BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG THỊ HUYỀN THƯ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN
XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG THỊ HUYỀN THƯ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN
XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THẾ DUY
HÀ NỘI - 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Thầy Tiến sĩ Vũ Thế Duy. Công trình
nghiên cứu này chưa từng được công bố trong bất cứ một tài liệu, ấn phẩm nào
dưới mọi hình thức. Các dữ liệu, số liệu, nội dung trình bày trong luận văn trung
thực, khách quan và chính xác, là kết quả của quá trình lao động của bản thân
tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả Luận văn
Trương Thị Huyền Thư
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành công trình nghiên cứu đề tài luận văn, tôi xin trân trọng
cảm ơn tới Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; Khoa sau Đại học,
Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên
cứu công trình này.
Xin trân trọng cảm ơn các Thầy/Cô giảng viên Học viện Hành chính Quốc
gia, những người đã tận tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý
báu và những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình tôi học tập tại Học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Tiến sĩ Vũ Thế Duy, người đã giúp tôi định
hướng, tổ chức và triển khai nghiên cứu cũng như hoàn thiện đề tài Luận văn thạc
sĩ.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới các cấp chỉ huy, cán bộ, chiến sỹ
công an Quận Hà Đông đã nhiệt tình giúp tôi hoàn thành luận văn; cảm ơn gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, ủng hộ mọi mặt cho tôi trong suốt thời
gian học tập tại Học viện.
Trong quá trình thực hiện, dù đã nỗ lực, cố gắng bằng việc sử dụng kiến
thức và kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy trong quá trình công tác, học tập
và rèn luyện, tuy nhiên, do đây là sản phẩm nghiên cứu đầu tiên, kinh nghiệm
và kiến thức còn có những hạn chế, chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong nhận được những lời góp ý chân thành từ quý Thầy/Cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tác giả Luận văn
Trương Thị Huyền Thư
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Diễn giải
ANQG An ninh quốc gia 1
ANTT An ninh trật tự 2
ATGT An toàn giao thông 3
CAND Công an nhân dân 4
HĐND Hội đồng nhân dân 5
MTTQ Mặt trận Tổ quốc 6
PCCC&CNCH Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ 7
QLNN Quản lý nhà nước 8
TTATGT Trật tự an toàn giao thông 9
TTCC Trật tự công cộng 10
TTATXH Trật tự an toàn xã hội 11
XHCN Xã hội chủ nghĩa 12
UBND Uỷ ban nhân dân 13
VK, VLN, CCHT Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ 14
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TÁT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ
AN TOÀN XÃ HỘI .......................................................................................... 8
1.1. Trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ........................... 8
1.1.1. Khái niệm về trật tự an toàn xã hội ......................................................... 8
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm trật tự an toàn xã hội .......................................... 9
1.1.3. Các lĩnh vực bảo đảmtrật tự an toàn xã hội .......................................... 11
1.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội .............................................. 13
1.2.1. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ......... 13
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội .......... 16
1.2.3. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ................. 19
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ............................ 21
1.2.5. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ......... 25
1.2.6. Nguyên tắc trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ............... 30
1.2.7. Phương thức quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ...................... 33
1.2.8. Các phương pháp quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội .............. 35
1.2.9. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ....... 36
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 43
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN
TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI .................................................................................................................. 44
2.1. Một số đặc điểm tình hình về kinh tế, văn hóa xã hội quận Hà Đông ..... 44
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 44
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 45
2.1.3. Những tác động tới hoạt động quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã
hội .................................................................................................................... 46
2.2. Thực trạng về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội ............................................................................................................. 47
2.3. Thực trạng các hoạt độngquản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ............ 52
2.3.1. Thực trạng việc xây dựng các chương trình, kế hoạch về bảo đảm trật tự
an toàn xã hội .................................................................................................. 52
2.3.2. Thực trạng về thể chế, chính sách về trật tự an toàn xã hội .................. 55
2.3.3. Thực trạng về công tác tuyên truyền vận động và bồi dưỡng kiến thức
bảo đảm trật tự an toàn xã hội cho các đối tượng ........................................... 60
2.3.4. Thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã
hội .................................................................................................................... 64
2.3.5. Thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ bảo
đảm trật tự an toàn xã hội ................................................................................ 67
2.3.6. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên một số lĩnh vực ...................................................................... 70
2.3.7. Về công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong đảm bảo trật tự
an toàn xã hội .................................................................................................. 78
2.3.8. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp nhận xử lý tố giác tội phạm, giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp ....................................................... 81
2.4. Nhận xét chung về thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật
tự an toàn xã hội .............................................................................................. 83
2.4.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 83
2.4.2. Tồn tại, hạn chế ..................................................................................... 85
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .............................................. 86
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 88
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN
XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG GIAI ĐOẠN KẾ TIẾP ..................................................................... 89
3.1. Quan điểm của Đảng và Thành ủy thành phố Hà Nội về đảm bảotrật tự an
toàn xã hội ....................................................................................................... 89
3.1.1. Quan điểm của Đảng về đảm bảotrật tự an toàn xã hội ........................ 89
3.1.2. Định hướng Thành ủy Thành phố Hà Nội về bảo đảm trật tự an toàn xã
hội .................................................................................................................... 94
3.2. Dự báo về tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội ...................................................................................................... 96
3.3. Giải pháp quản lý nhà nước về trật tự an toàn trên địa bàn quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội giai đoạn kế tiếp ................................................................. 98
3.3.1. Nâng cao chất lượng về chương trình, kế hoạch đảm bảo trật tự an toàn
xã hội ............................................................................................................... 98
3.3.2. Hoàn thiện thể chế, chính sách về trật tự an toàn xã hội .................... 100
3.3.3. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động và giáo dục cho các đối tượng
về trật tự an toàn xã hội. ................................................................................ 102
3.3.4. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. ........... 103
3.3.5. Nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của
cán bộ làm công tác đảm bảotrật tự an toàn xã hội ....................................... 104
3.3.6. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong bảo
đảm trật tự an toàn xã hội .............................................................................. 106
3.3.7. Tăng cường cơ sở sở vật chất, phương tiện, nguồn lực và công nghệ trong
quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội .................................................... 109
3.3.8. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong công tác đảm bảotrật tự an
toàn xã hội ..................................................................................................... 110
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 112
KẾT LUẬN ................................................................................................... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Quản lý nhà nước (QLNN) về trật tự an toàn xã hội (TTATXH) có vai trò
đặc biệt quan trọng để duy trì ổn định, trật tự xã hội, đáp ứng các quyền, lợi ích
hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, công dân, góp phần tích cực vào sự nghiệp
xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
(ANQG), trật tự an toàn xã hội gắn với sự tồn vong của chế độ chính trị, lợi ích
sống còn của quốc gia, dân tộc nên quản lý nhà nước về an ninh, TTATXH là
một hoạt động luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Cùng với sự
tham gia của cả hệ thống chính trị và quần chúng Nhân dân, với nòng cốt là lực
lượng Công an triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm
vụ, giải pháp bảo đảm trật tự xã hội. Qua đó, công tác QLNN về TTATXH
được thực hiện hiệu quả, công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm,
các hành vi vi phạm pháp luật đạt được nhiều kết quả quan trọng; góp phần giữ
vững, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, tạo lập môi trường ổn định, lành mạnh,
an toàn để các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra thuận lợi; bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, giữ vững ANTT.
Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội đối với địa bàn cấp huyện là
một bộ phận quan trọng của QLNN về TTATXH nói chung vì đây là địa bàn
hành chính cấp trung gian. Nếu QLNN về TTATXH ở các đơn vị hành chính
cấp huyện đều thực hiện tốt thì QLNN về TTATXH ở các tỉnh, cả nước sẽ tốt.
Hà Đông là một quận nội thành của Thủ đô với diện tích khá rộng, dân số
đông, đang trong quá trình đô thị hóa rất nhanh với nhiều công trình dân sinh,
nhiều khu chung cư cao tầng, giao thông lớn được xây dựng. Đây là điều kiện
thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế, văn hoá xã hội song cũng là
những yếu tố phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp
đến tình hình an ninh TTATXH trên địa bàn. Nắm bắt tình hình đó nên trong
1
năm qua, thực hiện những chủ trương, chính sách của nhà nước về bảo đảm
TTATXH, Quận ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) quận Hà Đông và đặc biệt là
Công an quận Hà Đông đã triển khai các biện pháp chủ động ngăn ngừa, đấu
tranh phòng chống có hiệu quả các loại tội phạm, đạt được những kết quả đáng
khích lệ, không để xảy ra bị động, bất ngờ ảnh hưởng tới việc phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội; mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp các loại tội phạm đặc
biệt là trong các dịp lễ, các dịp có sự kiện chính trị, văn hoá, xã hội quan trọng
của đất nước, của Thủ đô và của quận Hà Đông. Qua đó đã góp phần giữ vững
trật tự, kỷ cương an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Trật tự,
an toàn xã hội có bước chuyển biến tích cực, tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội
tiếp tục được kiềm chế, kéo giảm. Công tác đấu tranh với tội phạm kinh tế và
chức vụ; tội phạm vi phạm về môi trường, tội phạm ma tuý được đẩy mạnh và
đều vượt chỉ tiêu. Công an quận Hà Đông với bề dày lịch sử, luôn là một trong
những lá cờ đầu, là nòng cốt trong việc bảo vệ sự bình yên của quận Hà Đông
nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung.
Tuy nhiên, trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội vẫn còn tồn tại
những mặt hạn chế trong công tác QLNN về TTATXH. Tình hình an ninh,
TTATXH trên một số địa bàn tại quận Hà Đông còn diễn biến phức tạp, xử lý
vi phạm pháp luật chưa nghiêm, công tác quản lý TTATGT, trật tự đô thị trên
địa bàn hiệu quả còn thấp; lực lượng làm công tác đảm bảo TTATXH có một
bộ phận nhỏ còn nhận thức đối với QLNN về TTATXH chưa thật đầy đủ; các
biện pháp QLNN về TTATXH có nơi, có lúc chưa đồng bộ; hiệu quả công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng chấp hành các quy định và tham gia QLNN
về TTATXH chưa cao; việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, cải cách
hành chính chưa triệt để; mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an với các
ban, ngành khác chưa được chặt chẽ; chưa tận dụng, khai thác tốt những cơ hội
và điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế,...
2
Từ yêu cầu của khóa học và vị trí công tác, Học viên lựa chọn đề tài “Quản
lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu để hoàn thành khóa học và đề xuất một số giải
pháp cụ thể góp phần thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ QLNN về TTATXH
trên địa bàn quận Hà Đông giai đoạn kế tiếp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Có nhiều công trình nghiên cứu về đảm bảo trật tự an toàn xã hội, có thể
kể đến một số công trình sau:
- Sách tham khảo “Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội”của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an
nhân dân (CAND), Hà Nội, năm 1998, tác giả đã quan niệm: Quản lý nhà nước
về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp hành và điều hành
các cơ quan nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành luật
nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng của nhà nước trong
lĩnh vực an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội [53].
- Sách chuyên khảo “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh quốc
gia”, do GS.TS Trần Đại Quang chủ biên, Nhà xuất bản CAND, năm 2008
[47]. Tác giả đã phân tích, luận bàn để xây dựng hệ thống các khái niệm về an
ninh quốc gia, bảo vệ ANQG, QLNN về ANQG; phân tích, làm rõ vị trí, vai
trò, đặc trưng, nội dung, phương thức QLNN về ANQG; nghiên cứu, đánh giá
toàn diện tình hình QLNN về ANQG trên các lĩnh vực: An ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh văn hóa - tư tưởng, quản lý xuất nhập cảnh, an ninh trên
lĩnh vực tôn giáo. Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ rõ yếu tố khách quan của việc
tăng cường QLNN về ANQG.
- Luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Học Sơn, Học
viện Hành chính Quốc gia, năm 2018 [46]. Luận văn góp phần làm rõ những
vấn đề lý luận và rút ra những đánh giá, nhận xét thực tiễn hoạt động của lực
3
lượng công an trong QLNN về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh
Trì; đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
- Luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang” của tác giả Lê Thanh Bằng, Học viện Hành chính Quốc
gia, năm 2017 [6]. Luận văn góp phần hệ thống hoá các quan điểm của Đảng
và Nhà nước về QLNN về TTATXH; cung cấp luận cứ khoa học, có thể giúp
các cấp lãnh đạo ở tỉnh Kiên Giang, các cơ quan chức năng, đặc biệt là lực
lượng CAND nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảm bảo an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Luận văn Thạc sĩ “Vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội trong quản lý cư trú - từ thực tiễn quận Long Biên thành phố
Hà Nội” của tác giả Nguyễn Ngọc Hà, Học viện Hành chính Quốc gia, năm
2018[31]. Luận văn đã đưa hệ thống khái niệm, xác định vai trò, vị trí, đặc
điểm, yếu tố tác động đến vai trò, phân công, phân cấp của lực lượng Cảnh sát
quản lý hành chính trật tự xã hội; nêu rõ thực trạng, vai trò của lực lượng Cảnh
sát quản lý hành chính trật tự xã hội Công an quận Long Biên; nhận xét, đánh
giá ưu điểm, kết quả đạt được, tồn tại, khó khăn, nguyên nhân, hạn chế và đề
ra giải pháp nhằm nâng cao vai trò của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính
trật tự xã hội trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên
cứu QLNN về TTATXH ở các địa bàn khác nhau, phạm vi khác nhau. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ về QLNN về
TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Một số công trình
nghiên cứu công bố tương đối lâu, có những kết luận đã trở nên lạc hậu. Điều
đó đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu
cả lý luận cũng như thực tiễn QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những kiến thức lý luận và đánh giá thực
trạng công tác QLNN về TTATXH tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, luận
văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về
TTATXH tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nói riêng và trên địa bàn cả
nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống, phân tích bổ sung làm rõ lý luận về QLNN về TTATXH.
-Điều tra, phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong giai đoạn kế tiếp.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là QLNN về TTATXH trên địa bàn
quận Hà Đông, Hà Nội.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung vào hoạt động QLNN về TTATXH.
- Về thời gian: từ năm 2019 cho đến năm 2021.
- Về không gian: Đề tài được triển khai nghiên cứu trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, khoa học quản
lý công và khoa học về đảm bảo TTATXH của ngành Công an.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn, tác giả sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu hệ thống các giáo trình, tài
liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học, nghiên cứu hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật liên quan hoạt động QLNN về TTATXH. Qua đó, tác giả đã bổ
sung cách nhìn tổng quát các vấn đề đã được các tài liệu chỉ ra về lý luận, thực
tiễn của công tác QLNN về TTATXH tại Hà Đông, Hà Nội.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp được sử dụng
xuyên suốt trong nội dung luận văn. Trên cơ sở tổng hợp các số liệu, thông tin
từ các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Công an quận Hà Đông về trật
tự an toàn xã hội qua đó làm rõ các vấn đề lý luận, đánh giá đúng tình hình thực
trạng công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Từ các tài liệu thu thập được, tác giả
thống kê, tập hợp xây dựng thành hệ thống bảng phụ lục để so sánh số liệu tình
hình các qua các năm. Qua đó, rút ra những nhận định, đánh giá về thực trạng
công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông, đưa ra xu hướng phát
triển của tình hình, làm cơ sở đưa ra dự báo và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả QLNN về TTATXH thời gian tới.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: thu thập thông tin liên quan thực trạng
QLNN về TTATXH; nghiên cứu các báo cáo chuyên đề, báo cáo định kỳ năm,
báo cáo đột xuất các vụ việc. Qua nghiên cứu các tài liệu, báo cáo, tác giả khái
quát, tổng kết thực tiễn để phục vụ việc nghiên cứu đề tài luận văn.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu;
phương pháp nghiên cứu lịch sử; bảng biểu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài tập trung phân tích, lập luận một cách toàn diện, tổng quan được cơ
sở khoa học về công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông, thành
6
phố Hà Nội; tổng hợp lý thuyết về quản lý nhà nước, làm rõ các yếu tố chính
là cơ sở lý thuyết của công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện
lý luận về công tác QLNN về TTATXH.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Phân tích, làm rõ tình hình, thực trạng công tác quản lý nhà nước về trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Góp phần nâng cao nhận thức về công tác quản lý nhà nước về trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu cho cơ quan
chức năng trong QLNN về TTATXH tại đơn vị hành chính cấp quận, huyện.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
văn, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong giai đoạn kế tiếp
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
1.1. Trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự an toàn xã hội
1.1.1. Khái niệm về trật tự an toàn xã hội
Trật tự an toàn xã hội là khái niệm thuộc phạm trù chính trị - pháp lý, đồng
thời là thuật ngữ cơ bản, nền tảng trong nghiên cứu lý luận và tổ chức hoạt động
thực tiễn của lực lượng Công an nhân dân - lực lượng nòng cốt trong quản lý
trật tự an toàn xã hội. Thuật ngữ “trật tự an toàn xã hội” được sử dụng vào
những năm 1970, thay cho thuật ngữ “trật tự trị an” trước đó. Thuật ngữ này
được sử dụng trong Văn kiện Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam,
năm 1976: “Giáo dục nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần
chúng nhân dân, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và
trật tự an toàn xã hội” [22]. Điều 46, Hiến pháp, năm 2013: “Công dân có nghĩa
vụ tuân theo Hiến pháp và Pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [37]. Đồng
thời, thuật ngữ này cũng được sử dụng trong Luật Công an nhân dân các năm
2005, 2014, 2018 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Theo từ điển Bách khoa CAND Việt Nam, năm 2005: “Trật tự an toàn xã
hội là trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người được sống yên
ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý được xác
định” [9].
“Trật tự xã hội” là khái niệm chỉ sự hoạt động ổn định hài hòa của các
thành phần xã hội trong cơ cấu xã hội; trật tự xã hội nhằm duy trì sự phát triển
xã hội và cơ chế bảo đảm tính trật tự xã hội là các thiết chế xã hội. Trật tự xã
hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của các hành
động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn định, cho
8
phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác động của các yếu tố bên
trong và bên ngoài.
Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy tắc,
quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo.
Như vậy, nói đến TTATXH là nói đến trạng thái ổn định, có trật tự, kỷ
cương của xã hội. Trật tự, kỷ cương đó được xác lập trên cơ sở các quy tắc xử
sự chung do Nhà nước ban hành (quy phạm pháp luật) và những giá trị xã hội,
chuẩn mực đạo đức truyền thống được thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ và nhờ đó
mà mọi người có được cuộc sống yên ổn, an toàn.
Nói cách khác, trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội có trật tự, kỷ
cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp
luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội có thể hiểu là các hành vi làm ảnh hưởng, đe dọa, hoặc
làm phá vỡ sự tình trạng (trạng thái) bình yên của xã hội.
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Theo Điều 3, Luật Công an nhân dân, năm 2014 quy định: “Bảo đảm trật
tự an toàn xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội” [39], theo đó, có thể
hiểu bảo đảm TTATXH gồm: Các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,
đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
Trật tự an toàn xã hội thể hiện mối quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng
trong phạm vi một quốc gia. TTATXH là hệ thống các quan hệ xã hội được
hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của nhà nước,
các chuẩn mực đạo đức xã hội trong đời sống cộng đồng của quốc gia, dân tộc
nhờ đó, người dân sống và hoạt động có tổ chức, kỷ cương, mọi quyền và lợi
ích hợp pháp được đảm bảo không bị xâm hại. ANQG và TTATXH gồm hai
nội dung, hai mối quan hệ thể hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà
nước. Giữa ANQG và TTATXH có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, tác
9
động và chuyển hóa lẫn nhau, ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của đất
nước. ANQG được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo
vệ tốt TTATXH.
Bảo đảm TTATXH là bảo đảm trạng thái bình yên, an toàn, có trật tự, kỷ
cương của xã hội, là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội
phạm, tệ nạn và các hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến trạng thái đó.
Bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng CAND giữ
vai trò nòng cốt, có chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh
phòng, chống tội phạm, giữ gìn TTCC, bảo đảm TTATGT, tham gia phòng
ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.
Ngược lại, không bảo đảm TTATXH để tội phạm, tệ nạn xã hội lộng hành,
kỷ cương pháp luật không nghiêm, tài sản của nhà nước bị xâm hại, công dân
không được bảo vệ, lòng dân bất an không tin vào chế độ, vào sự quản lý của
nhà nước, các vụ biểu tình, khiếu kiện diễn biến phức tạp, nghiêm trọng kéo
dài, không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển hóa thành
vấn đề chống đối chính trị, từ đó sẽ tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi
dụng phá hoại ANQG.
Thực tiễn phát triển, biến đổi xã hội của nhiều quốc gia cho thấy, để đất
nước có được đời sống kinh tế - xã hội bình thường thì các thiết chế chính trị,
xã hội phải được vận hành theo những nguyên lý, trật tự nhất định, nếu phá vỡ
trật tự đó thì xã hội sẽ rối loạn... Do đó, xã hội cần có sự bảo đảm an ninh, an
toàn và thiết lập một trật tự với sự tuân thủ những quy tắc của đời sống xã hội.
An ninh, trật tự chính là sự bảo đảm bằng sức mạnh trên cơ sở pháp luật của
quốc gia để giữ vững trật tự xã hội, tạo thuận lợi để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội.
Bảo đảm TTATXH là nhằm bảo đảm trạng thái xã hội bình yên, trong đó
mọi người được sống yên ổn trên cơ sở quy định của pháp luật, các quy tắc và
10
chuẩn mực đạo đức; là nhiệm vụ phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh
chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về TTATXH.
1.1.3. Các lĩnh vực bảo đảmtrật tự an toàn xã hội
Tổng hợp nội dung tại Giáo trình Quản lý Nhà nước về an ninh, quốc
phòng của Học viện Hành chính [32, tr.87] và tại Bách khoa thư Công an nhân
dân Việt Nam của Bộ Công an - Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an
[11, tr.290], có thể nói QLNN về TTATXH bao gồm các lĩnh vực:
* Đấu tranh phòng, chống tội phạm
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là việc tiến hành các biện pháp loại trừ
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phát hiện để ngăn chặn kịp thời các hành
vi phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra cho
xã hội; điều tra khám phá tội phạm và người phạm tội để đưa ra xử lý trước
pháp luật đảm bảo đúng người, đúng tội; giáo dục, cải tạo người phạm tội giúp
họ nhận thức được lỗi lầm và cố gắng cải tạo tốt, có thể tái hòa nhập cộng đồng
xã hội, trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội.
*Giữ gìn trật tự nơi công cộng.
Trật tự công cộng là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều
chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi
người phải tuân theo. TTCC là một mặt của TTATXH và có nội dung bao gồm
những quy định chung về trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh; sự tuân
thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi
người thừa nhận. Giữ gìn trật tự nơi công cộng chính là giữ gìn trật tự, yên tĩnh
chung, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống văn minh ở những nơi công cộng
- nơi diễn ra các hoạt động chung của nhiều người, đảm bảo sự tôn trọng lẫn
nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.
*Bảo đảm trật tự an toàn, giao thông
Trật tự an toàn, giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành
và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải
11
công cộng mà mọi người phải tuân theo khi tham gia giao thông, nhờ đó đảm
bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, có trật tự, an toàn, hạn chế đến mức
thấp nhất tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Đảm bảo trật tự
an toàn, giao thông không phải là nhiệm vụ của riêng các lực lượng chức năng
(cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông công chính…) mà là trách nhiệm của
tất cả mọi người khi tham gia giao thông.
Đó là việc nắm vững và tuân thủ nghiêm túc Luật Giao thông, mọi hành
vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông phải được xử lý nghiêm khắc,
những thiếu sót, yếu kém là nguyên nhân, điều kiện gây ra các tai nạn giao
thông phải được khắc phục nhanh chóng.
* Phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh
Ngoài các hoạt động phòng ngừa tai nạn giao thông, các loại tai nạn lao
động cũng cần được chú ý phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt
hại do tai nạn gây ra. Thiên tai, dịch bệnh tuy có thể không do con người tự gây
ra, tuy nhiên nó có sức tàn phá ghê gớm, hủy hoại nhiều tài sản, cướp đi sinh
mệnh của nhiều người, để lại những hậu quả nặng nề mà xã hội phải khắc phục
trong thời gian dài.
* Phòng chống các tệ nạn xã hội
Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội, có tính phổ biến (từ các hành vi vi phạm những nguyên tắc về lối
sống, truyền thống văn hóa, đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục, các giá trị xã
hội tốt đẹp cho đến các hành vi vi phạm những quy tắc đã được thể chế hóa
bằng pháp luật, kể cả pháp luật hình sự) ảnh hưởng xấu về đạo đức và gây hậu
quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Tệ nạn xã hội bao gồm: mại dâm,
nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan… Tệ nạn xã hội là cơ sở xã hội của tình
trạng phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội phạm.
* Bảo vệ môi trường
12
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Ngăn chặn, khắc
phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường. Khai
thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Môi trường có tầm
quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và nhân loại. Hoạt động bảo vệ môi trường
là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác
động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm,
suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học.
1.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
1.2.1. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Quản lý là một vấn đề đã được nhiều học giả nghiên cứu từ rất lâu nhưng
cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau. Có tác giả
cho rằng quản lý là việc đạt tới mục tiêu thông qua hoạt động của người khác.
Tác giả khác lại coi quản lý như hoạt động thiết yếu bảo đảm phối hợp những
nỗ lực các nhân để đạt tới mục tiêu của nhóm. Tuy vậy, có thể nhận thấy, các
nhà nghiên cứu đều thống nhất quan điểm: Quản lý bao giờ cũng được xuất
phát từ nhu cầu con người, vì con người, gắn liền với quá trình phân công và
phối hợp trong lao động của con người trong đời sống xã hội. Theo cách hiểu
chung, khái quát nhất, quản lý là việc tác động có định hướng lên một đối tượng
nhằm đảm bảo đối tượng đó phát triển theo quy luật và phù hợp với những trật
tự được hướng tới.
Cũng với quan niệm đó, trong Tài liệu bồi dưỡng ngạch Chuyên viên chính
của Bộ Nội vụ cho rằng: “Quản lý được hiểu là sự tác động có định hướng và
có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện nhất
định để đạt được mục tiêu nhất định” [12, Tr.7].
13
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Quản lý
nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, quản lý nhà nước
bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của
Chính phủ và hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp.
Hiện nay cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về QLNN. QLNN là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối
quan hệ xã hội và trật tự pháp luật [33, tr.19]. Hoạt động QLNN do tất cả các
cơ quan: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp trong bộ máy
Nhà nước điều hành. Có thể khái quát chính một số thành tố cơ bản liên quan
đến nội hàm của QLNN như sau: QLNN là sự tác động có mục đích của chủ
thể quản lý đến các đối tượng quản lý. QLNN xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc
nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt động chung của cơ quan nhà nước với phát
triển xã hội. QLNN được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo
sự phục tùng và tạo sự thống nhất trong QLNN. Mục đích, nhiệm vụ của QLNN
là quản lý, chỉ đạo hoạt động chung của mỗi cá nhân trong tổ chức, phối hợp
thực hiện, chấp hành những vấn đề chung trong một khung quy định của cơ
quan nhà nước để tạo thành một hành động thống nhất của tập thể hướng đến
mục tiêu đã định. Có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang
tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành
vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan
trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con
người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: “Quản lý nhà nước là
hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước, do các cơ quan nhà nước hoặc các tổ
chức xã hội được Nhà nước ủy quyền tiến hành đối với các cá nhân, tổ chức
trong xã hội trên các mặt của đời sống xã hội hằng ngày bằng cách sử dụng
14
quyền lực Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, duy trì ổn định
an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng nhất định”.
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội nhưng là dạng quản lý
xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà
nước. QLNN về ANQG, TTATXH là hoạt động chấp hành và điều hành của
các cơ quan nhà nước, hoặc các tổ chức xã hội được Nhà nước uỷ quyền, được
tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật nhằm thực hiện trong
cuộc sống hằng ngày các chức năng nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ ANQG,
TTATXH [35, tr.515].
Thực tế trong quá trình phát triển và biến đổi xã hội của nhiều quốc gia
trên thế giới cho thấy, muốn có được đời sống kinh tế xã hội phát triển thì các
thiết chế chính trị, xã hội phải được vận hành theo những nguyên lý, trật tự nhất
định, nếu phá vỡ trật tự đó thì xã hội sẽ rối loạn. Do đó, để tạo thuận lợi cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cần có sự đảm bảo an ninh, an toàn trật tự
xã hội và thiết lập được một trật tự với sự tuân thủ các quy tắc của đời sống xã
hội, tuân thủ các quy định của pháp luật. QLNN về TTATXH là hoạt động diễn
ra thường xuyên, liên tục, có mối liên hệ gắn kết trực tiếp với sự tồn tại và phát
triển của các chủ thể trong xã hội. QLNN về TTATXH là bộ phận đặc biệt quan
trọng của QLNN. Đây là hoạt động do các cơ quan nhà nước tiến hành trên cơ
sở pháp luật nhằm hiện thực hóa các chức năng của Nhà nước trong đảm bảo
TTATXH. Thực hiện QLNN về TTATXH trước hết nhằm đem lại sự bình yên
trong hoạt động của các cơ quan, các tổ chức xã hội và cá nhân, bảo vệ trật tự
pháp luật và kỷ cương xã hội, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
công dân, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm tội, các vi phạm pháp
luật và tệ nạn xã hội.
Theo Từ điển Bách khoa CAND năm 2005: QLNN về ANTT là hệ thống
các biện pháp quản lý của nhà nước, do các cơ quan nhà nước và các tổ chức
15
xã hội được nhà nước ủy quyền tiến hành trên cơ sở pháp luật và thi hành pháp
luật nhằm bảo vệ ANQG và TTATXH [9, tr.978].
QLNN về ANTT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
nhà nước của chủ thể có thẩm quyền trên lĩnh vực ANTT đối với tổ chức, cá
nhân trong xã hội để duy trì, phát triển các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ và bảo đảm trật tự pháp luật trên lĩnh vực ANTT [11, Tr.296].
Từ những phân tích trên, dưới góc độ luận văn, tác giả cho rằng: Quản lý nhà
nước về trật tự an toàn xã hội là hoạt động của các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trên lĩnh vực trật tự xã hội sử dụng chính sách, pháp luật để tác động,
điều chỉnh đối với các cá nhân, tổ chức trong xã hội nhằm đảm bảo cho các
quan hệ xã hội và hành vi, hoạt động của con người diễn ra trong khuôn khổ
pháp luật trật tự an toàn xã hội; góp phần chủ động phòng ngừa ngăn chặn
các âm mưu, hoạt động xâm hại an ninh, trật tự.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính quyền lực mệnh lệnh đặc biệt,
tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước.
Quản lý nhà nước về TTATXH được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác
nhau bao gồm các cơ quan Nhà nước và các cá nhân được Nhà nước giao quyền
khi đó được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
Quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước về TTATXH trước hết thể hiện ở
việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua các chủ
trương, chính sách, pháp luật. Nếu có những hành vi vi phạm pháp luật thì phải
truy cứu trách nhiệm và xử lý theo pháp luật. Do đó, QLNN về TTATXH mang
tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của
Nhà nước.
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính hành chính, pháp chế.
Hoạt động QLNN về TTATXH phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp
luật, các chủ thể QLNN phải sử dụng pháp luật làm phương tiện chủ yếu để
16
thực hiện quyền lực nhà nước trong QLNN về TTATXH. Lực lượng Công an
được tổ chức chặt chẽ theo bốn cấp hành chính, cơ quan cấp trên có quyền chỉ
đạo cấp dưới và cơ quan cấp dưới phải phục tùng lãnh đạo cấp trên. Hoạt động
QLNN của cơ quan Công an phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Hoạt động QLNN về TTATXH phải trên cơ sở tăng cường
pháp chế XHCN, đòi hỏi mỗi người dân phải tuân thủ pháp luật.
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính quần chúng và dân chủ.
Sự nghiệp bảo vệ ANQG, TTATXH gắn liền với lợi ích của mọi thành
viên trong xã hội, đòi hỏi mọi người phải tự giác tham gia. Do đó, đây là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân với mục tiêu xây dựng được thế
trận an ninh nhân dân vững chắc. Hoạt động QLNN về TTATXH phải được
tiến hành trên cơ sở phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị, sự tham gia của tất cả các chủ thể QLNN về TTATXH, dưới sự lãnh đạo
của Đảng.Và thực chất, đó là một cuộc vận động phong trào cách mạng của
quần chúng xây dựng thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ an ninh, trật tự từ cơ
sở, bảo vệ cuộc sống yên vui, lành mạnh của nhân dân. Trên lĩnh vực an ninh,
trật tự dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể chế hóa thành luật pháp, thể hiện ý
chí của nhân dân.
- Quản lý nhà nước về TTATXH kết hợp giữa tính công khai, minh bạch
của chu trình quản lý với khai thác hiệu quả các công tác, biện pháp nghiệp vụ
bí mật.
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính quốc tế.
Tính quốc tế của QLNN về TTATXH là nói đến sự liên kết, hợp tác với
các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong việc đảm bảo TTATXH. Thế giới ngày
nay đang tồn tại trong bối cảnh toàn cầu hóa, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Việt
Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, với sự tác động sâu rộng của toàn
cầu hóa đòi hỏi sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, đảm
17
bảo TTATXH. Nhiều vấn đề TTATXH không còn là vấn đề của riêng một quốc
gia mà đòi hỏi phải có sự hợp tác giải quyết của hai hay nhiều quốc gia mới đạt
được hiệu quả, ví dụ như: chống khủng bố, chống tội phạm có tổ chức, xuyên
quốc gia (buôn bán ma túy, buôn người, sử dụng công nghệ cao,…), tội phạm
môi trường. Thực tế cho thấy việc tăng cường hợp tác quốc tế là một xu thế tất
yếu và là giải pháp cơ bản trong đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo đảm
TTATXH.
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính tổ chức và điều chỉnh.Tổ chức
ở đây được hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa
con người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều
chỉnh được hiểu là Nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng
bị quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự
cân bằng trong xã hội.
- Quản lý nhà nước về TTATXH là những tác động mang tính liên tục và
ổn định lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội.Cùng với sự vận
động biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động QLNN về TTATXH phải diễn
ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Tuy nhiên, hoạt động này cũng
phải mang tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh để giúp cho các chủ
thể quản lý có điều kiện hoàn thiện hoạt động của mình và hệ thống hành vi xã
hội được ổn định.
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc
trưng này đòi hỏi Nhà nước phải tổ chức các hoạt động QLNN về TTATXH
lên đối tượng quản lý phải có chương trình, mục tiêu, kế hoạch nhất quán, cụ
thể trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học và phải có biện pháp để thực hiện
chương trình, mục tiêu, kế hoạch đó.
- Quản lý nhà nước về TTATXH mang tính chủ động, sáng tạo và linh
hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng phát huy sức mạnh
tổng hợp để tổ chức sản xuất và ổn định cuộc sống của người dân theo sự phân
18
công, phân cấp, đúng thẩm quyền, theo đúng các nguyên tắc được đặt ra. Sở dĩ
có đặc tính này bởi đối tượng quản lý nhà nước về TTATXH phức tạp, đa dạng,
phong phú; đồng thời đòi hỏi chủ thể QLNN về TTATXH phải áp dụng biện
pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên,
chủ động và sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi pháp luật quy định.
- Quản lý nhà nước về TTATXH tác động có liên quan mật thiết tới mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, quan hệ đến lợi ích của mọi thành viên trong xã
hội, quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế đất nước; liên quan đến tính mạng của
nhân dân.
An ninh quốc gia và TTATXH ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt đời sống
xã hội, đến hoạt động bình thường của mọi tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá
trong một quốc gia, tác động đến đời sống của mọi gia đình, mọi cá nhân trong
xã hội; không có sự cách biệt về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị
quản lý. Trong quá trình QLNN về TTATXH khi đưa ra những hoạch định
chính sách, giải pháp và thực thi các chính sách cần đặc biệt chú ý tới các yêu
cầu bảo vệ an ninh, TTATXH và ngược lại các lực lượng trực tiếp thực thi các
chính sách, giải pháp cần phải tạo ra môi trường thuận lợi để thực hiện các
chính sách phát triển văn hoá, kinh tế xã hội nhưng vẫn phải đảm bảo giữ vững
được an ninh quốc gia, TTATXH. Khi nền kinh tế phát triển, tạo ra nhiều công
ăn, việc làm cho các tầng lớp nhân dân sẽ dẫn đến an ninh, trật tự được đảm
bảo. Ngược lại, khi nền kinh tế suy yếu, nạn thất nghiệp tràn lan, khiến cho nảy
sinh nhiều loại tội phạm.
1.2.3. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Quản lý nhà nước về TTATXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt
động QLNN khi đất nước đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ nhu cầu của mỗi người dân cần được an toàn và được bảo vệ.
Đây là một nhu cầu chính đáng, người dân đòi hỏi phải được bảo vệ quyền và
19
lợi ích hợp pháp trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, lực lượng CAND luôn
nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vai trò lãnh đạo của Đảng, luôn được Đảng, Nhà
nước tin cậy giao đảm nhiệm những trọng trách và hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ của mình trong công tác bảo vệ Đảng.Với tinh thần “Chỉ biết còn Đảng thì
còn mình”, CAND đã tích cực, chủ động tham gia xây dựng, bảo vệ chính
quyền cách mạng, xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo
vệ vững chắc thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc.
Quản lý nhà nước về TTATXH nhằm phục vụ, đáp ứng những nhu cầu,
lợi ích cơ bản, thiết thực của nhân dân, các cơ quan tổ chức, đồng thời còn đảm
bảo các hoạt động trong đời sống diễn ra bình thường như: hoạt động kinh
doanh, văn hoá, vui chơi, giải trí, giao thông, trật tự công cộng, sử dụng phương
tiện đặc biệt, quan hệ, giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức. QLNN về TTATXH
là một bộ phận công tác quản lý xã hội của nhà nước. Đối tượng quản lý là con
người và các hoạt động có liên quan đến TTATXH trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
do đó, cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trên mọi địa bàn, khu
vực. QLNN về TTATXH góp phần quan trọng trong đảm bảo, duy trì trật tự kỷ
cương xã hội, phục vụ hiệu quả công tác quản lý xã hội của Nhà nước, tạo điều
kiện để mọi hoạt động khác diễn ra thuận lợi, là điều kiện đảm bảo cho xã hội
ổn định, phát triển.
Từ kết quả QLNN về TTATXH có thể cung cấp số liệu về tình hình đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội, trật tự công cộng, ... việc thực hiện chủ trương,
chính sách, pháp luật có liên quan đến an ninh trật tự, tình hình hoạt động của
các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, những sơ hở, thiếu sót, những bất cập
nảy sinh trong việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách, pháp luật cũng như
dư luận, tâm tư, nguyện vọng của người dân có liên quan đến TTATXH đểđề
xuất Chính phủ hoặc các cơ quan chức năng hoạch định các chính sách có liên
quan cho phù hợp, cho sát với thực tiễn.
20
Thông qua việc thực hiện nội dung QLNN về TTATXH, các đơn vị chức
năng có điều kiện tuyên truyền, nâng cao nhận thức cũng như ý thức chấp hành
pháp luật cho mọi người dân; phòng, ngừa ngăn chặn những hành vi xâm phạm
lợi ích hợp pháp, lợi ích công dân.
Quản lý nhà nước về TTATXH có ý nghĩa to lớn trong việc đưa hoạt động
của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của công dân đi vào nề nếp,
tuân theo một trật tự nhất định. QLNN về TTATXH là một bộ phận không thể
thiếu trong hệ thống QLNN để quản lý xã hội, đặc biệt trong giai đoạn thực
hiện chính sách đổi mới, hội nhập và phát triển như hiện nay.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Theo các hoạt động cụ thể được tiến hành trong QLNN về TTATXH, nội
dung QLNN về TTATXH bao gồm:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế
hoạch bảo đảm TTATXH.QLNN về TTATXH là hoạt động có mục đích, có kế
hoạch vì thế đòi hỏi QLNN phải xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ
trương, chính sách, kế hoạch nhằm đảm bảo TTATXH.
Chiến lược, chủ trương chính sách, kế hoạch đảm bảo TTATXH luôn luôn
phải đi đúng hướng, nhất là thể hiện sự nhất quán với chủ trương, đường lối, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ TTATXH. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định mục tiêu tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là: Phát
huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết
hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng
quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền
văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương,
an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa [30].
21
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ TTATXH.
Các văn bản pháp luật về bảo vệ TTATXH là công cụ điều chỉnh hành vi
trong xã hội; là công cụ để quản lý; là hành lang pháp lý để tổ chức và hoạt
động đảm bảo TTATXH. Hoạt động bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH phải
được dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ ANQG và
bảo đảm TTATXH, yêu cầu phải thực sự là công cụ pháp lý trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về ANQG, TTATXH hiệu quả.
Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực TTATXH được Quốc hội,
Chính phủ và Thanh tra hướng dẫn đầy đủ. Nhiệm vụ của các cơ quan hành
chính nhà nước, cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước phải thể chế hóa các Luật, Nghị định của Chính phủ để triển khai trong
ngành và lĩnh vực mình quản lý. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác QLNN về TTATXH cũng như đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân; đồng thời thể hiện vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân người có thẩm quyền trong giải quyết các
vấn đề TTATXH.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm
TTATXH.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan lập chương trình,
kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATXH dài
hạn và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt; tổ
chức phổ biến, quán triệt, tập huấn chuyên sâu các văn bản quy phạm pháp luật,
điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế liên quan đến ANTT; hướng dẫn, đôn đốc
các đơn vị liên quan, địa phương thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật và tổ chức Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động bảo đảm TTATXH
22
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan ban hành các nghị
quyết, chỉ thị, đề án và nhiều văn bản để tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện
các quy định của pháp luật về hoạt động bảo đảm TTATXH, nhằm cụ thể hóa
các chính sách cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng
các nhiệm vụ trong công tác quản lý nhà nước về TTATXH, phòng chống tội
phạm và vi phạm pháp luật về TTATXH trong từng giai đoạn.
- Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác bảo đảm
TTATXH
Cần phải thường xuyên kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác QLNN về TTATXH. Để có được điều này thì một trong những
giải pháp quan trọng là việc thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán
bộ công chức làm công tác QLNN về TTATXH. Ngoài phổ biến các quy định
được sửa đổi, bổ sung hay mới ban hành; còn cung cấp kiến thức, trao đổi kỹ
năng, nghiệp vụ trong công tác xử lý về TTATXH trong thực thi công vụ; tạo
điều kiện cho đội ngũ, cán bộ công chức có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và
phương thức giải quyết. Công an phải là lực lượng nòng cốt, phối hợp với các
ban, bộ, ngành, đoàn thể bảo đảm vững chắc ANQG, tạo sự chuyển biến rõ nét
về TTATXH, bảo đảm an toàn cho cuộc sống của nhân dân, góp phần tích cực
bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa
bình, an ninh, an toàn để đất nước phát triển nhanh và bền vững...
- Tổ chức thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực bảo đảm TTATXH:Quản
lý nhà nước về phòng chống tội phạm xâm phạm TTATXH, QLNN về phòng,
chống tệ nạn xã hội, QLNN về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ,
QLNN về TTATGT, QLNN về thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, người có
quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, QLNN về bảo
vệ môi trường,quản lý hành chính về trật tự xã hội.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện những chính sách đối với lực lượng chuyên
trách làm nhiệm vụ bảo đảm TTATXH.Chế độ chính sách đối với lực lượng chuyên
23
trách làm nhiệm vụ bảo đảm TTATXH là một trong những điều kiện căn bản bảo
đảm cho hoạt động đảm bảo TTATXH có hiệu quả. Nó thể hiện sự khuyến khích,
động viên với các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân yên tâm cống hiến sức lực
tham gia vào sự nghiệp vào vệ ANQG và đảm bảo TTATXH.
- Hợp tác quốc tế về bảo đảm TTATXH.Hiện nay, các vấn đề về ANQG,
TTATXH diễn ra mà tầm ảnh hưởng của nó đã vượt qua khỏi phạm vi lợi ích
an ninh quốc gia của một nước, trở thành những thách thức mang tính toàn cầu
trên, mang tính xuyên quốc gia (như biến đổi khí hậu, tội phạm mạng, khủng
bố quốc tế nhất là khủng bố bằng vũ khí sinh, hóa học, dịch bệnh, khan hiếm
lương thực, ô nhiễm môi trường, thảm họa cháy nổ,...). Đặc biệt thời gian qua,
đại dịch COVID-19 đã cho thấy tác động tiêu cực của nó lên toàn thế giới. Các
vấn đề này là nguy cơ, thách thức, mối đe dọa điển hình, lan tỏa nhanh, rộng,
ảnh hưởng lớn, trở thành mối quan tâm của toàn nhân loại. Chính vì vậy, việc
giải quyết những vấn đề này đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng
quốc tế.
Đây là một hoạt động mang tính tất yếu trong nội dung QLNN về
TTATXH nhằm phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn kịp thời các nguy
cơ, âm mưu xâm phạm đến ANTT, tranh thủ tiềm lực, hỗ trợ và hợp tác của
đối tác nước ngoài bảo vệ ANTT, quyền và lợi ích quốc gia cũng như giải quyết
các vấn đề đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống … góp phần
bảo vệ ANTT và phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bảo đảm
TTATXH.
Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong QLNN về TTATXH,
là phương thức đảm bảo pháp chế XHCN, tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả QLNN. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện sơ hở, thiếu sót trong
cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật và các quy định liên quan QLNN về
24
TTATXH để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp
khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; bảo vệ
lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Mặt khác, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về
TTATXH thể hiện hoạt động điều hành khi giải quyết các vi phạm TTATXH
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2.5. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
1.2.5.1. Chủ thể quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Chủ thể QLNN về TTATXH là tổ chức, cá nhân được trao quyền lực nhà
nước trong quá trình tác động tới các đối tượng quản lý nhằm bảo vệ ANTT và
lợi ích của Nhà nước, nhân dân.
Là một hoạt động đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực, do đó QLNN về ANTT hiện nay được phân công, phân cấp cho nhiều chủ
thể khác nhau, gồm: Quốc hội, HĐND các cấp, Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, UBND các cấp; tòa án nhân dân các cấp và viện kiểm sát nhân dân
các cấp [11] cùng thực hiện trong đó chủ công là lực lượng CAND. Cụ thể là:
* Cơ quan có thẩm quyền chung
- Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, lập và giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao với các hoạt động của Nhà nước [37]. Bằng việc làm luật và sửa đổi
luật, Quốc hội điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống
xã hội. Vì thế Quốc hội có vai trò làm luật và sửa đổi luật trong công tác QLNN
về TTATXH.
- Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Khoản 1, Điều 20, Luật Tổ chức Chính phủ
năm 2015, Chính phủ “thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia,
25
TTATXH” và “Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật xây dựng nền an
ninh nhân dân, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ vững ổn định
chính trị, phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm, vi phạm pháp luật,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” [43]. Điều 12 - Luật CAND năm 2018 cũng
quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm TTATXH…”. Chính phủ thực hiện QLNN về TTATXH bằng việc
xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật dưới luật về bảo đảm TTATXH,
tổ chức, điều hành các hoạt động bảo đảm TTATXH theo quy định của pháp
luật [40].
- Ủy ban nhân dân các cấp
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Ủy ban nhân
dân các cấp có quyền năng điều phối các cơ quan, ban, ngành của địa phương
tham gia QLNN về TTATXH trong phạm vi ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ
chức, ban ngành đó, vừa có quyền năng trực tiếp đối với hệ thống các cơ quan
chuyên ngành QLNN về TTATXH. Chính quyền địa phương thực hiện QLNN
về TTATXH bằng việc xây dựng chủ trương, chương trình, các kế hoạch, văn
bản quy phạm pháp luật về TTATXH, phối hợp công an cấp trên để chỉ đạo
Công an đơn vị, địa phương cấp dưới thực hiện nhiệm vụ QLNN về TTATXH
[44]. Trong đó, UBND các cấp và Chủ tịch UBND là chủ thể QLNN cao nhất
và toàn diện nhất trong phạm vi địa phương mình.
* Cơ quan có thẩm quyền riêng:
- Bộ Công an
Công an nhân dân có chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ
an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực
hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế
26
lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia,
TTATXH [40].
Là cơ quan chuyên trách của Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về
ANTT, an toàn xã hội, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
QLNN về ANTT, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm
pháp luật về ANTT, an toàn xã hội, chủ trì phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ
Ngoại giao, các Bộ, cơ quan ngang Bộ là chủ thể trực tiếp thực hiện QLNN về
ANTT, an toàn xã hội. Trong CAND, có nhiều lực lượng khác nhau được giao
nhiệm vụ QLNN về TTATXH với các nội dung, lĩnh vực cụ thể. Công an địa
phương là chủ thể QLNN về ANTT, an toàn xã hội của địa phương theo địa
giới hành chính, thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
và vi phạm pháp luật khác về ANTT, an toàn xã hội theo quy định của pháp
luật, gồm: Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; công an huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung
ương và công an xã, phường, thị trấn.
Tại Quyết định số 104/2006/QĐ-BCA (X13) ngày 07/2/2006 của Bộ Công
an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Công an
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Công an tỉnh) thì Công an
tỉnh có trách nhiệm tham mưu cho Bộ trưởng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, thành phố
về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; quản lý Nhà nước
về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh; trực tiếp đấu tranh
phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội; tổ chức xây dựng lực lượng Công an tỉnh, thành phố cách
mạng, trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Tại Quyết định số 106/2006/QĐ-BCA (X13) ngày 07/2/2006 của Bộ Công
an quy định Công an huyện là cấp Công an trực tiếp chiến đấu của lực lượng
CAND; có trách nhiệm trực tham mưu cho Giám đốc Công an tỉnh, Huyện ủy,
UBND huyện về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; quản
27
lý Nhà nước về an ninh, trật tự trên địa bàn huyện; trực tiếp đấu tranh phòng,
chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh, trật tự; xây dựng lực
lượng Công an huyện cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Ngoài cơ cấu tổ chức chung, những huyện trọng điểm, phức tạp về an ninh,
TTCC, trật tự giao thông, các huyện biên giới Tây Nam được thành lập Đội
cảnh sát giao thông trật tự cơ động; các huyện có khu chế xuất, cụm công nghiệp
tập trung, cần thiết thành lập đồn Công an, thì Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đề nghị Bộ Công an quyết định.
Tại Điều 3 Pháp lệnh Công an xã năm 2008 quy định: Công an xã có chức
năng tham mưu cho cấp ủy Đảng, UBND cùng cấp về công tác bảo đảm an
ninh, TTATXH trên địa bàn xã; thực hiện chức năng quản lý về an ninh,
TTATXH, các biện pháp phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác
về an ninh, TTATXH trên địa bàn xã theo quy định của pháp luật.
- Bộ đội biên phòng:
Tại Điều 5, Pháp lệnh Bộ đội biên phòng năm 1997 đã chỉ rõ: “Bộ đội biên
phòng có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đường biên giới quốc gia, hệ thống dấu hiệu
mốc quốc giới; đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm lãnh thổ biên giới,
... những hành vi khác xâm phạm đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, an ninh, trật
tự, gây hại đến môi trường ở khu vực biên giới; chủ trì, phối hợp với các ngành,
địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia và duy trì an
ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới đất liền, các hải đảo, vùng biển
và các cửa khẩu”.
- Cảnh sát biển Việt Nam
Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên
trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn trên biển; có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước về chính
sách, pháp luật bảo vệ ANQG, trật tự, an toàn trên biển; bảo vệ chủ quyền,
28
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển Việt Nam; quản lý
về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật Việt Nam, điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa
thuận quốc tế theo thẩm quyền (Điều 3, Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm
2018).
* Cơ quan có chức năng phối hợp khác:
- Các bộ, ngành khác
Luật CAND năm 2018 quy định: “Bộ, ngành Trung ương, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an trong
thực hiện QLNN về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH… Hoạt động
QLNN về TTATXH do các bộ, ngành khác thường được thực hiện dưới các
hình thức: Ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn QLNN về TTATXH, phối hợp với Bộ
Công an tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình mục
tiêu quốc gia, đề án về bảo đảm TTATXH theo nhiệm vụ được giao; chủ trì,
phối hợp với Bộ Công an và cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện việc kết
hợp chặt chẽ kinh tế - xã hội, quốc phòng, đối ngoại với bảo đảm TTATXH
trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, chương trình, đề án của ngành, lĩnh
vực được giao; thực hiện nhiệm vụ về bảo đảm TTATXH theo quy định của
pháp luật[40].
- Các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, huyện có trách nhiệm thực
hiện công tác QLNN về TTATXH trong phạm vi ngành, lĩnh vực của mình tại
địa phương theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan hữu quan để QLNN về TTATXH
1.2.5.2. Đối tượng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Đối tượng quản lý nhà nước về TTATXH tổ chức, cá nhân với các hành
vi, các hoạt động có liên quan đến an ninh chính trị, TTATXH. Đối tượng của
QLNN về TTATXH bao gồm: cá nhân, tổ chức của Việt Nam; cá nhân, tổ chức
29
người nước ngoài cư trú và sinh sống, công tác và học tập hoạt động theo quy
định của pháp luật Việt Nam, được pháp luật đảm bảo về các quyền công dân,
quyền lợi chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;
cán bộ, viên chức, công chức, người lao động; các cơ quan, tổ chức Đảng, chính
quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, đoàn thể quần chúng,
các doanh nghiệp, văn phòng đại diện ... được phép thành lập và hoạt động
trong khuôn khổ theo quy định của pháp luật Việt Nam; chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của quốc gia; các mục tiêu liên quan đến an ninh - quốc phòng của
Việt Nam.
Đối tượng QLNN về TTATXH rất phong phú, đa dạng, với văn hóa,
phong tục tập quán khác nhau; trình độ, điều kiện, hoàn cảnh phát triển khác
nhau, với những nhu cầu và mục tiêu không thuần nhất, các đối tượng cũng
thường xuyên vận động, biến đổi.
1.2.6. Nguyên tắc trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
1.2.6.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ,
lực lượng công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.Việc
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới việc
bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chế độ và cuộc sống của người dân,
góp phần quan trọng quyết định niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà
nước nên cần phải có Đảng lãnh đạo. Đây cũng có thể coi là nguyên tắc cơ bản
nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các nguyên tắc khác.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã chỉ rõ: “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự
nghiệp quốc phòng và an ninh” [26]. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
30
của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh” [28]. Trong quá trình lãnh đạo công
tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, các cấp ủy Đảng cần phân định
rõ chức năng lãnh đạo của mình với chức năng quản lý của Nhà nước, không
biến các tổ chức Đảng thành các cơ quan hành chính, bao biện làm thay, nhưng
cũng không khoán trắng cho chính quyền, cho các cơ quan chuyên môn. Đảng
lãnh đạo bằng đường lối, chính sách, bằng công tác cán bộ và công tác tổ chức,
bằng công tác vận động quần chúng và công tác giám sát, kiểm tra hoạt động
quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này.
Cuộc đấu tranh bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; huy
động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, trong đó CAND
là lực lượng chuyên trách, nòng cốt bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân đã được quy định tại Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013
như sau: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [35]. Nhà nước là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong hoạt động QLNN về
TTATXH, nhà nước phải đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối
với hoạt động này. Chính vì thế, việc toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc
là điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên lĩnh vực bảo vệ an ninh,
trật tự; đồng thời cũng là để tập hợp, thu hút, hướng dẫn, nâng cao năng lực của
nhân dân trong việc giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự,
tạo thế trận phòng ngừa xã hội và tạo điều kiện cho lực lượng CAND tập trung
triển khai sâu rộng công tác phòng ngừa nghiệp vụ, đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đảm bảo TTATXH.Nhân dân tham gia QLNN về ANQG, TTATXH
thông qua các đoàn thể và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt
31
Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết
toàn dân tham gia đảm bảo ANTT.
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Công
an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lý về bảo
vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm
pháp luật về ANQG, TTATXH.
1.2.6.2. Nguyên tắc pháp chế
Quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng cường pháp chế là nguyên tắc
hiến định. Nguyên tắc này phải được quán triệt trong mọi hoạt động QLNN,
trong đó có QLNN về TTATXH. Mặt khác, do tính chất quan trọng của QLNN
về TTATXH nên chủ thế QLNN về TTATXH được trao một số quyền đặc biệt
nên việc tuân thủ nguyên tắc này còn là điều kiện để đảm bảo cho mọi hoạt
động quản lý đi đúng hướng, tránh lạm quyền. Mọi tổ chức và hoạt động QLNN
về TTATXH đều phải dựa trên cơ sở pháp luật.
1.2.6.3. Nguyên tắc tập trung, dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động QLNN của cơ quan
nhà nước, trong đó có hoạt động QLNN về TTATXH. TTATXH là vấn đề quan
trọng đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất
trong giải quyết các vấn đề.
1.2.6.4. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Đây là một nguyên tắc rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan xuất
phát từ đặc điểm quản lý về trật tự, an toàn xã hội. Quản lý theo ngành là để
bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động quản lý từ trung ương tới địa phương,
nhưng việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở mỗi địa phương lại có những đặc
32
thù riêng, không giống nhau, do đó cần bố trí các lực lượng đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội trên từng địa bàn cụ thể và thực hiện các hoạt động quản lý phù hợp
với yêu cầu của quản lý lãnh thổ, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan trung ương
và cơ quan địa phương trong quản lý. Ở Trung ương, Bộ Công an thực hiện
chức năng QLNN về TTATXH trên phạm vi cả nước, chỉ đạo chuyên môn,
nghiệp vụ đối với lực lượng công an địa phương, trước hết là công an tỉnh,
thành phố thuộc trung ương. Ngoài việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch
quản lý tầm vĩ mô, các lực lượng thuộc Bộ Công an còn phải trực tiếp tiến hành
các hoạt động quản lý, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch, hoạt động
tội phạm, những hành vi vi phạm pháp luật. Công an các cấp được tổ chức theo
nguyên tắc song trùng trực thuộc: vừa chịu sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Công
an cấp trên. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm, đặc trưng về chuyên môn nghiệp
vụ của công tác công an, cũng như từ nguyên tắc song trùng, nên trong QLNN
về TTATXH cần phải quán triệt nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành kết hợp
với quản lý theo lãnh thổ, trong đó quản lý theo ngành là chủ yếu.
1.2.7. Phương thức quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
1.2.7.1. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hộibằng pháp luật
Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát
huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh quyền lực của bộ máy nhà nước.
Pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với nhà nước. Điều 8, Hiến pháp
năm2013 nêu rõ: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ” [35]. Pháp luật là công cụ để nhà nước tổ chức và quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội trong đó có TTATXH.Pháp luật còn là cơ sở để đảm bảo
an toàn xã hội.Cùng với việc xác định cách thức xử sự cho các chủ thể, pháp luật
nghiêm trị những hành vi gây mất an toàn cho cuộc sống. Pháp luật xác định
cách thức xử sự cho mọi người, mọi cơ quan, tổ chức nhằm mục đích ngăn ngừa,
33
răn đe, trừng phạt những hành vi sai trái, giáo dục, cảm hoá những người có hành
vi này, bồi dưỡng cho mọi người tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân
thủ pháp luật bảo đảm cho xã hội phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững.
Quản lý nhà nước về TTATXH bằng pháp luật là cách thức, phương pháp
xây dựng pháp luật, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và sử
dụng pháp luật, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế để đảm bảo TTATXH.
Quản lý nhà nước là sự quản lý bằng pháp luật của Nhà nước để thực hiện
quyền lực của Nhà nước. Lực lượng Công an là đại diện công khai của Nhà
nước có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH. Để hoàn thành nhiệm vụ
đặc biệt của mình, lực lượng công an cần đến pháp luật và quản lý xã hội bằng
pháp luật. QLNN về TTATXH bằng pháp luật không chỉ với ý nghĩa là phương
tiện cưỡng chế, trấn áp, mà chủ yếu là phương tiện giáo dục, thuyết phục trong
QLNN về ANQG, TTATXH.
1.2.7.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội bằng chính sách
Chính sách về TTATXH là những cách thức tác động của Nhà nước vào
các lĩnh vực QLNN về TTATXH để đạt được mục tiêu định hướng. Chính sách
có tác động nhanh và kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện đến cả nhận thức, thái độ và
hành vi của các chủ thể bị tác động. Đặc biệt, chính sách điều chỉnh động cơ,
tạo động lực cho hành vi, hoạt động của các cá nhân và từng nhóm đối tượng
cụ thể. Bảo vệ ANQG và đảm bảo TTATXH là chức năng cơ bản của Nhà nước
Việt Nam. Nó gắn liền với việc thực hiện các chính sách cụ thể của nhà nước
nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, TTATXH của
đất nước. Mọi chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước đều trực
tiếp ảnh hưởng tới QLNN về ANTT. Các chính sách đúng đắn được thực hiện
trong cuộc sống mang lại hiệu quả chính trị, kinh tế, xã hội sẽ trực tiếp góp
phần bảo vệ ANQG, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác QLNN về TTATXH.
Ngược lại nếu chính sách sai lầm hoặc đem lại hậu quả về chính trị, xã hội sẽ
tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất TTATXH.
34
1.2.7.3. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội bằng chiến lược, kế hoạch
Để có thể bảođảm được TTATXH, cơ quan quản lý nhà nước phải thực
hiện tốt việc xây dựng đường lối, chiến lược, kế hoạch phù hợp với yêu cầu
phát triển của từng thời kỳ, phù hợp với chính sách pháp luật của nhà nước.
Qua việc ban hành chiến lược, kế hoạch về TTATXH, các cơ quan, ban ngành
có mục tiêu để hướng tới, có cơ sở đánh giá, giúp tập trung vào các mục tiêu,
làm rõ hơn phương hướng hoạt động trong đảm bảo TTATXH. Chương trình,
kế hoạch giúp cho lực lượng chức năng trong QLNN về TTATXH có định
hướng triển khai thực hiện các công tác để đạt được mục tiêu đề ra; giúp tăng
tính hiệu quả, tiết kiệm thời gian, chi phí, nguồn nhân lực; giúp hạn chế rủi ro
trong các hoạt động QLNN về TTATXH. Chương trình, kế hoạch giúp cơ quan
QLNN về TTATXH chủ động ứng phó với mọi sự thay đổi trong quá trình thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách linh hoạt mà vẫn đạt mục tiêu đã
đề ra; giúp huy động được các nguồn lực; bố trí lực lượng tập trung theo một
kế hoạch thống nhất; phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng các đơn vị liên quan để
thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đã đề ra.
1.2.8. Các phương pháp quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
- Phương pháp giáo dục, thuyết phục: Đây là phương pháp được thực hiện
trên cơ sở chính trị, đạo đức, tư tưởng, pháp lý nhằm đưa pháp luật vào cuộc
sống, tạo sự chuyển biến sâu sắc cho đối tượng quản lý lẫn chủ thể quản lý. Các
chủ thể quản lý dựa vào các văn bản pháp luật, chính sách của nhà nước tiến
hành công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân để mọi người
xác định được trách nhiệm của mình, từ đó nâng cao tính tự giác trong việc
chấp hành các chính sách, pháp luật trong QLNN về TTATXH.
- Phương pháp hành chính, cưỡng chế: Đây là phương pháp riêng tác động
trực tiếp vào khách thể quản lý bằng mệnh lệnh để điều tiết các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực TTATXH, làm cho các quan hệ đó phát triển lành mạnh, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Thực hiện phương pháp này gồm hai
35
nhân tố chính: Định ra các quy phạm pháp luật và sử dụng các quy phạm pháp
luật để điều tiết các mối quan hệ xã hội. Phương pháp này giúp Nhà nước giải
quyết nhanh chóng những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, xác lập được trật
tự, kỷ cương, môi trường pháp lý hợp lý và sự ổn định cho sự phát triển xã hội.
- Phương pháp kinh tế: Được thực hiện bằng cách thức vận dụng các chính
sách, đòn bẩy kinh tế để kích thích các đối tượng quản lý thực hiện có năng
suất, chất lượng và hiệu quả các công việc xã hội theo định hướng đã vạch ra
góp phần đảm bảo TTATXH. Đây là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm
cơ bản của Đảng, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, xây dựng đi đôi với
bảo vệ Tổ quốc, kích thích để phát triển kinh tế cũng là tạo điều kiện để giữ
vững TTATXH.
1.2.9. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
1.2.9.1. Yếu tố thể chế chính trị, hệ thống pháp luật
Xuất phát từ đặc điểm hệ thống chính trị của Việt Nam là “Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, vai trò tác động
của đảng cầm quyền đối với tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy
hành chính cơ bản có sự khác biệt với nhiều nước, mà chủ yếu và trước hết là
ở tính độc lập tương đối của chúng.
Trật tự an toàn xã hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội phải được đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng; phát huy sức mạnh của
hệ thống chính trị; xây dựng tư duy mới về TTATXH; “xã hội hoá”, biến vấn
đề TTATXH và công tác bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân; trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt. Thực hiện nghiêm túc
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và sự chỉ
đạo của Bộ Công an đối với công tác bảo đảm TTATXH; coi đó là nguyên tắc,
phương châm trong mọi hoạt động chấp hành và điều hành của các lực lượng
tham gia công tác bảo đảm TTATXH từ Trung ương xuống địa phương.
36
Một hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh đảm bảo tính đồng bộ, nhất
quán, ổn định và minh bạch là nhân tố thúc đẩy nền kinh tế nói chung và hoạt
động QLNN về TTATXH nói riêng. Chính vì vậy, để quản lý TTATXH cần
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể, trong quá
trình thực hiện nếu có nhiều bất cập, kiến nghị sửa đổi thì cần phải được xem
xét, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung ban hành cho phù hợp với thực tiễn.
Nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhanh chóng lạc hậu sau khi được ban
hành, cần thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung, nhiều quy định còn chồng chéo nhau.
Tính ổn định thấp gây ra nhiều khó khăn cho việc tổ chức thực hiện vì bất kỳ
một văn bản quy phạm pháp luật nào trước khi thực hiện cũng cần phải chuẩn
bị về nhân lực, điều kiện vật chất. Pháp luật thường xuyên thay đổi sẽ làm phát
sinh nhiều chi phí tốn kém cho triển khai thực hiện.
Tương tự như vậy, mối quan hệ giữa bộ máy hành chính nhà nước với các
bộ phận khác của hệ thống chính trị như các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ
quan lập pháp và tư pháp… cũng có nhiều nét đặc thù và đều trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động đến hiệu quả quản lý nhà nước (ví dụ: vai trò giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Do vậy, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước phải trên cơ sở bảo đảm tính đồng bộ giữa tiến trình cải cách
hành chính với cải cách tư pháp và lập pháp trong chỉnh thể đổi mới toàn bộ hệ
thống chính trị là đòi hỏi khách quan ở Việt Nam hiện nay.
1.2.9.2. Yếu tố kinh tế xã hội, phong tục tập quán của địa phương
Quản lý nhà nước luôn mang tính kế thừa và chịu sự tác động của các yếu
tố xã hội như văn hóa, lịch sử, truyền thống, tập quán, thói quen. Ví dụ, tâm lý
làng xã, dòng họ trên thực tế thường có sự chi phối, ảnh hưởng nhất định đối
với công tác cán bộ, thậm chí trong những trường hợp cụ thể còn triệt tiêu vai
trò kiểm soát của cơ quan chức năng, hoặc cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn
để lại nhiều dấu ấn trong nếp nghĩ, phong cách, lề lối làm việc của không ít cán
bộ, công chức, viên chức. Sự tác động của các yếu tố này luôn bao hàm cả hai
37
khả năng tích cực và tiêu cực. Vấn đề đặt ra là phải biết kế thừa, vận dụng, phát
huy các yếu tố tích cực, nhất là các giá trị văn hóa, truyền thống đã được kết
tinh từ nhiều thời kỳ và hạn chế những yếu tố tiêu cực, lạc hậu làm cản trở quá
trình hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Thực hiện pháp luật nói chung và
tuân thủ các quy định về TTATXH nói riêng là quá trình thực hiện hành vi của
các nhóm chủ thể khác nhau trong xã hội do vậy việc thực hiện các hành vi của
các nhóm phụ thuộc rất lớn vào bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở đó
các cá nhân sinh sống và làm việc. Văn hoá là một hệ thống những giá trị, chuẩn
mực và niềm tin được hình thành, phát triển qua nhiều thế hệ. Các cộng đồng,
cá nhân có các giá trị, niềm tin và chuẩn mực văn hóa khác nhau sẽ có cách
thức ứng xử khác nhau với những vấn đề họ gặp phải trong cuộc sống. Do vậy
các quy chuẩn giá trị văn hóa của cộng đồng là nhân tố ảnh hưởng đến mức độ
thực hiện pháp luật của các cá nhân hay tổ chức. Các nghiên cứu về việc tuân
thủ chấp hành pháp luật của người dân chỉ ra rằng môi trường văn hóa có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Chúng
ta thường thấy rằng các cá nhân sống trong môi trường nơi có đa số người dân
có ý thức tuân thủ chấp hành quy định pháp luật thì xác suất để các cá nhân đó
sa vào tệ nạn xã hội hay tội phạm là thấp hơn so với các cá nhân sống trong
môi trường xã hội có đa số người dân thiếu ý thức chấp hành quy định của luật.
Trong bảo đảm TTATXH, yếu tố tập quán, nếp sống, thói quen có ảnh
hưởng rất mạnh mẽ đến ý thức và hành vi pháp luật của người dân. Bởi tập quán
văn hoá sẽ định hình và điều chỉnh hành vi, do đó nó điều chỉnh hành vi tuân thủ,
chấp hành hay không tuân thủ chấp hành các quy định chung. Ngoài yếu tố văn
hóa thì bối cảnh kinh tế - sự thay đổi cơ cấu kinh tế cũng là nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ tuân thủ, chấp hành hay sử dụng pháp luật của cá nhân và tổ chức.
1.2.9.3. Tổ chức bộ máy đội ngũ thực hiện công tác quản lý nhà nước về
trật tự an toàn xã hội
38
Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là quản lý hành chính
nhà nước, là hoạt động chịu sự chi phối, tác động của rất nhiều yếu tố và có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khi một yếu tố thay đổi sẽ kéo theo các nhân tố
khác thay đổi. Đó là các yếu tố như cơ cấu, tổ chức, chức năng của các cơ quan
hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức, chế độ công vụ. Vấn đề chủ yếu ở đây
là sự phân công trong nội bộ hệ thống tổ chức, việc xác định nhiệm vụ cho các
cơ quan khác nhau để tạo được sự điều hoà, phối hợp cần thiết nhằm bảo đảm
thực hiện được mục tiêu tổng thể của hệ thống các cơ quan hành chính và cả bộ
máy nhà nước nói chung. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tránh được sự chồng chéo,
vướng mắc, dễ dàng phối hợp, điều chỉnh công việc trong thực hiện nhiệm vụ,
tiết kiệm thời gian; ngược lại nếu cơ cấu bất hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả hoạt
động. Bộ máy hành chính là một chỉnh thể và mỗi cơ quan hành chính là một
bộ phận, cả bộ máy chỉ hoạt động tốt khi mỗi bộ phận vừa thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình vừa phối hợp tốt với các bộ phận khác để hoàn thành được mục
tiêu chung.
Quản lý nhà nước về TTATXH chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi năng lực thực
thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức thuộc các cơ quan có thẩm quyền.
Đội ngũ cán bộ công chức các cơ quan có thẩm quyền vừa là người tham mưu,
xây dựng hệ thống pháp luật đồng thời là đội ngũ trực tiếp thực thi pháp luật,
đưa các quy định pháp luật đi vào cuộc sống. Họ là người bảo vệ công lý và
pháp luật, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, hiệu lực,
hiệu quả của việc thực hiện QLNN xét đến cùng được quyết định bởi số lượng
và chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác thực hiện pháp luật, phụ thuộc
vào năng lực thực thi pháp luật của đội ngũ cán bộ công chức thuộc các cơ quan
có thẩm quyền. Nghĩa là nó phụ thuộc vào các yếu tố như số lượng, cơ cấu;
chất lượng đội ngũ cán bộ bao gồm năng lực thực thi công vụ được đánh giá
thông qua kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi để thực hiện công việc được giao.
39
Năng lực thực thi công vụ còn bao hàm khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố
trên trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt được hiệu quả công việc
cao nhất. Năng lực thực thi công vụ của cán bộ các cơ quan có thẩm quyền
không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện pháp luật của các cơ quan công
quyền mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật của người dân.
Nếu pháp luật phản ánh đúng thực tại xã hội, phù hợp với quy chuẩn mà đại đa
số người dân trong cộng đồng tin theo, việc thực thi pháp luật nghiêm minh đủ
tạo ra niềm tin của người dân vào các cơ quan công quyền thì các cá nhân và
tổ chức sẽ tự động thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh. Chúng ta thấy
rằng niềm tin pháp luật không tự xuất hiện ở các cá nhân mà phải có sự tác động
của thực tiễn pháp luật, thực tiễn chấp hành pháp luật của những người xung
quanh và nhất là của các nhà chức trách áp dụng pháp luật.
Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy cũng phải phù hợp với tính chất, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, với phương châm một cơ quan
thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì và chịu trách
nhiệm chính nhằm đảm bảo được việc thực hiện QLNN về TTATXH.
Chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước. Một nền hành chính chuyên nghiệp chỉ có thể hình thành trên
cơ sở xây dựng và phát triển nguồn nhân lực tương ứng mang tính chuyên
nghiệp. Nguồn nhân lực của bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam bao gồm
cán bộ thông qua bầu cử, công chức được tuyển dụng theo chỉ tiêu biên chế và
viên chức được tuyển dụng thông qua hợp đồng làm việc.
1.2.9.4. Yếu tố cơ sở vật chất phục vụ việc công tác quản lý nhà nước về
trật tự an toàn xã hội
Những bảo đảm về mặt tài chính và điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
hoạt động quản lý nhà nước về TTATXH phụ thuộc một phần vào nhu cầu quản
lý, nhưng chủ yếu là trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong
từng giai đoạn. Việc đầu tư về tài chính, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo
40
đảm cho sự vận hành của bộ máy và hoạt động của chế độ công vụ, công chức
vừa là điều kiện, vừa là một trong những tiêu chí chủ yếu đánh giá hiệu quả của
QLNN về TTATXH. Khi cơ sở vật chất được đầu tư đầy đủ, kinh phí cho các
hoạt động QLNN về TTATXH được đảm bảo kịp thời, cấp đúng, cấp đủ sẽ góp
phần triển khai thuận lợi, nhanh chóng công tác QLNN về TTATXH. Ngược
lại, nếu điều kiện tài chính và cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu công
tác QLNN về TTATXH thì sẽ khó triển khai các biện pháp, các nội dung QLNN
về TTATXH một cách có hiệu quả, khó đảm bảo được việc giữ gìn TTATXH.
Dù cho các biện pháp, các nội dung đề ra hoàn hảo nhưng nó không đủ kinh
phí để triển khai thì cũng không đem lại tác dụng trong QLNN về TTATXH.
1.2.9.5. Yếu tố hội nhập quốc tế và ứng dụng công nghệ thông tin
Tác động đến quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội bao gồm nhiều
yếu tố bên ngoài như sự xuất hiện và gia tăng hoạt động của đối tượng theo chủ
nghĩa khủng bố; sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu
hóa, hội nhập kinh tế… Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo những điều kiện
thuận lợi trong hợp tác an ninh khu vực và thế giới. Những hoạt động như tham
gia vào Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), Tổ chức Cảnh sát trong
khối ASEAN (Aseanapol); hợp tác kiểm soát ma tuý với các quốc gia trên thế
giới; phối hợp song phương và đa phương với Công an, Nội vụ các nước khác
bảo vệ an ninh quốc gia từ xa..., là mở rộng hợp tác quốc tế về an ninh giữa
Việt Nam với nước khác bảo vệ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt,
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm tăng khả năng áp dụng khoa học công
nghệ tiên tiến nhất vào công tác giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Tuy nhiên, nghiên
cứu quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong tiến trình toàn cầu hoá
cũng đặt ra nhiều thách thức trong bảo vệ an toàn, trật tự xã hội ở Việt Nam.
Không có sự ổn định an ninh khu vực (an ninh thế giới) sẽ tác động trực tiếp đến
an ninh của mỗi quốc gia. Ngược lại, an ninh của mỗi quốc gia lại ảnh hưởng
trực tiếp đến an ninh khu vực, tác động mạnh quá trình hội nhập của một quốc
41
gia với các nước xung quanh. Sự phối hợp trong tổ chức đấu tranh tội phạm giữa
cơ quan công an các nước trong khu vực và trên thế giới là hết sức cần thiết để
đảm bảo an ninh khu vực, an ninh toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo nên
những điều kiện thuận lợi khác để những tiêu cực xã hội khác phát triển như các
loại tội phạm có tính chất quốc tế; buôn bán vận chuyển trái phép các chất ma
tuý giữa các nước trong khu vực và trên thế giới; tẩy rửa đồng tiền phi pháp; lừa
đảo, mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới; bảo kê, đâm chém thuê, mê tín dị
đoan, tuyên truyền tà giáo trái phép, lây lan các dịch bệnh nguy hiểm như HIV,
AIDS và các tệ nạn xã hội khác. Đây là những vấn đề hết sức phức tạp sự hợp
tác giữa các nước tham gia hội nhập phải phối hợp cùng giải quyết. Gần đây, tình
hình quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường. Chiến tranh, bạo
lực, đảo chính, khủng bố, dịch bệnh đang bùng phát, hoành hành.
Trình độ phát triển khoa học công nghệ cũng là một trong những yếu tố tác
động trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật bảo đảm TTATXH của các nhóm chủ
thể. Trước đây khi công nghệ, kỹ thuật chưa cao, máy tính và mạng Internet chưa
phát triển, tội phạm sử dụng công nghệ cao chưa xuất hiện. Ngày nay cùng với sự
phát triển của công nghệ, các loại tội phạm công nghệ cao liên quan đến việc sử
dụng máy tính, thiết bị số, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông để gây tổn
hại cho lợi ích của các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội ngày càng gia tăng, việc
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng chống tội phạm đã có nhiều thay đổi.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ và quá trình hội nhập quốc tế đang
tạo ra những thay đổi trong tư duy và phương pháp tổ chức quản lý trên quy
mô toàn xã hội. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong quản lý
hành chính giúp thu hẹp khoảng cách không gian, rút ngắn thời gian, giảm chi
phí thực tế và nhờ vậy trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý,
điều hành (ví dụ: ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng tiêu chuẩn ISOtrong
hoạt động QLNN trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở tất cả các cấp chính quyền).
Quá trình hội nhập quốc tế càng đẩy nhanh thì áp lực về quá trình hiện đại hóa
42
nền hành chính, cũng như đòi hỏi về việc nâng cao năng lực, trình độ của đội
ngũ cán bộ, công chức ngày càng gia tăng. Hiện nay, các cơ quan Bộ, ban,
ngành đang đẩy mạnh xây dựng các dịch vụ công ở mức độ 3, mức độ 4, xây
dựng Chính phủ điện tử.
Tiểu kết chương 1
Tại chương 1, tác giả đã nghiên cứu, làm rõ những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống hoá, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến đề
tài là trật tự, an toàn xã hội, quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về trật tự,
an toàn xã hội, nêu được sự cần thiết phải QLNN về TTATXH.
Thứ hai, nêu lên các lĩnh vực bảo đảm TTATXH gồm:Đấu tranh phòng,
chống tội phạm, giữ gìn trật tự nơi công cộng, đảm bảo trật tự an toàn, giao
thông, phòng ngừa tai nạn lao động, chống thiên tai, phòng ngừa dịch bệnh,
phòng chống các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường.
Thứ ba, nêu đặc điểm của hoạt động QLNN về TTATXH: mang tính
quyền lực mệnh lệnh đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương
của Nhà nước, tính hành chính, pháp chế; tính dân chủ, tính quốc tế, tính chủ
động, sáng tạo. Đặc biệt, ANQG và TTATXH ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt
đời sống xã hội, đến hoạt động bình thường của mọi tổ chức chính trị, kinh tế,
văn hoá trong một quốc gia, tác động đến đời sống của mọi gia đình, mọi cá
nhân trong xã hội; không có sự cách biệt về mặt xã hội giữa người quản lý và
người bị quản lý.
Thứ tư, nêu được nội dung, chủ thể cũng như đối tượng QLNN về
TTATXH. Đồng thời khẳng định trong quản quản lý nhà nước về trật tự, an
toàn xã hội cần phải tuân theo các nguyên tắc nhất định, chỉ ra những nội dung
cơ bản của quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội và phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động QLNN về TTATXH.
Những kết quả nghiên cứu Chương 1 là cơ sở quan trọng cho việc triển
khai những nội dung tiếp theo của đề tài luận văn
43
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ
HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Một số đặc điểm tình hình về kinh tế, văn hóa xã hội quận Hà Đông
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Quận Hà Đông được thành lập trên cơ sở thành phố Hà Đông - là đô thị
trực thuộc tỉnh Hà Tây cũ trước đây và nay là quận nội thành phía Tây Nam (là
quận lớn thứ hai về diện tích của thủ đô Hà Nội sau quận Long Biên), có tọa độ
địa lý là 20059' vĩ độ Bắc, 105045' kinh độ Đông, nằm dọc theo Quốc lộ 6 từ
Hà Nội đi Hòa Bình và trên ngã ba Sông Nhuệ, sông Đáy, kênh La Khê, cách
trung tâm Hà Nội 10km về phía Tây, Tây Nam và là cửa ngõ Tây Nam của Thủ
đô Hà Nội.
Vị trí tiếp giáp của quận Hà Đông trong bản đồ quy hoạch quận Hà Đông
như sau: Phía Đông: tiếp giáp với quận Thanh Xuân và huyện Thanh Trì. Phía
Tây: Quận giáp với huyện Chương Mỹ và huyện Quốc Oai qua ranh giới là
sông Đáy. Phía Nam: Quận Hà Đông tiếp giáp với huyện Thanh Oai. Phía
Bắc: Quận tiếp giáp với quận Nam Từ Liêm và huyện Hoài Đức.
Hà Đông là nơi đặt trụ sở một số cơ quan hành chính cấp thành phố của
Thủ đô Hà Nội. Quận Hà Đông có thể nói là một nơi nhận được rất nhiều lợi
thế từ dự án mở rộng Hà Nội. Hàng loạt các công trình giao thông được xây
dựng và dự kiến xây dựng như vành đai 3, vành đai 4, cao tốc Lê Trọng Tấn,
đường Lê Văn Lương nối dài, tàu cao tốc trên cao và công viên văn hóa thể
thao 100 ha.
Về hành chính, Hà Đông có 17 phường: Quang Trung, Nguyễn Trãi, Hà
Cầu, Vạn Phúc, Phúc La, Yết Kiêu, Mỗ Lao, Văn Quán, La Khê, Phú La, Kiến
Hưng, Yên Nghĩa, Phú Lương, Phú Lãm, Dương Nội, Biên Giang, Đồng Mai.
Hà Đông là đầu mối của nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi các tỉnh
44
phía Tây Bắc: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, có vị trí chiến lược về chính trị,
kinh tế và quân sự.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân số của quận Hà Đông có những biến đổi do quá trình đô thị hóa, mở
rộng và thay đổi địa giới hành chính. Theo kết quả Tổng điều tra, tổng số hộ
trên địa bàn quận tại thời điểm 01/4/2019 là 106.023 hộ; tỷ lệ tăng hộ bình quân
giai đoạn 2009-2019 là 5,70%. Tổng dân số toàn quận vào 0 giờ ngày 01/4/2019
là 388.907 người, trong đó nam là 192.230 người, nữ là 196.677 người. Quận
Hà Đông là quận đông dân thứ 3/30 quận, huyện của thành phố Hà Nội (sau
các quận, huyện: Hoàng Mai, Đông Anh)[51].Quy mô dân số theo cơ cấu tổ
chức hành chính quận Hà Đông được thể hiện trong Phụ lục 1.
Quận Hà Đông có cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực,
phù hợp với xu hướng phát triển của địa phương; năm 2020 tỷ trọng ngành Công
nghiệp - xây dựng 51,58%, ngành thương mại - dịch vụ - du lịch 48,37%, ngành
nông nghiệp 0,05%. Trong 5 năm từ 2016 đến năm 2020, tổng thu ngân sách nhà
nước đạt 20.478 tỷ đồng, trong đó thu vượt dự toán Thành phố giao 3.328, 511
tỷ đồng (tăng 19% so với dự toán), thu ngân sách nhà nước năm 2019 đạt
5.514,957 tỷ đồng, tăng gấp 2,62 lần so với năm 2015 [51].
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã bị giảm nhiều, quá trình đô thị hóa
cùng lạm phát cao đã tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh nhất
là ngành thương mại, du lịch, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế
năm 2019. Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị, đất đai được quan
tâm đẩy mạnh. Giáo dục đào tạo luôn duy trì chất lượng ở tốp đầu của Thành
phố. Văn hóa thông tin - truyền thanh kịp thời, đầy đủ, phục vụ các nhiệm vụ
kinh tế, chính trị văn hóa, xã hội. Phong trào thể dục thể thao ngày càng phát
triển. Công tác y tế - dân số được đảm bảo. Vấn đề việc làm và chính sách an
sinh, phúc lợi xã hội được thực hiện tốt, đến hết năm 2019, quận Hà Đông
không còn hộ nghèo.
45
Công tác cải cách hành chính, xây dựng chính quyền, tiếp công dân, giải
quyết đơn thư, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm luôn được coi là
nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện của Quận. An ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được giữ vững; công tác quốc phòng, quân sự địa phương được
thực hiện tốt. Làm tốt công tác quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng và đô thị;
tăng cường quản lý bảo vệ môi trường. Hà Đông có hơn 200 di tích lịch sử-văn
hóa, trong đó có 83 di tích đã được xếp hạng, 47 lễ hội truyền thống. Các làng
nghề truyền thống, di tích lịch sử, văn hóa tại Hà Đông: Làng lụa Vạn Phúc,
Làng rèn Đa Sỹ, Làng dệt La Khê, Chùa Mậu Lương, Bia Bà, Chùa Diên Khánh.
2.1.3. Những tác động tới hoạt động quản lý nhà nước về trật tự an toàn
xã hội
2.1.3.1. Những tác động tích cực
Điều kiện kinh tế chủ yếu tại quận Hà Đông là phi nông nghiệp, khu vực
công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao, phát triển thành các trung tâm
thương mại, tài chính và các dịch vụ khoa học, đào tạo nguồn nhân lực. Quận
Hà Đông có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội phát triển, hệ thống mạng lưới
bệnh viện, trường học được bao phủ trên địa bàn quận. Mức sống của người
dân trên địa bàn cũng cao hơn nông thôn, tiếp cận các dịch vụ công, an sinh xã
hội tốt hơn.
Do tập trung về chính trị - hành chính, có lợi thế về địa lý - tự nhiên và hệ
thống hạ tầng hiện đại, các ngành nghề sản xuất và dịch vụ phát triển, nên quận
Hà Đông thu hút dân số và nguồn nhân lực có trình độ văn hóa và chất lượng
cao. Đây là điểm thuận lợi đối với công tác QLNN về TTATXH do người dân
có sự hiểu biết, có kiến thức về pháp luật, chấp hành pháp luật ở mức cao.
2.1.3.2. Những tác động tiêu cực
Với các làng nghề truyền thống, di tích lịch sử, văn hóa như Làng lụa Vạn
Phúc, Làng rèn Đa Sỹ, Bia Bà …. tạo ra sức hấp dẫn đối với du khách trong và
ngoài nước. Đây là những thuận lợi để quận Hà Đông khai thác, phát triển tiềm
46
năng du lịch, tuy nhiên cũng đặt ra yêu cầu, tiềm ẩn nhiều phức tạp đối với công
tác QLNN về TTATXH trong đảm bảo trật tự công cộng, quản lý người nước
ngoài, các cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhất là các khu du lịch, lễ hội.
Quận Hà Đông là một trong những quận tập trung dân cư, mật độ dân số cao,
có tỷ lệ dân nhập cư cao gồm nhiều thành phần có phong tục, tập quán, lối sống
khác nhau, tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội đa dạng. Đây là điểm đáng chú
ý đối với công tác đảm bảo TTATXH, đặc biệt là công tác quản lý cư trú.
Quận Hà Đông đang chịu áp lực mạnh mẽ của sự gia tăng dân số, quá trình
đô thị hóa nhanh, quá “nóng”, các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là các
khu dân cư, đô thị và hoạt động của các cơ sở dịch vụ thương mại... Sự gia tăng
dân số, sự phát triển nhanh của đô thị làm tình hình an ninh trật tự, an toàn xã
hội ngày càng phức tạp. Điều này đặt ra nhiệm vụ cần có giải pháp để nâng cao
công tác đảm bảo TTATXH và hoàn thiện hoạt động QLNN về TTATXH trên
địa bàn quận Hà Đông. Bên cạnh đó, do tình hình dịch bệnh Covid, thời gian
giãn cách xã hội nhiều, ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động kinh tế, đặc biệt
là ngành du lịch, lĩnh vực dịch vụ giảm sút mạnh, khiến nhiều lao động phải
ngừng việc. Điều này cũng gây ra những tác động nhất định đến công tác QLNN
về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông.
2.2. Thực trạng về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội
Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà Đông về cơ bản được
giữ vững. Tuy nhiên, tội phạm về kinh tế với các phương thức tinh vi, xảo
quyệt, nhiều thủ đoạn mới vẫn còn tồn tại.Các hành vi vận chuyển và kinh
doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng vẫn tiềm ẩn phức tạp. Các vi
phạm trốn thuế vẫn tiếp tục xảy ra. Việc kinh doanh, quảng cáo, khuyến mại
qua mạng diễn ra phức tạp, khó kiểm soát tiềm ẩn tội phạm lợi dụng phạm tội.
Hoạt động lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vẫn xảy ra, thủ đoạn
không mới như sử dụng thẻ tín dụng giả, giả mạo chức danh, giấy tờ, giả mạo
47
người thân, lập website giả dạng khách hàng yêu cầu nhập vào đường link giả,
lừa đảo chuyển tiền qua mạng xã hội, giả danh nhân viên ngân hàng yêu cầu
cung cấp mã OTP để chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ra, xuất hiện nhiều loại ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh
dịch vụ như karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, nhà cho thuê, nhà trọ bình dân; nhiều
đối tượng tỉnh ngoài về địa bàn tạm trú hoạt động phạm tội. Mặc dù do ảnh
hưởng của dịch Covid-19 các cơ sở kinh doanh có điều kiện về ANTT bị yêu
cầu dừng hoạt động nhưng một số cơ sở kinh doanh vẫn lén lút hoạt động và
để các đối tượng tổ chức chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy. Việc vay nợ
không có khả năng thanh toán hình thành loại tội phạm mới có tính chất côn
đồ, sử dụng hung khí theo kiểu xã hội đen thanh toán lẫn nhau, đòi nợ thuê, đổ
chất bẩn, chất thải, nhắn tin đe dọa.
Do quận Hà Đông là địa bàn giáp ranh giữa đô thị với nông thôn, giáp ranh
với những địa bàn phức tạp về tệ nạn xã hội (Thanh Xuân, Thanh Oai, Thanh Trì,
Chương Mỹ); là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội nên tình hình tệ nạn xã hội trên địa
bàn những năm gần đây diễn biến hết sức phức tạp.Tệ nạn xã hội được ngăn chặn,
không hình thành các tụ điểm phức tạp, các sới bạc lớn gây nhức nhối, ảnh hưởng
đến tình hình ANTT. Tuy nhiên, tệ nạn cờ bạc hoạt động nhỏ lẻ, lợi dụng lễ hội,
đình đám vào dịp lễ Tết vẫn phổ biến. Bên cạnh các loại hình cờ bạc truyền thống
tình trạng cờ bạc cá độ bóng đá qua Internet có nhiều phức tạp, thu hút nhiều người
tham gia. Đối tượng lợi dụng công nghệ cao với máy chủ đặt tại nước ngoài để
hoạt động gây khó khăn cho công tác phát hiện, triệt phá.
Đại dịch COVID-19 làm xuất hiện nhiều biến tướng trong hoạt động mại
dâm, sử dụng ma túy, làm tăng nguy cơ phụ nữ, trẻ em bị lừa gạt mua bán và
đưa trái phép ra nước ngoài trong thời gian thực hiện các biện pháp giãn cách
xã hội, tạm thời đóng cửa các cơ sở kinh doanh, dịch vụ (nhà hàng, quán bar,
vũ trường, karaoke, massage), tình hình mại dâm trá hình trong các cơ sở kinh
doanh dịch vụ có xu hướng giảm. Tuy nhiên, tại nhiều địa bàn, hoạt động mại
48
dâm được chuyển sang hoạt động kín đáo dưới hình thức chào gọi, môi giới
khách mua dâm qua giao dịch qua mạng xã hội (zalo, facebook, …). Một số cơ
sở kinh doanh có điều kiện, nhạy cảm phức tạp về ANTT thường là những nơi
bị lợi dụng để hoạt động mại dâm trá hình.
Hệ thống giao thông trên địa bàn quận Hà Đông chủ yếu là giao thông
đường bộ (có 3 tuyến đường quốc lộ: Quốc lộ 6, đường 21B, đường 70B; có 02
đường vành đai, có 63 tuyến phố đường nội thị). Do lượng phương tiện tham gia
giao thông tăng mạnh trong khi cơ sở hạ tầng chưa được cải tạo, phát triển kịp
thời nên vào giờ cao điểm, tại các nút giao thông nhìn chung đều quá tải. Ngoài
ra, quận Hà Đông còn có hệ thống giao thông đường thủy: có 02 con sông chảy
qua quận Hà Đông là sông Nhuệ và sông Đáy. Do các tuyến sông trên địa bàn
đều là những khu vực nhỏ hẹp nên không có các phương tiện đi qua tuyến đường
thủy này.Hệ thống mạng lưới giao thông đường sắt: có 2 tuyến chạy qua là tuyến
đường sắt Hà Nội - Lào Cai và tuyến đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông.
Tình trạng tai nạn giao thông, va chạm giao thông vẫn thường xuyên xảy
ra, thậm chí vẫn có vụ tai nạn, gây ra tử vong. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tai nạn giao thông là do ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa cao,
hiểu biết pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm thể hiện cụ thể ở các hành vi như
uống rượu, bia vẫn tham gia giao thông, chạy quá tốc độ quy định, không mũ
bảo hiểm, không giấy phép lái xe,...Bên cạnh đó, lưu lượng người tham gia giao
thông ngày càng tăng nhưng kinh phí đầu tư cho xây dựng, nâng cấp các tuyến
đường còn hạn chế; tình trạng xây dựng nhà, nhà tạm buôn bán lấn chiếm hành
lang an toàn giao thông tại một số chợ còn diễn ra thường xuyên chưa có biện
pháp xử lý hiệu quả.
Phụ huynh giao xe máy cho học sinh điều khiển khi học sinh chưa đủ tuổi
và chưa có giấy phép lái xe; số học sinh không đội mũ bảo hiểm và cài quai
đúng quy định khi ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện khi tham gia
giao thông; không chấp hành tín hiệu đèn giao thông còn khá phổ biến.Nhiều
49
hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về TTATGT vẫn xảy ra nhưng chưa
có biện pháp ngăn chặn hiệu quả, như: Vi phạm quy định tốc độ, đi sai phần
đường; người điều khiển mô tô, xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm, lạng lách
đánh võng, không chú ý quan sát; sử dụng lòng, lề đường làm dịch vụ, đậu đỗ
xe trái quy định và cũng là những nguyên nhân chính gây tai nạn giao thông.
Nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật giao thông của một bộ phận người dân
chưa cao; hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật về TTATGT ở một số địa
phương chưa tạo được sức lan tỏa sâu rộng; một bộ phận lái xe và người dân
còn lơ là, thiếu trách nhiệm với bản thân và cộng đồng khi tham gia giao thông.
Tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè, hành lang an toàn giao thông vẫn
diễn ra, nhất là việc dựng rạp tổ chức đám cưới trên các tuyến giao thông ở một
số địa phương chưa được xử lý dứt điểm. Xe ô tô chở hàng hóa quá tải trọng
vẫn lén lút hoạt động trên các tuyến giao thông, làm hư hỏng kết cấu hạ tầng
giao thông.Tình trạng chiếm dụng hè phố, lòng đường để kinh doanh buôn bán,
các điểm trông giữ phương tiện không phép, các điểm kinh doanh hoạt động
sau 24h, tình trạng biển quảng cáo, mái che lấn chiếm lòng đường, vỉa hè gây
mất mỹ quan đô thị đã được nhắc nhở, kiên quyết thu giữ, xử lý. Tình trạng chợ
xanh, chợ cóc vẫn còn tồn tại. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra cháy,
nổ. Trên địa bàn quận có gần 7000 nhà ở [19] có kết hợp kinh doanh mặt tiền
thường bị bịt kín, không có lối thoát nạn, tiềm ẩn nguy cơ cao về cháy nổ, nhận
thức và ý thức của người đứng đầu đơn vị, cơ sở về công tác PCCC còn hạn
chế, và những bất cập, khó khăn do ùn tắc giao thông, nhiều ngõ sâu, chật hẹp
không có đường cho xe chữa cháy hoạt động, nguồn nước chữa cháy thiếu, ao
hồ bị san sấp ảnh hưởng đến công tác này.
Hiện nay trên địa bàn quận Hà Đông có nhiều tòa nhà cao tầng, với hệ
thống các trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy vẫn chưa đảm bảo, tiềm ẩn hỏa
hoạn. Ghi nhận ở các tòa nhà chung cư ở Hà Đông, có khá nhiều thành phần
sinh sống và làm việc. Ngoài các hộ là chủ sở hữu các căn hộ còn có các doanh
50
nghiệp, cơ sở làm dịch vụ ăn uống, chữa bệnh, thương mại, người thuê nhà,
người làm dịch vụ dọn nhà, trông trẻ. Các hộ là chủ nhà về cơ bản đã có ý thức,
nhưng đối với những người thuê nhà, đến làm dịch vụ ban ngày phần lớn thiếu
ý thức về phòng cháy, chữa cháy.Pháp luật về PCCC đã quy định khá đầy đủ
trách nhiệm của chủ đầu tư công trình xây dựng, từ khi lập quy hoạch, thiết kế,
thi công và sau khi hoàn thiện, đưa công trình xây dựng vào vận hành, sử dụng.
Tuy nhiên, vẫn có không ít chủ đầu tư vô tình hoặc cố tình vi phạm,ý thức chấp
hành pháp luật của các chủ đầu tư, các đơn vị sản xuất, kinh doanh thiết bị
PCCC và cả người dân sống, làm việc trong các công trình xây dựng, các tòa
nhà cao tầng. Theo đó, nhiều chủ đầu tư chưa tuân thủ an toàn PCCC; kiến
thức, năng lực, kĩ năng xử lý của người dân còn kém. Việc này có thể gây ra
những hậu quả nghiêm trọng khi vụ cháy không được xử lý kịp thời.Tình trạng
vi phạm Luật An toàn thực phẩm và các quy định liên quan về vệ sinh an toàn
thực phẩm ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng tăng lên đáng kể (năm 2021
là 355 vụ, tăng 80 vụ = 29% so với năm 2020).
Do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19, nhiều hoạt động kinh doanh, xây
dựng bị đình trệ nên công tác chấp hành quy định liên quan đến thủ tục bảo vệ
môi trường chưa nghiêm túc, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường như
xả chất thải chưa qua xử lý, vận chuyển chất thải xây dựng, phế liệu không che
chắn, đổ trộm chất thải vẫn tái diễn, không đúng nơi quy định, đặc biệt là tại
các phường giáp ranh với các quận, huyện khác. Một số lái xe vận chuyển và
đổ trộm phế thải xây dựng có biểu hiện chống đối lực lượng kiểm tra nên thường
xuyên thay đổi thời gian vận chuyển hoặc bỏ lại phương tiện trốn chạy khi bị
kiểm tra.
Công tác quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện còn tiềm ẩn nhiều
phức tạp, mặc dù đã được xử lý song nhiều cơ sở kinh doanh không phép vẫn
hoạt động lén lút do các cơ sở đã được đầu tư kinh phí lớn nhưng chưa làm hồ
sơ về phòng cháy, chữa cháy. Công tác quản lý VK, VLN, CCHT còn nhiều
51
khó khăn. Số VK, VLN, CCHT còn tàng trữ trong dân chưa được phát hiện còn
tiềm ẩn nguy cơ sử dụng để gây án, nhất là án cố ý gây thương tích, gây rối
TTCC.Tốc độ đô thị hóa nhanh làm gia tăng dân số cơ học, khó khăn trong
công tác kiểm tra nhân khẩu tạm trú tại các chung cư cao tầng, khách sạn, nhà
trọ, nhà nghỉ, là điều kiện để tội phạm ngoài địa bàn lợi dụng trà trộn, lẩn trốn
hoạt động phạm tội.
2.3. Thực trạng các hoạt độngquản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Thời gian qua, khắc phục những khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19, Công an quận Hà Đông đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan, đoàn thể
và 17 phường trên địa bàn triển khai quyết liệt, có hiệu quả các biện pháp,
chương trình, mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch đề ra; tiếp tục giữ vững ổn định
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Công an quận đã bám sát các nội chương trình công tác đề ra, chủ động
nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cấp ủy chính quyền giải quyết tốt những
vấn đề phức liên quan đến ANTT ngay tại cơ sở, đảm bảo tuyệt đối an ninh, an
toàn Đại hội Đảng các cấp và các sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trên địa
bàn. Công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm được thực hiện quyết liệt, hiệu
quả, mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, góp phần kiềm chế, đẩy
lùi các loại tội phạm, tệ nạn; tỷ lệ điều tra, khám phá các vụ án được nâng cao.
Công tác quản lý nhà nước về ANTT được tăng cường, đảm bảo TTATGT;
công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ được đẩy mạnh, duy trì
hiệu quả nhiều mô hình tự phòng, tự quản phục vụ tốt công tác phòng ngừa,
đấu tranh, phòng chống tội phạm.
2.3.1. Thực trạng việc xây dựng các chương trình, kế hoạch về bảo đảm
trật tự an toàn xã hội
Qua thực tiễn QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội, lực lượng Công an quận Hà Đông đã tham mưu cho Quận uỷ, UBND
52
quận và phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức quán triệt và
thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của Nhà
nước và của Bộ Công an về đảm bảo ANTT; trọng tâm là Chỉ thị số 48-CT/TW
ngày 22/10/2010 của Bộ Chính tị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Nghị quyết số 28/NQ
ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về “Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Kết luận số 86/KL-TW ngày 05/11/2010 của
Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14/10/2006 của
Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo
an ninh quốc gia trong tình hình mới”…và các Đề án thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm, gắn với các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Công an quận Hà Đông, các cơ quan phối hợp đã tham mưu ban hành các
chương trình, chỉ thị, chuyên đề về công tác QLNN về TTATXH, điển hình:
UBND quận đã yêu cầu các đơn vị, UBND các phường quán triệt, thực
hiện nghiêm túc Nghị định 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng
pháo, Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; Quận ủy ban
hành Chỉ thị số 26-CT/QU ngày 9/1/2020 về tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy đảng đối với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH và xây dựng
lực lượng Công an quận Hà Đông năm 2020; kế hoạch số 05/KH-UBND ngày
13/1/2020 thực hiện Chỉ thị số 26-CT/QU ngày 9/1/2020 về tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp ủy đảng đối với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH
và xây dựng lực lượng Công an quận Hà Đông năm 2020, Quận ủy ban hành
Chỉ thị số 02-CT/QU ngày 09/12/2020 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
ủy đảng đối với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH và xây dựng lực
lượng Công an quận Hà Đông năm 2021; kế hoạch số 91/KH-UBND ngày
14/12/2020 thực hiện Chỉ thị số 02-CT/QU ngày 09/12/2020 về tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn
53
TTATXH và xây dựng lực lượng Công an quận Hà Đông năm 2021, Quận ủy
ban hành Chỉ thị số 11-CT/QU ngày 31/12/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp ủy đảng đối với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH và xây
dựng lực lượng Công an quận Hà Đông năm 2022; kế hoạch số 04/KH-UBND
ngày 04/1/2022 thực hiện Chỉ thị số 11-CT/QU ngày 31/12/2021 về tăng cường
sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn
TTATXH và xây dựng lực lượng Công an quận Hà Đông năm 2022. Tham mưu
xây dựng kế hoạch số 38/KH-CAHĐ(CSGT) ngày 10/3/2019 về tổ chức tuyên
truyền pháp luật TTATGT năm 2019, kế hoạch số 66/KH-CAHĐ(CSGT) ngày
09/4/2019 về tuyên truyền việc chấp hành đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao
thông tại các trường học trên địa bàn, kế hoạch số 109/KH-BCĐ197 ngày
26/3/2019 về tăng cường đôn đốc, kiểm tra, xử lý giải quyết vi phạm về
TTATGT, trật tự đô thị, TTCC, vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ trên
địa bàn quận Hà Đông.
Xây dựng và triển khai thực hiện 416chương trình, kế hoạch, phương án
(năm 2019: 69 chương trình, kế hoạch, phương án; năm 2020: 230; năm 2021:
334), đảm bảo ANTT đối với các hoạt động xã hội - văn hóa- thể thao, các sự kiện
chính trị trên địa bàn, điển hình như đảm bảo tuyệt đối an toàn Hội nghị thượng
đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ 2; các hoạt động của đại lễ Vesak LHQ 2019 trên
địa bàn quận, đảm bảo ANTT kỳ họp thứ 8 QH khóa XIV, Đại hội Đảng các cấp
trên địa bàn, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các dịp Tết Nguyên
đán, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-
2026, tăng cường các biện pháp chống dịch, đảm bảo mục tiêu kép “vừa đảm bảo
ANTT, vừa phòng, chống dịch Covid -19”,… [19, 20, 21].
Các chương trình, kế hoạch, phương án đã được xây dựng một cách khoa
học, chi tiết, cụ thể, đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể của từng lực lượng
tham gia. Trên cơ sở các kế hoạch, phương án đã được xây dựng khi triển khai
không xảy ra tình trạng chồng chéo, trùng dẫm nhiệm vụ và trách nhiệm của
54
các lực lượng tham gia, đã đảm bảo cơ bản các yêu cầu công tác về đảm bảo
TTATXH trong công tác quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, công tác tham mưu
ban hành văn bản phục vụ QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông vẫn
còn chạy theo sự vụ, chưa có những chương trình, kế hoạch mang tầm vĩ mô,
chiến lược và có dự báo sát hợp, đón trước tình hình.
2.3.2. Thực trạng về thể chế, chính sách về trật tự an toàn xã hội
Bộ Công an đã tham mưu xây dựng một số bộ luật cơ bản liên quan đến
công tác Công an nói chung, công tác bảo đảm TTATXH nói riêng như Luật
Công an nhân dân; Luật an ninh quốc gia; Luật cư trú; Luật phòng cháy và chữa
cháy; Luật phòng, chống ma tuý; Luật phòng, chống tham nhũng; Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự… Đặc biệt tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ
ban hành 4 chương trình quốc gia liên quan đến công tác đấu tranh bảo đảm
TTATXH. Đó là:
- Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ban hành theo Nghị quyết số
09-1998/NQ-CP về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
- Chương trình quốc gia phòng, chống ma túy, ban hành theo Quyết định
số 156-2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ.
- Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ trẻ em,
ban hành theo Quyết định số 130-2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004của Thủ tướng
chính phủ.
- Chương trình phòng, chống tham nhũng, ban hành theo Nghị quyết số
14/NQ-TW ngày 15/5/1996 về quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp để đấu
tranh chống tham nhũng của Bộ Chính trị.
Ngày 16/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2018/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật quản lý, sử dụng VK,
VLN,CCHT. Ngày 27/11/2020, Chính phủ ban hành Nghị định 137/2020/NĐ-
CP thay thế Nghị định 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ về quản
lý và sử dụng pháo. Nghị định số 137/2020/NĐ-CP đã quy định một số điểm
mới phù hợp với tình hình thực tế trong công tác QLNN và đấu tranh phòng,
55
chống hành vi vi phạm về pháo nổ và pháo hoa. Điều 260, Bộ luật Hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nghị định 100/NĐ-CP ngày 30/2/2019 của Chính
phủquy định về xử phạt sai phạm liên quan tới giao thông đường bộ.Nghị định
144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Tại Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và
định hướng đến 2030 đã phê duyệt về nguyên tắc 15 đề án chiến lược. Cụ thể:
Đề án 1: Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện,
tố giác tội phạm; cảm hóa giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng
đồng dân cư. Cơ quan chủ trì: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đề án 2: Phòng, chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc
gia. Cơ quan chủ trì: Bộ Công an.
Đề án 3: Chuyển hóa địa bàn trọng điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã
hội. Cơ quan chủ trì: Bộ Công an.
Đề án 4: Tăng cường hiện đại hóa, nâng cao năng lực cho các lực lượng
Điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự và lực lượng trinh sát. Cơ quan chủ
trì: Bộ Công an.
Đề án 5: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tội
phạm. Cơ quan chủ trì: Bộ Công an.
Đề án 6: Tăng cường hiệu quả công tác phối hợp phòng, chống tội phạm
ở khu vực biên giới, trên biển. Cơ quan chủ trì: Bộ Quốc phòng.
Đề án 7: Phòng, chống vi phạm pháp luật và phối hợp phòng, chống tội
phạm trong các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hóa; hành vi chuyển giá, trốn thuế của các doanh nghiệp. Cơ quan chủ trì: Bộ
Tài chính.
Đề án 8: Phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả tại các
địa bàn, lĩnh vực trọng điểm. Cơ quan chủ trì: Bộ Công Thương.
56
Đề án 9: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực xây dựng cơ bản. Cơ quan chủ trì: Bộ Xây dựng.
Đề án 10: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong
huy động, sử dụng các nguồn vốn thuộc lĩnh vực giao thông vận tải. Cơ quan
chủ trì: Bộ Giao thông vận tải.
Đề án 11: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong
học sinh, sinh viên. Cơ quan chủ trì: Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đề án 13: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực ngân hàng và vấn đề “sở hữu chéo”. Cơ quan chủ trì: Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
Đề án 14: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong
hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch. Cơ quan chủ trì: Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch.
Đề án 15: Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật tại
các cơ sở y tế. Cơ quan chủ trì: Bộ Y tế.
Trong thực tiễn hoạt động QLNN về TTATXH cho thấy, hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật dù đã thường xuyên được bổ sung, chỉnh sửa nhưng
còn thiếu đồng bộ, bất cập, thiếu sót hoặc chưaphù hợp với thực tiễn. Việc
nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực QLNN về TTATXH là cần thiết và quan trọng, nhằm đánh giá thực trạng,
hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quản lý, thực thi pháp luật về TTATXH,
kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về công
tác QLNN về TTATXH, tạo ra sự chuyển biến tích cực, hạn chế các vụ việc
TTATXH nổi cộm, phức tạp kéo dài.
Tại khoản 2 Điều 7 về vi phạm quy định về trật tự công cộng trong Nghị
định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã
hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đìnhquy
57
định mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Nhận thấy, mức xử
phạt này còn thấp, chưa đảm bảo tính răn đe đối với các hành vi vi phạm.
Nghị định số 36/2008/NĐ-CP ngày 28/3/2008 của Chính phủ về quản lý
tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ cần xem xét, sửa đổi, quy
định chặt chẽ hơn trong việc cấp phép cho phù hợp với thực tiễn. Xuất phát từ
thực tiễn một số vụ việc đã xảy ra thời gian qua gây mất an ninh, an toàn hoạt
động bay và nguy cơ gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội do tàu bay không
người lái và tàu bay siêu nhẹ gây ra (lợi dụng tàu bay không người lái, phương
tiện bay siêu nhẹ tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, quay phim, chụp
ảnh khu vực bảo vệ, khu vực cấm nhằm thu thập bí mật nhà nước hoặc can
thiệp bất hợp pháp vào công trình hàng không dân dụng, uy hiếp an ninh, an
toàn hoạt động bay, …).
Hệ thống Luật pháp về đảm bảo TTATGT vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu
phù hợp và tính pháp lý vẫn chưa cao, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà
nước và thể hiện sự lúng túng, bị động trước thực tế diễn ra. Chất lượng một số
văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, chưa sát với thực tế, tính ổn định, dự
báo không cao, phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Quy tắc giao thông chủ yếu là
nội luật hóa Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ nhưng việc cụ
thể hóa các quy định của Công ước này trong Luật Giao thông đường bộ năm
2008 chưa rõ, chưa đầy đủ và sát thực tiễn tình hình giao thông tại Việt Nam,
như: quy định về sử dụng làn đường, dừng, đỗ xe trên đường phố, chuyển
hướng, vượt xe, nhường đường tại nơi đường giao nhau, sử dụng đèn tín hiệu...
dẫn đến khó khăn trong nhận thức và thực thi pháp luật. Không quy định đầy
đủ, cụ thể về các chế định bảo đảm trật tự, an toàn giao thông liên quan cần bổ
sung, như: Giải quyết tai nạn giao thông; tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao
thông, giải quyết ùn tắc giao thông, giải quyết các vấn đề an ninh trật tự, sự
kiện trên các tuyến giao thông; cưỡng chế chấp hành pháp luật về
TTATGT...Việc quản lý người lái xe chưa gắn với quản lý vi phạm của người
58
tham gia giao thông. Trong nhiều vụ tai nạn giao thông, trách nhiệm chủ yếu
thuộc về người lái xe gây tai nạn mà chưa gắn trách nhiệm của các cơ quan đào
tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.
Việc cấp phép cho các cơ sở kinh doanh có điều kiện vẫn còn lỏng lẻo,
đặc biệt là các cơ sở kinh doanh karaoke. Các văn bản quy phạm pháp luật về
PCCC&CNCH cần siết chặt việc cấp phép cho các đơn vị kinh doanh, thi công,
cung cấp thiết bị PCCC, cần sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới các quy định
nhằm hoàn thiện khung khổ pháp luật điều chỉnh lĩnh vực PCCC&CNCH nói
chung, với các công trình xây dựng, công trình cao tầng nói riêng. Cụ thể, cần
quy định chặt chẽ hơn về bảo hiểm PCCC bắt buộc; đơn vị PCCC cần được quy
hoạch phù hợp hơn. Bên cạnh đó, có thể nghiên cứu dân sự hóa lực lượng PCCC,
phương tiện PCCC. Đặc biệt, cần xây dựng Thông tư liên tịch giữa các bộ ban
ngành với nhau để nâng cao sự liên kết quy định về PCCC.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, chế tài
chưa đủ mạnh để răn đe; cơ sở pháp lý bảo đảm cho hoạt động của các lực
lượng chuyên trách.Vụ án về môi trường thường liên quan đến nhiều tội danh
khác nhau như tội danh về buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hối lộ, tham nhũng
nên phần tội danh về môi trường thường bị xem nhẹ, chưa kiên quyết tập trung
điều tra, xử lý. Hậu quả của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về môi
trường phần lớn không xảy ra ngay mà tích lũy theo thời gian, do vậy trong
hoạt động điều tra không xác định rõ tính chất, mức độ nguy hiểm, không đánh
giá đầy đủ thiệt hại gây ra nên thường chỉ xử lý bằng các biện pháp nhẹ (xử lý
hành chính, cảnh cáo, nhắc nhở) không đủ mức độ răn đe và phòng ngừa tái
phạm. Các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực an ninh
trật tự về quản lý các hoạt động liên quan tập trung đông người, biểu tình, tuần
hành gây rối an ninh trật tự chưa được chặt chẽ, chưa tạo hành lang pháp lý
vững chắc trong việc quản lý các hoạt động này.
59
2.3.3. Thực trạng về công tác tuyên truyền vận động và bồi dưỡng kiến
thức bảo đảm trật tự an toàn xã hội cho các đối tượng
Công tác phổ biến, giáo dục kiến thức về pháp luật, về việc bảo
đảmTTATXH đóng vai trò cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa to lớn; cần thiết
cho việc hình thành và phát huy ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật, niềm tin
pháp luật ở mỗi con người, góp phần vào việc thiết lập trật tự pháp luật và văn
hóa pháp luật trong đời sống xã hội. Hà Đông là quận có tỉ lệ dân trí cao, khá
đồng đều hơn mà dân trí càng cao, do đó, nhu cầu về hiểu biết pháp luật cũng
được quan tâm hơn.Các cơ quan ban ngành trên địa bàn quận Hà Đông và chủ
lực là lực lượng Công an quận Hà Đông đã tiến hành công tác tuyên truyền,
vận động các cá nhân, cơ quan, tổ chức trên địa bàn quận về kiến thức bảo đảm
TTATXH. Đây là một trong những biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công
tác QLNN về TTATXH.
Nội dung tuyên truyền thường tập trung vào một số vấn đề như: Các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định cụ thể của
pháp luật về đăng ký, quản lý trong từng lĩnh vực QLNN về TTATXH như cư trú,
cấp, quản lý căn cước công dân, hoạt động kinh doanh có điều kiện về TTATXH,
tham gia hoạt động tại các địa điểm nơi công cộng, các hình thức kiểm tra, xử lý
vi phạm; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, công dân để mọi người dân
có ý thức chấp hành cũng như đấu tranh, lên án những hành vi vi phạm với cơ
quan Công an, hỗ trợ lực lượng chức năng thực hiện QLNN về TTATXH.
Để việc tuyên truyền, vận động có hiệu quả, lực lượng chức năng tại địa
bàn quận Hà Đông đã sử dụng các hình thức đa dạng, linh hoạt các thông tin
pháp luật về bảo đảm TTATXH. Ví dụ như:
- Tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương, tổ chức các
hội nghị, quán triệt, triển khai công tác QLNN về TTATXH đến lãnh đạo chủ
chốt các ban, ngành các cấp về các Luật, văn bản mới về TTATXH như Luật
60
Cư trú, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, Luật Căn
cước công dân.
- Tổ chức, vận động các ban, ngành, đoàn thể, các đơn vị, doanh nghiệp,
trường học, hộ gia đình, cá nhân ký cam kết thực hiện nghiêm túc các quy định
của Pháp luật, từ đó nâng cao nhận thức cũng như huy động cả hệ thống chính
trị vào cuộc, tạo sự đồng thuận và tích cực tham gia của đông đảo quần chúng
nhân dân trong tổ chức, thực hiện QLNN về TTATXH. Một số đơn vị đã làm
tốt công tác này như Hội Phụ nữ, Đoàn viên Thanh niên tại các phường trong
quận đã phối hợp với lực lượng chức năng tổ chức ký cam kết có trách nhiệm
vận động gia đình và người thân không sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng
trữ, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trái phép. Phối hợp với Phòng
Giáo dục và Đào tạo quận Hà Đông tổ chức tuyên truyền ở các trường tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng 3.424 lượt buổi cho lượt học
sinh, sinh viên và giáo viên. Tổ chức tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp 680
buổi về công tác QLNN về TTATXH với các nội dung cụ thể như: phòng cháy
chữa cháy, giữ gìn trật tự công cộng tại các địa điểm văn hóa, du lịch, tâm linh,
lễ hội; các quy định về quản lý, sử dụng VK, VLN, CCHTvà đồ chơi nguy
hiểm, các quy định cụ thể về đăng ký, quản lý cư trú, an toàn giao thông…Đặc
biệt, công an quận Hà Đông đã ký cam kết với 3.039 cơ sở, 20.524 hộ gia
đình,418 cán bộ, giáo viên và 15.120 học sinh về TTATGT; tuyên truyền trực
tiếp 34 buổi Luật ATGT cho 3.710 học sinh, sinh viên và 690 người dân trên
địa bàn, in ấn gần 4.400 tài liệu tuyên truyền về PCCC, cấp 9284 giấy chứng
nhận Huấn luyện nghiệp vụ về PCCC&CNCH; 2424 buổi tuyên truyền trên loa,
họp 703 tổ dân phố, treo 197 băng rôn, ký 265.776 bản cam kết liên quan VK,
VLN, CCHT [Phụ lục 3].
- Tổ chức các cuộc thi như “Tìm hiểu pháp luật trực tuyến "Pháp luật với
mọi người" của UBND thành phố Hà Nội trên địa bàn quận Hà Đông”, "Báo
cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật giỏi về pháp luật phòng chống
61
tham nhũng" của UBND thành phố Hà Nội trên địa bàn quận Hà Đông, cuộc
thi trực tuyến "Tìm hiểu pháp luật về bảo vệ môi trường và quy tắc ứng xử gắn
với việc bảo vệ môi trường" của UBND thành phố Hà Nội trên địa bàn quận
Hà Đông.
Ngành Công an tăng cường các tổ đội công tác, cán bộ chiến sỹ xuống cơ
sở; phát huy tốt vai trò của lực lượng công an trong việc đẩy mạnh các hoạt
động tuyên truyền phòng chống tội phạm, nâng cao nhận thức của người dân
về chấp hành pháp luật; nêu cao tinh thần cảnh giác trước phương thức, thủ
đoạn hoạt động của các loại tội phạm như: tội phạm ma túy, mua bán người,
trộm cắp tài sản,tội phạm công nghệ cao, gắn với việc thực hiện tốt công tác
dân vận, hỗ trợ, giúp đỡ những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Lực lượng
công an quận Hà Đông đã làm tốt công tác tham mưu cấp ủy, chính quyền địa
phương, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục pháp luật đến từng hộ gia đình, đến các đối tượng học sinh,
sinh viên, tiểu thương.
Phối hợp với các cơ quan truyền thông, cổng thông tin điện tử, các trang
mạng xã hội tổ chức các chiến dịch truyền thông, xây dựng các phóng sự, đưa
tin, bài nội dung về công tác QLNN về TTATXH một cách rộng rãi để mọi
người dân có thể tìm hiểu, chấp hành, tiếp cận các văn bản pháp luật liên quan
đến các chủ trương lớn của Nhà nước tác động đến đông đảo quần chúng nhân
dân như: Luật Cư trú, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ,
Luật Căn cước công dân273 tin bài, phóng sự, chuyên mục, chuyên đề, trả lời
phỏng vấn các vấn đề liên quan đến công tác QLNN về TTATXH. Thông qua
hệ thống truyền thông ở cơ sở, kẻ pano, áp phích niêm yết công khai tại nơi
công cộng, phát tờ rơi.Tháng 01/2021, Công an quận Hà Đông tiến hành biên
soạn và phát hành đến người dân trên địa bàn quận 50.000 cuốn “Sổ tay phòng
chống tội phạm và vi phạm pháp luật” [21].Quận Hà Đông còn thông qua lực
lượng công an phường, cán bộ nòng cốt cơ sở, thành viên của các tổ chức quần
62
chúng, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, thông qua công tác thăm
hỏi, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân để vận động, tuyên truyền.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các tổ chức quần chúng làm
nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự cơ sở trên địa bàn quận Hà Đông. Qua đây,
học viên được nghe những kiến thức về công tác xây dựng phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc; công tác tổ chức, hoạt động của tổ chức quần chúng
làm nhiệm vụ đảm bảo ANTT ở cơ sở;công tác phối hợp tuần tra, kiểm soát
đảm bảo ANTT tại địa bàn cơ sở; một số kiến thức cơ bản về pháp luật cần thiết
đối với tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ đảm bảo ANTT ở cơ sở; công tác
PCCC. Qua đó, giúp học viên nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
phương pháp hoạt động trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, tệ nạn
xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc;góp phần nâng
cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, tác phong và lề lối công tác, xây dựng các tổ
chức quần chúng tham gia bảo đảm ANTT ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, thật sự là lực lượng nòng cốt trong phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Từ các hoạt động nêu trên đã từng bước nâng cao ý thức, trách nhiệm của
đông đảo người dân trên địa bàn quận Hà Đông chấp hành các quy định QLNN
về TTATXH, đồng thời hỗ trợ, thông tin, tố giác cho lực lượng chức năng các
biểu hiện nghi vấn phạm tội, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực an ninh trật tự.
Nhận thức của Nhân dân các dân tộc về phòng chống tội phạm được nâng lên;
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng, cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia.
Từ năm 2019 đến năm 2021, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội đã
phối hợp với Công an, Hội Phụ nữ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Phòng Văn hóa
- Thông tin quận Hà Đông tổ chức được 69 cuộc họp ở tổ dân phố để tuyên
truyền phòng chống ma túy, mại dâm, tệ nạn xã hội với Trung tâm Văn hóa,
Thông tin và Thể thao quận và Đài truyền thanh các phường đã tiến hành 142
63
lượt buổi phát thanh với tổng số 151 tin, bài tuyên truyền về phòng chống tệ
nạn ma túy, mại dâm; duy trì hoạt động và đưa nội dung phòng chống tệ nạn
xã hội vào chương trình Sổ tay công tác an ninh và chuyên mục tuyên truyền,
phổ biến pháp luật trên sóng truyền thanh của quận vào các ngày thứ Bảy, Chủ
nhật hàng tuần. [19, 20, 21].
Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót trong công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật: Nhiều khi việc phổ biến vẫn còn mang tính
thời sự, phong trào, hình thức, chưa đi sâu phân tích, giải thích một cách cụ thể
những nội dung chủ yếu người dân cần tìm hiểu, chưa xuất phát từ nhu cầu thực
tế, cần thiết của người dân, chưa mang tính giải đáp pháp luật từ những vụ việc
thực tế; thường tập trung vào các bộ luật, luật, pháp lệnh, chưa chú trọng tuyên
truyền các văn bản dưới luật; Hình thức tuyên truyền tuy có nhiều đổi mới song
vẫn chưa theo kịp tình hình thực tiễn, đặc biệt là thời điểm đại dịch Covid diễn
ra, phải thực hiện giãn cách xã hội
Công an Thành phố Hà Nội
UBND Quận Hà Đông
UBND Phường
2.3.4. Thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Cơ quan chuyên môn
Quan hệ phối hợp
Phòng Lao động, Thương binh và XH (Phòng chống tệ nạn xã hội)
Quan hệ phối hợp
Công an Quận Hà Đông
Công an 17 phường
Phòng Lao động, Thương binh và XH (Phòng chống tệ nạn xã hội)
ND quận
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND Quận n môn thuộc UBND Quận 13 Đội nghiệp vụ
ông an Quận
Hình 2.1. Sơ đồ Tổ chức bộ máy QLNN về TTATXH tại quận Hà Đông
64
Ủy ban nhân dân quận do Hội đồng nhân dân quận bầu, là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân quận, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân trên địa bàn quận, Hội đồng nhân dân quận
và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên [44].Điều 13 Luật Công an nhân dân
năm 2018 quy định rõ: Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân các cấp đối với hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội và xây dựng Công an nhân dân: Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy định
của pháp luật;Quyết định chủ trương, phương hướng nhằm phát huy tiềm năng
của địa phương để xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân
gắn với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh,
xây dựng tiềm lực bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH; ... [40].
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND cấp
quận, huyện có thẩm quyềnban hành các văn bản quy phạm pháp luật (Quyết
định, Chỉ thị) về những vấn đề có liên quan đến QLNN về ANTT trên địa bàn
cấp quận, huyện. Trong đó, UBND cấp quận, huyện và Chủ tịch UNBD cấp
quận, huyện là chủ thể QLNN cao nhất và toàn diện nhất trong phạm vi địa
phương mình. UNBD cấp quận, huyện vừa có chức năng trực tiếp QLNN về
ANTT, vừa có chức năng điều phối các cơ quan, ban ngành tại địa phương thực
hiện nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia QLNN về ANTT trong phạm vi ngành,
lĩnh vực của mình quản lý.
Công an quận Hà Đông chịu sự chỉ đạo toàn diện, thống nhất của Ban
Thường vụ Quận ủy và sự hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn của Công an thành
phố Hà Nội. Công an Quận là cơ quan chuyên trách, chủ trì QLNN về TTATXH
của UBND Quận nhưng đồng thời là một đơn vị công an cấp quận, huyện của
Công an thành phố, là lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ Đảng và chính
quyền, thực hiện nhiệm vụ bảo đảm ANQG và bảo đảm TTATXH trên địa bàn
65
quận Hà Đông.Công an quận Hà Đông thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Thông tư số 42/2018/TT-BCA, ngày 25/12/2018 của Bộ trưởng Bộ
Công an Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Nắm chắc tình hình liên
quan đến an ninh quốc gia và TTATXH; nghiên cứu, đề xuất trình Ban Giám
đốc CATP, Quận uỷ, UBND quận quyết định chủ trương, biện pháp, chương
trình, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu
tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội; xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân gắn
với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh ở địa
bàn quận. Công an quận Hà Đông có cơ cấu tổ chức bao gồm 13 đội nghiệp vụ
(Đội Cảnh sát hình sự, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ,
Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Đội điều tra tổng hợp, Đội Cảnh sát
quản lý hành chính về TTXH, Đội Cảnh sát Giao thông - Trật tự, Đội Chính trị
- Hậu cần, Đội Tổng hợp, Đội An ninh, Đội Xây dựng phong trào và Quản lý
bảo vệ dân phố, Đội Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Đội PCCC&CNCH,
Đội Kỹ thuật hình sự) và 17 Công an các phường.Hiện nay, cơ cấu chỉ huy
Công an Quận có 01 đồng chí Trưởng Công an quận và 05 đồng chí Phó Trưởng
Công an quận. Cơ cấu chỉ huy tại các đội nghiệp vụ và Công an các phường
nhìn chung hợp lý, đúng quy định, quy trình, đúng tiêu chuẩn, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực chỉ huy, điều hành công việc đáp ứng yêu
cầu công tác.
Các đội nghiệp vụ như Đội Cảnh sát hình sự, Đội Cảnh sát điều tra tội
phạm về kinh tế và chức vụ, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Đội điều
tra tổng hợp, Đội Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH, Đội Cảnh sát Giao
thông - Trật tự, Đội PCCC&CNCH là những đơn vị được phân công thực hiện
các nhiệm vụ có liên quan trực tiếp đến QLNN về TTATXH trên địa bàn quận.
Các đội nghiệp vụ khác và Công an các phường của Công an Quận Hà Đông
66
có nhiệm vụ tham gia, phối hợp thực hiện các mặt hoạt động của QLNN về
TTATXH, hỗ trợ cho các bộ phận chuyên trách QLNN về TTATXH trên địa
bàn quận.
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân cấp huyện, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: .....phòng, chống tệ
nạn xã hội trên địa bàn theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống
nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương. (Khoản 1, Điều
3, Thông tư số 11/2021/TT-BLĐTBXH ngày 30/09/2021 về hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở lao động - thương binh và xã hội thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng lao động - thương binh và xã hội thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện).
Lãnh đạo các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước trực thuộc địa phương hay trực thuộc Trung ương đóng ở trên địa bàn cấp
huyện có nhiệm vụ phối hợp tham gia QLNN về ANTT trên địa bàn, lĩnh vực
liên quan chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình.
Các tổ chức xã hội, đoàn thể, quần chúng: Các tổ chức xã hội, xã hội nghề
nghiệp, đoàn thể quần chúng dưới sự hướng dẫn, điều hành của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền mà tham gia QLNN về ANTT ở nội dung và mức độ phù
hợp với tôn chỉ, mục đích của mình. Các cá nhân tiến hành tham gia các hoạt
động QLNN về ANTT dưới sự chỉ đạo, quản lý của các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
2.3.5. Thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ
bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Được sự quan tâm của Đảng ủy Ban Giám đốc Công an thành phố Hà Nội,
Quận ủy, UBND Quận, Công an quận Hà Đông luôn coi trọng củng cố bộ máy
tổ chức Công an Quận, đặc biệt là tổ chức của các đội nghiệp vụ, các bộ phận
có chức năng QLNN về TTATXH. Theo đó, Công an Quận, Công an các
67
phường đã thực hiện tốt các quyết định của Bộ Công an, quy định của CATP
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của Công an các phường,
đội nhằm đáp ứng yêu cầu công tác.Năm 2021, Công an quận có 847 cán bộ
chiến sỹ (trong đó bố trí tại 13 đội nghiệp vụ là 397 đồng chí, tại Công an các
phường là 450 đồng chí).
Công an quận đã cố gắng sắp xếp, bố trí, điều động cán bộ đúng với năng
lực, sở trường, chuyên ngành đào tạo; đồng thời, có kế hoạch làm việc với các
phường, đội nghiệp vụ ra soát biên chế nắm tình hình, năng lực công tác của
từng cán bộ chiến sỹ để điều chỉnh, bố trí công tác phù hợp theo hướng tăng
cường biên chế cho đơn vị trực tiếp làm công tác phòng ngừa đấu tranh chống
tội phạm và tham gia thực hiện chức năng QLNN về TTATXH. Căn cứ vào
biên chế hiện có, Công an quận Hà Đông đã bố trí lực lượng tại Công an
phường, đội, tăng cường cơ sở cho Công an các phường, nhất là những phường
trọng điểm và những phường có địa bàn phức tạp. Công an Quận đã quan tâm
phân bổ biên chế về các đội mũi nhọn như: Hình sự, ma túy ...
Số cán bộ nữ chiếm tỷ lệ cao (năm 2021, có 191 cán bộ chiến sĩ nữ, chiếm
22,6%) dẫn đến khó khăn trong công tác bố trí cán bộ, đặc biệt là các vị trí công
tác như cảnh sát điều tra, cảnh sát khu vực.Số cán bộ, chiến sĩ trẻ có trình độ
trung cấp (chiếm khoảng 22,2% quân số) và đang theo học tại các lớp tại chức
nhiều nên đây cũng là vấn đề ảnh hưởng đến công tác chuyên môn. Một số bộ
phận cán bộ chiến sĩ, đặc biệt là số cán bộ trẻ chưa tích cực trong rèn luyện, tu
dưỡng, ngại học hỏi nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, dẫn đến chất
lượng công tác chưa cao, chưa phát huy hết khả năng.
Về lãnh đạo, chỉ huy Công an Quận, chỉ huy đội, công an phường bố trí
nhìn chung hợp lý, đúng quy định, đều được quy hoạch, bổ nhiệm theo đúng
quy trình, đúng tiêu chuẩn, đều có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực
chỉ huy, điều hành công tác đã đáp ứng yêu cầu công tác của từng đơn vị cụ
thể. Trong chỉ đạo, điều hành Ban chỉ huy Công an Quận đã chú trọng vào các
68
vấn đề trọng tâm, trọng điểm, các vụ việc phức tạp mà dư luận quan tâm để tập
trung chỉ đạo, giải quyết dứt điểm; kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên đối
với những vấn đề nhạy cảm, vượt quả thẩm quyền giải quyết. Đặc biệt, Ban chỉ
huy Công an Quận luôn nhận thức sâu sắc và coi trọng QLNN về TTATXH
trên địa bàn Quận. Vì vậy, Ban Chỉ huy Công an Quận luôn chú trọng việc củng
cố, xây dựng bộ máy tổ chức, phân công, phân cấp nhiệm vụ. Theo đó, đơn vị
luôn quán triệt sự chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, đồng thời coi trọng việc củng
cố bộ máy tổ chức của các đội nghiệp vụ, Công an các phường, phân công trách
nhiệm cụ thể trong QLNN về TTATXH theo đúng nguyên tắc và quy định của
pháp luật.
Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ
Công an, lãnh đạo Công an thành phố Hà Nội, Công an quận Hà Đông đã xây
dựng và thực hiện các kế hoạch nhằm nâng cao năng lực cho lực lượng Công
an. Đặc biệt, năm 2018, Bộ Công an tiến hành “đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Luật Công an nhân
dân năm 2018, việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ theo mô hình tổ chức mới, Công
an quận Hà Đông đã dần được củng cố về tổ chức, được tăng cường về biên
chế. Cơ cấu tổ chức được bố trí theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hơn.
Đây là một trong số thuận lợi cơ bản, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông.
Chất lượng công tác của đội ngũ cán bộ Công an là sự phản ánh trình độ
năng lực và khả năng nắm bắt giải quyết các vấn đề do thực tiễn công việc đặt
ra. Đó còn là sự phản ánh bản lĩnh chính trị, sự vững vàng tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng và con đường cách
mạng, đem lại sự bình yên cho nhân dân mọi lúc, mọi nơi; rèn luyện, trau dồi
phẩm chất đạo đức cách mạng của người chiến sĩ Công an nhân dân “vì nước
quên thân, vì dân phục vụ”.Quá trình đó đòi hỏi chất lượng công tác của đội
ngũ cán bộ Công an phải không ngừng được nâng cao về mọi mặt, đặc biệt là
69
nâng cao năng lực phát hiện những vấn đề mới, phức tạp, chủ động đối phó và
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch, tội
phạm trong xã hội để giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thời gian qua, Công an quận Hà Đông đã có nhiều chủ trương, quan điểm,
giải pháp để bồi dưỡng nâng cao chất lượng công tác cho đội ngũ cán bộ Công
an, như: Tạo nguồn, đưa cán bộ về cơ sở, cử đi học để nâng cao trình độ, thực
hiện liên kết với các cơ sở đào tạo bên ngoài; xây dựng tiêu chí đánh giá cán
bộ chủ chốt gắn với chức trách, nhiệm vụ được phân công để bố trí, sắp xếp,
bổ nhiệm ở những vị trí trong cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ và tính chất nhiệm vụ đặt ra thì chất
lượng công tác của đội ngũ cán bộ Công an quận Hà Đông hiện nay vẫn chưa
đáp ứng được, như: Mặc dù các đơn vị đều được chia thành các tổ công tác cụ
thể theo chức năng, nhiệm vụ nhưng vẫn phải thực hiện kiêm nhiệm nhiều
nhiệm vụ; năng lực, chất lượng, trình độ cán bộ chiến sĩ không đồng đều dẫn
đến hiệu quả vị trí của công việc đảm nhiệm (kết quả chung) không thể hiện
đúng khối lượng công việc thực hiện; một số cán bộ chiến sĩ được bố trí chưa
đúng chuyên ngành đào tạo; một số ít cán bộ có biểu hiện bình quân chủ nghĩa,
chạy theo lợi ích, …
2.3.6. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên một số lĩnh vực
2.3.6.1. Thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới” và
kế hoạch của Thành ủy Hà Nội, Quận ủy Hà Đông về “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”, Công an quận
Hà Đông đã triển khai mô hình “Giao ban công tác an ninh định kỳ tại tổ dân
phố” và ra mắt Sổ tay phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn.
70
Thông qua mô hình “Giao ban công tác an ninh định kỳ tại tổ dân phố”
nhằm tăng cường công tác tuyên truyền phương thức, thủ đoạn hoạt động của
các tội phạm, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm
đến Nhân dân và cán bộ trên địa bàn quận; nâng cao ý thức cảnh giác, phòng
chống tội phạm đối với quần chúng Nhân dân; phổ biến tuyên truyền các quy
định mới của pháp luật, trang bị những kỹ năng, biện pháp tự bảo vệ tính mạng
trong các hoạt động hàng ngày. 100% hộ dân trên địa bàn nắm được số điện thoại
của trực ban công an quận, phường, kịp thời thông tin tình hình an ninh trật tự
trên địa bàn; góp phần đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Nhiệm vụ cụ thể của mô hình “Giao ban công tác an ninh định kỳ tại các
tổ dân phố” đó là thường xuyên giúp các cơ quan chức năng, tổ dân phố, các tổ
chức chính quyền, Ủy ban MTTQ, các ban, ngành, đoàn thể lãnh đạo, chỉ đạo
đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, phòng ngừa, đấu tranh PCTP và tệ nạn xã hội
(TNXH). Kết hợp chặt chẽ mô hình “Giao ban công tác an ninh định kỳ tại tổ
dân phố” với phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ.Qua đó, nắm bắt tình hình
ANTT trên địa bàn, phản ánh về công an phường, quận thông qua điện thoại
hoặc đơn thư. Cơ quan công an sẽ tiếp nhận thông tin, kịp thời đấu tranh phòng
chống với các loại tội phạm. Hàng tháng sẽ họp giao ban để báo cáo với UBND
phường, quận và Ban chỉ đạo 138 của quận, phường về nội dung này và đề ra
những giải pháp đấu tranh phù hợp cho những tháng tiếp theo. Công tác tuyên
truyền được tổ chức rộng rãi trong các cơ quan, hộ gia đình, tổ dân phố.
Công an Quận Hà Đông đã phát Sổ tay Phòng chống tội phạm và vi phạm
pháp luật đến từng hộ gia đình, nhiều trường học, được người dân đánh giá cao
với thiết kế nhỏ gọn, các nội dung thông tin cơ bản về nhiều loại tội phạm được
trình bày cụ thể, thực sự là một tài liệu hữu ích cho mỗi gia đình. Sổ tay bao
gồm 6 nội dung nhằm giúp cho người dân nhận diện và phòng tránh được các
loại tội phạm, như: Tội phạm hình sự; tội phạm công nghệ cao; tội phạm về ma
túy; vi phạm trong lĩnh vực giao thông; phòng cháy, chữa cháy; công tác quản
71
lý; sử dụng vũ khí, vật liệu nổ công cụ hỗ trợ; Nghị định 137 của Chính phủ về
quản lý, sử dụng pháo và chế tài xử lý vi phạm.Thông qua Sổ tay giúp cho quần
chúng nhân dân nâng cao nhận thức, ý thức cảnh giác ngăn ngừa phòng chống
tội phạm đột nhập vào nhà dân, khu trọ, các tòa nhà chung cư; nâng cao chất
lượng công tác tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị, khởi tố và
công tác điều tra, hạn chế thấp nhất vụ oan sai, bỏ lọt tội phạm. Đẩy mạnh tiến
độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, đặc biệt các vụ án lớn được dư luận xã
hội quan tâm.
2.3.6.2. Thực trạng công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội
Đảng uỷ, chính quyền quận Hà Đông không ngừng tăng cường công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, trong đó tập trung thực
hiện Nghị quyết liên quan đến TTATXH, chống văn hóa độc hại, bài trừ mê tín
dị đoan, phòng chống tội phạm - tệ nạn xã hội, mại dâm - ma túy - HIV, đã
chuyển hóa địa bàn, tụ điểm, trọng điểm phức tạp về tệ nạn xã hội.
Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của
người dân về phòng, chống tệ nạn xã hội. Thời gian qua, quận Hà Đông đã triển
khai nhiều biện pháp với những nội dung phù hợp nhằm hạn chế, phòng, chống
tệ nạn xã hội, đặc biệt là nạn mại dâm, ma túy.
Ngoài ra, Ban chỉ đạo quận đã phối hợp chặt chẽ với các phòng, ban chức
năng của quận, Uỷ ban nhân dân các phường chủ động kiểm tra, quản lý chặt
chẽ các cơ sở kinh doanh dịch vụ, các hộ gia đình xây dựng nhà ở cho thuê.
Tăng cường các hoạt động kiểm tra hành chính, khai báo tạm trú, tạm vắng,
kiểm tra các khu vực công cộng, Phát động nhân dân tố giác, đấu tranh mạnh
mẽ đối với tệ nạn mại dâm, tổ chức đường dây nóng, đặt hộp thư để tiếp nhận
tin, thư tố giác của nhân dân, xây dựng phường lành mạnh không có tệ nạn mại
dâm. Tập trung quét vét, triệt phá các điểm, tụ điểm mại dâm.
Uỷ ban nhân dân các phường tập trung chỉ đạo đội Hoạt động xã hội tình
nguyện duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động xã hội tình nguyện; Đội kiểm
72
tra liên ngành 178 của quận đã tổ chức kiểm tra việc chấp hành các quy định
của pháp luật về phòng, chống tệ nạn mại dâm tại 5 đến 20 cơ sở kinh doanh
dịch vụ có điều kiện trên địa bàn quận.
Những thành tích trên đã góp phần nhất định vào việc cải thiện môi trường
sống, nâng cao đời sống văn hóa, giữ vững an ninh trật tự xã hội ở cơ sở. Nhưng
mặt tồn tại, khuyết điểm, nhiều vấn đề bức xúc xã hội đặt ra chưa được giải
quyết cụ thể: sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự cách biệt về mức sống và việc
đòi hỏi hưởng thụ ngày càng lớn đặc biệt là giới trẻ.
2.3.6.3. Thực trạng công tác quản lý cư trú, cấp căn cước công dân; trật tự
đô thị; quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ cần có các điều kiện đặc biệt
Xác định tầm quan trọng của công tác quản lý cư trú, trong những năm
qua, lực lượng quản lý hành chính trật tự xã hội đã tăng cường, đẩy mạnh công
tác tuyên truyền vận động nhân dân nắm rõ và thực hiện nghiêm túc các quy
định về đăng ký, quản lý cư trú. Phân công cán bộ có năng lực, tinh thần trách
nhiệm cao, tác phong, thái độ đúng mực, nắm vững nghiệp vụ, đã qua tập huấn
chuyên sâu về Luật Cư trú để tiếp dân, giải quyết các thủ tục hành chính; thường
xuyên chấn chỉnh tác phong làm việc, giao tiếp ứng xử, nâng cao tinh thần trách
nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân cho đội ngũ cán bộ thực hiện công tác đăng
ký, quản lý cư trú. Lực lượng Công an quận Hà Đông thường xuyên cải tiến
quy trình công tác, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, rút ngắn
thời gian trả kết quả cho công dân, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin
vào công tác đăng ký, quản lý cư trú, thực hiện cải cách hành chính nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức cá nhân thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình.
Cùng với đó, Công an quận Hà Đông đã tập trung thu thập dữ liệu về nhân
khẩu, phục vụ xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; tăng cường công tác
quản lý cư trú, kiểm tra cư trú, phục vụ có hiệu quả công tác QLNN về
TTATXH và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.Kết quả, năm 2021 đã cấp
73
213.752 thẻ căn cước công dân có gắn chip (trong đó trả trực tiếp 15.655 thẻ,
trả qua bưu điện 198.097 thẻ) (Phụ lục 2).Tính đến ngày 12/12/2021, Công an
quận đã làm sạch, đồng bộ, tiến hành cập nhật, chỉnh sửa, bổ sung vào hệ thống
phần mềm dữ liệu dân cư đối với công dân thường trú 340.190 trường hợp, đạt
98%, thường xuyên cập nhật thông tin đối tượng F0, cập nhật tiêm vắc-xin, bảo
hiểm xã hội, thông báo số định danh cá nhân cho 75.857 trường hợp, hoàn thành
đánh lại số hồ sơ hộ khẩu, ... [21].
Căn cứ hướng dẫn của Công an cấp trên, Công an quận Hà Đông đã tổ
chức triển khai công tác nắm tình hình cư trú, đi lại hoạt động của người nước
ngoài trên địa bàn; tổ chức tốt công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh, ngăn
chặn kịp thời âm mưu, hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH và các hành vi
vi phạm khác của người nước ngoài theo thẩm quyền được pháp luật quy định.
Nhờ đó, công tác quản lý cư trú, quản lý hoạt động đối với người nước ngoài
đã có chuyển biến tích cực.
Theo số liệu thống kê, công tác quản lý cư trú, nhập cảnh của người nước
ngoài trong 3 nămcho thấy: có 1201 đoàn với 10.114 lượt người tới tham quan,
du lịch (do thực hiện các quy định phòng chống dịch Covid-19 nên năm 2020
và 2021 số lượng đoàn và lượt người vào tham quan, du lịch giảm đáng kể, năm
2020 - 198 đoàn, 1.474 lượt, năm 2021 - 44 đoàn, 175 lượt), có 22 đoàn với
497 lượt người hoạt động trên lĩnh vực từ thiện, giáo dục, y tế, đặc biệt có 3.646
lượt người thực hiện cách ly y tế.[19,20, 21]
Công tác củng cố, kiện toàn và nhân rộng các mô hình, điển hình đảm bảo
ANTT trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc" tại các địa bàn
trọng điểm được quan tâm, chú trọng. Đến nay toàn quận có 62 mô hình, chuyên
đề đang được áp dụng như: mô hình tự quản về trật tự đô thị; mô hình cụm liên
kết ANTT Ba La; chuyên đề "Tăng cường công tác đảm bảo ANTT khu vực
nhà cho thuê"... Việc duy trì và triển khai các mô hình, chuyên đề đã góp phần
làm cho tình hình ANTT tại cơ sở từng bước ổn định.
74
2.3.6.4. Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông
Nhìn chung, tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn quận đã có
chuyển biến rõ nét, TNGT giảm cả số vụ và số người bị thương, chết. Trên địa
bàn, tình trạng chiếm dụng hè phố, lòng đường để kinh doanh buôn bán, các
điểm trông giữ phương tiện không phép, các điểm kinh doanh hoạt động sau
24h, tình trạng biển quảng cáo, mái che, mái vẩy, mái hiện di động lấn chiếm
lòng đường, vỉa hè gây mất mỹ quan đô thị đã được nhắc nhở, kiên quyết thu
giữ, xử lý. Công an quận phấn đấu giảm tối đa số trường hợp lấn chiếm vỉa hè,
lòng đường làm nơi kinh doanh, bán hàng rong. Công an quận Hà Đông đã tiến
hành công tác tuyên truyền, hướng dẫn Luật Giao thông đường bộ, Luật Đường
sắt đến các cơ quan tổ chức, công dân.
Công an quận Hà Đông đã triển khai 56 kế hoạch, phương án, chuyên đề
về công tác đảm bảo TTATGT, trật tự công cộng phục vụ các sự kiện chính trị,
văn hóa diễn ra trên địa bàn quận, kế hoạch về tuyên truyền đội mũ bảo hiểm
khi tham gia giao thông,.... Qua việc thực hiện các kế hoạch, phương án, chuyên
đề đã phát hiện ra nhiều trường hợp vi phạm, phát hiện ra được số đối tượng
liên quan ma túy, tội phạm hình sự.
Công an quận Hà Đông đã làm tốt công tác cắm chốt, phân luồng, chống
ùn tắc giao thông vào giờ cao điểm, duy trì ứng trực 24/24 tiếp nhận xử lý thông
tin liên quan TTATGT, phối hợp giải quyết các tụ điểm hàng quán thường xuyên
có thanh niên tụ tập sau 24 giờ, phòng chống đua xe và cổ vũ đua xe trái phép.
Tuy vậy, tình hình tai nạn giao thông vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, diễn biến
phức tạp. Vẫn xảy ra các vụ tai nạn làm bị thương và chết người. Nguyên nhân
chủ yếuvẫn do người diều khiển phương tiện khi tham gia giao thông không
làm chủ tốc độ, thiếu chú ý quan sát gây tai nạn.
2.3.6.5. Thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy và cứu
nạn, cứu hộ
75
Công an quận Hà Đông đã chủ động làm tốt công tác điều tra cơ bản, nắm
chắc tình hình, công tác phòng cháy chữa cháy tại các cơ quan, đơn vị, cơ sở,
doanh nghiệp. Quản lý chặt chẽ các cơ sở trọng điểm, nhạy cảm về chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội khu dân cư, các cơ sở có nguy cơ cháy nổ cao để tăng
cường các biện pháp nghiệp vụ về PCCC trên địa bàn quận. Rà soát xây dựng
các phương án chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ tại các cơ sở, địa bàn trọng
điểm.Triển khai các Quyết định, chỉ thị của các cấp lãnh đạo về công tác PCCC
& CNCH. Đã bảo đảm tuyệt đối an toàn PCCC & CNCH các mục tiêu trọng
điểm, các sự kiện chính trị, ngoại giao, các hoạt động văn hóa, thể thao, lễ hội
lớn diễn ra trên địa bàn Thành phố, địa bàn quận; trọng tâm là Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, …
Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức phương pháp tuyên truyền,
phổ biến kiến thức pháp luật về PCCC & CNCH, nâng cao hiệu quả công tác
xây dựng phong trào toàn dân PCCC nhằm tạo chuyển biến rõ nét trong ý thức,
trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở trình độ, kỹ năng, khả năng PCCC &
CNCH tới sâu rộng các tầng lớp trong nhân dân; củng cố xây dựng lực lượng,
phương tiện PCCC & CNCH tại địa bàn, cơ sở nhằm đáp ứng phương châm
“bốn tại chỗ”.
Thời gian qua, Công an quận Hà Đông đã xây dựng, huấn luyện công tác
phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng bảo vệ dân phố trên địa bàn quận, triển
khai tổ chức diễn tập phương án PCCC và cứu hộ cứu nạn và tập huấn công tác
PCCC&CHCN trong các tòa nhà chung cư.Từ năm 2019 đến hết năm 2021: tổ
chức 434 lớp huấn luyện và tuyên truyền cho gần 8.500 người tham dự, cấp
8.386 giấy chứng nhận về nghiệp vụ về PCCC.Thông qua buổi diễn tập, tập
huấn về PCCC&CHCN sẽ nâng cao kỹ năng tác chiến của lực lượng cảnh sát
PCCC, dân phòng và nâng cao ý thức của người dân trong công tác
PCCC&CHCN, cũng như các quy định về PCCC.
76
Thực hiện Nghị định số 136/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật PCCC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
PCCC, thay thế Nghị định số 79/2014/NĐ-CP, Chính phủ đã tổ chức phân cấp
và quy định cụ thể danh mục cơ sở do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp phường
thực hiện quản lý Nhà nước về PCCC, nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của
UBND cấp phường trong công tác PCCC. Theo đó, các cơ sở có nguy cơ cháy,
nổ cao và các hộ gia đình để ở kết hợp sản xuất, kinh doanh có quy mô lớn sẽ
do cơ quan Cảnh sát PCCC&CNCH có trách nhiệm quản lý, theo dõi; các cơ
sở có nguy cơ cháy, nổ thấp hơn và các hộ gia đình để ở kết hợp sản xuất, kinh
doanh có quy mô vừa và nhỏ sẽ do UBND cấp phường có trách nhiệm quản lý,
theo dõi.
Việc phân cấp rõ ràng trách nhiệm của UBND các cấp như vậy sẽ giúp
cho công tác phòng cháy, chữa cháy được thực hiện một cách đồng bộ, hiệu
quả từ cấp cơ sở, tạo nền móng vững chắc, thúc đẩy sự phát triển toàn diện
trong công tác PCCC, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, TTATXH trên địa
bàn quận.
Tuy nhiên, riêng tại địa bàn quận Hà Đông đã có gần 5.000 cơ sở thuộc
phụ lục 4 của Nghị định số 136/2020/NĐ-CP do UBND cấp phường quản lý.
Với số lượng lớn cơ sở như vậy, trong khi lực lượng tại cơ sở còn mỏng, nghiệp
vụ chuyên môn về PCCC cũng còn hạn chế. Đây chính là một trong những khó
khăn trong quá trình triển khai Nghị định này của Chính phủ.
Công an quận Hà Đông đã tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra an
toàn PCCC & CNCH; phối hợp với các đơn vị liên quan đẩy mạnh các hoạt
động kiểm tra liên ngành; kịp thời phát hiện những tồn tại, thiếu sót để kiến
nghị khắc phục, kiên quyết xử lý đối với các trường hợp vi phạm theo từng
chuyên đề, lĩnh vực PCCC & CNCH, chú trọng những nơi dễ xảy ra cháy như
khu chung cư, nhà cao tầng cơ sở dịch vụ, vui chơi giải trí, tập trung đồng người
các cơ sở trong khu, cụm công nghiệp, làng nghề cơ sở sản xuất, kho hàng hóa...
77
Công khai các đơn vị, tổ chức, cá nhân không chấp hành quy định về PCCC và
CNCH trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.3.6.6. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
Quận Hà Đông tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
các cấp, ngành và Nhân dân trên địa bàn về công tác bảo vệ môi trường, bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên. Quận đã mở nhiều lớp tập huấn kiến thức pháp luật về
môi trường cho các đối tượng là cán bộ phòng ban chuyên môn và phường,
đoàn thể trong lĩnh vực môi trường. Phối hợp với ngành giáo dục tổ chức truyền
thông về công tác bảo vệ môi trường trong các trường Trung học cơ sở và tiểu
học. Phối hợp với Quận Đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ quận tọa đàm tìm hiểu
kiến thức pháp luật về bảo vệ môi trường, cho đoàn viên thanh niên và hội viên
Hội phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ quận Hà Đông đã tích cực thực hiện mô hình xóa
điểm chân rác làm vườn hoa sân chơi, gắn với phát triển các sản phẩm thân
thiện với môi trường thông qua tái sử dụng đồ nhựa trồng hoa.
Để người dân tích cực tham gia vào bảo vệ môi trường và không vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này, hàng năm quận Hà Đông đã thẩm định các kế
hoạch bảo vệ môi trường. Thời gian qua, Quận tăng cường công tác kiểm tra,
như thành lập đoàn kiểm tra công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên
nước tại các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thực phẩm; xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm.
2.3.7. Về công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong đảm bảo
trật tự an toàn xã hội
Tăng cường công tác phối hợp trong đảm bảo ANTT giữa các cơ quan,
ban ngành trên địa bàn Quận được quy định rõ tại quy chế phối hợp các bên đã
ký kết những vấn đề về QLNN trên các lĩnh vực liên quan đến TTATXH là yêu
cầu rất quan trọng để bảo đảm và giữ gìn ANTT. Thoạt nhìn tưởng chưa cấp
thiết nhưng sự buông lỏng quản lý các lĩnh vực trên sẽ ảnh hưởng to lớn và lâu
78
dài đối với xã hội. Việc QLNN về TTATXH cần có sự phối hợp, tham gia hiệu
quả của nhiều cơ quan liên quan như phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Ban chỉ huy Quân sự, phòng Lao động - Thương binh - Xã hội, Thông tin, Văn
hóa, phòng Giáo dục, Y tế… Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được một cơ chế
phối hợp tốt giữa các ngành, các cấp để tránh hiện tượng đùn đẩy, né trách
nhiệm. Đơn cử như việc quản lý các cơ sở kinh doanh có điều kiện cũng không
nên coi đây chỉ là việc riêng của cơ quan Công an. Công tác bảo đảm trật tự
trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống
dịch bệnh... cần có sự tham gia tích cực hơn nữa của chính quyền, các ngành
như văn hoá, thể thao và du lịch, giáo dục - đào tạo, Công thương, Y tế... Công
an Quận là lực lượng chủ chốt, chủ trì thực hiện QLNN về TTATXH trên địa
bàn. Vì vậy, lực lượng Công an Quận không chỉ phải làm tốt chức năng nhiệm
vụ theo quy định mà còn phải thực hiện vai trò chủ thể trong việc tổ chức tốt
mối quan hệ phối hợp với các cấp, các ngành, các lực lượng, cơ quan, đơn vị
trong QLNN về TTATXH.
- Phối hợp với các đơn vị trong ngành công an
Lực lượng Công an quận Hà Đông đã chủ động thường xuyên phối hợp
với các lực lượng trong ngành Công an như: Công an các quận, huyện, các
phòng nghiệp vụ của CATP Hà Nội, các cục nghiệp vụ của Bộ Công an, nhằm
đảm bảo ANTT và thực hiện QLNN về ANTT trên địa bàn. Công tác phối hợp
giữa các đơn vị còn thể hiện ở cơ chế trao đổi thông tin định kỳ hoặc đột xuất
về tình hình hoạt động của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, của các đối
tượng tội phạm hoạt động trên địa bàn và đã triển khai thực hiện các biện pháp
giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình QLNN về TTATXH trên địa
bàn Quận.
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị ngoài ngành Công an
Trong những năm qua, Công an quận Hà Đông đã tổ chức hàng chục đoàn
công tác tiến hành trao đổi, nắm tình hình liên quan đến TTATXH từ các cơ
79
quan, đơn vị, doanh nghiệp và quần chúng nhân dân trên địa bàn Quận, đặc biệt
là các đầu mối quan trọng như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến
binh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Ban Chỉ huy quân sự Quận,
Phòng Nội vụ trực thuộc UBND Quận, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các
cơ quan, doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện trên địa bàn. Công
tác phối hợp đã giúp lực lượng Công an Quận, nắm chắc tình hình, hoạt động
có liên quan đến TTATXH. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa lực lượng Công
an và các cơ quan, ban, ngành của chính quyền địaphương và Trung ương đứng
chân trên địa bàn cũng là một kênh quan trọng để lực lượng Công an quận tiến
hành tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật
liên quan đến QLNN về ANTT trên địa bàn quận Hà Đông Công an Quận đã
chủ động phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể của Quận triển khai các nghị
quyết liên tịch, chương trình, kế hoạch phối hợp trong thực hiện các nhiệm vụ
liên quan đến QLNN về ANTT như: xây dựng quy chế phối hợp giữa Công an
Quận - Ban chỉ huy quân sự Quận, giữa Công an Quận và Bệnh viện Bưu điện,
nghị quyết liên tịch giữa Công an Quận với các tổ chức chính trị - xã hội: Hội
liên hiệp phụ nữ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh... ; kế hoạch
phối hợp Thanh tra giao thông vận tải Quận xây dựng phương án bố trí lực lượng
chống ùn tác tại các điểm có tiềm ẩn nguy cơ ùn tắc trên địa bàn Quận, kế hoạch
tăng cường công tác xử lý, giải tỏa các vi phạm trật tự an toàn giao thông, trật tự
đô thị, vệ sinh môi trường; công tác phòng chống dịch Covid-19,...
Định kỳ hàng tháng, hàng quý, 6 tháng và hàng năm thông qua các cuộc
họp sơ kết, tổng kết của các Ban Chỉ đạo 197, Ban Chỉ đạo 138, Ban Chỉ đạo
phòng chống Ma túy - mại dâm, Ban Chỉ đạo liên ngành Công an Quân sự -
Phòng cháy chữa cháy Quận các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, chính quyền
các phường trong quận họp giao ban tình hình về TTATXH, nắm tình hình một
cách sâu sát, cụ thể các vấn đề có ảnh hưởng đến ANQG và TTATXH; đề ra
hệ thống các giải pháp nhằm thực hiện tốt QLNN về TTATXH.
80
Nhìn chung, lực lượng Công an quận Hà Đông đã phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể của Quận, chính quyền các phường và các
đơn vị của Trung ương đứng chân trên địa bàn Quận thực hiện các nội dung
liên quan đến QLNN về TTATXH. Qua đó, lực lượng Công an Quận đã làm
tốt công tác nắm tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất với UBND Quận, các
ban, ngành liên quan trong vận dụng chính sách, pháp luật, đảm bảo các yêu
cầu chính trị, an ninh, kinh tế cũng như công tác đối ngoại khi thực hiện các
nội dung liên quan đến QLNN về TTATXH.
2.3.8. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp nhận xử lý tố giác tội phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
Thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm được lực lượng Công an quận
Hà Đông tiến hành thường xuyên để thực hiện chức năng QLNN về TTATXH.
Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, công an quận Hà Đông đã phối hợp
thực hiện 21 đợt thanh tra chuyên đề, điển hình như: việc chấp hành các quy
định về đăng ký, quản lý cư trú, đặc biệt là tạm trú, thông báo lưu trú, kiểm tra
việc chấp hành các quy định pháp luật của các cơ sở kinh doanh có điều kiện
về an ninh trật tự; kiểm tra các quy định về công tác đảm bảo trật tự đô thị, trật
tự công cộng; các quy định về quản lý, sử dụng VK, VLN, CCHT, PCCC, quy
định phòng chống dịch Covid - 19, ….
Quá trình thực hiện, công an quận Hà Đông đã phối hợp với Đoàn thanh
tra, chuẩn bị báo cáo hồ sơ, tài liệu và làm việc với Đoàn Thanh tra để đảm bảo
tiến độ và chất lượng cuộc thanh, kiểm tra. Từ đó góp phần đánh giá đúng thực
trạng việc chấp hành các quy định pháp luật về QLNN về TTATXH, chỉ ra
những việc đã làm tốt, có hiệu quả đề nghị tiếp tục phát huy, đồng thời phát
hiện những tồn tại, hạn chế, những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá
trình thực hiện, xác định nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân để đề
xuất cấp có thẩm quyền có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời, đảm bảo việc
tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật nghiêm túc, đúng pháp luật.
81
Kết quả, Công an quận Hà Đông đã kiểm tra, nhắc nhở, ký cam kết 521
cơ sở kinh doanh có điều kiện thực hiện nghiêm công tác phòng chống dịch
Covid - 19; Phối hợp kiểm tra 22 cơ sở kinh doanh có điều kiện và nhạy cảm
về ANTT. [19,20,21]
Thực hiện quyết định phân cấp tuyến tuần tra kiểm soát giao thông của
Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Công an quận đã duy trì lực lượng ngày
04 ca tuần tra, kiểm soát, kiểm tra, lập biên bản 468 trường hợp vi phạm.
Tiến hành tổ chức các 45 đợt thanh tra, kiểm tra các cơ sở lưu trú liên quan
người nước ngoài và người nước ngoài tạm trú, làm việc trên địa bàn quận. Kết
quả trong 3 năm (2019-2021): phát hiện 20 trường hợp nhập cảnh trái phép, 49
trường hợp không khai báo tạm trú, 30 vụ vi phạm trong lĩnh vực xuất nhập
cảnh.[19,20,21]
Để thực hiện việc kiểm tra, xử lý vi phạm có hiệu quả, lực lượng Công an
quận Hà Đông phối hợp với các cơ quan, ban ngành chủ động xây dựng kế
hoạch, xác định cụ thể mục đích, yêu cầu, nội dung, lực lượng, phương tiện và
các điều kiện cần thiết để kiểm tra.
Ngoài ra, Công an quận Hà Đông đã làm tốt công tác tiếp nhận, giải quyết
tố giác tin báo tội phạm và khiếu nại tố cáo của nhân dân trong QLNN về
TTATXH; được thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật; hệ thống sổ
sách thống kê theo dõi tin báo tố giác tội phạm được sử dụng thống nhất theo
biểu mẫu, cập nhật đầy đủ, rõ ràng, có hệ thống. Các tin báo tố giác tội phạm đều
được tiếp nhận và phân công lực lượng giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục đảm
bảo thời gian, thời hiệu pháp luật quy định.
Từ năm 2019 đến năm 2021, lực lượng Công an quận Hà Đông đã trực tiếp
tiếp nhận, thu thập thông tin, xác minh và giải quyết 2024/2216 đơn/tin (đạt
91,33%); giải quyết tố cáo, khiếu nại 10/10 vụ (đạt 100%) của công dânmột
cách hợp tình, hợp lý, đúng quy định pháp luật [19, 20, 21]
82
2.4. Nhận xét chung về thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước
về trật tự an toàn xã hội
2.4.1. Kết quả đạt được
Nhờ tinh thần nỗ lực, đoàn kết, sáng tạo, công tác lãnh đạo, chỉ đạo được
quan tâm và thực hiện đúng hướng, phù hợp với chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước, chỉ đạo của Thành ủy, UBND Thành
phố, Quận ủy, UBND Quận Hà Đông, và hướng dẫn của các cơ quan Công an
cấp trên về bảo đảmTTATXH, các cấp chính quyền tại Hà Đông đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao, tạo sự hài lòng, bình yên trong cuộc sống của
nhân dân, đạt được kết quả:
Thứ nhất, thực hiện vai trò nòng cốt trong QLNN về TTATXH, Công an
Quận Hà Đông đã tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp trong việc
ban hành, xây dựng các Nghị quyết, hướng dẫn, kế hoạch, chủ trương, biện
pháp triển khai thực hiện QLNN về TTATXH kịp thời, phù hợp với tình hình
thực tế của địa bàn, trong từng giai đoạn, nhất là trong quản lý cư trú, giữ gìn
trật tự công cộng tại các địa bàn trọng điểm, khu du lịch, quản lý các ngành
nghề kinh doanh có điều kiện về TTATXH, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế,
xã hội của địa phương.
Thứ hai, công tác vận động, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nhân dân quận Hà Đông đạt kết quả cao, công tác xây dựng phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được thực hiện hiệu quả, phù hợp với tình hình
thực tế địa bàn; mối quan hệ phối hợp với các lực lượng, cơ quan, ban ngành,
đoàn thể trong thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm đã được quan tâm,
đẩy mạnh; đã tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo, huy động các
ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan, doanh nghiệp, trường học và các tầng lớp
nhân dân tham gia; huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị trên địa bàn quận trong công tác đảm bảo ANTT.
83
Thứ ba, tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp thực hiện QLNN về
TTATXH từ cấp Quận đến cấp tổ, đội trên địa bàn được quan tâm, xây dựng
và thực hiện hợp lý, đúng quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn của
Bộ Công an. Lực lượng chuyên trách QLNN về TTATXH được tăng cường và
ngày càng được xây dựng, củng cố theo hướng chuẩn hóa, chuyên sâu. Cán bộ
chiến sĩ Công an quận Hà Đông phát huy tinh thần tự giác, ý thức tổ chức kỷ
luật của cán bộ, thực hiện nghiêm các quy định về văn hoá ứng xử, đạo đức
nghề nghiệp và phong cách giao tiếp ứng xử của cán bộ có thái độ chuẩn mực,
không gây phiền hà, sách nhiễu khi giao tiếp với công dân. Văn hoá công sở
được nâng cao. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng lực lượng được
quan tâm thường xuyên và đúng mức.
Thứ tư, công tác đảm bảo TTATXH có nhiều chuyển biến tích cực, đặc
biệt là việc triển khai thực hiện nhiều kế hoạch, chuyên đề phòng ngừa, đấu
tranh với các loại tội phạm nổi lên với một số giải pháp mới đạt hiệu quả; đã
kiềm chế, kéo giảm tội phạm về TTATXH; phạm pháp hình sự và án rất nghiêm
trọng đều giảm; tỷ lệ điều tra, khám phá đạt cao, đều vượt chỉ tiêu; không để
xảy ra tội phạm lộng hành, “mầm độc” ma túy ở các khu dân cư bị triệt xóa,
bóc gỡ, không để hình thành các tụ điểm cờ bạc, ma túy, mại dâm gây bức xúc
trong dư luận; việc triển khai thực hiện dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
được thực hiện quyết liệt, đem lại kết quả tích cực; trật tự an toàn giao thông,
trật tự đô thị được chỉ đạo kịp thời, có nhiều chuyển biến tích cực, đã kiềm chế
sự gia tăng của tai nạn giao thông, diện mạo đô thị được cải thiện rõ nét; ý thức
chấp hành pháp luật của người dân được tăng lên, nhất là việc chấp hành luật
giao thông, không để xảy ra ùn tắc giao thông, đua xe trái phép, công tác
PCCC& CNCH từng bước được nâng cao, không để xảy ra các vụ cháy, nổ lớn
gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn.
Công an quận Hà Đông đã quan tâm đến việc cải cách hành chính, bước
đầu ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác QLNN về TTATXH như thực
84
hiện công tác cấp, quản lý CCCD theo công nghệ mới; tiếp nhận khai báo tạm
trú cho người nước ngoài; sử dụng cổng thông tin điện tử như một công cụ để
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật; triển khai thực hiện dịch vụ công
trực tuyến cấp độ 3, cấp độ 4, đơn giản hóa thủ tục hành chính,...
Nhờ đó, TTATXH trên địa bàn quận luôn giữ vững ổn định, không xảy ra
tình huống đột xuất, bất ngờ, không phát sinh “điểm nóng”, ANTT, TTATXH
được đảm bảo, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, không để xảy ra các vụ án
đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong nhân dân, không tồn tại các tụ điểm
phức tạp, kéo dài về tội phạm và tệ nạn xã hội. Nhìn chung, trong những năm
qua, được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, các cơ quan ban ngành nên công
tác đảm bảo ANTT đạt hiệu quả cao, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận cũng như trên địa bàn
Thủ đô. Ghi nhận những thành tích của lực lượng nòng cốt trong QLNN về
TTATXH, Công an Quận Hà Đông đã vinh dự nhận được nhiều Bằng khen, Giấy
khen của các cơ quan cấp trên. Đặc biệt, Công an Quận Hà Đông đã được Công
an Thành phố Hà Nội giới thiệu Bộ Công an đề nghị Chủ tịch nước tặng thưởng
Huân chương chiến công Hạng Ba trong triển khai thực hiện Dự án Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư và Dự án cấp, quản lý và sản xuất căn cước công dân.
2.4.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động QLNN về TTATXH trên địa
bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất
định, cụ thể:
- Công tác QLNN về TTATXH của lực lượng chức năng trên địa bàn có
nơi, có lúc còn chưa đồng bộ. Công tác cải cách hành chính tuy có cải tiến, đổi
mới tạo ra được hiệu ứng tích cực nhưng vẫn còn nặng về hình thức, có nơi, có
lúc còn gây phiền hà cho một bộ phận nhân dân.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATXH cho
các tầng lớp nhân dân chưa được duy trì thường xuyên, chưa có chiều sâu do
85
đó một bộ phận nhân dân nhận thức còn hạn chế; cán bộ ở một số nơi có thời
điểm hoạt động hiệu quả thấp, khó khăn trong tuyên truyền, vận động thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; một bộ phận bị kẻ xấu lợi
dụng kích động, lôi kéo tham gia các hoạt động tụ tập gây rối ANTT. Hình thức
phổ biến, giáo dục pháp luật trực tuyến mới chỉ sử dụng nền tảng Internet và
chủ yếu là đăng tải các văn bản, thông tin pháp luật và xây dựng chương trình,
chuyên trang, chuyên mục.
- Công tác phối hợp, huy động lực lượng trên địa bàn trong xử lý một số
tình huống phức tạp về TTATXH có lúc chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao.
- Việc giao ban, hội ý đánh giá tình hình kết quả công tác QLNN về
TTATXH chưa được thường xuyên. Công tác trao đổi thông tin có lúc chưa kịp
thời, nhất là các thông tin tình hình tại các địa bàn trọng điểm trong quận Hà Đông.
- Công tác nắm tình hình về TTATXH, dự báo về những yếu tố tác động
ảnh hưởng đến ANTT nói chung và TTATXH nói riêng để bảo đảm TTATXH
còn chưa theo kịp tình hình. Chưa thường xuyên cập nhật thông tin, nắm chắc
tình hình, diễn biến của TTATXH và những vấn đề có liên quan, ở từng địa
phương, từng lĩnh vực cụ thể. Chưa xác định rõ những lĩnh vực, địa bàn trọng
điểm, cơ cấu động thái và những diễn biến phức tạp của từng vấn đề về
TTATXH.
- Hiệu lực hiệu quả công tác QLNN về TTATXH như quản lý các cơ sở
kinh doanh lưu trú, dịch vụ nhạy cảm, kinh doanh có điều kiện về ANTT còn
hạn chế, công tác thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 về liên
thông thủ tục hành chính còn tình trạng chậm bàn giao hồ sơ, chậm trả kết quả.
- Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ hiệu quả còn hạn chế.
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Tồn tại, hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau,
song trong đó nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Mục tiêu, giải pháp đôi lúc chưa phù hợp, chưa sát với thực tế.
86
- Việc tổ chức tiến hành một số nội dung bảo đảm TTATXH chủ yếu vẫn
được tiến hành theo lối tư duy cũ, cách làm cũ, chậm được đổi mới để đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới.
- Hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý cho việc tổ chức tiến hành các biện
pháp bảo đảm TTATXH còn chưa đồng bộ thiếu thống nhất, một số nội dung
quy phạm pháp luật không phù hợp với thực tế còn chậm được đổi mới.
- Vai trò tham mưu của các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý chuyên
ngành trong việc giúp xây dựng và lãnh đạo tổ chức thực hiện các chủ trương,
đề án, phương án lớn về bảo đảm TTATXH chưa đạt hiệu quả cao.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tại quận Hà Đông
còn chưa đồng đều.
- Công tác tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn người dân tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm ở địa bàn đã được quan tâm nhưng nhận thức và cảnh giác
của người dân còn chủ quan, sơ hở để đối tượng lợi dụng hoạt động phạm tội.
- Sự đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, khai thác sử dụng các phương
tiện thiết bị kỹ thuật công nghệ tiến tiến hiện đại để phục vụ cho yêu cầu bảo
đảm TTATXH thiếu tính đồng bộ và chậm được triển khai thực hiện.
- Các thế lực thù địch, bọn phản động, hội nhóm chống đối và đối tượng
cực đoan chính trị gia tăng các hoạt động chống phá; đặc biệt các đối tượng lợi
dụng vào các vấn đề còn tồn đọng để tuyên truyền kích động gây phức tạp tình
hình, các thế lực tăng cường các hoạt động kích động, gây rối, tụ tập đông
người, khiếu kiện vượt cấp, tuần hành trái pháp luật.
- Công tác phối hợp nắm, đánh giá, dự báo tình hình có lúc chưa kịp thời,
chưa sát ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả tham mưu, chỉ đạo. Một số nơi có
thời điểm chưa tập trung cao chỉ đạo các nhiệm vụ đảm bảo TTATXH, triển
khai nhiệm vụ chưa sâu sát. Hiệu quả phối hợp giữa lực lượng Công an quận
với các ngành, đoàn thể về thực hiện nhiệm vụ đảm bảo TTATXH cần được
nâng cao.
87
- Công tác kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm khắc phục những hạn chế,
yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo TTATXH chưa thường xuyên.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, luận văn đã nêu đặc điểm vị trí địa lý, tình hình dân cư,
kinh tế, văn hóa - xã hội của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, các yếu tố tự
nhiên, xã hội cũng như các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới công tác đảm bảo
TTATXH và đã tập trung phân tích làm rõ thực trạng về TTATXH ở địa bàn
quận Hà Đông.
Luận văn đã phân tích, làm rõ và đánh giá khách quan tình hình kết quả
thực hiện QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông qua số một lĩnh vực
như: công tác phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, công tác về trật tự công
cộng, phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn. Qua đó cho thấy, những kết
quả mà các cấp chính quyền quận Hà Đông đạt được trong công tác QLNN về
TTATXH và cả những điểm hạn chế kèm theo nguyên nhân. Kinh tế, văn hóa,
xã hội trên địa bàn quận Hà Đông có bước phát triển đáng kể, việc này đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cũng như đặt ra khó khăn, thách thức đối với công
tác QLNN về TTATXH.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã nêu tại Chương 2, Chương 3 của luận văn
sẽ đưa ra dự báo tình hình có liên quan tới QLNN về TTATXH và đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về TTATXH trong thời gian tới
trên địa bàn quận Hà Đông
88
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG GIAI ĐOẠN KẾ TIẾP
3.1. Quan điểm của Đảng và Thành ủy thành phố Hà Nội về đảm
bảotrật tự an toàn xã hội
3.1.1. Quan điểm của Đảng về đảm bảotrật tự an toàn xã hội
An ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội là vấn đề hệ trọng của
một quốc gia. Từ thực tiễn cho thấy, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời để
thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, đất nước, Đảng ta đã luôn coi trọng
nhiệm vụ an ninh, quốc phòng nói chung và bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH
nói riêng. Căn cứ vào tình hình trong nước,Đảng đã đưa ra quan điểm, chủ
trương về bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH phù hợp với yêu cầu thực tiễn
trong từng giai đoạn.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, quan điểm về bảo vệ ANQG, bảo
đảm TTATXH chưa cụ thể, chưa hình thành rõ ràng nhưng đã được thể hiện
qua các phong trào cách mạng, các quyết định thành lập về tổ chức để đấu tranh
và bảo vệ phong trào cách mạng. Tháng 3/1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất
của Đảng thông qua Nghị quyết quan trọng về “Đội tự vệ”, thể hiện quan điểm
của Đảng về việc coi trọng công tác bảo vệ cách mạng. Khi công cuộc vận động
Mặt trận Dân chủ Đông Dương phát triển thành cao trào cách mạng rộng lớn,
Đảng chỉ thị: “Mỗi ấp phải tổ chức ra Đội Tự vệ để ngăn cản những kẻ phá rối
cuộc đấu tranh và đối phó với các lực lượng phản động” [1].
Qua các kỳ Đại hội, vấn đề bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH ngày càng
được nêu rõ hơn, yêu cầu cao hơn. Đặc biệt là tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng diễn ra từ 15-18/12/1986 đã đánh dấu một bước chuyển
quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng, mở đầu quá trình đổi mới và sự hình
89
thành nhận thức mới của Đảng về CNXH, về thời kỳ quá độ lên CNXH cũng
như con đường đi lên CNXH ở nước ta. Một trong những tư tưởng lớn, bao trùm
và xuyên suốt đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra là tư tưởng giải
phóng sức sản xuất, giải phóng ý thức, tinh thần và mọi tiềm năng của xã hội để
đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, trong đó có lĩnh vực ANQG và
TTATXH, gắn liền với cuộc vận động dân chủ hoá xã hội. Đảng ta chủ trương
tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước. Công cuộc bảo vệ an
ninh chính trị, giữ gìn TTATXH cần được tiến hành bằng sức của mọi lực lượng,
bằng mọi phương tiện cần thiết, trong từng địa bàn, ở tất cả mọi đơn vị [23].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng vào tháng 6/1991, Đảng
ta xác định nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN, sự ổn định chính
trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của Nhân dân, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Củng cố quốc phòng, giữ vững ANQG là nhiệm vụ trọng
yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước. Không ngừng nâng cao giác
ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc
phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện
mới, với những lực lượng nòng cốt tinh nhuệ [25].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nêu rõ "Quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục
tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng
thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau". Tại Cương lĩnh
này Đảng ta đã nêu rõ “toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng
tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng
thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt” nhiệm vụ “bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, TTATXH” [24].
90
Về phương hướng bảo vệ ANQG và bảo đảm TTATXH, Đại hội XII
(2016) nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững an ninh chính trị, TTATXH”, “Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN; giữ vững an ninh chính trị, TTATXH” [29]. Cũng tại Đại hội XII này,
Đảng đã xác định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân” [29].
Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định vấn đề này và bổ sung: “Kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN. Giữ vững an
ninh chính trị, bảo đảm TTATXH, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh
mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”,“Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà
nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an
ninh” [30].
Ngoài các văn kiện Đại hội Đảng, Đảng còn ban hành nhiều chỉ thị, nghị
quyết để định hướng, chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ ANQG, TTATXH, điển hình
như: Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 30/11/1987 của Bộ Chính trị về “Nhiệm
vụ bảo vệ ANQG trong tình hình mới”, Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010
của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới”; Kết luận số 86/KL-TW ngày 05/11/2010
của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14/10/2006
của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm
bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới”; Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
TW Đảng, ngày 25/10/2013 khoá XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
91
hình mới”, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5/9/2019 về
Chiến lược bảo vệ An ninh quốc gia,… thể hiện những quan điểm cốt lõi về
bảo vệ ANQG, TTATXH.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nhân dân làm chủ, công an là lực lượng
nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội. Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định thắng
lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ ANQG và trật tự, an toàn xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tốquyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, trong đó có công tác bảo vệ an ninh quốc giavà giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội. Chỉ có Đảng lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng
hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn
và triệt để trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc giavà giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội. Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt thể hiện: Đảng đề ra
đường lối chính sách và phương pháp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật
tự, an toàn xã hội một cách đúng đắn, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chính sách đó.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội.
Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của
nhân dân, là nghĩa vụ đồng thời cũng là lợi ích thiết thân của nhân dân. An ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội có được bảo vệ tốt hay không thì vấn đề rất quan
trọng là do sự giác ngộ của nhân dân về quyền làm chủ của mình trên lĩnh vực
đó. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực chất đó là cuộc vận động phong
trào cách mạng của quần chúng nhằm xây dựng trật tự an ninh, trật tự nhân dân
từ cơ sở. Nhân dân có điều kiện và khả năng để thực hiện quyền làm chủ đó.
Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ ANQG
và trật tự, an toàn xã hội.
92
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân dân
lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó có công
tác bảo vệ ANQG và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước có mạnh (hiệu
lực) thì quyền làm chủ của nhân dân mới được đảm bảo vững chắc.
Nội dung tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước: Phát huy mạnh mẽ
tác dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nó trở thành vũ khí sắc bén để
xây dựng và quản lý nền trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải thường xuyên
quan tâm xây dựng các cơ quan chuyên trách trong công tác bảo vệ ANQG và
bảo đảm TTATXH. Phát huy vai trò tác dụng của hội đồng nhân dân và UBND
các cấp trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định về
công tác bảo vệ ở địa phương. Phối kết hợp chức năng quản lý của các cơ quan
Nhà nước vào việc bảo vệ ANQG và trật tự, an toàn xã hội.
Công an là lực lượng nòng cốt.
Lực lượng Công an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành,
các cấp và quần chúng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn
xã hội. Lực lượng Công an phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất;
tổ chức hướng dẫn các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội. Qua thực tiễn tiến hành cuộc đấu tranh, lực lượng
Công an phải làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan
đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia và TTATXH.
Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội có liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để đảm bảo
thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc đấu tranh, lực lượng Công an phải
biết kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với công tác nghiệp vụ
của các cơ quan chuyên môn. Sự kết hợp đó thể hiện: Quần chúng phát hiện
cung cấp tình hình, cơ quan chuyên môn thu thập ý kiến đó. Những ý kiến đó
phải được tổng hợp, kết hợp với nghiệp vụ chuyên môn của các ngành để tìm
93
ra bản chất của vấn đề và biện pháp xử lý. Phải coi trọng cả hai mặt đó, không
được coi nhẹ mặt nào.
Bảo vệ phải kết hợp chặt chẽ với giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
An ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là hai thành phần cấu thành trật
tự xã hội. Bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ,
bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một trong những điều
kiện cơ bản nhất để xây dựng sự vững mạnh về mọi mặt trong xã hội. An ninh
quốc gia được bảo vệ vững chắc sẽ tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt
trật tự an toàn xã hội. Trật tự, an toàn xã hội được giữ vững sẽ tạo điều kiện
cho an ninh quốc gia càng được củng cố vững chắc, hiệu lực quản lý của Nhà
nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm vững chắc,
cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc.
3.1.2. Định hướng Thành ủy Thành phố Hà Nội về bảo đảm trật tự an
toàn xã hội
Hiểu rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm
TTATXH, Thành ủy Hà Nội đã thể hiện rõ sự quan tâm tới công tác đảm bảo
ANTT và TTATXH trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương trình số 09-CTr/TU về “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành
phố giai đoạn 2021-2025" do Thành ủy Hà Nội khóa XVII ban hành là sự kế
thừa, tiếp nối Chương trình số 05-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội (khóa XVI) về
“Tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình
hình mới, giai đoạn 2016-2020”. Tại chương trình số 09-Ctr/TU, Thành ủy Hà
Nội xác định, mục tiêu hàng đầu trong giai đoạn 2021-2025 là:
- Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ
chức Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền đối với
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trên địa bàn Thủ đô. Trong đó, Hà Nội phải thực
94
hiện bằng được mục tiêu giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm TTATXH, không
để xảy ra bị động, bất ngờ. Đây là cơ sở để tạo môi trường ổn định, an toàn
phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại của thành phố.
- Đảng bộ Thủ đô phải phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính
trị, của toàn dân, kết hợp mọi nguồn lực, xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền
tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Hà Nội phải tập trung nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác bồi dưỡng, giáo dục quốc phòng, an ninh cho các
đối tượng, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân; thực hiện tốt chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước với các đối tượng chính sách, người có công;
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân vững chắc".
- Đối với lực lượng vũ trang, Hà Nội xác định phải xây dựng lực lượng có
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao; là nòng cốt trong thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Đến năm
2025, xây dựng lực lượng chuyên trách về ANQG, ANTT, ATXH theo hướng
“tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt”; một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại;
lực lượng dự bị động viên đủ số lượng, chất lượng cao; lực lượng dân quân tự
vệ vững mạnh, rộng khắp; phấn đấu đến năm 2030 xây dựng lực lượng Công
an Thủ đô tinh nhuệ, hiện đại.
Việc thực hiện thành công Chương trình số 09-CTr/TU là tiền đề giúp
thành phố Hà Nội giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
lập môi trường ổn định, an toàn để phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đó, Ban Thường vụ Thành ủy (khóa XVI) đã ban hành Nghị quyết
số 15-NQ/TU ngày 4/7/2017 về "Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh, củng cố cơ sở Đảng yếu kém; giải quyết các vấn đề phức tạp về an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn thuộc thành
phố Hà Nội" và Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 16/12/2016 của Ban Thường vụ
Thành ủy (khóa XVI) về "Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với
95
công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố Hà Nội".
Qua đó, chủ động nắm tình hình, phát hiện những mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân, không để phát sinh, hình thành “điểm nóng”.
Thành ủy Hà Nội yêu cầu cần phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, xây
dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn và lành mạnh. Các cấp, các ngành nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
về kinh tế, tham nhũng.
Từ nay đến năm 2025, Hà Nội quyết tâm hằng năm, kiềm chế gia tăng và
giảm tội phạm 3-5%, giảm tai nạn giao thông 5-10%/năm về cả 3 tiêu chí. Tỷ
lệ điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt trên 80%; các tội phạm rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90% tổng số án khởi tố, các tỷ lệ này năm
sau cao hơn năm trước; nâng tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng
đạt 60% trở lên...[46].
3.2. Dự báo về tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội
Thời gian tới, trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và địa bàn quận
Hà Đông nói riêng, công tác đảm bảo TTATXH vẫn được giữ vững, ổn định.
Tuy nhiên, trên địa bàn Quận vẫn còn tiềm ẩn, phát sinh những vấn đề liên quan
đến TTATXH. Cuộc cách mạng lần thứ tư, một nền kinh tế toàn cầu hóa sẽ
giúp nền kinh tế các nước trên thế giới phát triển hơn nhưng cũng kéo theo các
vấn đề về an ninh, trật tự an toàn xã hội. Gia tăng các loại tội phạm, đặc biệt là
tội phạm có tính chất phi truyền thống, tội phạm kinh tế, tội phạm có tổ chức,
tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao (lợi dụng mạng xã hội, mạng
Intetnet để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản) và tội phạm có tính quốc tế,… Các loại
tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp như: tệ nạn mại
dâm, tệ nạn ma túy, tệ nạn cờ bạc,.. Các đối tượng phạm tội tăng cường lợi
dụng thành tựu khoa học vào các hoạt động phạm tội. Các thế lực thù địch từ
96
bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong, các đối tượng cực đoan, hội nhóm
chống đối gia tăng cấu kết, móc nối hoạt động chống phá với những thủ đoạn,
phương thức ngày càng tinh vi hơn; lợi dụng tình hình tuyên truyền kích động
người dân tuần hành, khiếu kiện vượt cấp, biểu tình trái pháp luật; cản trở công
tác giải phóng mặt bằng, di dời tái định cư, là nguy cơ gây mất ổn định. Một số
loại tội phạm và tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông diễn biến phức tạp, nhất là tội
phạm hình sự, ma túy, vi phạm quy định về bảo vệ môi trường, đất đai, trật tự
xây dựng, an toàn lao động, cháy, nổ; một số địa bàn trọng điểm vẫn tiềm ẩn
nhiều vấn đề phức tạp về ANTT.
Tình hình tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật sẽ có xu hướng diễn
biến phức tạp. Số vụ phạm pháp hình sự có thể giảm nhưng tính chất ngày càng
manh động, liều lĩnh, hoạt động theo băng nhóm được tổ chức chặt chẽ. Số tội
phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người như giết
người, cố ý gây thương tích … có thể sẽ giảm về số vụ nhưng tính chất, hành vi
sẽ nguy hiểm hơn. Tội phạm có tính chất côn đồ, hung hãn, phạm tội vì nguyên
nhân xã hội có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, cùng với sự phát triển bùng nổ của
công nghệ thông tin, viễn thông, số vụ phạm tội lợi dụng công nghệ sẽ tăng lên.
Đối tượng gây án vẫn phức tạp về thành phần, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,
trình độ văn hóa nhưng sẽ tập trung nhiều vào lứa tuổi thanh, thiếu niên, những
người không có nghề nghiệp, không có việc làm, đối tượng chấp hành xong án
phạt tù, chấp hành xong các quyết định quản lý, giáo dục ở các cơ sở giáo dục
bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc về địa phương. Ngoài ra,
cùng với sự gia tăng tự nhiên, dân số trên địa bàn quận Hà Đông sẽ có sự gia
tăng cơ học do người từ những nơi khác đến lao động, tìm việc làm, các chung
cư được xây mới. Đây là yếu tố đặt ra những vấn đề phức tạp trong công tác
QLNN về TTATXH, cũng như các vấn đề dân sinh xã hội có thể nảy sinh: tập
trung, khiếu kiện đông người, có thể bị các đối tượng lợi dụng, kích động, các
đối tượng lợi dụng trốn tránh truy tìm, hoạt động tệ nạn xã hội …
97
Các cơ sở đầu tư kinh doanh có điều kiện về ANTT trên địa bàn như vũ
trường, karaoke sẽ phát triển mạnh, hoạt động của các cơ sở vẫn sẽ có những diễn
biến phức tạp. Đồng thời, theo quy luật của kinh tế thị trường sẽ xuất hiện nhiều
loại ngành nghề mới, hình thức kinh doanh mới, tác động ảnh hưởng tới ANTT.
Tình hình thiên tai, dịch bệnh Covid-19 còn có những diễn biến khó lường.
Từ tình hình trên, đặt ra nhiều vấn đề mới yêu cầu ngày càng cao đòi hỏi các
cơ quan, đơn vị phải nỗ lực quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa, tận dụng thời cơ vượt
qua khó khăn thách thức hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng an ninh
trong tình hình mới.
3.3. Giải pháp quản lý nhà nước về trật tự an toàn trên địa bàn quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội giai đoạn kế tiếp
3.3.1. Nâng cao chất lượng về chương trình, kế hoạch đảm bảo trật tự
an toàn xã hội
Để nâng cao chất lượng về chương trình, kế hoạch đảm bảo TTATXH, Công
an quận Hà Đông cùng các cơ quan hữu quan cần phải:
- Đảm bảo tính chính trị, phù hợp với chính sách pháp luật: cần đảm bảo
bám sát đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Quy chế, quy định là hành lang pháp lý trong quá trình thực hiện, đảm bảo tính
trọng tâm, trọng điểm: xác định đúng định hướng công tác, mục tiêu, trọng tâm
và các công tác chính trong từng thời gian, đảm bảo tính đồng bộ.
- Đảm bảo tính khả thi: Đối với các nội dung công việc trong chương trình,
kế hoạch phải phù hợp với khả năng và thời gian thực hiện. Tránh đưa quá
nhiều vấn đề vào để rồi không thực hiện được. Khi lập chương trình, kế hoạch
cần có quỹ thời gian dự trữ, dự phòng những việc đột xuất; đảm bảo tính hệ
thống, đảm bảo sự ăn khớp, phù hợp giữa chương trình, kế hoạch khác của cấp
trên, của cơ quan không chồng chéo; đảm bảo tính hệ thống giữa chương trình
năm, 6 tháng với chương trình tháng, tuần. Xác định rõ cơ quan, đơn vị chịu
trách nhiệm chủ trì và cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm phối hợp.
98
- Phù hợp phải lượng hóa, gắn với thực tiễn địa phương:hoàn thiện hệ
thống quy chế, quy định; nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, quy trình
công tác xây dựng chương trình, kế hoạch về đảm bảo TTATXH cần phải phù
hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, nhân lực, nguồn lực đặc thù của mỗi
địa phương, khi đó nâng cao được tính hiệu lực, hiệu quả của QLNN.
- Côngtác thu thập thông tin, dữ liệu cần được chú trọng, lựa chọn những
phương pháp thu thập phù hợp, độ tin cậy và chính xác cao; cần xác định đâu
là mục tiêu chiến lược, đâu là mục tiêu ưu tiên trong từng thời điểm từ đó xây
dựng và lựa chọn những giải pháp phù hợp; khâu thẩm định, thẩm tra chương
trình, kế hoạch cũng cần được đầu tư.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ, năng lực của cán bộ tiến hành
công tác xây dựng chương trình, kế hoạch về đảm bảo TTATXH. Đây là nội
dung quan trọng hàng đầu; bởi mọi hoạt động thực tiễn đều phụ thuộc vào nhận
thức, trách nhiệm và năng lực của người tiến hành.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách, đổi mới phong cách,
phương pháp công tác xây dựng chương trình, kế hoạch về đảm bảo TTATXH.
Đội ngũ cán bộ chuyên trách là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tiến hành và quyết
định chất lượng công tác này ở đơn vị. Lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên quan
tâm chỉ đạo, kiện toàn đủ về số lượng, đúng về cơ cấu biên chế, tốt về chất
lượng và có nguồn dự trữ để đội ngũ cán bộ này luôn đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển của nhiệm vụ. Làm tốt việc quy hoạch, sử dụng, đưa đi đào tạo, đào tạo
lại, tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ; chú trọng nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống, phương pháp công tác, trình độ, năng lực thực
tiễn, nhất là kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm. Đồng thời, quan tâm đúng mức
và giải quyết tốt chế độ, chính sách,… để họ yên tâm công tác, tích cực, tự giác
tu dưỡng, rèn luyện, ra sức học tập để tự hoàn thiện bản thân, phấn đấu hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
99
- Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nâng cao chất lượng công tác chương
trình, kế hoạchvề đảm bảo TTATXH. Để nâng cao chất lượng công tác này,
cần coi trọng và phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các đơn vị, lực lượng
liên quan. Đề cao vai trò của người đứng đầu địa phương trong xây dựng, triển
khai các giải pháp về đảm bảo TTATXH.
3.3.2. Hoàn thiện thể chế, chính sách về trật tự an toàn xã hội
Chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, biện pháp
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân
thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng thế trận lòng dân
phòng, chống tội phạm; kết hợp chiến lược Quốc gia phòng, chống tội phạm
với các chiến lược, chính sách về xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với
nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm sự thống nhất,
đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế lấy
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc
phòng, an ninh trong điều kiện mới [30].
Cần xây dựng, ban hành Thông tư quy định về các biểu mẫu thay thế các
biểu mẫu cũ về đăng ký quản lý cư trú trước đây, trong đó loại bỏ các sổ, biểu
mẫu liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, giấy chuyển hộ khẩu ... do hiện
nay không còn sử dụng.Khi chuyển sang phương thức quản lý công dân trên
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu về cư trú,sẽ chuyển qua
hình thức sử dụng sổ hộ khẩu điện tử, người dân nhập hộ khẩu, xóa hộ khẩu,
chuyển hộ khẩu, đăng ký tạm trú… đều được cập nhật trên hệ thống Cơ sở dữ
liệu về cư trú, thay vì được viết tay trong cuốn sổ hộ khẩu, sổ tạm trú bằng
giấy như trước đây.
Cần sớm đồng bộ hóa dữ liệu để các cơ quan hành chính, các giao dịch
dân sự như ngân hàng, mua bán nhà đất... kết nối được để tra cứu được thông
100
tin người dân bằng mã số định danh trên căn cước công dân, để không còn tồn
tại tình trạng đòi hỏi sổ hộ khẩu để đối chiếu, tránh gây phiền hà, rắc rối cho
người dân, sử dụng căn cước công dân gắn chip hiệu quả.
Đề xuất nghiên cứu sửa đổi khoản 2 Điều 7 về vi phạm quy định về trật tự
công cộng trong Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống
bạo lực gia đình từ mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng lên
mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nhằm đảm bảo tính răn
đe đối với các hành vi vi phạm.
Đề xuất xem xét, sửa đổi Nghị định số 36/2008/NĐ-CP ngày 28/3/2008
của Chính phủ về quản lý tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ
nhằm quy định chặt chẽ hơn trong việc cấp phép cho phù hợp với thực tiễn.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về công tác quản lý ngành nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự (Nghị định số 96/2016/NĐ-CP)
cho phù hợp với danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy
định tại Luật đầu tư sửa đổi năm 2020, nghiên cứu đưa thêm một số ngành nghề
mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn như: dịch vụ hỗ trợ tài chính, kinh
doanh tiền ảo do tiềm ẩn nhiều nguy cơ đến ANTT.
Rà soát, tham mưu, đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung thay thế các chính
sách, pháp luật liên quan lĩnh vực đảm bảo TTATXH cho phù hợp với tình hình
thực tiễn theo hướng nâng cao khung hình phạt, mức phạt và đảm bảo tính răn
đe, đồng thời vừa tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư vừa góp phần bịt kín
“kẽ hở”, không để các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm lợi dụng
để hoạt động xâm phạm ANQG, TTATXH.
Nâng cao chất lượng nhất là đội ngũ lãnh đạo, cán bộ tham mưu xây dựng
chính sách, pháp luật, thể chế, chính sách về TTATXH.
101
3.3.3. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động và giáo dục cho các
đối tượng về trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
chú ý hướng đến những đối tượng có nguy cơ cao, địa bàn trọng điểm, phức
tạp về an ninh, trật tự. Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và chủ động cung
cấp thông tin định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên
và nhân dân; làm chuyển biến rõ nét về nhận thức, ý thức trách nhiệm trong
chấp hành pháp luật, nêu cao cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn bạo loạn lật
đổ, kích động biểu tình, gây rối ANTT của các thế lực thù địch, các tổ chức
phản động, các đối tượng cực đoan, nhất là trên không gian mạng.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và cấp ủy, chính quyền các cấp cần tập
trung đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, đảm bảo hiệu quả, phù
hợp với tình hình thực tiễn; trong đó, lực lượng vũ trang phải thực sự là nòng
cốt trong công tác dân vận tại các địa bàn trọng điểm; chủ động đối thoại với
người dân, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, xử lý kịp thời những bức xúc, phức
tạp có thể dẫn tới mất an ninh, trật tự ở cơ sở; người đứng đầu cấp ủy Đảng,
chính quyền, Thủ trưởng các cơ quan đơn vị phải chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện, kiểm tra xử lý những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh ở địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Cần đổi mới hình thức tuyên truyềnphổ biến, giáo dục pháp luật để phù
hợp với từng đối tượng, từng địa bàn; nên cải tiến để ngày càng đa dạng, linh
hoạt, chuyển tải được nhiều thông tin pháp luật. Hiện nay, khi nền tảng Internet
phát triển, các dịch vụ ứng dụng miễn phí khá nhiều, có thể tuyên truyền phổ
biến thông tin pháp luật bằng các hội nghị trực tuyến. Với hình thức này, việc
tuyên truyền không tốn kém về chi phí, có thể tăng số lượng người nghe mà
không cần phải bố trí địa điểm tổ chức Hội nghị, không giới hạn về địa lý, phù
hợp với tình hình dịch bệnh. Bên cạnh đó, sự phát triển của mạng xã hội đã kết
102
nối thế giới đến từng cá nhân, làm cho việc tiếp cận thông tin một cách nhanh
chóng, dễ dàng. Hiện nay, phần lớn bộ phận người dân trên địa bàn đều sử dụng
các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram, … có thể thông qua
các trang mạng xã hội này, lập fanpage để tuyên truyền phổ biến các thông tin
về văn bản quy phạm pháp luật, nghị định, thông tin chính sách tới người dân.
Hiện nay, trên địa bàn quận Hà Đông đã và đang hình thành nhiều khu đô thị
cao cấp, có thể thông qua các hội nhóm facebook, zalo của dân cư khu đô thị
để tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Gắn tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về TTATXH với tiếp tục củng cố
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; đầu tư phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng và củng cố phát huy hiệu quả các tổ
chức quần chúng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở; phát động sâu rộng phong
trào toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo
dục, quản lý người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư. Thường xuyên
động viên, khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác
phòng chống tội phạm; nhân rộng những điển hình tiên tiến, cách làm hay, sáng
tạo, hiệu quả cao.
3.3.4. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội.
Năm 2018 đánh dấu “cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy” trong CAND.
Đảng bộ Công an Trung ương là một trong những đảng bộ gương mẫu đi đầu
trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW Ban Chấp hành Trung
ương khoá XII ngày 25/10/2017một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”trong
thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản
biên chế.
Công an quận Hà Đông tiếp tục triển khai nghiêm túc, có hiệu quả kế
hoạch của Bộ Công an về cơ cấu lại đội ngũ cán bộ theo Quy định số 02-
QĐ/ĐUCA ngày 22/8/2019 về khung tiêu chuẩn, tiêu chí bố trí cán bộ ở 04 cấp
103
Công an (cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) và Kế hoạch số 376/KH-BCA-
X01 ngày 01/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Công an về cơ cấu lại đội ngũ cán bộ
ở các cấp Công an; xây dựng danh mục vị trí việc làm, xác định mức biên chế
đối với từng vị trí, việc làm để nghiên cứu bố tríđủ biên chế, tăng cường cho
các lĩnh vực công tác, chiến đấu đặc biệt là các bộ phận liên quan đến quản lý
hành chính về trật tự xã hội theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu theo
đối tượng, địa bàn, mục tiêu, tuyến và lĩnh vực trọng điểm với nguyên tắc một
đơn vị có thể thực hiện nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một đơn vị chủ
trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính; tập trung sắp xếp lại các đầu mối công
việc, xác định rõ ràng hơn các nhóm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với
các đơn vị.Tiếp tục rà soát, nghiên cứu đề xuất điều chỉnh, hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động theo thực tiễn, yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới. Nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng biên
chế, kết hợp tinh giản biên chế và bổ sung đội ngũ cán bộ phù hợp. Đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kết hợp luân chuyển, phân công, phân cấp
quản lý cán bộ.
Bổ sung lực lượng cảnh sát khu vực theo đúng quy định của Điều lệnh
Cảnh sát khu vực. Cần căn cứ đặc điểm từng địa bàn để lựa chọn, bố trí cán bộ
có năng lực, thái độ làm việc phù hợp với yêu cầu thực tế của địa bàn. Ví dụ
như: đối với phường có khu di tích, khu du lịch, có nhiều du khách nước ngoài
đến du lịch hay những phường có nhiều người nước ngoài sống và làm việc cần
cử các cán bộ có khả năng ngoại ngữ, biết xử lý tình huống, linh hoạt, nhanh
nhẹn để khi có sự việc xảy ra thì kịp thời xử lý.
3.3.5. Nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ làm công tác đảm bảotrật tự an toàn xã hội
Ra đời trong phong trào cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sáng lập,
rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng CAND không ngừng phát triển,
104
trưởng thành, là "lá chắn, thanh bảo kiếm" bảo vệ, vững bước theo Đảng, đồng
hành cùng đất nước, phục vụ nhân dân, sáng mãi truyền thống “Vì nước quên
thân, vì dân phục vụ”. Hiểu được điều đó, Công an quận Hà Đông thường xuyên
chăm lo xây dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh, chính quy. Tiếp tục thực
hiệnNghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, gắn với thực hiện Chỉ
thị 05 về học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực
hiện có hiệu quả các phong trào thi đua của đơn vị. Đề án xây dựng lực lượng
Công an nhân dân đến năm 2030 thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới…, triển khai có
hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị đã ban về
"đẩy mạnh xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính
quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới".
Công an quận Hà Đông cần tập trung công tác đào tạo, huấn luyện, bồi
dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho cán bộ,
chiến sĩ; nghiên cứu, đề xuất chính sách hỗ trợ cán bộ tham gia các khóa học
đào tạo nâng cao trình độ. Đặc biệt, tập trung đào tạo cán bộ có trình độ cao,
năng lực toàn diện, có tư duy chiến lược; tinh thông nghiệp vụ, có tác phong
chuyên nghiệp; khả năng làm chủ và sử dụng thành thạo các phương tiện, khoa
học - kỹ thuật hiện đại vào trong thực tiễn công tác, chiến đấu. Tiếp tục hoàn
thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cho cán bộ; lồng ghép
các chương trình đào tạo thực tiễn kết hợp với đổi mới phương thức kiểm tra
năng lực sau đào tạo đối với đội ngũ này.
Cần tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm các tổ chức, các
lực lượng về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Công an quận Hà Đông
hiện nay. Cần thông qua hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng nâng cao nhận thức
105
trách nhiệm mọi mặt của từng tổ chức, lực lượng đối với nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ.
Cần nâng cao chất lượng quy hoạch, tạo nguồn, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ Công an quận Hà Đông hiện nay. Đây là vấn đề quan
trọng vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa mang tính chiến lược cơ bản lâu
dài bởi có thường xuyên làm tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ thì năng
lực trình độ chuyên môn công tác mới được nâng cao, mới giải quyết được
những công việc do thực tiễn đặt ra. Trong xu thế mở cửa, hội nhập và phát
triển nền kinh tế tri thức đòi hỏi người cán bộ Công an phải có kiến thức toàn
diện không những nắm vững những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ mà
còn phải có sự tinh thông, am hiểu những kiến thức liên ngành về pháp luật, xã
hội, ngoại ngữ, tin học để có thể nắm bắt và ứng phó nhanh với những tình
huống có thể xảy ra. Cần kết hợp chặt chẽ với quản lý, bố trí, sử dụng cán bộ;
đánh giá chính xác, khách quan kết quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ;
nâng cao chất lượng tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ chủ chốt Công an quận Hà
Đông hiện nay.Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ và những cán bộ yếu về năng lực chuyên môn.
Xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn thử thách trong
công tác đảm bảo ANTT
3.3.6. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong
bảo đảm trật tự an toàn xã hội
QLNN về TTATXH nhằm phục vụ, đáp ứng những nhu cầu, lợi ích cơ
bản, thiết thực của nhân dân, các cơ quan, tổ chức. Đồng thời, QLNN về
TTATXH còn đảm bảo các nội dung trên nhiều lĩnh vực như: hoạt động kinh
doanh, văn hóa, vui chơi, giải trí, giao thông, trật tự công cộng, sử dụng phương
tiện đặc biệt, quan hệ, giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức nhiều nội dung
QLNN về TTATXH mang tính chất liên ngành. Kết quả công tác QLNN về
106
TTATXH có thể được sử dụng, khai thác trong QLNN của nhiều Bộ, ban ngành
khác nhau. Do đó, trong quá trình thực hiện, đòi hỏi lực lượng Công an quận
Hà Đông cần phối hợp chặt chẽ, tranh thủ sự hỗ trợ, phối hợp, ủng hộ của các
Ban, ngành chức năng có liên quan, huy động các lực lượng, phương tiện phù
hợp trên cơ sở các quy định của pháp luật về QLNN về TTATXH. UBND
thường xuyên tổ chức các ban kiểm tra liên ngành.
Để có thể đảm bảo công tác QLNN về TTAXH trên địa bàn quận Hà Đông
được triển khai tốt, lực lượng chuyên trách là Công an Quận Hà Đông cần phối
hợp với các cơ quan, bàn ngành khác.
Phối hợp với các lực lượng trong ngành Công an
Trên cơ sở quy định của Bộ Công an, cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh tốt
việc phân công, phân cấp quản lý người nước ngoài cho phù hợp hơn với chức
năng nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Công an thành phố Hà Nội. Tiếp tục đẩy
mạnh sử dụng công nghệthông tin và cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả
trong phối hợp, đánh giá, xử lý thông tin về người nước ngoài. Phối hợp với
Công an các quận, huyện có địa bàn giáp ranh, đặc biệt là với Công an quận
Thanh Xuân và Công an huyện Thanh Trì xử lý tốt các tồn tại, hạn chế trong
công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm,
…) do các đối tượng lợi dụng địa bàn giáp ranh để lẩn tránh. Phối hợp trong
điều tra, xử lý các hành vi vi phạm TTATXH; phối hợp trong hoạt động nghiệp
vụ; trao đổi và chia sẻ thông tin có liên quan đến tình hình ANTT xảy ra ở khu
vực để cùng giải quyết và xử lý dứt điểm, không để mâu thuẫn phát sinh, tranh
chấp kéo dài.
Phối hợp với các cơ quan, ban ngành có chức năng QLNN liên quan đến
TTATXH
Tăng cường công tác phối hợp trong đảm bảo ANTT giữa các cơ quan, ban
ngành trên địa bàn Quận được quy định rõ tại quy chế phối hợp các bên đã ký
kết; thường xuyên phối hợp rà soát, lấy ý kiến trước khi ban hành các văn bản
107
quy phạm pháp luật về TTATXH, phát hiện những vấn đề bất cập, thiếu sót,
hoàn thiện cơ chế phối hợp để tránh hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp
luật hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tế, hằngnăm, từng cơ quan phải
xây dựng kế hoạch cụ thể hóa những nội dung đã ký kết thuộc chức năng, nhiệm
vụ của đơn vị, phân công cụ thể cho từng bộ phận để tổ chức thực hiện; định kỳ
tổ chức giao ban, sơ kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện quy chế phối hợp,
chỉ ra những nội dung làm được, những nội dung chưa làm được, nguyên nhân,
từ đó điều chỉnh, bổ sung quy chế cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Hình thức phối hợp cần phải linh hoạt, đa dạng, phù hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể như: tổ chức giao ban định kỳ hàng tháng, quý, 6 tháng và tổng kết
năm; trao đổi thông tin đột xuất hàng ngày giữa lãnh đạo các đơn vị; đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin nhằm bảo đảm thông tin luôn thường xuyên, kịp
thời; tổ chức phối hợp trong diễn tập giải quyết các phương án đảm bảo ANTT;
chủ động tham gia giải quyết các vụ việc liên quan đến ANTT theo chức năng
nhiệm vụ và quy chế phối hợp. Đảm bảo chủ động, kịp thời, thống nhất, hiệu
quả khi xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan
trong hoạt động phối hợp.
Nội dung phối hợp phải toàn diện, thiết thực; trong đó tập trung vào những
vấn đề nổi cộm, tình hình phức tạp liên quan đến ANTT trên địa bàn đã được
xác định trong quy chế phối hợp, cụ thể:
Đối với các ban, ngành, đoàn thể (Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội
cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,…), các cơ quan,
doanh nghiệp, trường học: công tác phối hợp chủ yếu trong triển khai thực hiện
các nội dung phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”, thực hiện tốt
phong trào “Tự phòng - Tự quản”, phối hợp trong tuyên truyền vận động cán
bộ, nhân dân chấp hành chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tham gia
phát hiện, tố giác tội phạm, tệ nạn xã hội, phối hợp trong triển khai công tác
phòng ngừa tại các địa bàn, mục tiêu, phối hợp trong công tác nắm tình hình,
108
quản lý, cảm hóa giáo dục và đấu tranh xử lý đối với những trường hợp vi phạm
tại địa phương, đơn vị. Phối hợp với UBND quận tích cực đẩy mạnh triển khai
các chuyên đề phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
Cần tận dụng lợi thế khi trên địa bàn quận Hà Đông là nơi đặt trụ sở của
nhiều cơ quan hành chính cấp thành phố giúp cho công tác phối hợp hiệu quả.
Thường xuyên củng cố mối đoàn kết giữa các lực lượng tham gia phối hợp
đảm bảo ANTT; từng đơn vị phải phát huy tính chủ động, tinh thần trách nhiệm
trong việc thực hiện quy chế phối hợp, phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn
tại, hạn chế, đồng thời đề xuất các cấp khen thưởng đối với những tập thể, cá
nhân có thành tích trong công tác phối hợp đảm bảo ANTT để đưa công tác này
từng bước đi vào nền nếp, có hiệu quả, thiết thực.
3.3.7. Tăng cường cơ sở sở vật chất, phương tiện, nguồn lực và công
nghệ trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động QLNN về TTATXH. Bảo đảm tiềm lực cơ sở vật chất,đảm bảo các điều
kiện về hạ tầng, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật nhằm theo
kịp yêu cầu của tình hình.Ứng dụng hiệu quả các thành tựu về khoa học kỹ
thuật và công nghệ trong nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự ở địa phương
(nghiên cứu các hệ cơ sở dữ liệu lớn - Big Data, ứng dụng trí tuệ nhân tạo - AI,
Internet vạn vật,..) ứng dụng trang thiết bị công nghệ phục hiệu quả công tác
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, như: máy đo nồng độ cồn, máy bắn tốc độ,
hệ thống camera giám sát an ninh, giao thông trên địa bàn.
Trong công tác PCCC&CHCN cần đẩy mạnh việc phổ biến sử dụng ứng
dụng “Báo cháy 114” tới người dân trên địa bàn, trang bị các phương tiện, thiết bị
phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ cứu nạn, vận hành hệ thống cảnh báo cháy nhanh,
ứng dụng công nghệ Fireblast trong đào tạo cán bộ với ưu điểm tạo lửa thật, nhiệt
thật, khói thật … phục vụ công tác phòng cháy, chữa cháy; ứng dụng công nghệ
LIDAR sử dụng với thiết bị bay không người lái nhằm cung cấp các phép đo chính
109
xác, nhanh chóng hỗ trợ các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp, phương tiện kỹ thuật phục
vụ hiệu quả công tác cứu nạn, cứu hộ, phòng chống thiên tai bão, lụt.
Triển khai nghiên cứu, ứng dụng phần mềm phục vụ các lĩnh vực công tác
của các lực lượng trên địa bàn quận, như phần mềm quản lý văn bản, phần mềm
nhận diện khuôn mặt, âm thanh, hình ảnh.
Cần đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính
nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và nhất quán trong tất cả các khâu.
Bên cạnh việc duy trì các dịch vụ công trực tuyến mức độ 1,2 cần nghiên cứu,
xây dựng, triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4.
Khai thác triệt để những ưu điểm của căn cước công dân có gắn chíp, tạo điều
kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các giao dịch hành chính, nâng cao hiệu quả
của Chính phủ điện tử, Chính phủ số và khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
bảo đảm từng bước thay thế các giấy tờ cá nhân trên cơ sở tích hợp, xác thực các
thông tin, giấy tờ cá nhân vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để chỉ cần sử dụng
thẻ Căn cước công dân, ứng dụng Định danh điện tử quốc gia (VNEID).
Để có thể khai thác hết các tính năng của hệ thống thiết bị mới, ứng dụng
khoa học công nghệ, đội ngũ cán bộ làm công tác đảm bảo TTATXH cần phải
được trang bị kiến thức mới, kỹ năng sử dụng các thiết bị công nghệ, kỹ năng khai
thác dữ liệu điện tử, kỹ năng sử dụng AI (trí tuệ nhân tạo) trong công tác của mình.
3.3.8. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong công tác đảm
bảotrật tự an toàn xã hội
Thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra để làm tốt công tác phòng,
chống tội phạm, công tác thanh tra, kiểm tra để phòng chống cháy nổ, nhất là
đối với các đơn vị, cơ sở kinh doanhlĩnh vực nhạy cảm dễ xảy ra sai phạm để
chủ động phòng ngừa,có dấu hiệu, biểu hiện vi phạm để kịp thời phát hiện, chấn
chỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra bảo đảm phối hợp chặt chẽ, đồng bộ cùng
với hoạt động truy tố, xét xử của cơ quan có thẩm quyền sẽ được triển khai
quyết liệt, thường xuyên, toàn diện. Chủ động phát hiện sớm, xử lý nghiêm
110
minh các vụ việc vi phạm; hạn chế tối đa tình trạng khiếu nại, tố cáo phức tạp,
đông người, vượt cấp; không để xảy ra “điểm nóng” ảnh hưởng đến an ninh,
trật tự trên địa bàn.
Nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật cho người dân, công tác
hòa giải ở cơ sở giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh ngay từ đầu;
giảm thiểu số đơn, thư khiếu nại, tố cáo không đúng thẩm quyền, vượt cấp.
Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các
đối tượng lợi dụng khiếu nại, tố cáo để khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vụ lợi cá
nhân, cầm đầu, lôi kéo, xúi giục, kích động người dân khiếu nại, tố cáo gây mất
an ninh, trật tự tại địa phương. Nhất là khi trên địa bàn đặt Trụ sở tiếp công dân
của Trung ương Đảng và Nhà nước.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng cơ chế tiếp nhận
thông tin tố giác, hệ thống phần mềm quản lý thông tin thống nhất về khiếu nại,
tố cáo của công dân trên địa bàn quận, tránh mâu thuẫn, chồng chéo trong quá
trình thụ lý, giải quyết. Đổi mới cách thức làm việc, thích ứng theo phương
thức làm từ xa, giảm tiếp xúc trực tiếp, tận dụng tối đa trên môi trường số; yêu
cầu các đơn vị tự kiểm tra, báo cáo, gửi hồ sơ, tài liệu về trụ sở cơ quan; khi
cần làm việc, trao đổi với các bên liên quan thì thực hiện qua hệ thống thông
tin trực tuyến nhưng vẫn đảm bảo quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra và
quy định bảo vệ bí mật nhà nước. Đổi mới về hình thức, cơ chế tiếp nhận thông
tin tố giác về các vi phạm đảm bảo TTATXH: có thể được tiến hành qua việc
áp dụng công nghệ thông tin (qua cổng thông tin điện tử, qua thư điện tử …)
Đội ngũ những người làm công tác thanh tra, kiểm tra cần phải thay đổi
nhận thức, tư duy về quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện hoạt động thanh
tra, kiểm soát trong thời đại 4.0, có bản lĩnh vững vàng, liêm chính, trung thực,
có kiến thức, kỹ năng chuyên môn sâu, nắm vững chủ trương, đường lối của
ảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
111
Tiểu kết chương 3
Những năm tới, với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đẩy mạnh tốc độ đô thị là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thành phố
Hà Nội nói chung, quận Hà Đông nói riêng. Theo đó, kinh tế - xã hội của Quận
sẽ tiếp tục thay đổi mạnh mẽ, kinh tế duy trì tăng trưởng cao, đô thị hóa và tiến
độ thi công các khu công nghiệp, khu đô thị được đẩy mạnh. Đời sống kinh tế -
văn hóa - xã hội của nhân dân tiếp tục được nâng cao. Do đó, yêu cầu củng cố
và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị trong lãnh đạo và quản lý
xã hội ngày càng cấp thiết. Đây là những nhân tố và điều kiện thuận lợi cơ bản
đối với QLNN về TTATXH trên địa bàn. Tuy nhiên, những yếu tố đó cũng sẽ
nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, nhất là vấn đề khiếu kiện và lợi dụng khiếu kiện,
tôn giáo, quản lý đô thị. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch và bọn tội phạm sẽ
tiếp tục gia tăng các hoạt động phạm tội, chống phá, xâm phạm ANTT.
Tại Chương 3, học viên đã nêu những quan điểm của Đảng và của Thành
ủy Hà Nội về bảo đảm TTATXH; nêu dự báo tình hình TTATXH trên địa bàn
quận Hà Đông thời gian tới; đưa ra một số giải pháp QLNN về TTATXH trên
địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội gồm: Nâng cao chất lượng về chương
trình, kế hoạch đảm bảo TTATXH; Hoàn thiện thể chế, chính sách về
TTATXH; Đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động và giáo dục cho các đối
tượng về TTATXH; Kiện toàn bộ máy QLNN về TTATXH; Nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công tác
TTATXH; Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong
bảo đảm TTATXH; Ứng dụng khoa học - công nghệ; Đổi mới công tác thanh
tra, kiểm tra trong công tác bảo đảm TTATXH. Hy vọng với một số giải pháp
QLNN về TTATXH học viên đưa ra sẽ giúp giữ vững TTATXH trên địa bàn
trong những năm tiếp theo, góp phần vào việc đảm bảo an ninh trật tự tại toàn
thành phố Hà Nội
112
KẾT LUẬN
Ở bất kỳ chế độ nào, QLNN về TTATXH luôn giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong QLNN, đảm bảo TTATXH, đáp ứng các quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, công dân. Lực lượng công an là lực lượng nòng cốt,
chủ công trong thực hiện QLNN về TTATXH, góp phần quản lý xã hội, đáp
ứng các quyền, lợi ích cơ bản của công dân, các cơ quan, tổ chức cũng như
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn cả
nước nói chung và địa bàn quận Hà Đông nói riêng. Cần phải thống nhất nhận
thức rằng, QLNN về TTATXH trên địa bàn cấp quận không chỉ là nền tảng,
tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác công an nói riêng mà
còn là một bộ phận không thể thiếu trong công tác QLNN của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nói chung. Vì vậy, giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu tìm
ra giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực về TTATXH trên địa bàn cấp quận,
huyện nói chung và quận Hà Đông nói riêng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa
cả về lý luận và thực tiễn.
Với những đặc điểm riêng, Quận Hà Đông được xác định là địa bàn trọng
điểm về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của thành phố Hà Nội. Hà Đông
đã và đang là địa bàn sôi động, năng động trong phát triển kinh tế - xã hội nhưng
cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức trên lĩnh vực đảm bảo TTATXH. Tập
thể lãnh đạo và cán bộ chiến sĩ Công an quận Hà Đông phối hợp với các cơ
quan hữu quan trên địa bàn phát huy tinh thần đoàn kết, quyết tâm, cố gắng
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Nhờ vậy, QLNN về TTATXH
trên địa bàn Quận Hà Đông đã có những chuyển biến tích cực. Tuy vậy, thực
tiễn QLNN về TTATXH của Công an quận Hà Đông trong những năm qua
cũng cho thấy, trên một số lĩnh vực và một số mặt công tác, đề nâng cao hơn
nữa hiệu quả QLNN về TTATXH đòi hỏi lực lượng Công an Quận còn phải
tiếp tục rút kinh nghiệm và phấn đấu không ngừng. Trong đó, cần tiếp tục có
113
sự chỉ đạo quyết liệt của Quận ủy, UBND Quận, Ban chỉ huy Công an Quận,
sự phối hợp, giúp đỡ của các ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương
pháp nghiên cứu cụ thể, luận văn đã đạt được một số kết quả sau:
- Từ phân tích, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan,
luận văn đã kế thừa và xác định những vấn đề đặt ra cần tiếp tục bổ sung, nghiên
cứu, hoàn thiện theo phạm vi, đối tượng của luận văn.
- Hệ thống, phân tích bổ sung làm rõ lý luận về QLNN về TTATXH.
- Luận văn đã phân tích đặc điểm tình hình có liên quan thực trạng QLNN
về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Đánh giá, nhận xét
chung về kết quả đạt được và hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Qua đó cho thấy,
thời gian qua QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
đã được thực hiện tương đối tốt, góp phần quan trọng trong đảm bảo ANTT,
nâng cao hiệu quả quản lý xã hội trên địa bàn cũng như thành phố Hà Nội.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, luận văn đã đưa ra một số dự báo tình
hình và các yếu tố tác động đến QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất hệ thống giải pháp khá đồng bộ, mang
tính khả thi và phù hợp với thực tiễn QLNN về TTATXH trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
Từ những kết quả trên, hy vọng luận văn sẽ đem lại nhiều ý nghĩa thiết
thực về lý luận cũng như về thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả đối
với công tác QLNN về TTATXH không chỉ trên địa bàn quận Hà Đông mà còn
ở các địa bàn khác của thành phố Hà Nội. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện
luận văn sẽ không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế, kính mong nhận được sự góp
ý của các thầy cô, các học viên để luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!
114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1977), Văn kiện Đảng, tập 1
(1930-1945), Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2016),Nghị quyết số 04/NQ-TW
ngày 30/10/2016, về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương khoá XII (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Hà Nội.
4. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (khóa XVI) (2016), Chỉ thị số 15-CT/TU
ngày 16-12-2016 của về "Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối
với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Hà Nội.
5. Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội (khóa XVI) (2017), Nghị quyết số 15-
NQ/TU của ngày 4-7-2017 về "Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh, củng cố cơ sở Đảng yếu kém; giải quyết các vấn đề phức tạp về
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn
thuộc thành phố Hà Nội", Hà Nội.
6. Lê Thanh Bằng (2017), Luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn
xã hội trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”, Học viện Hành chính Quốc gia, Tp. Hồ
Chí Minh.
7. Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 về “Tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả", Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về "đẩy mạnh
xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới",HàNội.
9. Bộ Công an - Viện nghiên cứu chiến lược và Khoa học Công an (2005) Từ
điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội.
10. Bộ Công an (2018), Thông tư số 42/2018/TT-BCA, ngày 25/12/2018 về Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Công an huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.
11. Bộ Công an - Cục Khoa học, chiến lược và lịch sử Công an (2020) Bách khoa
thư Công an nhân dân Việt Nam, Phần Tổng quan về Công an nhân dân và sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, NXB CAND,
Hà Nội.
12. Bộ Nội vụ (2014), Tài liệu bồi dưỡng ngạch Chuyên viên chính, quyển 1,
NXB Bách Khoa, Hà Nội.
13. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 về tăng
cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
14. Chính phủ (2002), Nghị định số 56/2002/NĐ-CP ngày 15/5/2002 về tổ chức
cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng, Hà Nội.
15. Chính phủ (2003), Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày 19/12/2003 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, Hà Nội.
16. Chính phủ (2009), Nghị định 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của về quản
lý, sử dụng pháo, HàNội.
17. Chính phủ (2019), Nghị định 100/NĐ-CP ngày 30/2/2019 quy định về xử
phạt sai phạm liên quan tới giao thông đường bộ, HàNội.
18. Chính phủ (2021), Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội,HàNội
19. Công an Quận Hà Đông (2019), Báo cáo tổng kết tình hình công tác Công
an năm 2019, Hà Nội.
20. Công an Quận Hà Đông (2020), Báo cáo tổng kết tình hình công tác Công
an năm 2020, Hà Nội.
21. Công an Quận Hà Đông (2021), Báo cáo tổng kết tình hình công tác Công
an năm 2021, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ IV, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ VI, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ VII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Về nhiệm vụ an ninh - quốc phòng và
chính sách đối ngoại của Đảng, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lầnthứ XI, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
31. Nguyễn Ngọc Hà (20218), Luận văn Thạc sĩ “Vai trò của lực lượng Cảnh
sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú - từ thực tiễn
quận Long Biên thành phố Hà Nội”, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
32. Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Giáo trình Quản lý nhà nước về an
ninh trật tự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội
33. Học viện Hành chính (2009) Giáo trình Quản lý Nhà nước về an ninh, quốc
phòng. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
34. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước, tập
1, NXB Lao động, Hà Nội.
35. Học viện Hành chính (2012), Tài liệu Bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà
nước Chương trình chuyên viên, Phần III Quản lý nhà nước đối với ngành,
lĩnh vực, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
36. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.
37. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.
38. Quốc hội (2004), Luật An ninh quốc gia, Hà Nội
39. Quốc hội (2014), Luật Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Quốc hội (2018), Luật Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.
42. Quốc hội (2021), Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
43. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
44.Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, HàNội
45. Quốc hội (2017), Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ,
HàNội.
46.Nguyễn Học Sơn (2018), Luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước về trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội”, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
47. Trần Đại Quang, chủ biên (2008), “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về an ninh quốc gia”, NXBCAND, năm 2008, Hà Nội.
48. Tạp chí điện tử về quản lý nhà nước - Học viện hành chính quốc gia:
https://www.quanlynhanuoc.vn
49. Trang web: http://bocongan.gov.vn
50. Trang web: https://hadong.hanoi.gov.vn
51. Trang web: http://www.hanoimoi.com.vn
52. Phí Đức Tuấn, 2010, Những vấn đề cơ bản và định hướng giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự, Học viện ANND, Hà Nội.
53. Nguyễn Xuân Yêm (1998), Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, NXB CAND, Hà Nội
Phụ lục 1
QUY MÔ DÂN SỐ THEO CƠ CẤU TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH QUẬN HÀ ĐÔNG NĂM 2019
Diện tích Dân số Diện tích Dân số TT Tên phường TT Tên phường (ha) (người) (ha) (người)
Phường Quang Trung 78,89 14.124 10 Phường Phú Lãm 266,18 20.017 1
Phường Nguyễn Trãi 42,02 18.637 11 Phường Hà Cầu 152,27 14.405 2
Phường Yết Kiêu 21,9 7.249 12 Phường Kiến Hưng 428,46 14.636 3
Phường Vạn Phúc 143,97 20.725 13 Phường Yên Nghĩa 661,57 15.295 4
Phường Phú Lương 671,52 15.088 14 Phường Văn Quán 137,39 20.725 5
Phường Mộ Lao 124,63 20.550 15 Phường Đồng Mai 634,55 15.037 6
Phường La Khê 285,35 17.622 16 Phường Biên Giang 278,05 7.465 7
Phường Phúc La 138,71 20.434 17 Phường Dương Nội 585,42 19.766 8
Phường Phú La 182,78 9.853 9 Tổng cộng 4.833,66 271.628
(Nguồn: UBND quận Hà Đông, 2019)
Phụ lục 2
KẾT QUẢ CÔNG TÁC CẤP CMND, CCCD CỦA LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT QLHC VỀ TTXH CÔNG AN QUẬN HÀ ĐÔNG
(Từ năm 2019 - 2021)
Công tác cấp CMND, CCCD
Năm
Cấp mới Cấp lưu động Trả trực tiếp Chuyển qua bưu điện
18.317 3439 1.058 13.820 2019
20.626 1336 1.944 17.346 2020
213.752 0 15.655 198.097 2021 (CCCD gắn chip)
Tổng cộng 252.695 4.775 18.657 229.263
(Nguồn: Công an quận Hà Đông)
Phụ lục 3
KẾT QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
(Từ năm 2019 - 2021)
Năm Buổi tập Số người Số lượt ký Cấp giấy Số tin, bài Tin bài đã In tờ rơi, sổ
huấn tham gia tập cam kết chứng nhận phóng sự đã cung cấp cho tay
huấn luyện báo chí huấn phát
164 3.000 2.226 2.908 35 19 4.400 2019
402 4.546 1.725 2.958 225 70 170.000 2020
11 2.520 21.437 3.418 565 39 164.000 2021
Tổng 577 9.284 825 10.066 25.421 128 338.400
(Nguồn: Công an quận Hà Đông)
2