Quá trình giải quyết không xảy ra xô xát, góp phần giữ vững ổn định chính trị

tại Thủ đô, tạo ra xu thế gắn bó đoàn kết lương - giáo trong khối đại đoàn kết

dân tộc. Giúp đỡ chức sắc, tín đồ các tôn giáo tiếp tục phát huy xu thế "gắn

bó, đồng hành cùng dân tộc", tán thành và tham gia tích cực trong các phong trào

cách mạng tại địa phương, hòa nhập vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.

Hai là: Kịp thời phát hiện, đấu tranh với các hành vi sai trái, đối sách có

hiệu quả với những biểu hiện gây rối, manh động. áp dụng kịp thời, đa dạng

các hình thức giải quyết, xử lý, đưa các hoạt động tôn giáo đi vào nền nếp,

93

từng bước giúp cho các chức sắc tín đồ hành đạo trong khuôn khổ pháp luật,

tuân thủ sự quy định của chính quyền, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Ba là: Thông qua công tác giải quyết những hiện tượng phức tạp, hệ

thống cán bộ làm công tác quản lý tôn giáo ở cấp thành phố ngày càng chuyên

sâu, ở quận huyện, phường, xã dần dần hình thành và ổn định; năng lực cán

bộ trong việc vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp

luật Nhà nước ngày càng được nâng cao. Qua đó góp phần đổi mới, hoạch

định chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo.

* Nguyên nhân của thành công:

Thứ nhất: Đảng ta đề xướng đường lối đổi mới và lãnh đạo thực hiện

đường lối đó thành công; trong đó, Đảng và Nhà nước kịp thời đề ra các chủ

trương, chính sách tôn giáo đúng đắn theo tinh thần đổi mới. Thành ủy Hà

Nội chủ động, sáng tạo trong quá trình lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tổ

chức hoạt động thực tiễn, kiên quyết thực hiện các chủ trương chính sách đó

trên đời sống tôn giáo ở Thủ đô.

Thứ hai: Đa số quần chúng giáo dân ở Hà Nội là nhân dân lao động có

tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc, luôn thực hiện đường hướng "tốt đời

đẹp đạo" qua các phong trào "Kính Chúa yêu nước", “phụng sự Thiên Chúa,

phục vụ dân tộc”. Trong tiến trình cách mạng, tín đồ tôn giáo Thủ đô luôn

được Đảng quan tâm giáo dục, bồi dưỡng nên họ đã giác ngộ, hiểu rõ đường

lối chính sách của Đảng, thấy rõ âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tôn

giáo phá hoại cách mạng. Từ đó quần chúng đã tự giác đấu tranh với mọi biểu

hiện vi phạm, đắc lực giúp đỡ các cấp chính quyền trong công tác quản lý

Nhà nước.

Thứ ba: Lãnh đạo thành phố tích cực chỉ đạo từng bước xây dựng, củng

cố, kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo của cơ quan

Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể nhân dân, lực lượng vũ trang theo yêu

94

cầu tình hình mới, có phân công, phân cấp nhiệm vụ, chức năng hợp lý cho

từng cơ quan trong công tác tôn giáo.

Thứ tư: Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Hà

Nội được các cấp, các ngành, đặt trong tổng thể, gắn với các nhiệm vụ kinh

tế, xã hội ở Thủ đô, phục vụ cho chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Mặc dù đội ngũ cán bộ tôn giáo ở thành phố và các quận huyện vừa

thiếu, vừa mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu, chưa có nhiều kinh nghiệm

thực tiễn nhưng Lãnh đạo Thành phố đã coi trọng công tác phối hợp, sử dụng

bộ máy sẵn có ở các cấp, các ngành, thống nhất từ khâu phát hiện tình hình,

chủ trương chỉ đạo, thống nhất thông tin và công tác giải quyết, xử lý ngay từ

cơ sở (phường, xã, quận, huyện) nên đạt hiệu quả cao.

* Về hạn chế

Một là: Công tác phát hiện các biểu hiện phức tạp còn chậm. Công tác

nắm tình hình có lúc còn chưa theo kịp với diễn biễn thực tế, với yêu cầu giải

quyết. Vì vậy trong nhiều vụ việc phức tạp còn phải bị động đối phó.

Hai là: Quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở Hà Nội

thiếu một đường hướng lâu dài, còn chạy theo vụ việc; một số trường hợp còn

kéo dài, chưa dứt điểm; nhất là những vụ liên quan đến nhà đất. Việc xử lý

các vi phạm giữa các ngành còn thiếu thống nhất, thể hiện sự lúng túng, nhất

là đối với những vấn đề mới phát sinh, như việc đòi lại cơ sở vật chất, xây

dựng, cải tạo lại nơi thờ tự, thuyên chuyển giáo sĩ từ các tỉnh khác về Hà Nội,

xuất bản, xuất nhập khẩu các ấn phẩm có nội dung tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo

của tín đồ người nước ngoài, quan hệ hợp tác quốc tế trong đào tạo chức sắc

tôn giáo tại chỗ ...v...v...

Một số cán bộ làm công tác quản lý tôn giáo cấp quận (huyện), phường

(xã) còn chưa nắm được nghị quyết của Đảng, những qui định của Nhà nước

đối với hoạt động tôn giáo. Do đó khi giải quyết, xử lý các vấn đề phức tạp lại

95

hay "đơn giản hóa", thuần túy, vì vậy dễ rơi vào hai thái cực: hoặc buông

lỏng, hữu khuynh để tôn giáo lấn lướt, gây thanh thế; hoặc tả khuynh, thô bạo,

gây bất bình trong giáo sĩ, tín đồ.

Ba là: Trong các vụ việc, sự hướng dẫn chỉ đạo của một số cơ quan còn

bất cập, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Trong một số trường hợp, sự

hướng dẫn, trả lời này chưa phù hợp với chính sách của Đảng, pháp luật Nhà

nước. Vì vậy đã gây nên một số vụ việc phức tạp không đáng có để cho địa

phương phải giải quyết hậu quả.

* Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất: Từ trước đến nay, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cơ hội

thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống lại cách mạng nước ta. Một số

người đã tập hợp giáo dân, có kế hoạch, chủ trương tiến hành làm thử một số

vụ việc, nếu thành công sẽ nhân rộng ra các địa phương khác. Vì vậy, trong

nhiều vụ việc, bằng nhiều cách, họ cố tình làm cho tình hình thêm căng thẳng

phức tạp, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Thứ hai: Nhiều đồng chí cấp ủy và cán bộ đảng viên ở cơ sở chưa nhận

thức được tầm quan trọng của công tác tôn giáo, chưa thấy được trách nhiệm

của ngành mình, cấp mình đối với công tác này, nên chưa phát huy được sức

mạnh của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, mà phổ biến còn giao

khoán cho Mặt trận Tổ quốc và các ngành chức năng.

Suốt thời kỳ dài, hệ thống cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được cấp

ủy, chính quyền quan tâm kiện toàn và bồi dưỡng chuyên sâu. Nhiều cán bộ

chưa được đào tạo có hệ thống để đáp ứng nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu

dài. Ngay ở vùng giáo, ở khu vực trọng điểm cũng không có biên chế cán bộ

làm công tác tôn giáo ở cấp phường (xã). Cán bộ làm công tác tôn giáo cấp

quận(huyện) nhiều nơi còn kiêm nhiệm và thay đổi luôn qua các kỳ bầu Hội

đồng nhân dân.

96

Thứ ba: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của các cấp

chính quyền còn nhiều sơ hở, việc xây dựng những qui định, văn bản pháp

qui để chủ động hướng dẫn các tôn giáo thực hiện chính sách tôn giáo theo sự

quản lý của Nhà nước địa phương còn nhiều hạn chế.

Công tác tuyên truyền giáo dục, nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên

lĩnh vực tôn giáo ở Thủ đô nói riêng, mới bắt đầu từng bước được quan tâm

chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, lãnh đạo thành phố chưa có sơ sở đề ra

chiến lược công tác tôn giáo ở Thủ đô, cũng như giúp cho Nhà nước hoạch

định chủ trương, giải pháp quản lý đối với tôn giáo.

Thứ tư: Việc nắm tình hình, tổ chức tập hợp và xây dựng phong trào

quần chúng giáo dân có lúc còn chưa được Mặt trận và các đoàn thể coi trọng.

Công tác vận động chức sắc tuy đạt được một số kết quả song chưa được coi

trọng thường xuyên. Kinh phí cho công tác vận động, tranh thủ giáo sĩ, giáo

dân còn quá hạn hẹp và đã trở nên lỗi thời trong tình hình kinh tế thị trường.

Công tác xây dựng Đảng trong vùng có đông đồng bào có đạo hiện

chưa có hướng dẫn cụ thể. Việc xây dựng lực lượng chính trị trong vùng giáo

nhiều khi chưa được chính quyền cơ sở và các đoàn thể quan tâm. Do vậy, đội

ngũ nòng cốt, cốt cán, đảng viên, đoàn viên còn ít, tác dụng còn hạn chế.

Qua những thành công, hạn chế, cùng những nguyên nhân của nó trong

công tác quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy

tính chất phức tạp của các hiện tượng nổi lên rất gay gắt trên nhiều lĩnh vực từ

đất đai, xây dựng tới tranh chấp quyền quản lý, trông nom cơ sở thờ tự, phát

triển tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Nhiều vụ việc liên quan

đến nhiều cấp, từ Trung ương đến cơ sở, vì vậy, công tác quản lý đòi hỏi bảo

đảm sự thống nhất của các lực lượng. Sự thống nhất đó trước hết từ nhận

thức, tiếp đến là quá trình xử lý thực tế các vụ việc.

97

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Chương 2 trình bày thực trạng hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên

địa bàn thành phố Hà Nội từ cơ cấu tổ chức, đặc điểm của tín đồ, chức sắc,

nhà tu hành, chức việc, cơ sở thở tự đến các nét hoạt động chính của các tổ

chức tôn giáo. Đồng thời, phản ánh thực trạng công tác quản lý nhà nước đối

với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay như công tác

lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, các chủ trương, chính sách về tôn giáo,

mô hình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tham mưu quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo của các cấp chính quyền trên địa bàn thành phố Hà Nội,

công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của các hệ thống và đoàn thể

chính trị cơ sở, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, công tác

đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo. Từ thực trạng đó, nhìn nhận những kết

quả đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong quá trình

quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ

đó, làm cơ sở tìm ra phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả

công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong thời gian tới.

98

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm về công tác quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động

tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới

3.1.1. Dự báo tình hình tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong

thời gian tới

Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba, cùng với cả nước vững bước trên con

đường đổi mới, từ nay đến năm 2020, Thủ đô đang chuyển mình mạnh mẽ.

Công cuộc đổi mới tiếp tục giành thắng lợi củng cố niềm tin của nhân dân,

đặc biệt sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa có sức cuốn hút mạnh mẽ.

Công tác tôn giáo được toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành quan tâm.

Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có những chuyển biến

nhanh chóng và phức tạp. Việt Nam đang "thực hiện nhất quán đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế"11 . Công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo sẽ có nhiều

thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, nguy cơ, thử thách. Các thế lực

thù địch vẫn tiếp tục ý đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Các thế lực phản động khác sẽ tăng cường thực hiện chiến lược "diễn

biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, đến tư tưởng,

trong đó lĩnh vực dân tộc và tôn giáo được chúng chọn làm "ngòi nổ". Chúng

tiếp tục tìm mọi cách để kích động, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo; đòi "tự

do tôn giáo", nhằm từng bước tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước,

biến nó thành lực lượng chính trị đối lập và đối trọng với Đảng, Nhà nước ta.

11 Đảng CSVN (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG Hà Nội, tr 119.

Chúng sẽ tìm mọi cách "quốc tế hóa" các vấn đề tôn giáo trong nước để tạo

99

cớ can thiệp, gây mất ổn định chính trị xã hội, tiến tới bạo loạn, xóa bỏ chế độ

Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong những năm tới, trước xu thế tôn giáo trong nước và thế giới, hoạt

động của các tôn giáo ở Hà Nội sẽ tiếp tục sôi động, phát triển đa dạng. Các

chức sắc, nhà tu hành vừa tích cực hòa nhập, vừa tranh thủ mở rộng vai trò,

ảnh hưởng, gây thanh thế trong xã hội. Lực lượng chức sắc, tín đồ các tôn

giáo sẽ gia tăng và được tổ chức lại; cơ sở vật chất của tôn giáo được cải

thiện; kinh phí của các tổ chức tôn giáo được tăng lên từ nhiều nguồn trong và

ngoài nước. Các hoạt động đều nhằm phát triển tôn giáo, tín ngưỡng, củng cố

niềm tin, tập hợp quần chúng nhằm mục đích lâu dài. Vì vậy, không loại trừ

khả năng xuất hiện những vụ việc khiếu kiện, những điểm nóng phức tạp về

tôn giáo, gây áp lực đòi Nhà nước giải quyết theo hướng có lợi cho Giáo hội;

bọn chống đối bên ngoài có cơ hội vu cáo xuyên tạc, thậm chí can thiệp bằng

các hình thức khác nhau nếu ta giải quyết, xử lý không khôn khéo. Công tác

quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo sẽ đặt ra nhiều vấn đề mới;

bởi vì, xét về mặt lâu dài thì lĩnh vực tôn giáo vẫn tiềm ẩn nhiều khả năng gây

nên những biến động phức tạp. Trong khi đó, nhiều hiện tượng tôn giáo mới ở

trong nước sẽ tiếp tục xuất hiện; một số hiện tượng tôn giáo mới ở nước ngoài

cũng tìm cách xâm nhập, truyền bá, gây ảnh hưởng... làm cho đời sống tôn

giáo ở Thủ đô có nhiều diễn biến. Do đó, phải có chính sách, biện pháp phù

hợp, góp phần thực hiện hiệu quả chiến lược phát huy nội lực, kết hợp với

ngoại lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tương xứng

với tầm vóc của Thủ đô.

Cần lưu ý, giải quyết vấn đề tôn giáo hiện nay cần có sự hợp tác, phối

hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương và không thể tách rời việc

giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội. Cho nên, công tác tôn giáo, nhất là công

tác giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến các tôn giáo cần phải có

100

một hệ thống các giải pháp mang tính cơ bản và toàn diện bao gồm các giải

pháp kinh tế, chính trị và các giải pháp văn hoá tinh thần. Trong đó, giải pháp

chính trị mặc dù không phải là giải pháp duy nhất quyết định, song bao giờ nó

cũng có vị trí quan trọng và đôi khi quyết định trong tình hình cụ thể nào đó.

Thời gian tới, công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn

giáo tại Thủ đô cần quán triệt tinh thần: "Dĩ bất biến ứng vạn biến", "Giữ

vững bên trong để mở cửa quan hệ với bên ngoài". Khu biệt vấn đề tại đây,

hiện nay, trong chính trị cần hướng đến các giải pháp nhằm tạo ra sự đổi mới

hơn nữa trên các nhân tố căn bản của chính trị. Đó là: giải pháp đổi mới và

hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, chủ trương, đổi mới bộ máy, công

cụ chính trị; đổi mới công tác cán bộ và đào tạo cán bộ; đặc biệt, cần quan

tâm đến công tác xây dựng lực lượng chính trị trong các vùng tôn giáo điển

hình, xây dựng giáo hội hoạt động theo đường hướng gắn bó với dân tộc, với

đất nước, tuân thủ luật pháp, nâng cao cảnh giác, chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng.12

3.1.2. Quan điểm về công tác tôn giáo

* Quan điểm chung

- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân

đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,

theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường

theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình

12 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2009), Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu lực quản l{ nhà nước trong công tác giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo ở Hà Nội trong thời gian tới

đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động

101

mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích

động chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

- Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính

trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn

giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo

cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở cơ sở, những địa bàn trọng điểm có

đông đồng bào tôn giáo. Tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong

khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Thống nhất phương châm “Kiên trì – đồng bộ - linh hoạt – đúng

pháp luật” trên cơ sở chính sách tôn giáo và các quy định của Luật để giải

quyết các vấn đề tôn giáo. Trong quá trình giải quyết, phải tranh thủ cảm hóa,

tạo được sự đồng tình, ủng hộ của các chức sắc, tín đồ tiến bộ, chấp hành tốt

pháp luật, kết hợp chặt chẽ với công tác tuyên truyền, vận động, đối thoại

thuyết phục để giải quyết kiến nghị, khiếu nại đòi nhà, đất có nguồn gốc tôn

giáo và giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến tôn giáo. Cụ thể là: Kiên

trì vận động, thuyết phục giáo sỹ, giáo dân chấp hành đúng pháp luật; thực

hiện đồng bộ các biện pháp vừa kiên trì vận động, thuyết phục, vừa tuyên

truyền, phê phán, lên án, tập trung phân hóa, cô lập, đấu tranh với các đối

tượng chủ mưu, xúi giục, xử lý bằng pháp luật đối với những đối tượng quá

khích để răn đe, chuẩn bị sẵn sàng các phương án đối phó với hoạt động quá

khích biểu tình, gây rối hoặc cưỡng chế giải tỏa khi cần thiết; linh hoạt trong

việc thực hiện các biện pháp xử lý trong từng trường hợp và từng thời điểm

cụ thể. Tuyệt đối không để xảy ra sai sót, không đúng quy định của pháp luật

trong quá trình xử lý các vụ việc, tình huống phức tạp để tạo cớ cho các đối

tượng xấu lợi dụng, tuyên truyền xuyên tạc, kích động.

- Tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của các cơ quan Trung ương trong việc hỗ

trợ cung cấp thông tin, quan điểm chỉ đạo xử lý, giải quyết đối với từng vụ

102

việc phức tạp trên địa bàn. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các tỉnh,

thành phố liên quan trong cả nước để chủ động làm tốt công tác ngăn ngừa,

giảm thiểu số lượng giáo dân bị tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo, kích động tập

trung về Hà Nội và có những hành vi vi phạm pháp luật.

- Thống nhất quan điểm xử lý đòi nhà, đất có nguồn gốc tôn giáo trên

địa bàn Thủ đô Hà Nội phải được giải quyết theo đúng quy định của Luật,

đồng thời, quan tâm giải quyết nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của giáo sỹ,

giáo dân. Vì vậy, các cấp chính quyền cần tuyên truyền vận động, đối thoại,

thuyết phục, kiên quyết không chấp nhận các giáo sỹ, giáo dân đòi lại nhà đất

có nguồn gốc tôn giáo mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng từ ngày

01/7/1991 trở về trước (theo tinh thần Nghị quyết số 23 của Quốc hội khóa

XI). Đồng thời, phải chủ động trong giải quyết các nhu cầu chính đáng của

các tôn giáo về đất đai, cơ sở vật chất phù hợp với các quy định của Luật, Chỉ

thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất

liên quan đến tôn giáo, Công văn số 3371/BNV-TH ngày 16/10/2009 của Bộ

Nội vụ hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của

Thủ tướng Chính phủ, tránh tư tưởng cực đoan, cứng nhắc trong chỉ đạo và tổ

chức thực hiện ở cơ sở.

* Quan điểm cụ thể:

Một là, đối với nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì

Nhà nước tôn trọng và đảm bảo.

Hai là, đối với những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc, nhân

dân thì được khuyến khích.

Ba là, đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu thì đều

bị nghiêm cấm và xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

- Đối với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ: Tín đồ các tôn giáo

được tự do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự, nghiêm cấm việc phân

103

biệt đối xử, được đảm bảo các điều kiện như có chức sắc, có nơi thờ tự, có

kinh sách phục vụ sinh hoạt tôn giáo.

- Đối với hoạt động của chức sắc, nhà tu hành: Chức sắc, nhà tu hành

được đi lại hoạt động bình thường trong phạm vi phụ trách, là người chịu

trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động tôn giáo trong phạm vi phụ trách.

- Đối với các tổ chức tôn giáo: Các tổ chức tôn giáo có đường hướng

hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ mục đích, có Hiến chương, Điều lệ

phù hợp với pháp luật, có cơ cấu tổ chức hợp lý và bộ máy nhân sự đảm bảo

tốt về hai mặt đạo và đời, được xem xét để được phép hoạt động.

- Đối với các hoạt động về mặt tổ chức của tôn giáo: Các tổ chức tôn

giáo hợp pháp về tổ chức, được tiến hành các hoạt động như tổ chức đại hội,

hội nghị,mở trường đào tạo chức sắc, phong chức, suy cử, bổ nhiệm và điều

chuyển chức sắc, nhà tu hành theo đúng quy định pháp luật.

- Đối với việc tôn giáo tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội: Các

chức sắc, nhà tu hành được hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội như mọi công

dân. Việc tổ chức lao động, sản xuất làm dịch vụ để tự túc của chức sắc, nhà

tu hành theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước thì được khuyến khích.

Các hoạt động từ thiện nhân đạo được tạo điều kiện khuyến khích.

- Đối với hoạt động quốc tế của tôn giáo: Nhà nước nói chung và Thủ

đô nói riêng luôn tôn trọng mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo. Quan hệ

quốc tế của các tôn giáo phải tôn trọng chủ quyền, pháp luật của Nhà nước

Việt Nam và thông lệ quốc tế. Những quan hệ với tư cách cá nhân được thực

hiện như mọi công dân. Những quan hệ với tư cách thành viên hoặc có mối

13 UBND Thành phố Hà Nội (27/11/2009), Đề án tăng cường công tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên địa bàn Thành phố, số 107/ĐA-UBND

quan hệ về cơ cấu, tổ chức của các tổ chức quốc tế thì phải được chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.13

104

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo nhằm đáp ứng nhu

cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của chức sắc, tín đồ

Trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo, pháp luật

có vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ

thống cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo. Pháp luật

là phương tiện bảo vệ các quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, bảo

đảm hoạt động bình thường của các tôn giáo. Pháp luật là phương tiện đấu

tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia

của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; ngăn chặn các hành vi lợi dụng dân

chủ để cố tình khiếu kiện gây tình hình phức tạp hoặc khiếu nại, tố cáo sai sự

thật. Do đó, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện công tác quản lý

Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói

riêng. Đồng thời, pháp luật còn có tác dụng định hướng những hoạt động,

những giá trị tích cực mà các tôn giáo cần phát huy, đồng thời ngăn ngừa, bài

trừ những biểu hiện tiêu cực trong đời sống tôn giáo.

Với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, những năm qua, đa số quần

chúng tín đồ và chức sắc tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng

được quán triệt, nắm vững pháp luật cũng như các qui định về hoạt động tôn

giáo để thực hiện, phản ảnh hoặc kiến nghị. Đồng thời, với chức trách và

quyền hạn theo qui định của pháp luật, các cơ quan Nhà nước ta, từ Trung

ương đến cơ sở càng ngày càng quán triệt, nắm vững pháp luật trong quá trình

bảo hộ mọi hoạt động tôn giáo hợp pháp của mọi chức sắc, tín đồ. Do đó, mối

quan hệ giữa tôn giáo với xã hội, giữa Nhà nước ta với các giáo hội, các tổ

chức tôn giáo, giữa công dân có tín ngưỡng tôn giáo với công dân không có

105

tín ngưỡng tôn giáo và ngược lại, không ngừng được cải thiện, củng cố, phát

triển vì lợi ích chung của dân tộc, vì lợi ích của đồng bào có đạo.

Hiện nay các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng tôn giáo

chống phá Việt Nam. Chúng tìm mọi cách tác động làm cho các giáo hội đi

theo hướng "độc lập với Nhà nước", thậm chí "đối trọng với Nhà nước",

nhằm từng bước chuyển hóa, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Mặt khác,

“tranh chấp dân sự và khiếu kiện của dân là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về chính sách, luật pháp chưa hoàn chỉnh”14. Vì vậy, việc đổi

mới hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong quản lý Nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo nói riêng là một nhu cầu tất yếu và bức

xúc hiện nay. Công tác này gồm một số nội dung sau:

- Một là bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật đã ban hành.

Nhiệm vụ đầu tiên đặt ra trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật về quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là phải tổ chức

rà soát lại toàn bộ những văn bản pháp luật đã ban hành liên quan đến lĩnh

vực này; trên cơ sở đó phân loại văn bản để có phương hướng hoàn thiện:

Loại văn bản ban hành đúng thẩm quyền: là loại đã ban hành đúng thủ

tục cần thiết, nhưng nội dung có điểm chưa rõ ràng, còn sơ hở, chưa hợp lý.

Loại cần được luật pháp hóa: là những qui định có nội dung thiết thực,

hợp lý nhưng trước đây mới chỉ là các qui định của cơ quan thực thi pháp luật

hướng dẫn cụ thể, nay cần luật pháp hóa .

Loại cần pháp điển hóa thành một văn bản: gồm những qui định đã

ban hành đúng thẩm quyền, vẫn cần thiết, nhưng do bổ sung nhiều lần, phân

14 Ban Chấp hành Trung ương (6/3/2002), Chỉ thị của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo hiện nay, số 09-CT/TW, tr 2.

tán ở nhiều văn bản, khó thực hiện, phải pháp điển hóa thành một văn bản mới.

106

Loại phải bãi bỏ: gồm những văn bản qui định không đúng thẩm quyền

hoặc nội dung không còn phù hợp, gây cản trở cho công tác quản lý.

Trên cơ sở hệ thống, phân loại như trên, cần đề xuất một chương trình

xây dựng pháp luật cụ thể, trong đó kiến nghị bổ sung, sửa đổi từng văn bản

đệ trình Nhà nước giao cho cơ quan chức năng của các Bộ, Ngành có liên

quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung thành các văn bản mới để xem xét, ban hành.

- Hai là xây dựng các văn bản pháp luật mới.

Song song với việc rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện

hành, cần đề xuất Nhà nước xây dựng một số văn bản pháp luật mới về quản

lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Trong các văn bản pháp

luật này cần xác định rõ:

Một, Biện pháp chế tài và cơ quan xử lý hành vi vi phạm pháp luật của

pháp nhân, thể nhân tôn giáo và những cán bộ làm công tác tôn giáo lại vi

phạm chính sách, pháp luật về tôn giáo.

Hai, Những nguyên tắc cơ bản trong việc quản lý hoạt động và xử lý vi

phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực tôn giáo để vừa đảm bảo

chính sách tôn giáo của Đảng, vừa góp phần vào việc củng cố khối đại đoàn

kết dân tộc, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.

Từ ngày 15/11/2004, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực. Để

tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, để

giảm thiểu những vụ việc khiếu kiện liên quan đến các tôn giáo do các quy

định của pháp luật còn thiếu tính minh định, nên chăng cần có lộ trình để

khẩn trương xây dựng Luật về hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam với

những yêu cầu cơ bản sau đây:

Thứ nhất: Về đối tượng điều chỉnh:

Đối tượng điều chỉnh của Luật về các hoạt động tôn giáo ở nước ta bao

gồm: trước hết là các thể nhân và các pháp nhân tôn giáo; đồng thời, các thể

107

nhân dân sự và các pháp nhân dân sự khác có liên quan trực tiếp hoặc gián

tiếp đến hoạt động tôn giáo, kể cả các thể nhân dân sự và pháp nhân dân sự có

yếu tố nước ngoài.

Trong các đối tượng trên đây cần tập trung điều chỉnh 5 đối tượng cơ

bản là:

+ Công dân Việt Nam là tín đồ tôn giáo và Việt Kiều, công dân nước

ngoài là tín đồ tôn giáo hiện cư trú hợp pháp, có thời hạn tại Việt Nam.

+ Các giáo hội và các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam cho phép hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc ở từng địa

phương và các tôn giáo chưa có tư cách pháp nhân.

+ Giáo hội nước ngoài và các tổ chức tôn giáo quốc tế có quan hệ chỉ

đạo giáo hội (hoặc các tổ chức tôn giáo) ở Việt Nam theo qui định của giáo

hội hoặc lịch sử truyền giáo ở Việt Nam; các tổ chức phi Chính phủ (NGO)

của các tôn giáo hoặc của các tổ chức quốc tế liên quan đến tôn giáo trong

quá trình hoạt động ở Việt Nam.

Thứ hai: Về phạm vi điều chỉnh:

Phạm vi điều chỉnh của Luật về hoạt động tôn giáo ở nước ta vừa toàn

diện vừa có trọng điểm, nhằm giải quyết hài hòa giữa vấn đề do lịch sử để lại

với vấn đề đã, đang và sẽ đặt ra. Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mọi công

dân có tín ngưỡng tôn giáo và không có tín ngưỡng tôn giáo và giữa các tôn

giáo với nhau trong cộng đồng xã hội nói chung và cộng đồng tín ngưỡng nói riêng.

Theo nghiên cứu bước đầu, nên chăng, cần lựa chọn 4 phạm vi điều

chỉnh với những yêu cầu chủ yếu:

Tôn giáo với dân tộc: các qui phạm pháp luật của Luật phải đảm bảo

tôn giáo đồng hành với dân tộc, với chế độ mới, không làm phương hại đến

lợi ích dân tộc, tích cực bảo vệ lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia. Khuyến

108

khích mọi cộng đồng tôn giáo phấn đấu vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh" trong tiến trình đổi mới và xây dựng đất nước.

Tôn giáo với Nhà nước: các qui phạm pháp luật của Luật phải đảm bảo

quá trình Nhà nước bảo hộ các tôn giáo; không can thiệp vào nội bộ tôn giáo

thuần tuý, bảo đảm vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng tôn

giáo của quần chúng, vừa hướng dẫn các giáo hội, các tổ chức tôn giáo hoạt

động trong khuôn khổ pháp luật Nhà nước và tuân thủ sự quản lý của Nhà

nước. Bảo đảm sự hài hòa giữa đời sống tôn giáo với đời sống xã hội giữa tôn

giáo với Nhà nước, giữa tôn giáo với tín ngưỡng truyền thống, giữa tôn giáo

này với tôn giáo khác, giữa qui phạm pháp luật Việt Nam với giáo luật của

các tôn giáo và các thông lệ, tập quán quốc tế, nhằm phát huy nội lực của khối

đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết toàn dân.

Tôn giáo với xã hội: bảo đảm quyền của các tôn giáo tham gia vào quá

trình phát triển kinh tế - văn hóa - đạo đức xã hội và bảo vệ Tổ Quốc Việt

Nam XHCN. Đồng thời, Nhà nước tạo điều kiện để các tôn giáo thích nghi

với xã hội hiện đại trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

theo Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tôn giáo này với tôn giáo khác: đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và

nghĩa vụ trước pháp luật của các tôn giáo. Các tôn giáo phải tôn trọng lẫn

nhau, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, duy trì bản sắc văn hóa của

từng tôn giáo trong văn hóa tôn giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Bảo

đảm hoạt động bình thường của các tôn giáo; đồng thời kiên quyết đấu tranh

chống mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, của các phần tử xấu

trong và ngoài nước tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Tổ Quốc, dân tộc

và cách mạng.

Thứ ba: Về phương pháp điều chỉnh cần chú ý những vấn đề sau đây:

109

Loại hình phổ biến: các qui phạm pháp luật phải xác định rõ những

hoạt động khuyến khích và không khuyến khích; cho phép và không hoặc

chưa cho phép; được làm và không được làm; hạn chế và nghiêm cấm; phải

xin phép và không phải xin phép; bắt buộc phải đăng ký và không phải đăng

ký; thông báo và không phải thông báo...

Loại hình đặc thù: các qui phạm pháp luật phải qui định cụ thể, chính

xác về các loại chế tài.

Cần coi trọng giáo dục hành chính để giác ngộ các thể nhân và các

pháp nhân tôn giáo trong quá trình tuân thủ pháp luật Nhà nước. Các chế tài

hành chính theo các mức độ từ thấp lên cao: giáo dục hành chính - xử lý hành

chính - xử phạt hành chính và cưỡng chế hành chính.

- Tổ chức làm tốt công tác thông tin pháp luật.

Để toàn bộ các văn bản mang tính qui phạm từ các đạo luật cho đến các

quyết định cá biệt được tuyên truyền đầy đủ, chính xác, kịp thời đến người

thực hiện cũng như người áp dụng pháp luật. Đối với các chức sắc tín đồ tôn

giáo phải hiểu pháp luật Nhà nước qui định về các hoạt động tôn giáo giúp họ

thực hiện đúng, tránh được vi phạm do thiếu hiểu biết. Trong các cơ quan

chức năng, trước hết là lực lượng làm công tác quản lý Nhà nước từ Trung

ương đến địa phương, một mặt phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc các

qui định của pháp luật về những vấn đề có liên quan đến hoạt động tôn giáo.

Mặt khác, phải làm nòng cốt trong việc tuyên truyền phổ biến và tổ chức thực

hiện pháp luật, bảo đảm quản lý hoạt động của các tôn giáo theo trong hành

lang quy định của pháp luật Nhà nước.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công tác quản lý Nhà nước

đối với hoạt động của các tôn giáo.

Một là: Qui định rõ thẩm quyền, nội dung, phạm vi và cơ chế hoạt động

thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với hoạt

110

động của các tôn giáo của từng cơ quan như Thanh tra Nhà nước, Thanh tra

của các ngành. Thanh tra của Ban Tôn giáo làm nhiệm vụ tham mưu, hướng

dẫn, đôn đốc, giúp đỡ các ngành thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối

với các hoạt động của các tôn giáo trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế

văn hóa, tư tưởng...; khắc phục tình trạng nhiều nội dung công tác thuộc chức

năng quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này không được chú ý kiểm tra, kịp thời

đánh giá kết quả thực hiện để chỉ đạo, uốn nắn.

Hai là: Cần qui định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước,

người có thẩm quyền khi có vi phạm hoặc sơ hở, yếu kém trong quản lý để

phát huy vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong công tác quản lý Nhà

nước đối với hoạt động tôn giáo. Đồng thời, xác định rõ những căn cứ cho

việc thanh tra, kiểm tra đánh giá hiệu quả của quản lý Nhà nước trong lĩnh

vực này. Đây là vấn đề hết sức khó khăn nhưng nếu không thực hiện thì bản

thân hoạt động thanh tra, kiểm tra cũng như tác dụng của nó đối với quản lý

Nhà nước sẽ bị hạn chế.

Ba là: Phát huy vai trò thanh tra, kiểm tra tại chỗ trong nội bộ từng

ngành, cơ quan, đơn vị của chính cấp ủy, thủ trưởng cơ quan trong suốt quá

trình thực hiện nhiệm vụ quản lý các hoạt động tôn giáo, từ thu thập thông tin,

dự báo tình hình, ra quyết định, tổ chức thực hiện cho đến đánh giá kết quả

của hoạt động quản lý.

Bốn là: Cụ thể hóa và phát huy vai trò của Ban Tôn giáo các cấp trong

thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo của các ngành, các tổ chức xã hội mà pháp luật qui định.

3.2.2. Nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và đội ngũ cán bộ

làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo

Thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo

trong nhiều năm cho thấy: nhiều cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về tính chất

111

phức tạp trong hoạt động quản lý này; vì vậy, có trường hợp đã xảy ra sự cố

đáng tiếc. Tính chất phức tạp được thể hiện:

- Một là: Các thế lực thù địch, đặc biệt là chính quyền Mỹ, luôn tìm

kiếm các sự kiện trong các tôn giáo để kiếm cớ can thiệp.

Trong tiến trình cách mạng nước ta, nhất là từ năm 1954 đến nay, các

thế lực thù địch đứng đầu là chính quyền Mỹ luôn chú trọng lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam15.

Từ khi nước ta đổi mới, mở cửa, những năm gần đây, các thế lực thù

địch càng tăng cường các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo nhằm xóa bỏ vai

trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Tháng 11/1996, Chính phủ Mỹ đã thành lập "Ủy ban cố vấn về tự do tôn giáo

ở nước ngoài" và "Ủy ban đối thoại và hiểu biết về Phật giáo" thuộc Hạ nghị

viện Mỹ. Các tổ chức này đã cử người vào nước ta với nhiều danh nghĩa để

tìm hiểu, thu thập thông tin về hoạt động tôn giáo và tình hình "đàn áp tôn

giáo" ở Việt Nam. Tháng 7/1997, Ngoại trưởng Mỹ trình bày "Báo cáo về

quyền tự do tôn giáo các nước trên thế giới" trước Quốc hội Mỹ, đã đưa ra

danh sách 78 nước (tháng 4/1998 là 36 nước, tháng 9/1999 là 194 nước...) "có

vấn đề tự do tôn giáo" trong đó có Việt Nam. Mỹ đưa ra luật HR.2431 về "tự

do tôn giáo quốc tế", Luật HR.3194 về "Kinh phí cho hoạt động đối ngoại"

nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để can thiệp vào nội bộ các nước trong đó có

Việt Nam, đồng thời kích động sự chống đối từ bên trong các nước. Bộ Ngoại

giao Mỹ thường xuyên vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, bắt bớ đàn áp

tôn giáo, ngược đãi tín đồ, giam giữ một số chức sắc. Tổng thống Mỹ và

15 Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo - Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (7.1998), Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kz mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, tr 171 – 178.

nhiều nhân vật trong chính giới Mỹ có nhiều cuộc tiếp xúc với các tổ chức tôn

112

giáo người Việt lưu vong ở Mỹ, Pháp; dung túng cho số này hoạt động chống

Việt Nam, đòi Việt Nam trả tự do cho một số chức sắc tôn giáo phạm tội bị

bắt, đòi trả lại cơ sở tôn giáo, trực tiếp can thiệp cho các công dân Mỹ vi

phạm chính sách tôn giáo Việt Nam bị ta xử lý. Họ coi vấn đề tôn giáo là mũi

nhọn cho "đấu tranh nhân quyền ở Việt Nam". Hạ nghị viện Mỹ đã 2 lần

thông qua và đệ trình lên Thượng Nghị viện Mỹ "Đạo luật nhân quyền tại

Việt Nam" HR.2863 (ngày 07/9/2001), HR.1587 (ngày 19/7/2004) vu cáo

Việt Nam về vấn đề nhân quyền, tôn giáo. Tháng 9/2004, Bộ Ngoại giao Mỹ

đưa Việt Nam vào danh sách những nước cần đặc biệt quan tâm về vấn đề tôn

giáo. Thực hiện chính sách 2 mặt: vừa hợp tác, vừa lôi kéo, can thiệp sâu vào

công việc nội bộ nước ta, Mỹ và một số nước phương Tây nhằm tới thực hiện

mưu đồ chuyển hóa nội bộ Việt Nam, hy vọng làm cho Việt Nam “tự diễn biến”16.

- Hai là: Trong nội bộ các tôn giáo luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp.

Ngày 07/11/1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thống nhất từ 9 hệ

phái: 1. Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam. 2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam

thống nhất. 3. Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam. 4. Ban liên lạc Phật giáo

yêu nước thành phố Hồ Chí Minh. 5. Giáo hội Tăng già nguyên thủy Việt Nam.

6. Hội sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ. 7. Giáo phái khất sĩ Việt Nam. 8.

Giáo hội Phật giáo Thiên thai quán. 9. Hội Phật học Nam Việt.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội là tổ chức được hình

thành bởi các tăng, ni từ nhiều sơn môn khác nhau (Thành hội Phật giáo Hà

Nội cũ hình thành từ 7 sơn môn: Bà Đá, Quảng Bá, Trấn Quốc, Hồng Phúc,

Liên Phái, Trung Hậu, Nam Đồng). Tuy nhiên, trình độ Phật học của một số

16 Theo Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội, Tình hình an ninh tư tưởng ở trong nước, Thông báo nội bộ phục vụ sinh hoạt chi bộ tháng 3/2003.

nhà sư, nhất là sư nữ, ở miền thôn quê còn rất hạn chế. Trong thời buổi kinh

113

tế thị trường, phẩm hạnh một số vị sư sa sút, có nhà sư coi việc đi tu là nghề

kiếm sống. Hòm công đức đặt ở chùa nay trở thành nguồn thu kinh phí. Vì

vậy, đã xẩy ra việc tranh chấp hòm công đức giữa các nhà sư trong chùa, giữa

nhà sư với ban hộ tự, thậm chí giữa nhà sư với chính quyền sở tại. Những

chùa có nguồn thu nhiều thì nhiều sư muốn ở lại trụ trì, ở miền quê nghèo thì

có sư không chịu về. Phật giáo ở Hà Nội cũng như Phật giáo trong cả nước

đang có xu hướng quy lại sơn môn, hệ phái. Các sư được thuyên chuyển theo

chùa thuộc sơn môn, hệ phái nhiều khi bất chấp cả sự điều chuyển của Giáo

hội và Thành hội. Từ đó, nẩy sinh việc mâu thuẫn chia rẽ bè cánh, lôi kéo tín

đồ đi khiếu kiện, tranh chấp chùa cảnh; có những vụ việc phải nhờ đến chính

quyền và cơ quan pháp luật can thiệp.

"Sự ra đời, phát triển của Giáo hội Công giáo Việt Nam gắn liền với

quá trình thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta; chỉ sau năm 1975,

mới có điều kiện và khả năng để Giáo hội thoát khỏi sự ràng buộc của chủ nghĩa đế quốc"17. Điều đó khiến cho khó phân biệt được giữa tôn giáo và thực

dân đội lốt tôn giáo, khiến cho Công giáo là một trong những tôn giáo ở Việt

Nam có nhiều vấn đề phức tạp nhất. Với chính sách "chia để trị" của chủ

nghĩa đế quốc, Công giáo được các chính quyền giả hiệu ưu tiên hơn, muốn

áp đặt thành quốc giáo ở nước ta.

Đến nay, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược "diễn biến hoà

bình", ra sức lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn, định kiến giữa Công giáo với

cách mạng mà chúng đã gieo rắc nhiều năm nay. Thực hiện sự chỉ đạo của

Tòa Thánh Vatican, nhiều giáo sĩ Công giáo ở Hà Nội muốn đặt giáo quyền

lên trên pháp luật Nhà nước, thể hiện khuyếch trương thanh thế, lấn lướt

17 Nguyễn Văn Long (1999), Vận dụng quan điểm khoa học về tôn giáo trong công tác đối với Thiên Chúa

giáo hiện nay ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

chính quyền, nhằm thoát ly sự quản lý của Nhà nước. Tòa Tổng giám mục Hà

114

Nội có chủ trương, kế hoạch tiến hành thí điểm một số vụ việc, nếu thành

công sẽ nhân rộng ra các địa phương khác.

Hội Thánh Tin Lành miền Bắc vốn là tổ chức gắn bó với dân tộc, có

nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến. Nhưng từ ngày đất nước bước vào

thời kỳ đổi mới, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, nhiều cá nhân, tổ chức ở

nước ngoài tìm cách chi phối Hội Thánh, nhất là thông qua các khoản tài trợ.

Vì vậy, đã xuất hiện tư tưởng ngộ nhận, muốn lìa bỏ truyền thống tốt đẹp của

Hội Thánh. Số chức sắc trẻ tuy sinh ra và lớn lên trong môi trường XHCN,

được xét tuyển tư cách công dân nghiêm ngặt trước khi vào Trường Kinh

Thánh thần học nhưng sau khi ra trường đã liên tục vi phạm pháp luật. Mục

sư nhiệm chức Âu Quang Vinh cho rằng: "Nhà nước can thiệp gây sức ép đối

với Hội Thánh Tin Lành với đường hướng tham gia vào các tiến trình chính trị, xã hội là sai lầm ".18

Mặt khác, sự tác động của các cá nhân, tổ chức quốc tế đã có tác dụng

ngầm "cổ xúy" tinh thần cho một số chức sắc Công giáo và Tin Lành vốn có

tư tưởng “vọng ngoại”. Họ coi đây là yếu tố hậu thuẫn, là nơi có thể "gửi

gắm", "bấu víu" khi tiến hành các hoạt động khiếu kiện, với hy vọng phía

nước ngoài sẽ can thiệp cho họ.

- Ba là: Tính chất của công tác quản lý rất phức tạp

Thứ nhất: Nội dung diễn biến của các vụ việc rất phức tạp.

Ở đây, xảy ra 2 khuynh hướng:

Một, các chức sắc đã sử dụng quần chúng đấu tranh với nhau hoặc tập

trung đông người đến các cơ quan ở Trung ương và địa phương để khiếu kiện

18 Âu Quang Vinh - Tiểu sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam - Luận án tốt nghiệp Trường Kinh Thánh thần học, dẫn lại của Nguyễn Xuân Hùng - Đạo Tin Lành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Những vấn đề lịch sử và hiện tại - Báo cáo ngày 13/3/1996 lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo.

vượt cấp, gây sức ép, cung cấp diễn biến vụ việc cho các cơ quan thông tin

115

đại chúng hoặc thông qua mạng internet gửi bài đăng tải trên các trang web ở

nước ngoài hy vọng các lực lượng ở bên ngoài tác động. Họ còn sử dụng một

số giáo dân thiếu hiểu biết, bị ngộ nhận, thông qua tổ chức chính trị của ta

(Ủy ban đoàn kết Công giáo, Hội Liên hiệp Phụ nữ...), thông qua các linh mục

là đại biểu Quốc hội để kiến nghị với lãnh đạo Đảng và Nhà nước với hy vọng

chính quyền thành phố sẽ phải chấp nhận sự vi phạm, lấn lướt của họ. Tiêu

biểu là các vụ: Tòa Tổng giám mục Hà Nội hướng dẫn giáo dân đấu tranh đòi

5285 m2 nhà đất ở 193 Bà Triệu (trước đây là đền thờ Đức Mẹ Phatima), vụ

đòi lại Nhà Văn hóa quận Hoàn Kiếm, vụ tranh chấp trụ trì chùa Một Cột

(quận Ba Đình)...

Hai, do có những bức xúc nên quần chúng tín đồ có hành động bột

phát; nếu không ứng xử kịp thời sẽ xẩy ra hậu quả xấu về chính trị. Điển hình

như trong vụ kiến nghị Bộ Quốc phòng trả lại khu vực đất chùa Pháp Vân

(trước đây HTX cho đơn vị 559 mượn), nhân dân đã cắt điện, cắt nước của

đơn vị bộ đội. Thậm chí, họ còn thuê xe tải đổ đất chặn lối ra vào đơn vị.

Trong vụ tranh chấp ranh giới với chùa Thúy Lĩnh (xã Lĩnh Nam, huyện

Thanh Trì), một số cụ trong Hội Người Cao tuổi xã Lĩnh Nam đã mâu thuẫn quyết liệt dẫn đến việc trói nhà sư trụ trì chùa...19

Thứ hai: Công tác giải quyết diễn ra cũng rất phức tạp, trong rất nhiều

công việc, các cơ quan Nhà nước không thống nhất về quan điểm, chủ trương,

phương pháp giải quyết.

Rất nhiều hoạt động tôn giáo ban đầu không xuất phát từ mục đích hoặc

lý do chính trị nhưng quá trình diễn biến rất phức tạp. Nó tiềm ẩn nguy cơ gây

ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị của Thủ đô. Trên lĩnh vực kinh tế, nó

19 Theo Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2009), Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo ở Hà Nội trong thời gian tới.

chưa gây ra những thiệt hại đáng kể nhưng trong nhiều vụ việc, điều đáng

116

quan tâm là nó đã làm suy giảm nghiêm trọng lòng tin của chức sắc, tín đồ đối

với chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.

Điều đáng nói nữa là, qua công tác quản lý, giải quyết, vô tình đã tạo

nên sự thiếu thống nhất giữa các cấp, các ngành, các cơ quan trong việc thực

hiện chủ trương, chính sách của Đảng, làm ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý

của Nhà nước.

Ở đây, vấn đề đặt ra là, cần phải hình dung hết tính chất nghiêm trọng

trong hoạt động tôn giáo xảy ra ở Hà Nội. Bởi vì, khác với các địa phương

khác, Hà Nội là Thủ đô của cả nước, nếu các vụ việc này không được giải

quyết kịp thời, thu hẹp ảnh hưởng thì sẽ lan tỏa, thậm chí cộng hưởng đối với

các địa phương khác. Nó trực tiếp tạo nên nguy cơ mất ổn định chính trị,

phương hại đến chính sách đối ngoại của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý

Nhà nước, từ đó các thế lực thù địch có thể lợi dụng để vu cáo Việt Nam về

nhân quyền, tôn giáo để kiếm cớ can thiệp.

3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tại các vùng

đồng bào có đạo trọng điểm

Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khóa VI) đã khẳng định rằng nội dung

cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối

với con người. Bác Hồ cũng đã nói: "Dễ mười phần không dân cũng chịu, khó

vạn lần dân liệu cũng xong". Điều đó có nghĩa là, quần chúng nhân dân lao

động có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng, quyết định sự thành, bại của

cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước. Vì vậy, công tác vận động

quần chúng phải được đặt lên hàng đầu.

Tuyệt đại đa số quần chúng tín đồ tôn giáo ở Thành phố Hà Nội là

người lao động, có tinh thần yêu nước, nhưng có một bộ phận do nhận thức,

trình độ văn hóa yếu kém dễ bị bọn phản động, phần tử xấu tuyên truyền lừa

bịp, xuyên tạc nên có một bộ phận tín đồ cho rằng chính sách tôn giáo đang

117

hạn chế hoạt động của tôn giáo; số này trở thành cuồng tín, dễ bị kích động

lôi kéo vào các hoạt động chống chính quyền. Vì vậy, yêu cầu của công tác

vận động quần chúng là làm cho quần chúng tín đồ tin tưởng vào chính sách

tôn giáo của Đảng và Nhà nước, để từ đó họ hăng hái thực hiện các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết tâm tham gia công cuộc đổi

mới do Đảng bộ và chính quyền địa phương lãnh đạo. thấy được âm mưu của

địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.

Trong công tác vận động quần chúng, phải chú ý khơi dậy và phát huy

lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân của quần chúng. Do đó, phải tin

tưởng vào lòng yêu nước của quần chúng, không thành kiến và phải phân biệt

rõ những người do tư tưởng lạc hậu, cuồng tín mà câu kết với các phần tử

phản động cố tình chống đối.

Trong công tác vận động quần chúng, cần tranh thủ hàng ngũ chức sắc.

Đây là đội ngũ giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống đạo của các tôn giáo.

Làm tốt công tác tranh thủ chức sắc là biện pháp rất quan trọng trong việc

hướng lái đường hướng hoạt động các tôn giáo trong công tác quản lý. Làm

tốt công tác tranh thủ chức sắc còn có tác dụng thiết thực trong công tác nắm

tín đồ.

Vì vậy, phải tập trung bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,

hướng dẫn cho mọi chức sắc biết và hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật

hiện hành của Nhà nước. Bên cạnh phương châm quản lý “Kiên trì – đồng bộ

- linh hoạt – đúng pháp luật”, công tác đối với chức sắc cần phải thực hiện

phương châm: "Gần - Hiểu - Cảm hóa - Bồi dưỡng và Sử dụng". Lôi kéo họ

về với cách mạng, không được đẩy chức sắc về phía bên kia để kẻ thù lôi kéo,

lợi dụng nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị phản động.

Hiện nay, có thể tạm phân chia hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở Hà

Nội đã phân hóa thành ba loại: loại tiến bộ, loại lưng chừng và loại cực đoan

118

có thái độ xấu. Trên cơ sở xác định đúng thái độ chính trị của từng loại chức

sắc mà có đối sách thích hợp. Nhìn chung, công tác tranh thủ các chức sắc tập

trung ở các điểm sau đây:

+ Đối với chức sắc tiến bộ: Coi trọng họ, cởi mở, chân thành, giúp đỡ

họ tiến bộ và thực hành tốt các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cho đúng quy

định của pháp luật. Bảo vệ họ, không để kẻ xấu khống chế, đả kích, cô lập, ly

gián họ với tín đồ. Tuy nhiên, phải cảnh giác với các phần tử cơ hội, giả danh

tiến bộ.

+ Đối với chức sắc cực đoan: Phải đi sâu nắm chắc đối tượng cụ thể để

có sự phân biệt chức sắc lạc hậu về chính trị. Nghiên cứu kỹ để có kế hoạch

đối phó với hành động từng người, tập trung các biện pháp nhằm cô lập, phân

hóa học trong hàng ngũ chức sắc và với giáo dân. Phát động tín đồ đấu tranh

gây dư luận lên án, phê phán, kết hợp với sự trấn áp và răn đe của chính

quyền. Xử lý thích đáng những người ngoan cố và làm cho quần chúng hiểu

để đấu tranh với các phần tử cực đoan lợi dụng tôn giáo nhằm thực hiện mưu

đồ chính trị xấu.

+ Đối với chức sắc lưng chừng: Tùy theo tình hình và khả năng cụ thể

mà cấp ủy và chính quyền huyện, xã, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho

họ tiến hành các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đúng quy định pháp luật. Chú

trọng việc tiếp cận, lôi kéo, cảm hóa nhằm nâng cao nhận thức của họ về tính

đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Đối

với họ, nên trân trọng đúng mức, tốt nhất là thông qua tín đồ có uy tín trong

địa phương để gần gũi, giúp đỡ và cảm hóa họ.

Muốn làm tốt công tác này, trước hết cấp ủy, chính quyền phải quan

tâm đúng mức, đầu tư sự chỉ đạo và tạo điều kiện vật chất cần thiết. Điều

quan trọng là phải có sự thống nhất, phối - kết hợp chặt chẽ giữa các ngành

hữu quan. Tránh tình trạng cùng một con người, nhưng ngành này coi là đối

119

tượng tranh thủ, ngành khác lại coi là đối tượng đấu tranh.

Để làm tốt công tác vận động quần chúng, Đảng bộ và chính quyền địa

phương phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi thiết thực

khác của quần chúng, động viên quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, trong đó, trọng tâm phát triển kinh tế, quan tâm tới những gia đình khó

khăn về kinh tế, tạo điều kiện về vốn, hướng dẫn họ làm kinh tế, thực hiện

xóa đói, giảm nghèo. Ngoài ra, phải tôn trọng đời sống tín ngưỡng của quần

chúng. Có như vậy, quần chúng tín đồ các tôn giáo mới yên tâm, tin tưởng

tham gia các phong trào ở địa phương.

Làm tốt công tác tuyên truyền trong quần chúng bằng các hình thức

phù hợp, đa dạng và phong phú. Tiến hành các hoạt động tuyên truyền chủ

trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước thông qua hệ thống loa

truyền thanh của phường, xã, các cuộc họp tại khu dân cư. Kịp thời biểu

dương gương người tốt, việc tốt, sống "Tốt đời, đẹp đạo".

Trong tuyên truyền phải biết đề cao những thắng lợi, những khởi sắc

trong công cuộc đổi mới quê hương, chú trọng động viên mặt tích cực của

giáo dân, tập trung tuyên truyền giáo dục những người chậm tiến; phải kiên

trì, thuyết phục có lý, có tình; tránh lời nói, việc làm xúc phạm đến tình cảm

tôn giáo.

Vận động tập hợp quần chúng vào các tổ chức cách mạng, không để

cho quần chúng bị lôi kéo vào các hội đoàn tôn giáo tiêu cực và các tổ chức

bất hợp pháp.

Công tác vận động thanh, thiếu niên là cực kỳ quan trọng, vì nó có tác

dụng trước mắt và lâu dài. Đảng phải nắm chắc được lớp trẻ, dìu dắt họ tiến

bộ về tư tưởng, giúp họ vươn lên trở thành lực lượng tiên phong trong mọi

phong trào của địa phương.

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phải tổ chức cho thanh, thiếu

120

niên tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao ở địa

phương. Đoàn thanh niên phối hợp chặt chẽ với các ngành văn hóa thông

tin, giáo dục để tăng cường các hoạt động phù hợp với lứa tuổi thanh, thiếu

niên... để thu hút họ vào tổ chức.

Phụ nữ theo các tôn giáo thường ít được hội họp, nhưng họ là những

người có ảnh hưởng quan trọng trong gia đình. Vì vậy, yêu cầu của công tác

vận động là làm cho chị em tích cực lao động sản xuất, tham gia phong trào

"xóa đói giảm nghèo", "sinh đẻ có kế hoạch" thực hiện nếp sống văn minh,

gia đình văn hóa mới. Để đạt được yêu cầu trên, trước hết phải chăm lo quyền

lợi thiết thực của chị em, tạo điều kiện cho chị em được bình đẳng trong công

việc, trong sinh hoạt chính trị - xã hội; phải chú ý đào tạo cán bộ nữ trong

vùng giáo; giúp họ khắc phục khó khăn, bồi dưỡng, dìu dắt để họ yên tâm

công tác.

Công tác phát triển đảng viên và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.

Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong

tình hình mới đã khẳng định: "Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công

tác vận động quần chúng tín đồ" [44,49]. Để làm tốt công tác này cần phải

xây dựng lực lượng chính trị mà trước hết là công tác xây dựng Đảng. Đây là

nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, thường xuyên và lâu dài.

Trước hết cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối tượng đảng là người

có đạo. Đối tượng được quan tâm trước hết là các chức danh chủ chốt ở cơ sở

(chính quyền, đoàn thể), quần chúng có uy tín với đồng bào theo đạo, lực

lượng thanh niên có văn hóa chuyên môn khá; chú trọng các địa bàn trọng

điểm về tôn giáo.

Trong công tác phát triển Đảng tránh tình trạng chạy theo số lượng,

phải chú ý đến chất lượng Đảng viên. Sau khi kết nạp quần chúng vào Đảng,

tổ chức cơ sở Đảng phải phân công cho đảng viên bồi dưỡng nâng cao nhận

121

thức, quan điểm, lập trường và bản lĩnh chính trị; nhận thức tốt chủ trương,

chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho họ. Đảm bảo cho quần chúng

sau khi được vào Đảng vẫn tham gia sinh hoạt tôn giáo.

Các cấp ủy Đảng cần tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng

và nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Tổ chức

cơ sở Đảng ở xã, phường, thị trấn phải nắm vững và thực hiện đúng chức năng

là hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện ở cơ sở. Sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững nề nếp, chế độ sinh

hoạt của tổ chức Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 về những vấn đề

cấp bách trong giai đoạn hiện nay, chú ý phê bình và tự phê bình. Thường

xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy, chi bộ; nâng cao

tính giáo dục, tính chiến đấu và tính lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; xây dựng

và thực hiện tốt nội dung, quy chế của tổ chức cơ sở Đảng đề ra.

Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Bởi vì chi bộ là tế

bào, đơn vị chiến đấu cơ bản, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Chất

lượng của tổ chức cơ sở Đảng phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng chi bộ. Các

chi bộ duy trì nề nếp sinh hoạt, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê

bình, kiểm tra nhiệm vụ đã phân công cho Đảng viên. Trong nội dung sinh hoạt

cần quán triệt đầy đủ và cặn kẽ các nghị quyết, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước về các mặt kinh tế - xã hội nói chung và tôn giáo nói riêng.

Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, nâng cao trình độ nhận thức

của đội ngũ Đảng viên về mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo. Hơn

nữa, Đảng viên gốc đạo phải được giáo dục, học tập những kiến thức cơ bản về

thế giới quan duy vật và phương pháp duy vật biện chứng, quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về tôn giáo. Đồng

thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ của người

đảng viên Cộng sản với nhu cầu đời sống tín ngỡng, tôn giáo của họ.

122

Đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng cốt cán

Hiện nay, ở các vùng tôn giáo trọng điểm, đội ngũ nòng cốt, cốt cán là

tín đồ và chức sắc tiến bộ có chiều hướng giảm hoặc không phát huy được vai

trò, tác dụng; trong khi đó, do trong thời gian qua công tác xây dựng lực

lượng cốt cán chưa được quan tâm đúng mức, nên đội ngũ cán bộ cốt cán mới

còn rất mỏng. Bởi vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cốt cán làm nòng cốt

trong các phong trào cách mạng ở địa phương có nhiều giáo dân trở thành vấn

đề cấp bách. Trước mắt, cần tăng cường củng cố lực lượng cốt cán đã có; cần

có kế hoạch tạo nguồn để phát triển lâu dài đội ngũ cốt cán mới ở những địa

bàn trọng điểm tôn giáo. Cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ

chính trị, hiểu biết các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn

giáo cho đội ngũ cốt cán; cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cả về vật chất

lẫn tinh thần đối với lực lượng này.

Qua trình bày trên cho thấy, để xây dựng một lực lượng chính trị vững

mạnh trong các vùng tôn giáo, cần tăng cường công tác xây dựng Đảng nhằm

tạo ra một đội ngũ cán bộ, Đảng viên gốc giáo đông về số lượng và có chất

lượng cao; củng cố các đoàn thể quần chúng nhằm tập hợp, thu hút đồng

bào tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng, phát triển đội ngũ cốt cán

là tín đồ, chức sắc để nắm sâu hơn và chắc hơn quần chúng có đạo. Từ đó,

những cán bộ, Đảng viên này sẽ là nhân tố tập hợp quần chúng tạo tiếng nói

của tín đồ tôn giáo Thủ đô góp phần gắn bó, đồng hành của dân tộc của các

tôn giáo.

3.2.4. Kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp từ cấp Thành

phố đến cấp xã

Đảng ta luôn luôn coi trọng việc phát triển đội ngũ cán bộ và xem đó là

một nhân tố quyết định. Xuất phát từ nhận thức về thực trạng việc thực hiện

chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta vừa qua, về yêu cầu của việc

123

đảm bảo chính sách đó ở thời kỳ phát triển mới, Đảng ta đã xem đổi mới một

cách căn bản và toàn diện đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo là một vấn đề

cấp bách. Đối với Hà Nội, vấn đề này lại càng rõ.

Trên địa bàn thành phố Hà Nội, đội ngũ chức sắc, nhà tu hành có gần

2.500 người, Hầu hết họ được các Giáo hội bồi dưỡng, đào tạo cơ bản, có hệ

thống và thường xuyên. Trong đó, tỷ lệ có trình độ đại học khá đông. Bên

cạnh việc đào tạo ban đầu, việc đào tạo lại các chức sắc cũng được tiến hành

đều đặn hàng năm qua các kỳ an cư kiết hạ của Phật giáo, các kỳ tĩnh tâm của

Công giáo và các kỳ bồi linh của Hội thánh Tin lành. Chức sắc, nhà tu hành

các tôn giáo khá đông, có trình độ học vấn và trình độ thần học tương đối cao,

có năng lực tổ chức điều hành với một đạo hạnh cá nhân tương xứng. Vì thế,

đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng phải có trình độ học vấn và trình

độ chuyên môn cao, có năng lực thực tiễn phong phú, có phẩm chất chính trị

vững vàng, có đạo đức và uy tín cá nhân cao.

Để đào tạo, xây dựng, hoàn thiện đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối

với tôn giáo cần tập trung vào một số vấn đề chính sau đây:

Thứ nhất, cần tiến hành phân loại đội ngũ cán bộ làm công tác tôn

giáo để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể; cần có căn cứ định rõ tiêu

chuẩn đối với mỗi loại cán bộ.

Việc phân loại cán bộ làm công tác tôn giáo có thể tiến hành theo

những cơ sở khác nhau. Chẳng hạn, phân loại theo tính chất chức năng,

chuyên môn của nhiệm vụ. Từ đó, có loại cán bộ của Đảng, cán bộ nghiên

cứu giảng dạy, cán bộ trực tiếp quản lý nhà nước đối với tôn giáo, cán bộ

công an, cán bộ Mặt trận và các đoàn thể. Phân loại theo các cấp hành

chính, sẽ có loại cán bộ làm công tác tôn giáo ở cấp Thành phố, cấp huyện

và cơ sở...

Dựa trên sự phân loại như vậy, chúng ta sẽ có căn cứ để xây dựng ch-

124

ơng trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng loại cán bộ, nó cho phép tránh

tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nội dung kiến thức dẫn tới quá căng thẳng, dồn

nén thông tin hoặc sự nhạt nhẽo, hụt hẫng không đáng có trong tâm lý của

người cán bộ.

Thứ hai, cần có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tầm quan trọng của

công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với tôn giáo.

Đào tạo cán bộ phải toàn diện, chuyên sâu nhằm đáp ứng yêu cầu từng

lĩnh vực quản lý, từng khâu công tác và theo chức danh, tiêu chuẩn cán bộ.

Hướng đào tạo và hoàn thiện đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước

đối với tôn giáo phải đạt được những yêu cầu cơ bản sau:

+ Về chính trị: Phải trang bị cho cán bộ những kiến thức lý luận cơ sở

về chủ nghĩa Mác - Lênin; về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

nhất là đường lối, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước

trong giai đoạn hiện nay.

+ Về nghiệp vụ quản lý hành chính: Mỗi cán bộ phải được đào tạo cơ

bản về quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với

tôn giáo nói riêng. Đây là điều kiện để cán bộ quản lý nhà nước có kiến thức

nhằm từng bước hình thành các kỹ năng, thao tác trong nghiệp vụ chuyên

môn của mình, khắc phục tác phong quan liêu, trì trệ.

+ Về pháp luật: Phải có trình độ, kiến thức nhất định về pháp luật, nhất

là luật Hành chính, luật Dân sự, luật Hình sự. Hiểu pháp luật và làm theo pháp

luật là thước đo trình độ năng lực của người cán bộ làm công tác quản lý, là

một trong những điều kiện để tiêu chuẩn hóa cán bộ. Hiện nay, trình độ hiểu

biết pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý nói chung, quản lý tôn giáo nói

riêng còn thấp so với yêu cầu thực tiễn, nên việc triển khai thực hiện kế hoạch

đào tạo về pháp luật cho cán bộ quản lý nhà nước đối với tôn giáo là cần thiết.

Duy trì các hình thức bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn về pháp luật cho cán bộ.

125

Tổ chức phổ biến các văn bản pháp luật mới, thông báo, trao đổi kinh nghiệm

quản lý để bổ trợ kịp thời tình trạng thiếu hụt kiến thức như hiện nay.

+ Về kiến thức tôn giáo: Đây cũng là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với

đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo nói chung

và đạo Công giáo nói riêng. Mặt khác, do đội ngũ cán bộ làm công tác này

trong thời gian qua không ổn định; do chưa được đào tạo có hệ thống và cơ

bản kiến thức về tôn giáo nên, nói chung, cán bộ còn thiếu am hiểu sâu sắc về

tôn giáo. Vì vậy, cần tập trung đào tạo kiến thức về tôn giáo. Có thể đào tạo

ngắn hạn, dài hạn, đào tạo tại chỗ hoặc tuyển sinh viên ở các trường về, sau

đó đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về tôn giáo và quản lý

tôn giáo. Thực tế, việc này đã được tiến hành nhưng mới chỉ ở mức độ đơn lẻ,

cá nhân chứ chưa toàn diện và có chiều sâu.

Thứ ba, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ đi liền với quy hoạch đào

tạo và bồi dưỡng.

Quy hoạch cán bộ phải tiến hành ở cả ba cấp: cán bộ làm công tác tôn

giáo ở xã, phường, huyện, thị, thành, Thành phố; trong đó, phải đặc biệt chú ý

quy hoạch cán bộ quản lý ở Ban tôn giáo Thành phố.

Trên cơ sở quy hoạch cán bộ theo yêu cầu định hướng trên đây, cần

quy hoạch đào tạo (bao gồm đào tạo ban đầu và đào tạo lại), quy hoạch bồi

dưỡng (bao gồm bồi dưỡng định kỳ hàng năm theo chuyên đề và bồi dưỡng

đột xuất theo tình huống công việc).

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt.

Phẩm chất đạo đức là một chuẩn mực chung cho mọi cán bộ, công chức

Nhà nước; nhưng đối với các cơ quan, đơn vị làm công tác quản lý nhà nước

đối với tôn giáo phải được đặc biệt coi trọng, vì biểu hiện tiêu cực của cán bộ

trong lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của quần chúng tín đồ

và các chức sắc tôn giáo đối với Đảng và Nhà nước, tạo sơ hở cho kẻ địch và

126

các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động, phá hoại.

Phải giáo dục cho cán bộ quản lý có ý thức tôn trọng và thực hiện

nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội quy, kỷ luật của cơ quan; làm đúng

những thủ tục hành chính, quy trình công tác đã quy định. Có thái độ tôn trọng

đúng mực, chống thái độ hách dịch cửa quyền và mọi biểu hiện tiêu cực (như

tham ô, nhận hối lộ, làm sai nguyên tắc). Có thái độ xây dựng đoàn kết trong cơ

quan, đơn vị, tích cực đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ.

Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan quản lý nhà

nước đối với tôn giáo cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức là

hai mặt quan trọng, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch, vững

mạnh, đủ năng lực, đủ trình độ, phẩm chất, hoàn thiện tốt nhiệm vụ, chức

năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.

- Cần có chính sách tạo sự ổn định cần thiết cho đội ngũ cán bộ được

phân công trực tiếp làm công tác tôn giáo của Thành phố.

Chính sách này phải là những quy định cụ thể - từ việc quy hoạch và

tuyển chọn người làm công tác tôn giáo cho đến quy định về việc sử dụng và

đãi ngộ đối với họ. Điều này phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 2

(khóa VIII) về chiến lược phát triển cán bộ trong thời kỳ mới. Phải ban hành

các quy chế cụ thể trong hệ thống công tác tổ chức cán bộ, để từ đó, các chính

sách, quy định nhanh chóng đi vào cuộc sống. Khi có đủ số lượng biên chế

thích hợp, với một chất lượng ngày càng nâng cao, có sự nhiệt tình, có phẩm

chất đảm bảo, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo sẽ là nhân tố quyết định

cho sự thành công của việc hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện để Công giáo ở

Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo,

cũng cần tập trung đổi mới hoàn thiện Ban tôn giáo thuộc hệ thống hành

pháp từ thành phố đến quận, huyện, thị xã.

127

Ban tôn giáo từ cấp thành phố đến cấp quận, huyện, thị xã cần có địa vị

pháp lý và thẩm quyền đầy đủ của một cơ quan hành chính nhà nước có chức

năng thực thi quyền lực công tác trong quá trình quản lý nhà nước đối với tôn

giáo theo quy định của pháp luật; có khả năng xác lập được cơ chế thông tin

hai chiều thông suốt, chính xác, kịp thời, đảm bảo điều kiện hoạt động cần

thiết của từng đơn vị trong hệ thống.

Về địa vị pháp lý: Ban tôn giáo là cơ quan thuộc ủy ban nhân dân thành

phố, huyện, thị.

Về thẩm quyền pháp lý: Có chức năng quản lý nhà nước đối với tôn

giáo trong phạm vi địa phương theo luật định.

Về chế độ công vụ: Giúp việc cho ủy ban nhân dân trong quá trình ban

hành các quyết định hành chính quản lý nhà nước đối với tôn giáo theo đúng

sự phân cấp quản lý của ủy ban nhân dân Thành phố và chỉ thị công tác của

cấp trên (ngành dọc).

Trên thực tế, trong việc quản lý nhà nước đã có nhiều vụ, việc tôn giáo

không được nắm bắt, phát hiện kịp thời ngay tại cơ sở. Do đó, khi tiến hành

giải quyết gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng này, cần phải có

người chuyên trách ở cơ sở. Ở Thành phố Hà Nội có 580 xã, phường, thị trấn,

trong đó, có đến gần 100 xã phường, thị trấn là địa bàn trọng điểm của tôn giáo.

Nhiều xã, phường có khu dân cư, thôn là vùng Công giáo toàn tòng. Do vậy

những cơ sở này cần bố trí một định suất biên chế làm công tác tôn giáo. Cán

bộ này có chức năng giúp việc cho thường trực ủy ban nhân dân trong công

tác quản lý hành chính nhà nước đối với tôn giáo theo quy định của chính

sách, pháp luật trong phạm vi địa phương mình.

3.2.5. Phát triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào có đạo

Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, do vậy muốn thay đổi

nó, trước hết phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy

128

sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc vật chất kinh tế - xã hội

gây nên những ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn

giáo là đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng chứ không phải là trực

tiếp tấn công vào thần thánh và những biểu hiện tín ngưỡng khác. Một thế giới

như thế chỉ có thể là kết quả của một quá trình lâu dài thực hiện nhiệm vụ cải

tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần - trí

tuệ cho con người. Chỉ nhờ kết quả đạt được trong quá trình đó, những ảnh

hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội mới dần dần được loại bỏ,

những mâu thuẫn tôn giáo sẽ tự tiêu vong.

Cần phải có nhiều biện pháp tích cực và vững chắc nhằm thực hiện cho

được ba mục tiêu chủ yếu: xóa được đói giảm được nghèo; ổn định và cải

thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo; nâng cao

dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

- Phát triển văn hóa - xã hội.

Đảng ta, trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) một lần nữa khẳng

định vai trò to lớn của văn hóa: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa

là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội". Nghị

quyết đó cũng xác định: "Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc". Những quan điểm nền tảng đó không những giúp chúng

ta nhận thức sâu sắc về vai trò của văn hóa và con đường phát triển của văn

hóa Việt Nam, mà còn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong khi giải

quyết các vấn đề văn hóa cũng nh các vấn đề xã hội cụ thể. Để xây dựng và

phát triển đời sống văn hóa của đồng bào Công giáo ở Hà Nội, coi đó là một

trong những giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo đang nổi cộm, thì không thể

không dựa trên những quan điểm nêu trên của Đảng ta về văn hóa.

Để nâng cao đời sống văn hóa cho đồng bào có đạo ở Hà Nội hiện nay,

cần làm tốt các công tác sau:

129

+ Phát triển công tác giáo dục: Trên chặng đường đầu tiên của thời kỳ

quá độ, việc đầu tư cho giáo dục cần được quan niệm như đầu tư vào kinh tế

và có giá trị như kinh tế. Công tác giáo dục vừa phục vụ nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội trước mắt, vừa chuẩn bị công tác đào tạo con người, đào tạo

cán bộ cho tương lai.

Đối với vùng trọng điểm tôn giáo, ngành giáo dục cần đặt lên hàng đầu

nhiệm vụ xây dựng chương trình dạy và học cho phù hợp. Coi trọng kinh phí

đầu tư của Nhà nước; tu sửa, mở thêm các trường tại khu vực đông dân cư

+ Phát triển y tế: Xây dựng, củng cố mạng lưới y tế ở các xã, nâng cao

chất lượng các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Thực

hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về phòng chống dịch bệnh. Phổ biến

kiến thức dân số - kế hoạch hóa gia đình cho quần chúng tín đồ.

Trong thời gian tới, cần phát huy phong trào văn hóa quần chúng ở cơ

sở; phát triển các loại hình văn nghệ như tốp ca xung kích. Tuyên truyền, vận

động xây dựng các làng văn hóa, khối phố văn hóa gắn với xây dựng gia đình

văn hóa nhằm đạt 4 tiêu chuẩn: Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, đoàn

kết, giúp đỡ nhau trong tình làng nghĩa xóm; thực hiện kế hoạch hóa gia đình,

nuôi dạy con khỏe mạnh, chăm sóc tốt người nhà; thực hiện nghĩa vụ công

dân; xóa bỏ các phong tục, tập quán, tín ngưỡng lạc hậu, mê tín dị đoan. Có

kế hoạch bảo vệ, kế thừa và phát huy vốn văn hóa truyền thống. Đầu tư xây

dựng nhiều hơn các khu vui chơi, giải trí để thanh, thiếu niên sinh hoạt.

Đối với công tác thông tin tuyên truyền, cần nâng cao chất lượng và

thời lượng phát sóng của hệ thống truyền thanh tại các xã, phường, thị trấn.

Nội dung các buổi phát sóng chú ý đến công tác tuyên truyền chính sách tự do

tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta; biểu dương gương người tốt

việc tốt trong đồng bào có đạo; đấu tranh chống các hoạt động mê tín, dị đoan

và truyền đạo trái phép.

130

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Trên cơ sở lý luận về quản lý, tôn giáo, quản lý nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo và thực trạng hoạt động tôn giáo, hoạt động quản lý nhà nước

đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội, chương 3 dự báo tình hình tôn

giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới, nêu lên quan điểm

chung, quan điểm cụ thể, phương châm của công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, đưa ra một số giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn

giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới như hoàn thiện hệ thống

pháp luật, nâng cao nhận thức của cán bộ nói chung và cán bộ làm công tác tôn

giáo nói riêng, nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ vùng tôn

giáo trọng điểm, kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp, nâng cao đời

sống kinh tế, xã hội, dân trí trong đồng bào có đạo./.

131

KẾT LUẬN

Hà Nội với vị trí là Thủ đô, tôn giáo trên địa bàn Hà Nội có những nét

đặc thù khác hẳn với các địa phương trong cả nước. Là địa phương đa dạng về

loại hình tôn giáo và có đông tín đồ, chức sắc các tôn giáo, trung tâm và trụ sở

Trung ương đầu não của các tôn giáo lớn; đồng thời Hà Nội là trung tâm chính

trị - hành chính, văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, nơi

có trụ sở của các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các tổ chức

chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi

diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước; do vậy, Công

tác tôn giáo cũng như quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Hà Nội có vị trí rất

quan trọng, có ảnh hưởng không chỉ ở Thủ đô mà còn tác động, ảnh hưởng đến cả

nước và quốc tế.

Trong xu thế đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước

xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về công tác tôn giáo và quản lý nhà

nước tôn giáo theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vừa bổ

sung, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho công tác tôn giáo, vừa phù hợp với tình

hình thực tế cũng như tạo điều kiện cho các tôn giáo tích cực tham gia vào

công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp

phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới. Đó chính là

cơ sở lý luận và thực tiễn đề học viên chọn nghiên cứu vấn đề cụ thể quản lý

nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

Từ Luận văn có thể nêu khái quát một số vấn đề sau:

1) Một trong những vấn đề cơ bản của Luận văn là làm rõ khái niệm và

đặc trưng của tôn giáo, hoạt động tôn giáo, cũng như sự cần thiết phải quản lý

Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Hệ thống hóa những quan điểm cơ bản,

132

chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về

tôn giáo.

Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về

tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã và đang xây dựng, hoàn thiện một cách hệ

thống những quan điểm cơ bản về tôn giáo gắn với tình hình thực tiễn tôn

giáo trong nước và quốc tế; vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở nước

ta là vấn đề xuyên suốt trong quá trình nhận thức và hành động cách mạng

của nhân dân ta. Hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành

nhiều chủ trương, chính sách về công tác tôn giáo như: Nghị quyết 24 -

NQ/TW, Nghị quyết 25–NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Pháp

lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định

22/2005/NĐ-CP của Chính phủ... các văn bản đó đã thể hiện quan điểm nhất quán

của Đảng và nhà nước ta về công tác tôn giáo.

2) Tổng hợp, phân tích và đánh giá khách quan các điều kiện tự nhiên,

tình hình kinh tế, văn hóa- xã hội có liên quan và khái quát thực trạng tôn giáo

và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có ảnh hưởng lớn đến các tỉnh, thành phố

trong nhiều lĩnh vực, trong đó có tôn giáo. Các tôn giáo hoạt động tại Hà Nội thể

hiện tính chất đa dạng, ảnh hưởng nhiều đến việc tăng cường và phát triển khối đại

đoàn kết toàn dân tộc. Điều này đã để lại mối quan hệ đạo – đời hết sức phức tạp.

Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng, Ủy ban nhân dân thành phố Hà

Nội đã đề ra các biện pháp nhằm thực hiện tốt quản lý nhà nước đối với tôn

giáo trên địa bàn, thông qua chủ chương, chính sách đã được cụ thể hoá ở các

cấp các ngành, Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội

đã từng bước đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân

có đạo, hướng dẫn và đảm bảo cho hoạt động tôn giáo phù hợp với luật pháp

133

và lợi ích của dân tộc, góp phần đoàn kết lương giáo, giữ vững trật tự an ninh,

chống lợi dụng tôn giáo trên địa bàn, đồng thời thúc đẩy kinh tế vùng giáo

phát triển. Qua đó, quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo tích cực tham gia

xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo, các phong trào cách mạng, góp phần

phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; song, do tình hình tôn giáo trong

nước nói chung, Hà Nội nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù

địch đang tìm cách kích động, lợi dụng tôn giáo chống lại Nhà nước ta, vì

vậy, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, quản lý nhà nước đối

với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn bộ lộ những

hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

3) Từ thực trạng và dự báo tình hình có liên quan, Luận văn đã đưa ra

những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động

tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội, phù hợp trong bối cảnh phát triển

kinh tế - xã hội ở địa phương, có ý nghĩa khoa học, thực tiễn, đáp ứng được

công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Dựa trên quan điểm cơ bản của Đảng, các đường lối, chính sách tôn giáo

của Nhà nước về công tác tôn giáo, tham khảo các kết quả công trình nghiên

cứu của những người đi trước và gắn nhiệm vụ chủ yếu của đề tài đặt ra trong

bối cảnh hiện nay, luận văn đã xác định giá trị khoa học đặt cơ sở lý luận cho

việc đưa ra những giải pháp quản lý nhằm phát huy kết quả đạt được, đồng

thời khắc phục những hạn chế đang đặt ra, góp phần nâng cao hiệu quả quản

lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một vấn đề

lớn, phức tạp, cả về lý luận và thực tiễn còn nhiều điểm chưa được thống

nhất. Quá trình nghiên cứu, tác giả đã tuân thủ quy trình và phương pháp

nghiên cứu khoa học. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng, thời gian

134

nghiên cứu hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả

mong muốn được sự chỉ bảo của các thầy, các cô, của Hội đồng Khoa học,

của các chuyên gia đóng góp, trao đổi để nâng cao chất lượng đề tài với hy

vọng sẽ được tiếp tục nghiên cứu đề tài này ở cấp học cao hơn./.

135

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (21.3.2003),

Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về

công tác tôn giáo, Báo Hà Nội mới số 1225, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 24/TW – Ban Dân vận Trung ương

(30.02.1998), Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TƯ của Bộ

Chính trị khóa VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Phương hướng công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 01-BC/BCĐ.

3. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2004), Công tác dân vận của hệ

thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới

(Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Trung ương (6/3/2002), Chỉ thị của Ban Bí thư về

một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo

hiện nay, số 09-CT/TW.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội, Tình hình an ninh tư

tưởng ở trong nước, Thông báo nội bộ phục vụ sinh hoạt chi bộ tháng 3/2003.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (2010), Văn kiện Đại hội

đại biểu lần thứ XV Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Quy định một số điểm về kết nạp

đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn

giáo, số 123-QĐ/TW.

8. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận của Bộ Chính trị về

tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc; về công tác

tôn giáo, số 57-QĐ/TW.

136

9. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận của Ban Bí thư về xây

dựng cốt cán trong tôn giáo, số 08-KL/TW.

10. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (26/7/1999), Báo cáo Tình hình thực

hiện Chỉ thị số 21 của Thành ủy "Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình

hình mới", số 12-BC/DV.

11. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (02/4/2005), Báo cáo Tình hình

khiếu kiện liên quan đến tôn giáo ở Thủ đô Hà Nội, số 48 – BC/DVTU.

12. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (2009), Tăng cường công tác dân

vận của chính quyền cơ sở ở Hà Nội trong tình hình hiện nay, Nxb Giao

thông vận tải, Hà Nội.

13. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998), Báo cáo đề tài khoa học:

Đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động quần chúng tôn giáo, xây

dựng cơ sở chính trị vùng giáo Hà Nội, góp phần thực hiện thắng lợi công

cuộc đổi mới ở Thủ đô.

14. Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998), Công tác dân vận của hệ

thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới

(Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ), Hà Nội.

15. Ban Quản trị Thánh đường Hồi giáo Hà Nội (2013), Quy chế hoạt

động của Ban Quản trị Thánh đường Hồi giáo Hà Nội.

16. Ban Tôn giáo của Chính phủ (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam,

Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 1993.

17. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (08/5/2002), Báo cáo Sơ kết thực

hiện chủ trương công tác đối với đạo Tin Lành, số 57/BC-TG.

18. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (2003), đề tài khoa học cấp thành phố

Hoạt động của đạo Tin Lành tại Thủ đô Hà Nội: Thực trạng – Giải pháp, Hà Nội.

137

19. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (20/12/2002), Báo cáo Tổng kết

công tác năm 2002. Định hướng chương trình công tác năm 2003, số

195/BC-TG.

20. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (09/12/2003), Báo cáo Tổng kết

công tác năm 2003. Định hướng chương trình công tác năm 2004, số

186/BC-TG.

21. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (15/12/2004), Báo cáo Tổng kết

công tác năm 2004. Định hướng chương trình công tác năm 2005, số

190/BC-TG.

22. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (18/12/2005), Báo cáo công tác tôn

giáo năm 2005, số 193/BC-TG.

23. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (12/12/2006), Báo cáo công tác tôn

giáo năm 2006, số 181/BC-TG.

24. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (21/12/2007), Báo cáo công tác tôn

giáo năm 2007, số 189/BC-TG.

25. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (19/12/2008), Báo cáo tình hình

tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2008, phương

hướng nhiệm vụ năm 2009, số 216/BC-TG.

26. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (11/12/2009), Báo cáo tình hình

tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2009, phương

hướng nhiệm vụ năm 2010, số 204/BC-TG.

27. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (09/12/2010), Báo cáo tình hình

tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2010, phương

hướng nhiệm vụ năm 2011, số 192/BC-TG.

28. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (07/12/2011), Báo cáo tình hình

tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2011, phương

hướng nhiệm vụ năm 2012, số 189/BC-TG.

138

29. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (25/11/2012), Báo cáo tình hình

tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2012, phương

hướng nhiệm vụ năm 2013, số 182/BC-TG.

30. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội (04/12/2013), Báo cáo tình hình

tôn giáo và kết quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2013, phương

31. Ban Tôn giáo thành phố Hà Nội, Báo cáo Tình hình thực hiện Thông

hướng nhiệm vụ năm 2014, số 196/BC-TG.

tư số 25/2004/TT-BNV của Bộ Nội vụ, số 122/BC-TG.

32. Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo đề tài khoa học

“Thực trạng Công giáo Thành phố Hà Nội gắn bó, đồng hành cùng dân tộc –

Thuận lợi, khó khăn. Kiến nghị chủ trương và giải pháp”. Đề án “Công giáo

Việt Nam thực hiện đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc” của Ban

Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội.

33. Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2013), Chuyên đề Hoạt động

quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo tại thành phố Hà Nội.

34. Ban Tôn giáo Thành phố Hà Nội (2009), Chuyên đề Giải pháp

nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác giải quyết các vụ việc

khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo ở Hà Nội trong thời gian tới.

35. Ban Tổ chức Trung ương (2005), Hướng dẫn thực hiện Quy định số

123-QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị “Một số điểm về kết nạp đảng

viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo, số

40-HD/BTCTW.

36. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (28/8/1997), Chỉ thị Về tăng

cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 21-CT/TU.

37. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (19/8/2007), Chỉ thị Về tiếp tục

tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 19-CT/TU.

139

38. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (30/6/2002), Báo cáo Sơ kết thực

hiện chủ trương đối với đạo Tin Lành, số 24-BC/TU.

39. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (15/4/2003), Đề án Thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX),

số 25-ĐA/TU.

40. Bộ Ngoại giao (bản số 00203), Báo cáo về vấn đề nhân quyền và

công tác đấu tranh chống các thế lực lợi dụng nhân quyền để chống ta.

41. Trương Bá Cần (2/2008), “Về nhà đất ở Tòa Khâm sứ Hà Nội”,

Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, (158).

42. Trương Bá Cần (10/2008), “Về vụ nhà đất ở Tòa Khâm sứ Hà Nội”,

Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, (166).

43. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị

định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện

pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX về công tác

tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Nguyễn Hồng Dương (2008), Kitô giáo ở Hà Nội, Nhà xuất bản

Tôn giáo, Hà Nội.

47. Nguyễn Hồng Dương (chủ biên), (2008), Công giáo Việt Nam-Một

số vấn đề nghiên cứu, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

48. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của Đảng về

tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

140

49. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Hiến Chương Giáo hội Phật

giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

50. Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo

tổng kết công tác Phật sự nhiệm kỳ VI (2007-2012).

51. Giáo Hoàng Benedichto XVI (2009), Sứ điệp nói với các Giám mục

Việt Nam nhân dịp Ad Limina năm 2009.

52. Hạ Nghị viện Hoa Kỳ, Đạo luật nhân quyền cho Việt Nam HR.2863

( bản tiếng Anh và bản tiếng Việt - Tài liệu tham khảo ).

53. Hạ Nghị viện Hoa Kỳ, Đạo luật nhân quyền cho Việt Nam HR.1587

(bản tiếng Anh và bản tiếng Việt - Tài liệu tham khảo).

54. Hội đồng Giám Mục Việt Nam (2007), Bộ Giáo luật 1983, Nxb

Tôn giáo, Hà Nội.

55. Nguyễn Xuân Hùng - Đạo Tin Lành trên địa bàn thành phố Hà Nội,

Những vấn đề lịch sử và hiện tại - Báo cáo ngày 13/3/1996 lưu trữ tại Viện

Nghiên cứu Tôn giáo.

56. http://tonggiaophanhanoi.org: Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, Sứ

điệp của Đại hội Dân chúa Việt Nam 2010, 22.9.2013

57. http://www.hdgmvietnam.org: Hội đồng Giám mục Việt Nam

(01/5/1980), Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, 15.9.2013

58. Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối

quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

59. Dương Ngọc Kiên (2003), Bước đầu tìm hiểu công tác quản lý nhà

nước đối với đạo Công giáo hiện nay trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Khóa luận

tốt nghiệp cử nhân Quản lý xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, Hà Nội.

141

60. Nguyễn Văn Long (1999), Vận dụng quan điểm khoa học về tôn

giáo trong công tác đối với Thiên Chúa giáo hiện nay ở Việt Nam, Luận án

tiến sĩ triết học, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

61. Trần Đức Lương - Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội: Phấn đấu

để Hà Nội mãi mãi xứng danh "Thủ đô Anh hùng", Báo Nhân dân chủ nhật

16524 ngày 8/10/2000.

62. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2007), lý luận về tôn giáo và chính

sách tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

63. Quốc hội Hoa Kỳ, Luật Tự do tôn giáo quốc tế HR.2431 (bản tiếng

Việt - Tài liệu tham khảo).

64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, đã được sửa đổi,

bổ sung năm 2001, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Thành ủy Hà Nội (30.8.2007), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện

Chỉ thị 21-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy “về cường công tác tôn giáo

trong tình hình mới (1997-2007), Số 87-BC/TU.

66. Tòa Tổng Giám mục Hà Nội (1992), Giáo lý của Hội Thánh Công

Giáo, Bản đánh máy.

67. Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo - Học Viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh (7.1998), Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: “Mối quan

hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát

triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, Hà Nội.

68. Thành ủy Hà Nội (20/5/2001), Chương trình bảo đảm an ninh chính

trị và trật tự an toàn xã hội ở Thủ đô giai đoạn 2001 - 2005, số 03-CTr/TU.

69. ThS. Văn Đức Thu - Chuyên luận khoa học Tác động của xu thế

toàn cầu hóa, khu vực hóa đối với hoạt động tôn giáo ở Thủ đô Hà Nội: Thực

142

trạng và giải pháp - thuộc đề tài: "Những tác động của xu thế toàn cầu hóa,

khu vực hóa đối với việc xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở Thủ đô

Hà Nội" mã số 01X-12/03-2002-02 do Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội chủ trì

và thực hiện.

70. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/PL-UBTVQH11),

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

71. UBND Thành phố Hà Nội (27/11/2009), Đề án tăng cường công

tác quản lý hoạt động tôn giáo theo quy định pháp luật trên địa bàn Thành

phố, số 107/ĐA-UBND.

72. Văn phòng Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012),

Giáo hội Phật giáo Việt Nam, từ đại hội đến đại hội (1981-2012), Nhà xuất

bản Tôn giáo, Hà Nội.

73. Đặng Nghiêm Vạn (1997), Vấn đề tôn giáo và đặc điểm tôn giáo

hiện nay, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

74. Âu Quang Vinh - Tiểu sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam - Luận án

tốt nghiệp Trường Kinh Thánh thần học, dẫn lại của Nguyễn Xuân Hùng -

Đạo Tin Lành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Những vấn đề lịch sử và hiện

tại - Báo cáo ngày 13/3/1996 lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo.

75. John Renard (Người dịch Lưu Văn Hy và nhóm Trí tri - 2005), Tri

thức tôn giáo qua các vấn nạn và giải đáp, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.

143