VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG VĂN TRUNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.Đặng Thị Phượng (cơ quan
Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam), các số liệu là trung thực,
khách quan được tham khảo từ các văn bản lưu trữ của các cơ quan Nhà
nước. Những kết quả nghiên cứu chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2021
Người cam đoan
Trương Văn Trung
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, cho phép tôi trân trọng được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
TS. Đặng Thị Phượng đã tận tâm hướng dẫn chu đáo, góp ý, giúp đỡ tôi về
mọi mặt trong quá trình nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc, cán bộ, giảng viên của Học viện
khoa học xã hội đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu tại Học viện.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo UBND thành phố Hội An, Văn phòng
HĐND-UBND, Phòng quản lý đô thị, Phòng VHTT-TT, Công An thành phố,
Đội Quy tắc thành phố Hội An, anh chị em học viên, bạn bè, đồng nghiệp đã
tạo điều kiện và cung cấp thông tin, tài liệu, đóng góp ý kiến, động viên
khích lệ để tôi hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Rất mong nhận được sự hướng dẫn, góp ý của quý thầy, cô và bạn
bè để luận văn của tôi được bổ sung và hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
TRẬT TỰ ĐÔ THỊ......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về trật tự đô thị ........ 8
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về trật tự đô thị ........................................... 13
1.3. Các yếu tố bảo đảm quản lý nhà nước về trật tự đô thị. ......................... 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ
ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG
NAM. ............................................................................................................. 30
2.1. Thực trạng trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam. ............................................................................................................... 30
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội
An ................................................................................................................... 39
2.3. Đánh giá thực trạng của công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên
địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ................................................. 54
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM ......................................... 63
3.1. Quan điểm quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội
An ................................................................................................................... 63
3.2. Giải pháp đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa
bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ....................................................... 65
KẾT LUẬN ................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 ANTT An ninh trật tự
2 ATGT An toàn giao thông
3 CQHCNN Cơ quan hành chính Nhà nước
4 CSGT Cảnh sát giao thông
5 HĐND Hội đồng Nhân dân
6 KT-XH Kinh tế-xã hội
7 QLHCNN Quản lý hành chính Nhà nước
8 QLNN Quản lý Nhà nước
9 TTĐT Trật tự đô thị
10 TTĐTKDL Trung tâm đón tiếp khách du lịch
11 UBND Ủy ban Nhân dân
United Nations Educational Scientific and
Cultural Organization 12 UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên
Hiệp Quốc
13 VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
14 VHTT-TT Văn hóa thông tin-tuyên truyền
15 VPHC Vi phạm hành chính
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang Bảng
Thực trạng tổ chức thực hiện QLNN về trật tự đô thị 2.1 53 trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế,
kinh tế phát triển nhanh chóng, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, khu vực đô thị
khẳng định vai trò tạo động lực phát triển kinh tế của cả nước, tạo ra hàng
triệu việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, đô thị phát triển cũng đang kéo theo nhiều vấn đề phát sinh
trong quản lý nhà nước (QLNN) về trật tự đô thị, phải đối diện với nhiều
thách thức như năng lực và tư duy quản lý, cơ chế quản lý đô thị chưa theo
kịp tốc độ đô thị hóa; đặc biệt đối với thành phố Hội An hiện nay thực hiện
chủ trương xây dựng đô thị di sản “Sinh thái-Văn hóa-Du lịch”. Công tác
quản lý nhà nước về đô thị nhìn chung vẫn còn nhiều mặt tồn tại. Chưa có
quy hoạch tổng thể về xây dựng đô thị dài hạn để làm cơ sở cho việc quản lý
định hướng xây dựng đô thị “Sinh thái-Văn hóa-Du lịch”. Quy chế quản lý
quy hoạch kiến trúc đô thị do chưa bổ sung điều chỉnh trước yêu cầu phát
triển mới, nên có đang có sự bất cập. Công tác quản lý xây dựng, quản lý nhà
ở vẫn chưa đạt hiệu quả, còn xảy ra tình trạng nhiều trường hợp xây dựng
không phép, sai phép; việc phối hợp trong công tác kiểm tra xây dựng còn
chậm, chưa thường xuyên. Công tác quản lý về giao thông vận tải còn hạn
chế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; cơ sở hạ tầng và giao thông chưa
được đầu tư đồng bộ, còn nhiều bất cập, việc kiểm tra đôn đốc các công trình
hạ tầng kỹ thuật chưa được tiến hành thường xuyên. Tình trạng vi phạm trật
tự vỉa hè, an toàn giao thông, kinh doanh, buôn bán không đúng nơi quy định,
tình trạng môi giới “Cò mồi” bu bám, chèo kéo khách, vệ sinh môi trường…
vẫn còn phức tạp, đang là vấn đề nóng hiện nay của thành phố. Nguyên nhân
1
của tình trạng này chủ yếu là do chưa đồng bộ công cụ quản lý đô thị, năng
lực và hiệu quả cả về cơ chế, quản lý, điều hành cũng như thực thi pháp luật.
Từ thực tế yêu cầu cấp bách như vậy, cần có những nghiên cứu khoa
học để tìm ra các giải pháp phù hợp, hiệu quả trong QLNN phục vụ cho sự
phát triển của thành phố Hội An nói chung, trật tự đô thị (TTĐT) ở Hội An
nói riêng.
Đề tài “Quản lý nhà nước về trật tự đô thị từ thực tiễn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam” được lựa chọn là xuất phát từ yêu cầu bức thiết
đó. Nhằm đánh giá đúng thực trạng, tìm ra các giải pháp bổ sung thêm lý
luận, áp dụng vào thực tiễn quản lý trật tự đô thị ở thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam nói riêng, tỉnh Quảng Nam và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu QLNN về trật tự đô thị là một vấn đề không mới, đã có
nhiều tác giả nghiên cứu, đào sâu từng lĩnh vực cụ thể, nhiều phương diện
khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các bài học kinh nghiệm, các giải
pháp về chính sách, cơ chế quản lý, thanh tra, kiểm tra trên lĩnh vực QLNN
về trật tự đô thị cụ thể ở từng địa phương chưa nhiều.
Các nghiên cứu về quản lý nhà nước ở lĩnh vực đô thị đã được các nhà
khoa học đề cập đến, như:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và việc phát triển đô thị” của Tiến sĩ
Hà Quang Ngọc-Phó Hiệu trưởng trường Đại học Nội vụ Hà Nội, tác giả đã
nêu những ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế-xã hội (KT-XH) do thụ động chia
tách, sáp nhập khu vực nông thôn phụ cận để mở rộng đô thị; đồng thời nêu
một số giải pháp, công việc cầnư làm trong quản lý, phát triển hệ thống đô thị
nhằm hạn chế bất ổn KT-XH tạo điều kiện công nghiệp hóa. hiện đại hóa.
“Phát triển đô thị bền vững” do Tiến sĩ Nguyễn Thế nghĩa, Tiến sĩ Tôn
Nữ Quỳnh Trân chủ biên, Nhà xuất bản khoa học xã hội 2002, trong đó tác
2
giả đã nêu lên những đặc thù, phân tích những thành tựu, tồn tại, hạn chế của
quá trình phát triển của đô thị, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc quy hoạch,
chỉnh trang và đưa ra hướng giải quyết theo nguyên tắc phát triển đô thị bền
vững trong tương lai.
Nguyễn Đình Hương và Nguyễn Hữu Đoàn đồng chủ biên (2003),
Giáo trình Quản lý đô thị, Nxb. thống kê, Hà Nội. Giáo trình này đã góp
phần hệ thống hóa từ khái niệm đô thị đến việc phân loại đô thị và nội dung
quản lý về đô thị; đồng thời trình bày quá trình lịch sử phát triển đô thị ở
nước ta qua các giai đoạn; thống kê về các mô hình quản lý đô thị và trình
bày giải pháp quản lý đô thị và trách nhiệm quản lý của Nhà nước ta đối với
sự phát triển đô thị.
Lê Trọng Bình (2009), Bài giảng Pháp luật và quản lý đô thị, trường
Đại học kiến trúc Hà Nội. Bài giảng này trình bày các kiến thức căn bản về
pháp luật và nội dung quản lý nhà nước về đô thị. Qua đó góp phần giúp
trang bị nhận thức đúng đắn cho các học viên trên cơ sở hiểu biết về quy luật
và tính quy luật về phát triển đô thị, nắm vững các công cụ cơ bản (như công
cụ: pháp luật, quy hoạch và hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước) trong
quản lý đô thị.
Võ Kim Cương (2004), Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi, Nxb. Xây
dựng, Hà Nội. Tác phẩm này đã làm rõ nhiều vấn đề trong quản lý đô thị của
thời kỳ chuyển đổi và nêu ra các kinh nghiệm thực tiễn; đồng thời đề xuất
giải pháp đối với công tác quản lý đô thị.
“Đại cương Quản lý đô thị trong điều kiện toàn cầu hóa và phát triển
bền vững” của GS. Tiến sĩ Phạm Hữu Khiển, PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh chủ
biên, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội-2011, tác giả đã phân tích những vấn
3
đề phát triển xã hội của một số quốc gia trên thế giới và của Việt Nam về các
vấn đề quản lý xã hội đô thị trong điều kiện hiện đại.
“Quản lý đô thị” của Tiến sĩ khoa học Nguyễn Ngọc Châu, Nhà xuất
bản Xây dựng, Hà Nội-2012, đưa ra một số khái niệm về đô thị, quản lý đô
thị, đồng thời cung cấp một số kiến thức mới về quản lý một số lĩnh vực cụ
thể trong quản lý đô thị như dịch vụ công cộng, giao thông, vận tải, môi
trường đô thị…giúp cho người nghiên cứu nắm được những kiến thức cơ bản
về quản lý đô thị.
Trong phạm vi nghiên cứu, tìm hiểu tình hình về thực trạng của thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam và trong tương lai phát triển của Hội An và
công tác QLNN về trật tự đô thị, đa số các đề tài nghiên cứu một lĩnh vực cụ
thể chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về QLNN về trật tự đô thị ở thành phố
Hội An.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Quản lý Nhà nước về xây dựng từ thực tiễn
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” của Bùi Văn Dũng đã đề cập một số
giải pháp và nhóm giải pháp nhằm tăng cường QLNN về quản lý xây dựng
trên địa bàn thành phố Hội An; tuy nhiên, các nhóm giải pháp chỉ tập trung
vào việc tổ chức thực hiện, chưa đề xuất được các cơ chế thanh tra, kiểm tra;
phân cấp quản lý của từng cơ quan, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, trong
công tác QLNN về trật tự xây dựng cũng phải tính đến tính đặc thù, nét văn
hóa bản địa để tuyên truyền, vận động tạo sự đồng thuận và ý thức chấp hành
pháp luật trong Nhân dân; huy động sức mạnh của cộng đồng trong giám sát,
phát hiện các vụ việc vi phạm để thông báo cho cơ quan chức năng xử lý.
Tác giả Bùi Trọng Nin (2019), Luận văn thạc sĩ ngành Luật học: Cải
cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực trật tự xây dựng từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam, tại Học viện KHXH. Tác giả đưa ra một số kiến nghị trong cải
cách thủ tục hành chính nói chung, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
4
xây dựng và trật tự xây dựng nói riêng; trong đó, rút ngắn thời gian, quy trình
xử lý, đơn giản hóa hồ sơ. Áp dụng cơ chế liên thông đối với quá trình giải
quyết TTHC ở 3 cấp: từ cấp tỉnh tới cấp xã. Thông qua phần mềm quản lý
nội bộ; đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu chung của tỉnh.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu, rà soát, nhìn chung có rất nhiều bài viết có
đề cập nội dung như: Quản lý đô thị, quản lý xây dựng đô thị,..; nhưng chưa
thấy có công trình, đề tài nghiên cứu nào nghiên cứu về lĩnh vực quản lý trật
tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Vì vậy, tác giả thực hiện luận văn thạc sĩ ngành Luật học thông qua
việc đăng ký nghiên cứu đề tài “QLNN về trật tự đô thị từ thực tiễn thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” là không có sự trùng lặp đối với những công
trình khoa học trước đó đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối
với trật tự đô thị; đánh giá thực trạng QLNN về trật tự đô thị tại thành phố
Hội An, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về trật tự đô
thị trên địa bàn thành phố thời gian đến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm cơ sở lý luận quản lý nhà nước về trật tự
đô thị.
- Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân hạn chế QLNN về trật tự
đô thị từ việc nghiên cứu trường hợp QLNN về trật tự đô thị trên địa bàn
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Xác định phương hướng và đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước về lĩnh vực trật tự
đô thị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đó là quản lý nhà nước về lĩnh vực trật
tự đô thị.
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Đó là thành phố Hội An thuộc tỉnh
Quảng Nam.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (chủ nghĩa Mác-Lênin), cùng tư
tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận liên ngành của khoa học xã hội, luận văn sử dụng
chủ yếu một số phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khoa học xã hội ở góc
nhìn luật học, đó là:
- Phương pháp phân tích logic có hệ thống, diễn dịch và tổng hợp các
văn bản pháp luật; thu thập và phân tích tài liệu thông tin thứ cấp.
- Kết hợp các phương pháp sử dụng các số liệu thống kê - so sánh đối
chiếu số liệu; phương pháp khảo sát đánh giá thực tiễn để phân tích tổng hợp
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT,... nhằm rút ra các kết luận, đề xuất
những giải pháp, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực,
6
hiệu quả QLNN về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam trong điều kiện hội nhập và phát triển trong thời gian đến.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nhìn nhận, đánh giá những tồn tại, vấn đề bất cập trong công tác
quản lý trật tự đô thị; làm rõ những vấn đề lý luận QLNN về trật tự đô thị,
đặc điểm, nội dung pháp luật QLNN về trật tự đô thị.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kiến nghị có thể được vận dụng vào QLNN ở thành phố Hội An và
các địa phương khác tham khảo vận dụng vào trong QLNN về trật tự đô thị.
Tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu hoàn thiện pháp luật
QLNN về trật tự đô thị nhằm thực hiện thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả
trong thời gian đến.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài các phần như mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được cơ cấu bao gồm ba chương cơ bản, đó là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận QLNN về trật tự đô thị.
Chương 2: Thực trạng QLNN về trật tự đô thị từ thực tế trên địa bàn
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả QLNN về trật
tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về trật tự
đô thị
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về trật tự đô thị
* Quan niệm về đô thị
Đô thị được hiểu là khu vực dân cư sống tập trung có mật độ dân số
cao, mà trong đó lực lượng lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp là chủ
yếu, cư dân sống và làm việc theo nếp sống thành thị. Theo Khoản 1 Điều 3
Luật Quy hoạch đô thị, và theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Quy hoạch
xây dựng ban hành kèm Thông tư 22/2019/TT-BXD có hiệu lực ngày
01/7/2020 của Bộ xây dựng thì: “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống
có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp,
là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai
trò thúc đẩy sự phát triển KT-XH của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một
địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị
của thị xã; thị trấn”.[12, tr 29]
Tóm lại, đô thị được hiểu đó là địa bàn khu vực tập trung dân số có
mật độ cao của một vùng lãnh thổ nhất định với phần lớn người dân lao động
ở lĩnh vực phi nông nghiệp, là trung tâm phát triển kinh tế xã hội, có mạng
lưới hạ tầng cơ sở hiện đại nhằm đáp ứng sự phục vụ và phát triển kinh tế xã
hội.
* Phân loại đô thị ở Việt Nam
Theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP, ngày 07/5/2009 của Chính phủ về
phân loại đô thị được xem xét, đánh giá trên cơ sở hiện trạng phát triển đô thị
tại năm trước liền kề năm lập đề án phân loại đô thị hoặc tại thời điểm lập đề
8
án phân loại đô thị, việc phân loại đô thị dựa vào các tiêu chí sau: Chức năng
đô thị; quy mô dân số của đô thị; mật độ dân số phù hợp với quy mô; tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp; các yêu cầu về hệ thống công trình hạ tầng đô thị; các
yêu cầu về kiến trúc, cảnh quan đô thị. Trên cơ sở đó, có các loại đô thị sau:
Một là, đối với đô thị đặc biệt có quy mô số dân tối thiểu từ 5000.000
trở lên, với mật độ dân số trong nội thành từ 15 ngàn người/km2, có tỷ lệ LĐ
ở lĩnh vực phi nông nghiệp trên tổng lao động phải đạt tối thiểu 90%; và đô
thị đặc biệt có hơn 60% tổng số lượng trục phố chính đạt chuẩn về tuyến phố
văn minh đô thị.
Hai là, đối với đô thị loại I (gồm cả thành phố trực thuộc TW). Trong
đó, thành phố trực thuộc TW có quy mô số dân tối thiểu từ 1000.000, với mật
độ dân số trong nội thành từ 12 ngàn người/km2; còn với đô thị trực thuộc
tỉnh có quy mô số dân tối thiểu từ 500 ngàn, với mật độ dân số trong nội
thành từ 10 ngàn người/km2. Ngoài ra, đối với đô thị loại I nói chung là phải
đạt tỷ lệ LĐ phi nông nghiệp ở khu vực nội thành tối thiểu từ 85%; còn
những khu đô thị mới phải đạt chuẩn về đô thị kiểu mẫu và đồng thời có hơn
50% tổng số lượng trục phố chính đô thị đạt chuẩn về tuyến phố văn minh đô
thị.
Ba là, đối với đô thị loại II, trong đó đô thị trực thuộc TW có quy mô
số dân phải đạt hơn 800.000 người, với mật độ dân số trong nội thành tối
thiểu từ 10 ngàn người/km2. Đô thị trực thuộc tỉnh có quy mô số dân tối thiểu
từ 300.000 người, với mật độ dân số trong nội thành tối thiểu từ 8 ngàn
người/km2. Mặt khác, đô thị loại II phải đạt tối thiểu 80% LĐ phi nông
nghiệp của khu vực nội thành, còn những khu đô thị mới phải đạt chuẩn về
đô thị kiểu mẫu; và có hơn 40% tổng số lượng trục phố chính đô thị đạt
chuẩn về tuyến phố văn minh đô thị.
9
Bốn là, đối với đô thị loại III có quy mô số dân tối thiểu từ 150.000
người, với mật độ dân số đạt tối thiểu từ 6 ngàn người/km2 trong nội thị - nội
thành phải; đạt tối thiểu 75% LĐ phi nông nghiệp trong nội thị - nội thành,
còn những khu đô thị mới phải đạt chuẩn về đô thị kiểu mẫu và chiếm hơn
40% tổng số lượng trục phố chính đô thị đạt chuẩn về tuyến phố văn minh đô
thị.
Năm là, đối với đô thị loại IV có quy mô số dân tối thiểu từ 50.000, với
mật độ dân số trong nội thị tối thiểu từ 4 ngàn người/km2, đạt tối thiểu 70%
LĐ phi nông nghiệp trong nội thị.
Sáu là, đối với đô thị loại V có quy mô số dân tối thiểu từ 40.000
người, với mật độ dân số tối thiểu từ 2.000 người/km2, đạt tối thiểu 65% LĐ
phi nông nghiệp trong nội thị.
* Quan niệm về trật tự đô thị
Trật tự (theo Từ điển Tiếng Việt) là chế độ do nhà nước quy định
nhằm giữ gìn an ninh xã hội: là sự sắp xếp đảm bảo theo hàng lối trên xuống,
trước sau tuân theo quy tắc nhất định hoặc là bảo đảm trật tự - trị an [42,
trang 1041]. Theo đó, trật tự đô thị là sự biểu thị các điều kiện tạo lập một
môi trường về tình trạng an ninh, ổn định an toàn dân sự trong phát triển đô
thị theo hướng bền vững.
Ở một quan niệm khác đã tiếp cận, khái niệm trật tự đô thị là “việc tổ
chức và quản lý xã hội của đô thị nhằm bảo đảm môi trường và tình trạng dân
sự đối với tất cả mọi công dân trong đô thị, cũng như việc đảm bảo trật tự xã
hội đô thị dựa trên cơ sở yếu tố con người và những yếu tố cấu trúc nên xã hội
đô thị trong tầm kiểm soát và phát triển” [32; trang 122].
Do đó, trật tự đô thị có thể hiểu đó là sự sắp xếp và điều chỉnh những
quan hệ xã hội trong khu vực đô thị hoạt động tuân theo một quy chuẩn phù
10
hợp luật pháp hiện hành nhằm bảo đảm thiết lập một môi trường dân sự đô
thị ổn định và phát triển bền vững.
Từ các luận giải trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này tôi
đưa ra khái niệm QLNN về trật tự đô thị là việc Nhà nước thực hiện vai trò
của mình thông qua việc hoạch định chiến lược, xây dựng các chính sách, lập
chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của
pháp luật trên các lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, quản lý quy hoạch,
quản lý xây dựng, quản lý nhà và công trình kỹ thuật, công tác vệ sinh môi
trường, trật tự an toàn giao thông và trật tự đô thị của địa phương.
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Một là, quản lý nhà nước về lĩnh vực trật tự đô thị do nhiều chủ thể
cùng tham gia. Trong đó, những cơ quan lý hành chính nhà nước là chủ thể
then chốt, vì nhờ tính đại diện của cơ quan công quyền mang quyền lực Nhà
nước, đảm nhiệm việc thực hiện chức năng quản lý điều hành xã hội đô thị.
Hai là, quản lý nhà nước về TTĐT dựa trên cơ sở hành lang pháp lý
mà nhà nước xác lập, mà công cụ trực tiếp là pháp luật về lĩnh vực TTĐT. Từ
việc hoạch định chính sách pháp luật đến quá trình tổ chức thực thi pháp
luật về lĩnh vực TTĐT và xử lý vi phạm pháp luật về TTĐT cũng là nội
dung căn bản trong quản lý nhà nước về TTĐT.
Ba là, quản lý nhà nước về TTĐT liên quan đến nhiều mặt của xã hội
đô thị, nó tác động trực tiếp tới mọi nhu cầu đời sống sinh hoạt của mọi
người dân trên địa bàn đô thị, tất cả những hoạt động này không phải lúc nào
cũng diễn ra suông sẽ mà thay vào đó nhiều lúc xảy đến các hoạt động mang
tính phức tạp, thậm chí khó kiểm soát do sự biến đổi và phát triển khách quan
của xã hội đô thị chi phối. Vì vậy, quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT đặt ra
yêu cầu khách quan cần thiết cần phải được tổ chức sắp xếp khoa học, tinh
11
gọn nhưng phải mang tính chuyên nghiệp hiện đại để đáp ứng sự phù hợp với
quá trình vận động phát triển đô thị.
Bốn là, nội dung của quản lý nhà nước về TTĐT là rất rộng và đa
dạng, cụ thể đó là: quản lý trật tự hành chính; quản lý trật tự an toàn giao
thông công cộng; quản lý phòng, chống TNXH; quản lý phòng, chống tội
phạm; quản lý phòng cháy, chữa cháy; quản lý trật tự xây dựng, quản lý trật
tự kinh doanh, chợ buôn bán, quản lý về môi trường…
1.1.3. Vai trò quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT sẽ đóng
góp vào việc tạo lập môi trường ổn định để phát triển đô thị bền vững, gia
tăng tính hợp lý, hiệu quả trong quá trình khai thác sử dụng hạ tầng kỹ thuật
và những nguồn lực của đô thị.
Quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT là yếu tố mở đường, khai thông
xúc tác rất quan trọng để bảo đảm sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của một vùng lãnh thổ, của một quốc gia... Việc giữ gìn TTĐT tốt là cơ sở để
đẩy nhanh các hoạt động hợp tác giao lưu, kết nối đồng bộ và thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng và gia tăng chất lượng sống của
người dân.
Trong khi giới nghiên cứu lĩnh vực kinh tế đặt các vấn đề tới lợi
nhuận, hiệu quả kinh tế lên hàng đầu, mà thông thường xem nhẹ vấn đề cung
cấp dịch vụ xã hội, bỏ qua yêu cầu khai thác phải phù hợp/ thân thiện môi
trường... Còn đối với giới nghiên cứu lĩnh vực xã hội thông thường cũng chỉ
chú ý tới vấn đề việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, quan tâm mức thu nhập và
những vấn đề an sinh xã hội khác... Vì thế, công tác quản lý nhà nước nói
chung và quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT nói riêng có vai trò can thiệp
băng các chính sách điều hành, điều tiết, điều phối sự kết nối các hệ thống
nghiên cứu cả kinh tế, xã hội và môi trường nhằm giải quyết các mâu thuẫn
12
đặt ra ở mỗi lĩnh vực; cũng như cân bằng trong thực tiễn những hoạt động
này ở các cấp, các ngành trong mối quan hệ kết hợp hài hoà, tạo sự ổn định
và phát triển của đô thị.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về trật tự đô thị
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT do có nhiều chủ thể cùng tham
gia, chứ không chỉ có Nhà nước mà thôi. Tuy vậy trong đó, những cơ quan lý
hành chính nhà nước đóng vai trò của chủ thể then chốt, bởi đại diện của cơ
quan công quyền mang tính quyền lực Nhà nước và sự đảm nhiệm thực hiện
chức năng quản lý điều hành xã hội đô thị. Theo đó, những quyết định trong
công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT có giá trị pháp lý và mang tính
mệnh lệnh hành chính bắt buộc để điều chỉnh các quan hệ trong quá trình
quản lý nhà nước. Dựa trên cơ sở phân cấp, các đô thị về cơ bản được quản lý
bởi chính quyền địa phương là chủ yếu. Ngoại trừ công tác quản lý nhà nước
của cấp Trung ương đảm nhiệm các nhiệm vụ mang tầm phát triển cấp vùng,
liên vùng và quốc gia; và các bộ ngành chủ quản (như Bộ Giao thông Vận tải,
Bộ Xây dựng, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường...) quản lý các nội
dung thuộc bộ ngành mình phụ trách có liên quan đến hoạt động TTĐT.
Phạm vi quyền hạn và các nhiệm vụ cụ thể của chủ thể là chính quyền nhà
nước ở các cấp được quy định sau đây:
- Đối với Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng là cấp
quản lý điều hành trực tiếp đối với các vấn đề hệ trọng mang tầm chiến lược
trong quá trình quản lý và phát triển đô thị, đó là: việc hoạch định các
VBQPPHÁP LUậT, những chính sách định hướng về quy hoạch và các
chương trình đề án, dự án lớn từ đô thị loại II trở lên và về phát triển vùng đô
thị.
13
- Đối với Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì trong việc phối hợp với Bộ
Xây dựng, Bộ Công an và những bộ ngành có liên quan để hướng dẫn và tổ
chức thực hiện mức thu tiền xử phạt lĩnh vực vi phạm hành chính để nộp kho
bạc Nhà nước. Bộ này cũng thống nhất việc phát hành, quản lý biên lai về
việc thu tiền xử phạt lĩnh vực vi phạm hành chính và kèm theo các chứng từ
theo đúng quy định hiện hành của Luật Xử lý vi phạm hành chính; hướng dẫn
công tác quản lý sử dụng về tiền phạt. Đồng thời, Bộ Tài chính đảm bảo phân
bổ kinh phí thực hiện nhiệm vụ đảm bảo trật tự đô thị theo đề nghị của Bộ
Công an, Bộ Xây dựng và UBND cấp tỉnh trong việc lập dự toán ngân sách
theo năm. Ngoài ra, Bộ Tài chính còn tổ chức hoạt động kiểm soát, kiểm tra
công tác quản lý về hoạt động xử phạt và các khoản thu tiền phạt theo luật
định.
- Đối với Bộ Xây dựng có nhiệm vụ: Tổ chức hướng dẫn, xem xét,
thẩm định và phê duyệt những chương trình đề án quy hoạch xây dựng đối
với các loại đô thị, các khu dân cư phải bảo đảm đủ diện tích cần thiết về mặt
bằng dành cho các công trình giao thông và những công trình phụ trợ khác.
Đồng thời, tổ chức hướng dẫn thủ tục và tiến hành cấp giấy phép xây dựng
đối với các khu trung tâm thương mại, khách sạn, khu nhà ở, trụ sở cơ quan
đơn vị và những công trình công cộng khác (như: phải đảm bảo bố trí khu
vực chỗ để xe nhằm đáp ứng sự phù hợp nhu cầu của mỗi loại công trình,
nghiêm cấm sự lấn chiếm vỉa hè hoặc sự tùy tiện sử dụng lòng đường để làm
nơi đỗ xe...
- Đối với UBND cấp tỉnh: Quy hoạch và chỉ đạo thực hiện quy hoạch
về xây dựng bãi đỗ xe và bến xe. Đề xuất những chính sách ưu tiên trong
phát triển hoạt động vận tải hành khách công cộng, tổ chức quản lý hoạt động
14
vận tải hành khách công cộng trong khu vực đô thị. Thực hiện quản lý mọi
hoạt động của những bến xe.
UBND cấp tỉnh chỉ đạo và tổ chức các biện pháp cần thiết nhằm đảm
bảo TTĐT tại địa phương của mình (như: giải tỏa sự chiếm dụng lòng lề
đường). UBND cấp tỉnh phải đảm bảo lòng đường chỉ dành cho hoạt động
lưu thông các phương tiện tham gia giao thông; và đối với vỉa hè chỉ dành
cho người đi bộ. Ngoài ra, UBND cấp tỉnh quy định cụ thể về sử dụng một
phần phía bên trong vỉa hè (yêu cầu tuyệt đối là không gây ảnh hưởng tới
TTĐT) đối với một số tuyến phố đặc biệt nhằm bán hàng hóa.
Quản lý và bảo vệ hệ thống kết cấu hạ tầng về giao thông.
Chỉ đạo đối với UBND cấp dưới về các kế hoạch bố trí sắp xếp khu
vực họp chợ, các cụm điểm buôn bán thuận lợi đối với người dân (yêu cầu
tuyệt đối không được vi phạm về TTĐT).
- Đối với UBND cấp huyện và UBND cấp xã:
Chỉ đạo và tổ chức biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo TTĐT của địa
bàn mình phụ trách; giải tỏa tình trạng chiếm dụng lòng lề đường. Phải bảo
đảm lòng đường chỉ dành cho việc giao thông đi lại của những phương tiện
cơ giới và phương tiện thô sơ; còn đối với vỉa hè chỉ để dành cho người đi bộ.
Quản lý và bảo vệ hệ thống kết cấu hạ tầng về giao thông theo phân
cấp, quản lý vận tải khách tại các bến bãi trên địa bàn mình.
Chỉ đạo thực hiện các kế hoạch sắp xếp bố trí các điểm họp chợ, buôn
bán để thuận tiện cho người dân (yêu cầu tuyệt đối không được vi phạm về
TTĐT).
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT là việc tiến hành các hoạt động
chấp hành và điều hành của hệ thống các cơ quan nhà nước và những cá nhân
có thẩm quyền trên cơ sở luật định để giữ gìn và bảo vệ TTĐT.
15
Muốn quản lý nhà nước đối với TTĐT, yêu cầu những cơ quan hành
chính Nhà nước thực hiện đúng thẩm quyền của mình đối với: (1) Hoạch
định các văn bản quản lý trong lĩnh vực TTĐT; (2) Tổ chức thực hiện các văn
bản quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT; (3) Xử lý vi phạm các quy định về
TTĐT. Đây là ba nội dung nhiệm vụ căn bản và quan trọng có mối quan hệ
gắn kết và cấu thành nên nội dung của công tác quản lý nhà nước đối với
TTĐT. Đúng vậy, mục tiêu quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT sẽ không đạt
yêu cầu - nếu một khi khuyết một trong ba nội dung nhiệm vụ căn bản này.
Một là, hoạch định chiến lược quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Hoạch định chiến lược là sự tập hợp những quyết định của tổ chức và
chương trình hành động của lãnh đạo trong việc xây dựng và ban hành những
chiến lược chuyên biệt để đạt mục tiêu xác định. Hoạch định chiến lược gồm
có những nhiệm vụ công việc, đó là: Xác định những ưu tiên và tập trung
những nguồn lực để thực hiện nhằm đạt mục tiêu chung.
Trong quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT, hoạch định chiến lược
chính là việc định ra những mục tiêu, nội dung, giải pháp ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn cho QLNN về TTĐT.
Hai là, xây dựng, ban hành văn bản QLNN về trật tự đô thị
Muốn quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT, yêu cầu trước tiên các
cơ quan Nhà nước phải ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
(là công cụ chủ yếu) nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh liên
quan tới TTĐT. Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực TTĐT là kết quả của sự nhận thức về đô thị qua sự vận động,
biến đổi và phát triển của nó. Qua đó, thiết kế nên một hệ thống thể chế quản
lý phù hợp, để tạo lập môi trường hành lang pháp lý thuận lợi cho những
quan hệ xã hội ấy phát triển đúng định hướng mục tiêu của Nhà nước.
16
Việc hoạch định các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT
là nhiệm vụ đầu tiên và đương nhiên của nhà nước trong công tác quản lý và
phát triển đô thị. Đây là bước thực hiện mang tính quyết định đối với những
nội dung nhiệm vụ còn lại của công tác quản lý nhà nước về TTĐT.
Nhà nước quy định về quyền hạn đối với mỗi cơ quan cụ thể trong
hoạch định các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ
xã hội phát sinh liên quan tới vấn đề TTĐT. Việc hoạch định các văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT phải trên cơ sở của các căn cứ pháp lý,
đó là: Hiến pháp và các đạo luật (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Giao
thông đường bộ năm 2008, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009…); cùng với hệ
thống các văn bản dưới luật, như: các Nghị định, các Thông tư hướng dẫn của
Chính phủ, của các Bộ ngành về việc thi hành và xử lý vi phạm hành chính...
Những cơ quan này được giao các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể
theo quy định của pháp luật để thực thi nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh
vực TTĐT.
Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT.
Chính phủ có thẩm quyền trình Quốc hội về những dự án Luật, pháp lệnh có
liên quan tới lĩnh vực TTĐT; đồng thời Chính phủ cũng có thẩm quyền ban
hành các các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết về việc thi hành
Luật, pháp lệnh có liên quan tới lĩnh vực TTĐT nhằm áp dụng thống nhất
trong toàn quốc.
Việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực TTĐT sẽ đem lại khả năng
tạo dựng môi trường hành lang pháp lý vững chắc, toàn diện để mở đường
thuận lợi cho quá trình vận động những quan hệ xã hội đô thị được phát triển
ổn định, lành mạnh. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực TTĐT
17
đạt được khi và chỉ khi đáp ứng đầy đủ với 04 tiêu chí về: sự đồng bộ, sự
toàn diện, có kỹ thuật pháp lý cao và sự phù hợp.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực TTĐT, thì
nhiệm vụ rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đóng vai
trò quan trọng để kịp thời phát hiện và khắc phục các hạn chế/ bất cập của
pháp luật về lĩnh vực TTĐT và cải thiện chất lượng của pháp luật liên quan
lĩnh vực này, gia tăng tính pháp điển và giúp tăng dần tính khả thi và phù hợp
thực tiễn của công tác quản lý văn bản và áp dụng văn bản quy phạm pháp
luật về TTĐT được đảm bảo.
Ba là, tổ chức thực thi văn bản quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT.
Thực tế chứng minh, pháp luật được ban hành tự thân nó không thể đi
vào đời sống xã hội mà phải thông qua việc tổ chức thực hiện trên thực tế;
nhằm đưa các quy phạm pháp luật về trật tự đô thị vào điều chỉnh các quan
hệ về trật tự đô thị, tiến hành trên hai bình diện chủ yếu là triển khai thực
hiện và áp dụng pháp luật về trật tự đô thị.
Việc tổ chức triển khai pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
TTĐT: Các cơ quan quản lý nhà nước trong phạm vi quyền hạn của mình,
triển khai những quy định hiện hành của pháp luật trong lĩnh vực TTĐT bằng
việc tiến hành công tác tập huấn bồi dưỡng cùng với các hoạt động hướng
dẫn thực hiện cho những cơ quan, nhất là đối với đơn vị cơ sở; triển khai
công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến tới những đối tượng quản lý dưới
nhiều phương thức, hình thức phù hợp. Trong quá trình tổ chức thực thi pháp
luật trong lĩnh vực TTĐT, cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp từ TW
tới cấp địa phương phải đảm bảo yêu cầu cao về tính tương tác đồng bộ thì
mới đem lại chất lượng và hiệu quả trong việc thực thi pháp luật về TTĐT.
Trong việc áp dụng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
TTĐT: Các cơ quan nhà nước có chức năng thẩm quyền ở lĩnh vực này bằng
18
các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình có nhiệm vụ tổ chức đưa
pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT vào thực tiễn đời sống
và ràng buộc những chủ thể tham gia lĩnh vực này phải tuân thủ chấp hành;
đồng thời đưa ra những quyết định làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt/ đình
chỉ đối với các quan hệ pháp luật cụ thể về TTĐT.
Như vậy, việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực TTĐT là việc những cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được ủy quyền tác động bằng quyền lực
Nhà nước nhằm thi hành pháp luật trong lĩnh vực TTĐT. Chính việc áp dụng
pháp luật về lĩnh vực này là yếu tố quyết định tăng cường tính hiệu lực đối với
ý thức tuân thủ chấp hành hệ thống những VBQPPL về TTĐT, cũng như đóng
góp vào việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT.
Tổ chức thực thi pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT:
Nhiệm vụ hoạt động này yêu cầu: Đối với các đạo luật mới ban hành, các
Nghị quyết và Nghị định mới của Chính phủ phải xác lập chương trình hành
động, có tiến độ cụ thể để thực hiện, có sự phân công cơ quan đơn vị nào chủ
trì thực hiện và cơ quan đơn vị nào tham gia phối hợp. Đối với các Bộ
ngànhvà chính quyền cấp tỉnh phải tổng kết việc thực hiện hoạt động của
năm và đề ra phương hướng nhiệm vụ của năm tiếp theo.
Bốn là, giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm pháp luật trong
quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT
Đối với thanh tra trong quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT, đây là
một chức năng không thể thiếu của cơ quan nhà nước chuyên trách có chức
năng thẩm quyền thực hiện công tác kiểm tra đối với những đối tượng quản
lý nhà nước liên quan tới lĩnh vực TTĐT, để phát hiện, chấn chỉnh các sai
phạm và xử lý những vi phạm (không chấp hành) trong hoạt động áp dụng
các quy định pháp luật quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT.
19
Đối với kiểm tra về lĩnh vực TTĐT, đó là việc xem xét hành vi và
những hoạt động của chủ thể về việc chấp hành chính sách pháp luật về
TTĐT. Qua đó mà xem xét, đánh giá những mức độ vi phạm nhằm xử lý kịp
thời theo luật định.
Đối với việc xử lý những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT, đó
là nhiệm vụ của chủ thể có thẩm quyền theo luật định khi có căn cứ từ quyết
định về việc áp dụng biện pháp xử lý hình sự hoặc xử lý hành chính đối với
những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT.
Những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT có thể gồm có: vi phạm
PHÁP LUậT hành chính; vi phạm PHÁP LUậT giao thông đường bộ; vi
phạm pháp luật xây dựng; vi phạm pháp luật dân sự; vi phạm pháp luật hình
sự; và vi phạm của cán bộ, công chức trong công tác quản lý nhà nước về
TTĐT)… Vì thế, việc xử lý những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT
(xét theo luật định về mức độ và tính chất vi phạm) để tiến hành: áp dụng
xử lý vi phạm hành chính; áp dụng truy cứu trách nhiệm hình sự với những
hành vi vi phạm pháp luật.
Xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực TTĐT thường được áp
dụng phổ biến là xử phạt những vi phạm hành chính đối với các cá nhân, tổ
chức có hành vi vô ý hoặc cố ý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TTĐT, vi
phạm những điều kiện bảo đảm ổn định TTĐT mà theo luật định là phải bị
xử phạt hành chínhm chứ không phải là tội phạm.
1.2.3. Các công cụ quản lý Nhà nước về trật tự đô thị
Công cụ quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT, đó là các phương tiện
cần thiết được Nhà nước sử dụng nhằm thực hiện hướng dẫn, điều tiết và
kiểm soát đối với quá trình diễn ra các hoạt động về lĩnh vực TTĐT.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ quản lý nào thích hợp là còn tuỳ
vào quy mô, đặc điểm, điều kiện hoàn cảnh... của đối tượng được quản lý;
20
cũng như trình độ nhận thức và năng lực của chủ thể quản lý trong việc lựa
chọn công cụ. Các loại công cụ chủ yếu thường được sử dụng và vận dụng
đến:
Thứ nhất, công cụ quy hoạch, kế hoạch
Quy hoạch và kế hoạch, đó là công cụ chủ yếu trong quản lý vĩ mô của
Nhà nước nhằm tổ chức định hướng và điều chỉnh mọi quá trình kinh tế - xã
hội, mà trong đó có công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT.
Quy hoạch và kế hoạch trong quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT
đóng một số vai trò cụ thể là:
- Chủ thể quản lý và cả đối tượng quản lý thông qua quy hoạch và kế
hoạch để nắm rõ các phương hướng chủ đạo; qua đó chủ động việc lựa chọn
phương án cụ thể để thực hiện phương hướng một cách thích hợp nhằm đạt
được mục tiêu đã xác định.
- Quy hoạch và kế hoạch là công cụ để hình thành nên tư duy nhận
thức "vượt trước", xác lập tầm nhìn dài hạn mang tính chiến lược, giúp cho
nhà quản lý phát hiện sớm và phân tích được bản chất của các vấn đề trong
quá trình quản lý về TTĐT; phát hiện được xu hướng vận động, biến đổi và
phát triển của lĩnh vực TTĐT mà dự báo tốt tình hình nhằm phục vụ tốt công
tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực TTĐT.
- Thông qua quy hoạch và kế hoạch, các nhà quản lý sẽ chủ động tập
trung giải quyết các nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng (mà không bị tính sự vụ
hàng ngày chi phối); đồng thời quản lý được rủi ro và giảm thiểu các hạn chế
hoặc tránh được sự lãng phí nguồn lực, thời gian – nhờ sự chủ động trong
tính toán, sắp đặt.
Thứ hai, công cụ chính sách
Chính sách công là loại công cụ đặc trưng trong hoạt động quản lý
vĩ mô của chính quyền nhà nước đối với quá trình kinh tế - xã hội. Chính
21
sách là chương trình hành động có tính hướng đích của nhà nước bằng
việc tổ chức những giải pháp, công cụ để giải quyết những vấn đề liên
quan đến lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích xã hội...
Chính sách công nói chung và chính sách về trật tự đô thị nói riêng là
kết quả của sự thể hiện thống nhất giữa mục tiêu chủ trương và chương trình
hành động của Nhà nước để đạt được mục tiêu duy trì, bảo vệ trật tự đô thị
nhằm phát triển bền vững xã hội đô thị.
Thứ ba, công cụ pháp luật
Pháp luật là công cụ đặc trưng và là công cụ chủ yếu nhất trong quản
lý nhà nước. Đúng vậy, pháp luật là công cụ chủ chốt nhất và có hiệu lực
mạnh nhất để Nhà nước quản lý quá trình kinh tế - xã hội, trong đó có nội
dung của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTĐT. Hiến pháp Nhà
nước ta năm 2013 đã quy định rõ: Nhà nước quản lý mọi quá trình kinh tế xã
hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Thông qua việc hoàn thiện công cụ pháp luật, chính quyền nhà nước
thiết lập hành lang pháp lý để công tác quản lý nhà nước tiến hành tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực TTĐT; và tạo môi trường điều kiện cho những cá
nhân, tổ chức tham gia tích cực vào những quan hệ pháp luật về TTĐT. Đồng
thời, thông qua việc hoàn thiện hành lang pháp lý: một mặt vừa tạo lập hệ
thống pháp lý vững chắc, đồng bộ nhằm thống nhất việc chuẩn hoá khung
tiêu chuẩn về TTĐT; vừa giúp cho công tác quản lý nhà nước bảo đảm, bảo
vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của những cá nhân, tổ chức.
Trong thực tiễn đời sống, với phần lớn là các công cụ chính sách, quy
hoạch và kế hoạch thường được thể hiện ở những hình thức pháp lý (đó là:
các Luật, các văn bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh, văn bản cá biệt…) và
được bảo đảm bằng sức mạnh thực thi quyền hành pháp của Nhà nước. Do
22
đó, pháp luật là công cụ có một ý nghĩa đặc trưng trong công tác quản lý nhà
nước về lĩnh vực TTĐT.
Thứ tư: Ngoài ra, còn phải tính đến công cụ quản lý khác là các quy
phạm xã hội như: Hương ước, quy ước cộng đồng, phong tục, tập quán, thói
quen, đạo đức… Chúng có vai trò quan trọng nhằm điều chỉnh hành vi ứng
xử của con người trong nhiều quan hệ xã hội nói chung và đối với quan hệ
dân sự nói riêng; tuy là không mang tính quyền lực nhà nước nhưng Hương
ước, quy ước cộng đồng, phong tục, tập quán , thói quen, đạo đức được vận
dụng hữu ích, hướng cho các chủ thể xác lập ý thức tự giác và hành vi tự
nguyện đóng góp vào việc duy trì TTĐT.
1.3. Các yếu tố bảo đảm quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Trật tự đô thị là việc Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
đúng quy tắc, quy chuẩn của pháp luật hiện hành. Vì vậy, để bảo đảm quản lý
nhà nước về TTĐT cần chú ý đến những yếu tố có thể tác động đến: Nhận
thức và ý thức của người dân, liệu người dân có chấp nhận không? Vấn đề
chiến lược quy hoạch đô thị? Khả năng của chủ thể quản lý đến đâu? Thực
trạng trình độ và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ
quan chuyên trách?.v.v.v… Do vậy, đối với quản lý nhà nước về TTĐT hiện
hữu đã và đang chịu sự tác động bởi các yếu tố cụ thể sau đây:
Thứ nhất, hệ thống thể chế.
Theo giáo trình giảng dạy của Học viện Hành chính quốc gia, “Thể chế
bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước với hệ thống quy định do Nhà nước xác
lập trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước và được nhà nước sử dụng
để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân,
các tổ chức nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội”.
Hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước là sự tác động
của quyền lực Nhà nước đến các chủ thể trong xã hội; tổ chức và công dân;
23
thể nhân hay pháp nhân, công pháp hay tư pháp, mang đặc trưng cưỡng bức
kết hợp với thuyết phục, giáo dục. Thể chế hành chính Nhà nước với một hệ
thống pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành là cơ sở pháp
lý cho các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp thực hiện, bảo đảm thống
nhất QLNN trên phạm vi quốc gia.
Theo định nghĩa phổ quát Pháp luật là "Toàn bộ các quy tắc xử sự do
Nhà nước đại diện xã hội đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước,
được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một
trật tự có lợi cho Nhà nước và xã hội". Vì xã hội là “tổng hòa các mối quan
hệ giữa người và người" do đó, nội dung và phạm vi điều chỉnh của pháp luật
cũng hết sức rộng và phức tạp, được phân chia thành các bộ phận pháp luật
khác nhau, tương xứng với các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Pháp luật về
trật tự đô thị là một bộ phận trong pháp luật đó.
Hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện sẽ là tiền đề, điều kiện để chủ
thể và khánh thể quan hệ pháp luật về trật tự đô thị căn cứ thi hành. Vì vậy,
pháp luật càng rõ ràng, thống nhất là cở sở để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện đúng.
Trong thực tế hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật QLNN về trật
tự đô thị chưa được hợp nhất thành các bộ luật bao trùm nội dung này. Vì
vậy, các cơ quan phải áp dụng nhiều cơ sở pháp lý nằm ở nhiều văn bản khác
nhau để thực hiện. Từ đó, cần phải nhanh chóng xây dựng hệ thống văn bản
QPPL thống nhất chung liên quan đến các hoạt động xã hội đô thị gắn liền
với yêu cầu an toàn và an ninh đô thị. Những thể chế quy định cần phản ánh
đúng, chính xác các yêu cầu về tiêu chuẩn an toàn, cơ chế bảo đảm điều kiện
cho an ninh và an toàn các sinh hoạt dân sự của đô thị [2, tr. 213].
24
Thứ hai, năng lực thực hiện pháp luật của bộ máy quản lý Nhà nước về
trật tự đô thị.
Năng lực thực hiện pháp luật của bộ máy quản lý Nhà nước là yếu tố
quyết định bảo đảm QLNN bằng pháp luật về trật tự đô thị với những lý do
sau đây:
Pháp luật là cơ sở của quản lý, nhưng nếu không được thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không kịp thời thì "pháp luật có cũng như không". Vì
vậy, thực hiện pháp luật đầy đủ, chính xác, kịp thời là yếu tố quyết định hiệu
lực, hiệu quả QLNN, cho dù quản lý lĩnh vực nào, do cơ quan Nhà nước nào
tiến hành. Những điều đó, suy cho cùng là nó phụ thuộc vào năng lực thực
hiện pháp luật của bộ máy quản lý.
Yếu tố có tính quyết định tạo thành năng lực thực hiện pháp luật của
bộ máy quản lý chính là tính hợp lý của bộ máy chính chính quyền. Một bộ
máy mạnh là bộ máy luôn thích ứng với mọi biến đổi của xã hội. Vì vậy, phải
luôn tìm tòi, kiến tạo sao cho bộ máy quản lý thường xuyên được đổi mới, cải
cách, đáp ứng được tối đa nhu cầu của quản lý xã hội, quản lý trật tự đô thị,
nhất là trong điều kiện phát triển đô thị nhanh chóng thời kỳ hội nhập quốc tế
và toàn cầu hóa.
Năng lực quản lý về trật tự đô thị có ảnh hưởng rất lớn đến công tác
quản lý trật tự đô thị; năng lực quản lý thể hiện ở việc hoạch định, đưa ra các
chính sách, quyết định phù hợp với thực tiễn địa phương. Đồng thời, nói lên
khả năng am hiểu, áp dụng các chủ trương, chính sách, có tài thuyết phục,
tuyên truyền người dân tự chấp hành các quy định pháp luật của Nhà nước về
trật tự đô thị. Mặt khác, có biện pháp, giải pháp và chủ động trong xây dựng
kế hoạch thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những sai phạm
xảy ra; từ đó, sẽ tạo được uy tín, niềm tin trong nhân dân đối với cán bộ, công
chức nhà nước.
25
Thứ ba, phẩm chất, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác quản lý trật tự đô thị.
Trong quá trình phát triển xã hội, bên cạnh những mặt tích cực có
những mặt trái của cơ chế thị trường đòi hỏi người cán bộ, công chức quản lý
trật tự đô thị phải có phẩm chất và trình độ nhất định. Như chúng ta biết,
trong các lĩnh vực QLNN thì QLNN về trật tự đô thị là lĩnh vực rất nhạy cảm,
dễ sa vào tiêu cực trước những cám dỗ của xã hội, hối lộ của các đối tượng vi
phạm nhằm giảm nhẹ hình thức vi phạm.
Vì vậy, người cán bộ, công chức phải luôn rèn luyện, trao dồi, giữ gìn
phẩm chất đạo đức, lối sống, trung thực, có tinh thần thẳng thắn, kiên quyết
đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, gây ảnh hưởng đến công tác quản lý
và bất bình trong nhân dân. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác quản lý trật tự đô thị, cần phải trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để có khả
năng nhận định đúng tình hình, hệ quả các hành vi, khả năng áp dụng pháp
luật thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Thứ tư, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động QLNN về trật tự đô thị
Đây là những phương tiện, công cụ cơ bản để đảm bảo cho hoạt động
quản lý, như trong quá trình quản lý trật tự vỉa hè, quản lý buôn bán hàng
rong đòi hỏi Đội quản lý trật tự đô thị phải có công cụ hỗ trợ, xe công vụ để
thực thi nhiệm vụ, kiểm tra xử lý và tạm giữ tang vật vi phạm; cũng như
trong quá trình chữa cháy mà không có xe chữa cháy, bình chữa cháy và một
số phương tiện khác thì rất khó khăn trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, việc
trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động QLNN về trật tự đô thị là rất
cần thiết và đảm bảo cho công tác này được thực thi hiệu quả.
Thứ năm, sự tham gia của nhân dân vào hoạt động QLNN về trật tự đô
thị.
26
Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Vì
vậy, mọi chủ trương, chính sách và các hoạt động QLNN đều đảm bảo quyền
và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác quản lý trật tự đô thị ngày càng tinh giảm nhưng nhiệm vụ đặc
ra ngày càng phức tạp. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ cán bộ quản lý trật tự
đô thị cần phải biết tuyên truyền, vận động, phát huy vai trò của Nhân dân
trong thực hiện phong trào tự quản, có sự tham gia tích cực của lực lượng
nòng cốt, những người có uy tín trong cộng đồng, để làm tai mắt, giúp đỡ cho
các lực lượng thực hiện nhiệm vụ. Trong thực tiễn cũng đã chứng minh, ở nơi
nào nhân dân tích cực, đồng thuận cao với chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tích cực hưởng ứng, tận tình giúp đỡ cán bộ, công
chức, thì ở nơi đó trật tự đô thị được đảm bảo và an toàn.
Xây dựng ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, nếp sống văn minh đô thị để
người dân có ý thức giữ gìn cảnh quan đô thị, tự giác chấp hành các quy định
về trật tư đô thị, đây là giải pháp căn cơ và quan trọng, nhưng lâu dài cần
hướng đến.
Mạnh dạn giao cho người dân quản lý cây xanh trước nhà, khuyến
khích trồng hoa, cây cảnh đẹp tại các bồn hoa, quét dọn trước nhà.
Tăng cường trách nhiệm của Khối trưởng các khối phố và tinh thần tự
quản của người dân đối với các công trình công cộng nơi người dân cư trú.
Phối hợp với cơ quan Nhà nước trong việc quản lý, bảo tồn giá trị di sản văn
hóa; giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội và môi trường.
Thường xuyên tham vấn, tranh thủ ý kiến người dân khi thực hiện
chức năng QLNN đối với trật tự đô thị.
Có cơ chế chính sách bảo vệ và đãi ngộ đặc biệt với những người có
tình thần trách nhiệm, mạnh dạn phản ảnh, đấu tranh với những hành vi vi
27
phạm pháp luật của các tổ chức, cá nhân về trật tự đô thị nhờ đó mà cơ quan
QLNN kịp thời phát hiện và xử lý hiệu quả.
Tiểu kết chương 1
Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh đã làm rõ một số khái
niệm về đô thị, trật tự đô thị, các tiêu chí để xác định, phân loại đô thị đã xác
định được các tiêu chuẩn quan trọng để xác định đô thị. Đồng thời, từ việc
tìm hiểu các quan niệm về đô thị, quản lý đô thị, những đặc điểm của QLNN
nói chung, trên cơ sở đó đã rút ra khái niệm và đặc điểm QLNN về trật tự đô
thị; Qua đó, khái quát, làm rõ các bộ phận cấu thành QLNN về trật tự đô thị.
QLNN về trật tự đô thị là hoạt động quan trọng của Nhà nước, nhằm
đáp ứng yêu cầu của xã hội, nhất là, trong quá trình quản lý đô thị như hiện
nay, đây là lĩnh vực cần được chú trọng, quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện,
để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội này đi vào nề nếp, theo một khuôn khổ
nhất định đúng với quy định của pháp luật.
QLNN nói chung, QLNN về trật tự đô thị nói riêng phải gắn liền với
pháp luật, là một hình thức áp dụng áp luật trong thực tế và phản ảnh sự phù
hợp hay chưa phù hợp của pháp luật đối với sự phát triển của xã hội. QLNN
về trật tự đô thị có rất nhiều lĩnh vực cần phải điều chỉnh. Công cụ quan trọng
để thực hiện việc quản lý là pháp luật. Pháp luật tạo hành lang pháp lý cho
các hoạt động xã hội và là công cụ có tính bắt buộc thực hiện các quy định để
đảm bảo trật tự đô thị. Đồng thời, cũng là cơ sở để xử lý các hành vi vi phạm
xảy ra. Nội dung chủ yếu của pháp luật QLNN về trật tự đô thị cũng đã được
đề cập đến một cách tổng quát.
Qua việc nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò của QLNN về trật tự
đô thị từ đó đưa ra nội dung của QLNN về trật tự đô thị và cuối cùng là
những yếu tố đảm bảo cho QLNN về trật tự đô thị sẽ là cơ sở để triển khai
28
tiếp nội dung nghiên cứu thực trạng QLNN về trật tự đô thị từ thực tiễn tại
thành phố Hội An, Quảng Nam tại chương 2.
29
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Thực trạng trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam
2.1.1. Khái quát về thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Thành phố Hội An nằm ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn thuộc vùng đồng
bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, có tổng diện tích tự nhiên 61,71km2. Tọa độ
từ 15o15’26” đến 15o55’15” vĩ độ Bắc và từ 108o17’08” đến 108o23’10” kinh
độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về phía Đông, cách thành phố Đà
Nẵng 30 km về phía Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 50 km về phía
Đông Bắc. Thành phố có 13 xã, phường (9 phường, 3 xã ở đất liền và 1 xã
đảo). Cư dân 3 xã ở đất liền chủ yếu là sản xuất nông-ngư nghiệp, một số xã
có nghề thủ công như mộc, tranh tre...Xã đảo Tân Hiệp với diện tích tự nhiên
khoảng 15km2, gồm bảy hòn đảo, địa hình trên đảo phần lớn là núi. Hội An
còn có 7 km bờ biển, bãi biển Cửa Đại, An Bàng được vinh danh là một trong
những bãi biển đẹp nhất châu Á.
Tháng 12 năm 1999, Đô thị cổ Hội An được UNESCO công nhận là di
sản văn hoá thế giới; ngày 26/5/2009, Cù Lao Chàm được UNESCO công
nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Với vị trí nằm trên “Con đường di sản
văn hóa miền trung, bao gồm: Huế-Hội An-Mỹ Sơn, tạo cho Hội An có lợi
thế cạnh tranh trong phát triển kinh tế-xã hội, trong đó dịch vụ-du lịch-
thương mại được hưởng lợi và phát triển mạnh.
Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, Hội An từng là trung tâm mậu dịch
quốc tế trên hành trình thương mại Đông-Tây, một thương cảng phồn thịnh
nhất của xứ Đàng Trong-Việt Nam trong triều đại các chúa Nguyễn bởi
30
thương thuyền từ Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà
Lan... thường đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Trong lịch sử hình
thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến dưới nhiều tên gọi khác
nhau. Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam. Các di chỉ
khảo cổ và các hiện vật, công trình kiến trúc còn lưu lại đã chứng minh Hội
An là nơi hội tụ, giao thoa giữa nhiều nền văn hoá: Chăm, Việt, Trung Hoa,
Nhật Bản, phương tây...trong đó chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của văn hoá
Việt và Trung.
Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một
quần thể di tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa,
miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ...và những con đường hẹp
chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Cảnh quan phố phường
Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính trông hư hư, thực thực như một
bức tranh sống động. Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy
nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế giới. Đây được xem như một bảo
tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị. Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội
An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại
gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5
hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có
hơn 1.100 di tích.
Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ
một nền tảng văn hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư
dân với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian,
lễ hội văn hoá đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên
thơ mộng, các làng nghề truyền thống, các món ăn đặc sản ... làm cho Hội An
ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương.
31
Với nhiều lợi thế trên, tình hình kinh tế xã hội của thành phố Hội An
trong những năm qua đã có bước phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng cao giai
đoạn 2015-2019 bình quân là 12,4%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng “Dịch vụ-Thương mai-Du lịch” giữ vai trò chủ đạo. Tỷ trọng dịch vụ,
thương mại, du lịch, công nghiệp tăng nhanh, tỷ trọng nông nghiệp, ngư nghiệp
giảm dần, tỷ trọng chỉ chiếm 9,67%. Tốc độ đô thị hóa ở các vùng nông thôn
tăng nhanh; trước năm 1990 Hội An có 7 xã, 3 phường, đến nay thành phố có 9
phường, 4 xã, hàng loạt các khu đô thị mới được xây dựng như: Khu đô thị
Làng chài -Cẩm An, khu đô thị Casama-Cẩm Thanh, khu đô thị Trảng Kèo-
Cẩm Hà, khu đô thị Phước Trạch-Phước Hải, Sơn Phô-Cẩm Châu, khu đô thị
Cẩm Phô, Tân Thịnh-Tân Mỹ-Cẩm An, khu đô thị Võng Nhi-Cẩm Thanh.
Một số dự án khu dân cư, đô thị mới đã và đang tiến hành triển khai đầu tư
như: Khu đô thị Thanh Hà, khu dân cư khối Lâm Sa-Tu Lễ-Xuân Hòa
phường Cẩm Phô, khu đô thị Đồng Nà-Cẩm Hà, khu dân cư đường Điện
Biên Phủ nối dài.
Quá trình phát triển đô thị nhanh chóng, tốc độ gia tăng dân số cơ học
và lượng người đến lao động, học tập, tham quan, lưu trú dẫn đến phát sinh
nhiều vấn đề về quản lý nhà nước, quản lý đô thị nói chung và quản lý trật tự
đô thị nới riêng trên địa bàn thành phố Hội An.
2.1.2. Tình hình trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam
Trong những năm qua cùng với việc phát triển kinh tế-xã hội, có thể
nói rằng diện mạo đô thị của thành phố Hội An có sự phát triển thay thay đổi
nhanh chóng, từ một thị xã trầm lắng ít người biết đến, nay trở thành một
thành phố nhộn nhịp, năng động, với nhiều khu đô thị mới được xây dựng,
không gian đô thị mở rộng, phát triển theo hướng đô thị sinh thái; cơ sở hạ
tầng kỹ thuật tiếp tục được đầu tư nâng cấp để đáp ứng với tốc độ phát triển
32
của thành phố; đi kèm theo đó phát sinh những vấn đề mới về trật tự đô thị,
buộc chính quyền thành phố Hội An phải có những quyết sách để tăng cường
vai trò quản lý của nhà nước để nó hoạt động, phát triển trong một trật tự nhất
định.
Do đó, để thành phố phát triển bền vững theo định hướng “Sinh thái-
Văn hóa” trong quá trình quy hoạch kiến trúc đô thị của thành phố Hội An
luôn đặc biệt quan tâm yếu tố lịch sử văn hóa của Hội An, đặc biệt là kiến
trúc đô thị cổ trên từng góc phố, từng công trình kiến trúc, cũng như các khu
đô thị mới hài hòa với tổng quan, không gian kiến trúc của thành phố để gìn
giữ và phát huy giá trị văn hóa đô thị cổ ở Hội An. Vấn đề đặc ra là phải làm
sao bảo tồn và phát huy tốt các di sản văn hóa để phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, mở rộng không
gian đô thị ở thành phố Hội An dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp như: Nhu cầu
xây dựng các công trình, nhà ở, kinh doanh, buôn bán, tình trạng lấn chiếm
lòng lề đường, xây dựng trái phép, các vấn đề về giao thông vận tải, vệ sinh
môi trường, cảnh quan đô thị chưa được xử lý dứt điểm đã ảnh hưởng chung
đến trật tự đô thị của thành phố.
2.1.2.1. Tình hình trật tự xây dựng đô thị trên địa bàn thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
Cùng với sự phát triển, mở rộng không gian đô thị của thành phố và
nhu cầu nhà ở của nhân dân tăng cao, chất lượng nhà ở được cải thiện rất
nhiều so với trước; việc xây dựng, cải tạo nhà ở của cư dân đô thị phát triển
khá mạnh mẽ với kiểu thức kiến trúc mới phong phú đặc sắc, đa dạng dẫn
đến nguy cơ đáng lo ngại phá vở cảnh quan, không gian kiến trúc đô thị của
thành phố, nhất là trong thời gian gần đây do quá trình đô thị hóa, áp lực của
phát triển du lịch, cả vấn đề tăng dân số, cư dân ngày một nhanh chóng, nhu
cầu nhà ở ngày càng bức thiết, khi kinh tế khá giả nhân dân có tiền lo sửa
33
chữa, cải tạo, xây mới là một điều đáng mừng nhưng diễn ra với tốc độ quá
nhanh, không kiểm soát kịp, một số cá nhân muốn cải tạo để thuận tiện cho
việc kinh doanh buôn bán hơn là để ở, các trường hợp vi phạm quy chế xây
dựng xãy ra càng nhiều đến báo động, nhất là trong khu phố cổ vi phạm tính
lịch sử, làm di tích ngày càng trẻ ra và giảm giá trị. Việc cố tình xây dựng trái
phép, không phép, lấn chiếm đất công, lề đường, không gian ở các phường
ngày càng nhiều gây khó khăn trong công tác quản lý.
2.1.2.2. Tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Trong thời gian qua, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đô thị ở thành
phố Hội An đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, mở rộng mới với 49,1km
trong đó: Đường đô thị 33,7km, đường nông thôn 15,4km và nâng cấp trên
30km đường. Đã đưa vào sử dụng cầu Cửa Đại, ĐT 608, cầu Cẩm Kim. Tiếp
tục triển khai cầu Thanh Nam, đường ĐT607, đường Võ Chí Công.
Thành phố đầu tư các Trung tâm đón tiếp khách du lịch (TTĐTKDL)
như: TTĐTKDL số 332 đường Lý Thường Kiệt, TTĐTKDL phường Thanh
Hà, TTĐTKDL phường Cẩm Châu, đưa các tuyến xe buýt điện trung chuyển
vào hoạt động thử nghiệm…Sắp xếp trật tự ghe bơi du lịch trên sông Hoài.
Công tác quản lý các đầu bến đảm bảo an toàn về người, tài sản. Ban An toàn
giao thông Thành phố hàng năm phát động “Năm an toàn giao thông” và
phối hợp với Liên đoàn Lao động Thành phố quản lý tốt Nghiệp đoàn xích lô,
Nghiệp đoàn ghe bơi du lịch trên sông Hoài tuyên truyền nâng cao nhận thức
pháp luật về ATGT cho các chủ phương tiện. Công tác vận tải cũng được chú
trọng, quan tâm đến lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa và tuyến Cù lao
Chàm. Công tác quản lý đảm bảo trật tự lòng đường, vỉa hè cũng được tập
trung.
34
Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và giao thông chưa được đầu tư đồng bộ, còn
nhiều bất cập, trung bình mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt khách du lịch
đến tham quan khu phố cổ Hội An, cùng với đó là hàng nghìn phương tiện
chuyên chở. Chỉ tính riêng xe chở khách loại 35 chỗ ngồi trở lên có hơn 400
chiếc, cả nghìn xe du lịch từ 7 chỗ ngồi trở xuống đến Hội An, chưa kể lượng
xe máy, mô tô các loại… Trong khi, Hội An mới chỉ có 3 bãi đậu xe: Thành
Hà, Sông Hoài và Lý Thường Kiệt, mỗi nơi đỗ được 30 đến 40 xe. Đó là
chưa kể các điểm tham quan du lịch vùng ven như, khu Cửa Đại, làng rau Trà
Quế, rừng dừa Bảy Mẫu, làng gốm Thanh Hà…mỗi ngày cũng có hàng nghìn
khách du lịch với hàng trăm phương tiện. Việc kiểm tra đôn đốc các công
trình hạ tầng kỹ thuật chưa được tiến hành thường xuyên. Giao thông đường
thủy vẫn còn nhiều mặt hạn chế và chưa được khai thác tốt để phục vụ cho
kinh tế du lịch... Với đặc thù là đô thị du lịch có hệ thống sông ngòi bao
quanh, Hội An còn có các tuyến giao thông đường thủy cũng phát triển, khu
dự trữ sinh quyễn Cù Lao Chàm cách đất liền khoản 10 hải lý phục vụ khách
du lịch. Hiện tại, Hội An hiện có 3 bến đón khách gồm: Cửa Đại, Bạch Đằng,
Cù Lao Chàm chở khách du lịch đường thủy, số lượng tàu, ca nô chở khách
đi Cù lao chàm, thuộc sự kiểm soát của lực lượng cảnh sát giao thông
(CSGT) tỉnh Quảng Nam và Bộ Công an có 87 chiếc ca nô, 05 tàu gỗ, ngoài
ra còn có hơn 2700 tàu thuyền các loại, trong đó có hơn 300 thuyền nhỏ chở
khách du lịch đường sông; ngoài ra có hơn 1.000 thúng chai phục vụ tại các
điểm du lịch.
Vỉa hè, lòng đường là bộ phận của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô
thị thuộc sở hữu của Nhà nước. Vỉa hè, lòng đường còn bao chứa các công
trình cấp thoát nước, chiếu sáng, thông tin, môi trường và các công trình
35
khác. Vỉa hè phục vụ chủ yếu cho người đi bộ, lòng đường phục vụ chủ yếu
cho các phương tiện tham gia giao thông. Khi sử dụng vỉa hè, lòng đường
vào các mục đích khác phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Việc sử dụng vỉa hè, lòng đường phải đảm bảo trật tự ATGT, vệ sinh môi
trường, mỹ quan đô thị.
Tuy nhiên, việc chiếm dụng lòng đường, vỉa hè làm nơi buôn bán
không chỉ làm mất mỹ quan đô thị mà còn là một trong những nguyên nhân
gây cản trở, ùn tắc giao thông và nảy sinh nhiều nguy cơ về tai nạn giao
thông đường bộ còn diễn ra khá phổ biến, nhất là trên các tuyến phố du lịch,
tuyến đường gần chợ.
Vỉa hè bị tận dụng thành nơi giữ xe, đặt biển hiệu quảng cáo, để bàn
ghế hàng ăn, nước uống, bày bán các loại hàng hóa rau củ, hoa quả, tạp
hóa...; lòng đường trở thành điểm kinh doanh của các xe đẩy, hàng rong và
thành nơi đậu đỗ xe của người mua hàng, sự tiện lợi của việc mua bán trên
vỉa hè, lòng đường khi chỉ cần dừng xe ở lề đường là có thể nhanh chóng lựa
chọn và mua sắm ngay những nhu yếu phẩm cần thiết. Vì vậy việc buôn bán,
kinh doanh ở vỉa hè, lòng đường, các chợ tự phát dường như trở thành hình
ảnh quen thuộc và việc mua bán ở lòng, lề đường cũng dần trở thành một thói
quen ăn sâu vào nếp sống sinh hoạt của người dân.
Có thể thấy sự quá tải về cơ sở hạ tầng, thiếu quy hoạch, kết nối đồng
bộ giữa đường giao thông, vỉa hè với các khu vực xung quanh; sự thiếu ý
thức của cả người mua lẫn người bán; chế tài pháp luật vẫn chưa thực sự đủ
để răn đe, tyinh thần trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ chưa
cao…nên tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường vẫn diễn ra thường xuyên,
gây đau đầu các cơ quan quản lý đô thị cũng như lực lượng chức năng. Dù
36
hầu hết người dân đều nhận thức được hành vi lấn chiếm lòng, lề đường là sai
quy định nhưng họ vẫn cố tình xem thường pháp luật. Dù biết việc kinh
doanh, buôn bán liên quan đến mưu sinh của người dân, nhưng vấn nạn này
vẫn cần phải sớm khắc phục để trả lại bộ mặt cảnh quan cho đô thị.
Việc chiếm dụng vỉa hè, lòng đường là một trong những nguyên nhân
gây nên sự xuống cấp đường giao thông như gây ảnh hưởng hệ thống thoát
nước do rác thải sinh hoạt; sụp, lún vỉa hè… Ngoài ra, việc lấn chiếm vỉa hè,
lòng đường để họp chợ còn gây nên ách tắc giao thông, bởi những con đường
trong thành phố Hội An đều rất nhỏ lề đường chỉ từ 2 đến 3m, lòng đường
chỉ từ 5,5 đến 7,5m. Việc đậu, đỗ xe dưới lòng đường để mua bán kinh doanh
tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn giao thông, dễ xảy ra tai nạn, nhất là trên
các đoạn đường gần các điểm chợ tự phát…việc lấn chiếm lòng đường có
nguy cơ gây tai nạn giao thông mà việc chiếm dụng hè phố cũng ẩn chứa
nhiều mối nguy hiểm không kém. Không thiếu trường hợp tai nạn xảy ra do
tài xế không thể quan sát biển báo, đèn tín hiệu do bị biển hiệu quảng cáo che
khuất, hoặc có trường hợp tai nạn xảy ra do phương tiện giao thông mất lái
chạy lên hè phố và va chạm với người bán hàng lấn chiếm vỉa hè.
2.1.2.3. Tình hình trật tự kinh doanh, thương mại:
Đối với thành phố Hội An là một thành phố phát triển dựa vào du lịch,
dịch vụ, thương mại; do đó, các hoạt động sản xuất kinh doanh các mặt hàng,
may mặc, thủ công mỹ nghệ, giày da, dịch vụ ăn uống …với trên một nghìn
cửa tiệm “Shop” phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch, hiện có hơn 450 hộ
bán vải kèm theo dịch vụ “may nhanh”, hơn 460 hộ bán các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ, giày dép, túi xách, đèn lồng và đồ lưu niệm các loại, gần 300
quầy quán ăn uống, nhà hàng. Bên cạnh đó, quá trình phát triển kinh tế-xã hội
của thành phố ngày càng nhanh, nhu cầu cung ứng sản phẩm thiết yếu của
37
đời sống xã hội cũng gia tăng và ngày càng đa dạng bên cạnh những chợ
truyền thống và chợ phiên còn có các siêu thị nhỏ (Mini Mart) càng phát
triển. Hiện nay thành phố Hội An đang quản lý với 7 chợ truyền thống, 03
chợ phiên, 42 Mini Mart; góp phần thúc đẩy kinh tế của thành phố ngày càng
phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng khá lên.
Kinh doanh thương mại là lĩnh vực gắn chặt với ngành kinh tế du lịch
mũi nhọn của thành phố. Du lịch Hội An được du khách trong và ngoài nước
biết đến một phần nhờ vào các sản phẩm hàng hóa kinh doanh thương mại
của nhân dân ở các địa bàn dân cư từ thành thị đến nông thôn. Nó phụ thuộc
vào du lịch rất nhiều và có thể nói là nếu không có du khách thì buôn bán
cũng ế ẩm, người bán thất thu, lỗ vốn. Thế nhưng gần đây, hoạt động kinh
doanh ở khu vực nội thành mất trật tự thấy rõ, việc sắp xếp trưng bày hàng
hóa trong khu phố cổ thiếu ngăn nắp, gọn gàng. Sự phát triển của các cửa
tiệm ở khắp nơi không theo quy hoạch, dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp nảy
sinh làm ảnh hưởng đến trật tự đô thị đó là tình trạng môi giới “Cò mồi”,
chèo kéo khách mua bán các sản phẩm, hàng hóa du lịch, nâng giá lên gấp
nhiều lần giá trị thực của sản phẩm, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh,
tranh giành khách, chất lượng sản phẩm kém chất lượng…
Ngoài ra, do nhu cầu của xã hội và từ tốc độ gia tăng dân số của thành
phố, sự quản lý lỏng lẻo, thiếu quyết liệt của từng địa phương dẫn đến việc
lấn chiếm vỉa hè, lòng lề đường hình thành nên các chợ tự phát, buôn bán
hàng rong gây mất mỹ quan đô thị và an toàn giao thông, có nơi lấn chiếm
hết cả lòng đường như: Từ ngã tư Hoàng Diệu-Bạch Đằng, Ngã năm Trần
Phú-Trần Quý Cáp-Bạch Đằng-Nguyễn Huệ, Thái Phiên, đoạn đường
Nguyễn Trường Tộ-Đinh Tiên Hoàng, Đinh Tiên Hoàng-Nguyễn Đình
Chiểu.
38
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn
thành phố Hội An
2.2.1. Thực trạng công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực trật tự đô thị của chính quyền thành phố
Hội An
Quản lý trật tự đô thị là một hoạt động trong quản lý Nhà nước nói
chung, bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành quản lý; do vậy, để
thực hiện tốt công tác QLNN về trật tự đô thị đòi hỏi các cơ quan Nhà nước
phải ban hành nhiều VBQPPHÁP LUậT cũng như văn bản hành chính và
phân công, phân cấp để thực hiện chức năng quản lý của mình nhằm đạt
được kết quả tốt. Tuy nhiên, trong việc việc ban hành VBQPPHÁP LUậT về
lĩnh vực này cũng có nhiều bất cập, chồng chéo. Có thể nói trong một lĩnh
vực quản lý cũng đã có hàng chục văn bản quy định, hướng dẫn thi hành.
Riêng lĩnh vực quy hoạch, xây dựng đô thị có Luật Quy hoạch đô thị, Luật
xây dựng, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật giao thông đường bộ, Luật
thương mại…dưới Luật có hàng chục Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi
hành như:
Nghị định 42/2009/NĐ-CP, ngày 07/5/2009 về phân loại đô thị. Nghị
định 72/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 37/2010/NĐ-CP về lập, thẩm định,
phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị và Nghị định 44/2015/NĐ-CP hướng
dẫn về quy hoạch xây dựng. Nghị định số 166/2018/NĐ-CP ngày
25/12/2018, Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt
quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích- lịch sử, văn hóa, danh lam
thắng cảnh. Nghị định 139/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh
khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng;
quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà
39
ở, quản lý sử dụng nhà và công sở. Nghị định 21/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị
định 139/2017/NĐ-CP. Nghị định 180/2007/NĐ-CP Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xây dựng về xử lý vi phạm trật tự
xây dựng đô thị. Nghị định số 109/2017/NĐ -CP ngày 21 tháng 9 năm 2017,
Quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt
Nam. Nghị định 81/2013/NĐ-CP, ngày 19/7/2013, Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Nghị định
97/2020/NĐ-CP, ngày 18/8/2017, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 81/2013/NĐ-CP.Nghị định 121/2013/NĐ-CP, ngày 10 tháng 10 năm
2013, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh
doanh bất động sản; khai thác, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý
công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà ở công sở. Nghị định
97/2020/NĐ-CP, ngày 18/8/2017, Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính…
và các Thông tư số 02/2014/TT-BXD Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm
2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu
xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công
sở. Thông tư 15/2016/TT-BXD hướng dẫn về cấp giấy phép xây dựng.
Thông tư 10/2016/TT-BXD quy định về cắm mốc giới và quản lý mốc giới
theo quy hoạch xây dựng. Thông tư 02/2017/TT-BXD hướng dẫn về quy
hoạch xây dựng nông thôn. Thông tư 03/2018/TT-BXD Quy định chi tiết một
số điều Nghị định 139/2017/NĐ-CP. Thông tư 14/2019/TT-BXD về hướng
dẫn xác định và quản lý chỉ số giá xây dựng. Thông tư 22/2019/TT-BXD về
40
Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng. Thông tư số
15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2019, Quy định chi tiết một số quy định
về bảo quản, phục hồi di tích,...
Công tác quản lý trật tự xây dựng là một khâu rất quan trọng trong
quản lý xây dựng. Với những quy định của Luật và các Nghị định, Thông tư
hướng dẫn thực hiện. Quá nhiều văn bản QPPHÁP LUậT chưa kể đến các
văn bản của cơ quan hành chính ở địa phương để quản lý, cần có sự hợp nhất
các VBQPPHÁP LUậT có tính tương đồng và phân công, phân cấp quản lý
để đạt hiệu quả hơn, tránh chồng chéo.
Trong QLNN về quản lý trật tự xây dựng chủ yếu là việc thanh tra,
kiểm tra các công trình xây dựng trên địa bàn đã được cấp phép xây dựng chủ
đầu tư có thực hiện đúng theo giấy phép xây dựng hay không, kịp thời phát
hiện các trường hợp xây dựng sai phép, không phép và có biện pháp xử lý
theo luật đã định. Quản lý trật tự xây dựng dựa trên căn cứ chủ yếu là GPXD
và các tiêu chuẩn đã được duyệt. Công tác quản lý trật tự xây dựng đảm bảo
cho công tác cấp phép được thực thi có hiệu lực.
Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý trật tự xây
dựng, Nghị định 180/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm trật tự
xây dựng đô thị. Vẫn cho phép những công trình xây dựng không phép được
xem xét cấp phép xây dựng, nếu đảm bảo một trong các điều kiện: Xây trên
đất ở có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà; xây dựng
mới trên nền nhà cũ hoặc cải tạo nhà đang ở phù hợp qui hoạch xây dựng;
công trình xây dựng có đủ điều kiện về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất... Khi phát hiện, cơ quan chức năng lập biên bản ngừng thi công, yêu cầu
chủ đầu tư lập thủ tục xin cấp GPXD. Đây là một lỗ hổng pháp luật, tạo cơ
41
hội cho một số chủ đầu tư lách luật, sinh ra cơ chế xin cho, dễ dẫn đến phát
sinh tiêu cực trong quản lý.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi có quyết định đình chỉ thi công, nếu
chủ đầu tư không hoàn thành việc xin cấp phép xây dựng và xuất trình GPXD
thì công trình sẽ bị cưỡng chế phá dỡ. Sau khi được cấp GPXD, nếu công
trình đã xây dựng sai nội dung giấy phép thì chủ đầu tư phải tự phá dỡ phần
sai nội dung giấy phép được cấp, mới được tiếp tục thi công. Nếu không chấp
hành thì phải bị cưỡng chế tháo dỡ công trình, đồng thời chủ đầu tư phải chịu
toàn bộ chi phí tổ chức cưỡng chế công trình vi phạm.
Bên cạnh đó, tùy theo mức độ vi phạm mà chủ đầu tư, đơn vị thi công
bị xử phạt tiền, tuy nhiên mức phạt còn quá thấp, chưa đủ tính ren đe dẫn đến
tình trạng cố ý vi phạm để được tồn tại.
Các Nghị định xử lý vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh,
thương mại như Nghị định 39/2007/NĐ-CP, ngày 16/3/2007 của Chính Phủ
về hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng ký
kinh doanh. Nghị định quy định về phạm vi kinh doanh của cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh
doanh và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động
của các đối tượng này. Tuy nhiên, việc kinh doanh buôn bán hàng rong, lấn
chiếm vỉa hè, lòng đường, kinh doanh trước các di tích,…làm mất mỹ quan
đô thị nhưng khó xử lý dứt điểm vi phạm, bởi có nhiều vấn đề đặt ra đó là
chế tài xử lý chưa nghiêm, phần đông những người buôn bán hàng rong này
đa số là những người nghèo khó ở các vùng nông thôn đến buôn bán không
có nơi kinh doanh cố định.
Trên cơ sở quy định mang tính bắt buộc, định hướng của Luật, Pháp
lệnh và các văn bản QPPHÁP LUậT khác của Quốc Hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ, ngành có thẩm
42
quyền quy định cụ thể QLNN về trật tự đô thị trong từng lĩnh vực cụ thể,
đồng thời phân cấp, phân quyền cho các cấp chịu trách nhiệm quản lý và phải
chịu trách nhiệm với cấp trên về những quyết định của mình.
UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 777/QĐ-UBND,
ngày 15/3/2011 về việc ban hành Quy chế quản lý quy hoạch và kiến trúc đô
thị thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Qua 10 năm triển khai thực hiện đã
đạt được một số thành quả nhất định, góp phần vào công tác quản lý trật tự
đô thị của thành phố trên các lĩnh vực quy hoạch, xây dựng, kiến trúc, giữ gìn
cảnh quan đô thị có tính chất đặc thù ở Hội An. Tuy nhiên, công tác quản lý
nhà nước về đô thị, về xây dựng nhìn chung vẫn còn nhiều mặt tồn tại, bất
cập. Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị còn nhiều bất cập nhưng
chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời phù hợp với thực tế và định hướng
phát triển của thành phố để làm cơ sở cho việc quản lý định hướng xây dựng
Thành phố Sinh thái-Văn hóa-Du lịch.
Đề án bố trí buôn bán hàng rong, vỉa hè thành phố Hội An ban hành
kèm theo Quyết định số 2858/QĐ-UBND ngày 12 tháng 12 năm 2016 của
UBND thành phố Hội An và các văn bản hướng dẫn thực hiện được triển
khai thực hiện từ đầu năm 2017 đến nay bước đầu đã phát huy hiệu quả; tình
trạng người dân ở Hội An, ở các huyện khác thậm chí ở các tỉnh khác đến
sinh sống buôn bán hàng rong trên địa bàn thành phố dần đi vào nề nếp, tình
trạng bu bám, chèo kéo, nâng giá, có lời lẽ thiếu văn hóa với du khách giảm
dần. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Đề án vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế trước hết đây là một văn bản hành chính của cơ quan hành
chính phục vụ cho công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực buôn bán hàng
rong, vỉa hè thành phố, trong quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều bất cấp
nhưng chưa được điều chỉnh bổ sung kịp thời.
43
2.2.2. Thực trạng tổ chức thực thi văn bản quản lý nhà nước về trật
tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An
2.2.2.1. Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý trật tự xây dựng
Thực hiện Quyết định số 777/QĐ-UBND, ngày 15/3/2011 của UBND
tỉnh Quảng Nam về việc ban hành Quy chế quản lý quy hoạch và kiến trúc đô
thị thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. UBND thành phố đã chỉ đạo, tổ chức
triển khai thực hiện công tác quản lý quy hoạch nói chung, quản lý trật tự xây
dựng nói riêng trong thời gian qua đạt được một số kết quả nhất định.
Thành phố đã cấp 10.119 giấy phép xây dựng với tổng diện tích
3.469.621m2, tăng diện tích bình quân hàng năm 16%. Chất lượng nhà ở
được cải thiện rất nhiều so với trước, với kiểu thức kiến trúc mới phong phú
đặc sắc, đa dạng nhưng rất đặc trưng Hội An.
Công tác quản lý nhà ở có nhiều tiến bộ, chặt chẽ hơn theo quy định;
do vậy, những ngôi nhà trong khu phố cổ được bảo tồn nguyên vẹn; khắc
phục và chấn chỉnh tình trạng sử dụng nhà không đúng mục đích. Thu hồi
nhà thuộc sở hữu nhà nước của các cá nhân, tổ chức thuê sử dụng không
đúng mục đích để đấu giá cho thuê như: 33-35 đường Phan Bội Châu, 45
đường Lê Lợi, 22-24 đường Bạch Đằng…Qua đó, góp phần tăng nguồn thu
cho ngân sách. Hoàn thành phương án bán nhà cho đối tượng đang thuê theo
Nghị định 61/CP của CP nhằm tạo điều kiện cho nhân dân ổn định cuộc sống.
Tổ chức đấu giá, gia hạn hợp đồng cho thuê nhà thuộc nhà nước quản lý cho
tổ chức, cá nhân thuê nhà theo quy định.
Tuy nhiên, công tác QLNN về trật tự đô thị trên các lĩnh vực này nhìn
chung vẫn còn nhiều mặt tồn tại. Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị
còn nhiều bất cập nhưng chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Việc lập
quy hoạch tổng thể 1/2000 của thành phố vẫn còn nhiều nơi chưa phù hợp và
chưa có quy hoạch chi tiết 1/500 của từng đơn vị xã, phường trong thành phố;
44
do đó dễ dẫn đến phá vỡ Quy hoạch tổng thể của thành phố khi quản lý lỏng
lẽo. Công tác quản lý trật tự xây dựng, quản lý nhà ở vẫn còn xảy ra tình
trạng nhiều trường hợp xây dựng không phép, sai phép, cơi nới, lấn chiếm đất
công; công tác tham mưu, cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa nhà ở vẫn còn
chậm trễ.
2.2.2.2. Tổ chức thực hiện quản lý trật tự an toàn giao thông
Theo báo cáo của Công an thành phố Hội An và Trung tâm văn hóa thể
thao-Truyền thanh truyền hình thành phố Hội An, trung bình mỗi ngày
có hàng chục nghìn lượt khách du lịch đến Hội An, cùng với đó là hàng nghìn
phương tiện chuyên chở từ ôtô 4 chổ ngồi đến các loại xe 45 chổ ngồi. Ngoài
ra còn có hàng nghìn mô tô, xe máy của khách du lịch đến Hội An, chưa kể
các phương tiện đi lại của người dân thành phố.
Vì thế, chỉ riêng việc đảm bảo TTATGT, hướng dẫn phân luồng, tuyến
cho các phương tiện, lực lượng CSGT đã gặp nhiều khó khăn. Ngay từ đầu
năm 2019, Công an TP Hội An đã kiến nghị UBND TP Hội An và ngành
chức năng cần nâng cấp, mở rộng, mở thêm các điểm đậu đỗ xe cho khách du
lịch, nhưng đến nay vẫn chưa triển khai đượcĐể đảm bảo TTATGT, Công an
TP Hội An tham mưu cho Ban ATGT triển khai việc đậu đỗ xe theo giờ, quy
định từ 16h đến 21h hàng ngày, các xe chở khách du lịch không được vào
khu vực nội thị, nhưng một số doanh nghiệp phản đối, vì gây khó khăn cho
hoạt động kinh doanh, nên đành phải rút ngắn thời gian xuống từ 16h đến 19h
hàng ngày, mục đích để giảm mật độ lưu lượng phương tiện giao thông vào
các giờ cao điểm.
Cùng với việc tìm các biện pháp để điều hòa, giảm thiểu cường độ, lưu
lượng phương tiện giao thông, lực lượng CSGT tăng cường các công tác tuần
tra xử lý vi phạm, triển khai hình thức “phạt nguội”, dán giấy lên xe vi phạm
45
đậu đỗ không đúng quy định, trích xuất camera giao thông xử lý các trường
hợp vi phạm.
Đồng thời, triển khai các chuyên đề như, xử lý người nước ngoài vi
phạm luật giao thông, không đội mũ bảo hiểm, không giấy phép lái xe; xử lý
xe du lịch chạy không đúng tuyến, đậu đỗ trái phép; người tham gia giao
thông uống rượu, bia…
Với đặc thù là đô thị du lịch có hệ thống sông ngòi bao quanh, Hội An
còn có các tuyến giao thông đường thủy cũng phát triển phục vụ khách du
lịch. Hiện tại, Hội An hiện có 3 bến đón khách gồm: Cửa Đại, Bạch Đằng,
Cù Lao Chàm chở khách du lịch đường thủy với số lượng tàu thuyền lớn.
Tuy nhiên, số lượng tàu đạt chuẩn đủ điều kiện lưu thông trên biển
theo quy định chỉ có 03 chiếc ca nô, 05 tàu gỗ, số còn lại không đạt chuẩn
vẫn đang hoạt động, chưa giải quyết dứt điểm; việc tuyên truyền pháp luật về
đảm bảo TTATGT vẫn chưa đạt hiệu quả cao, việc xử lý vi phạm chưa
nghiêm dẫn đến người dân, các doanh nghiệp còn xem nhẹ; nguy cơ tiềm
tàng mất an toàn giao thông đang hiện hữu.
Về quản lý vỉa hè, lòng đường, theo quy chế của thành phố thì việc sử
dụng tạm thời một phần lòng đường và vỉa hè vào các mục đích khác ngoài
giao thông phải được cơ quan có thẩm quyền xem xét và cấp phép. Các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng tạm thời lòng đường và vỉa hè ngoài mục
đích giao thông đều phải xin cấp phép sử dụng và thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định trong giấy phép. Đồng thời phải bố trí lối đi thuận tiện, an toàn cho
người đi bộ và phương tiện giao thông. Việc cấp phép sử dụng tạm thời lòng
đường và vỉa hè chỉ có giá trị trong khoảng thời gian quy định.
Các trường hợp được sử dụng vỉa hè theo quy định của thành phố như
sau:
46
Một là, hoạt động tổ chức tiệc cưới, tang ma, hiếu hỷ của hộ gia đình,
cá nhân có nhu cầu sử dụng tạm thời một phần vỉa hè thì gửi đơn xin phép
đến UBND xã, phường nơi cư trú để xin phép. UBND xã, phường xem xét,
kiểm tra, hướng dẫn và giám sát việc sử dụng tạm thời một phần vỉa hè để
không ảnh hưởng lối đi cho người đi bộ và mỹ quan đô thị.
Hai là, hoạt động phục vụ thi công xây dựng, sửa chữa công trình, nhà
ở có sử dụng một phần lòng đường, vỉa hè: Các tổ chức, cá nhân thi công xây
dựng, sửa chữa công trình, nhà ở có nhu cầu sử dụng một phần lòng đường,
vỉa hè thì làm đơn xin phép gửi đến UBND xã, phường nơi thi công xin phép
sử dụng tạm thời một phần vỉa hè để phục vụ cho hoạt động thi công. UBND
xã, phường chỉ xem xét cho phép sử dụng tạm thời lòng đường, vỉa hè cho
hoạt động phục vụ thi công xây dựng, sửa chữa công trình trên nguyên tắc
không gây cản trở giao thông cho phương tiện và người đi bộ, đảm bảo vệ
sinh môi trường và mỹ quan đô thị. Trong trường hợp việc tập kết vật liệu
xây dựng đòi hỏi mặt bằng lớn, vượt quá phạm vi cho phép sử dụng tạm thời
vỉa hè, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét việc cấp phép sử dụng tạm thời
toàn bộ vỉa hè để phục vụ hoạt động trên. Tuy nhiên, thời gian cho phép chỉ
được thực hiện trong vòng 24 giờ, sau đó phải trả lại nguyên trạng vỉa hè. Tổ
chức, cá nhân được cấp phép sử dụng tạm thời một phần lòng đường vỉa hè
không được tự ý đào bới, xây dựng làm biến dạng lòng đường và vỉa hè. Mức
thu phí đối với khu vực phố cổ thuộc phường Minh An là 40.000đ/m2 /tháng,
các khu vực còn lại là 7.000đ/m2 /ngày.
Ba là, hoạt động trông giữ xe tạm thời có thu phí: Cơ quan có thẩm
quyền chỉ xem xét việc cấp phép sử dụng tạm thời một phần vỉa hè làm bãi
giữ xe đạp, xe mô tô có thu phí tại các vị trí, địa điểm nằm trong danh mục
khu vực, tuyến đường đã được UBND thành phố cho phép để tạo điều kiện
47
cho khách du lịch tham quan, mua sắm được sắp xếp, tổ chức giữ xe trên vỉa
hè. Danh mục này phải được UBND tỉnh thông qua. Các điểm trông giữ xe
công cộng trên vỉa hè có thu phí phải bảo đảm thuận lợi cho người đi bộ, vệ
sinh môi trường, mỹ quan đô thị và không ảnh hưởng đến sinh hoạt bình
thường của hộ gia đình và cá nhân có quyền sử dụng hợp pháp nhà, công
trình xây dựng dọc tuyến đường đó.
Bốn là, hoạt động phục vụ việc kinh doanh, thương mại: Việc cấp phép
sử dụng tạm thời vỉa hè vào việc kinh doanh, thương mại, buôn bán hàng hóa
chỉ áp dụng tại các tuyến đường nằm trong danh mục các tuyến đường đặc
thù được phép sử dụng vỉa hè vào kinh doanh, buôn bán và phải nằm trong
vạch cai đỏ. Mức thu phí đối 25.000đ/m2 /tháng.
Năm là, hoạt động xã hội: Việc cấp phép sử dụng tạm thời vỉa hè đối
với hoạt động này được xem xét trên nguyên tắc không gây cản trở giao
thông cho người đi bộ, đảm bảo vệ sinh môi trường xung quanh và mỹ quan
đô thị. Trong trường hợp hoạt động này được tiến hành trên mặt bằng rộng
(bao gồm cả một phần lòng đường) thì cần có sự đồng ý của UBND thành
phố. Cơ quan, tổ chức tiến hành hoạt động xã hội phải được cơ quan quản lý
đường bộ có thẩm quyền thống nhất bằng văn bản về phương án đảm bảo
giao thông trước khi tiến hành tổ chức các hoạt động xã hội theo quy định
của pháp luật.
Đối với vỉa hè có bề rộng trên 3m, phạm vi cho phép sử dụng tạm thời
ngoài mục đích giao thông có bề rộng lớn nhất là 1,5m tính từ mép tiếp giáp
nhà bên trong vỉa hè. Việc xác định tiêu chí cho phép sử dụng tạm thời vỉa hè
phải đảm bảo trật tự, ngăn nắp trên suốt chiều dài từng đoạn hoặc suốt tuyến
đường. Trong trường hợp sử dụng vỉa hè để xây dựng, lắp đặt, sửa chữa các
công trình ngầm như cáp quang, điện thoại, truyền hình…và công trình bên
trên, phạm vi vỉa hè được cấp phép sử dụng tạm thời phải đảm bảo lưu thông
48
cho người đi bộ. Đối với vỉa hè có bề rộng nhỏ hơn 3m, việc cấp phép sử
dụng ngoài mục đích giao thông chỉ được xem xét đối với các hoạt động tiệc
cưới, tang lễ, xây dựng và hoạt động xã hội, đồng thời phải đảm bảo lưu
thông cho người đi bộ, không che khuất làm mật mỹ quan đô thị. Khu vực vỉa
hè được cấp phép sử dụng tạm thời phải đảm bảo không chắn ngang lối ra
vào các kiệt, hẻm; không nằm trước mặt tiền của các công trình văn hóa, giáo
dục, thể thao, y tế, tôn giáo, cơ quan, công sở…
Việc sử dụng vỉa hè phải đảm bảo giữ gìn vệ sinh môi trường, không
làm hư hỏng kết cấu vỉa hè, tạo lối đi thông thoáng cho người đi bộ và không
che khuất làm ảnh hưởng đến tầm nhìn của người sử dụng các phương tiện
giao thông.
Để đảm bảo TTATGT và mỹ quan đô thị trong thời gian đến, chính
quyền và các ngành chức năng cần phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội
trên địa bàn thành phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
TTATGT, mỹ quan đô thị để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong
nhân dân. Ngành chức năng cần tiến hành khảo sát, lắp đặt, thay đổi các biển
hiệu, biển báo giao thông cho phù hợp với thực trạng giao thông hiện nay
trên địa bàn, như việc không cho các phương tiện giao thông có trọng tải lớn,
các xe khách 30 chỗ ngồi trở lên vào trung tâm thành phố, bố trí nhiều
phương tiện xe điện công cộng phục vụ đi lại cho người dân và du khách
trong nội thành; có kế hoạch triển khai các biện pháp xử lý vi phạm giao
thông, dừng đỗ trái phép, xử lý nghiêm các trường hợp lấn chiếm vỉa hè trái
phép để kinh doanh buôn bán và các hoạt động khác…để góp phần đảm bảo
TTATGT và trật tự đô thị, giữ yên bình cho Hội An-một điểm đến du lịch
thân thiện.
2.2.2.3. Công tác quản lý đảm bảo trật tự kinh doanh, thương mại,
chợ:
49
Theo Thông tư 15-TM/CSTTTN, ngày 16/10/1996 của Bộ Thương
mại và Nghị định 02/2003/NĐ-CP, ngày 14/01/2003 thì chợ là mạng lưới
thương nghiệp hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền KT-
XH.
Theo Nghị định 114/2009/NĐ-CP ngày 23/12/2009 về sửa đổi bổ sung
một số điều phát triển chợ của Chính Phủ thì Chợ là một bộ phận quan trọng
trong tổng thể hạ tầng KT-XH. Trong quy hoạch phát triển KT-XH và quy
hoạch phát triển thương mại của từng địa phương phải bao gồm quy hoạch
phát triển chợ.
Hiện nay tại Việt Nam, có 02 loại hình: Chợ truyền thống và Trung
tâm thương mại, siêu thị, siêu thị nhỏ. Trong những năm qua, mạng lưới chợ
đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển KT-XH của đất nước; là nơi
lưu thông hàng hóa phục vụ cho nhu cầu của xã hội và người dân. Quá trình
hình thành và phát triển phát triển KT-XH của từng địa phương, luôn gắn liền
với quá trình phát triển thương mại, chợ, nơi trao đổi, mua bán chủ yếu hàng
hóa của xã hội. Nếu không có mạng lưới các chợ bán buôn, hàng hóa chắc
chắn sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu người tiêu dùng cả về số lượng lẫn chất
lượng.
Với vai trò của chợ đối với kích thích phát triển sản xuất, chợ là nơi
tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, ngư nghiệp, nông nghiệp, có trên 90% lượng hàng hóa sản xuất ra
được tiêu thụ thông qua các mạng lưới chợ và các cửa hàng kinh doanh dịch
vụ trong đô thị. Chợ cũng góp phần duy trì trật tự đô thị địa phương khi tập
trung những người buôn bán về một khu vực nhất định, hạn chế tình trạng lấn
chiếm lề đường, vỉa hè, bu bám, chèo kéo khách, thể hiện văn minh của một
đô thị.
50
Trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước hiện nay, nhiều
trung tâm thương mại, siêu thị được đầu tư xây dựng với quy mô lớn và hiện
đại, nơi tập trung đa dạng nhiều mặc hàng phục vụ cho đời sống xã hội; bên
cạch đó, xuất hiện một hình thức kinh doanh mới của các siêu thị đó là hệ
thống bán lẻ siêu thị nhỏ (mini Mart) phát triển mạnh, len lỏi vào các đô thị,
các khu dân cư, tạo thuận lợi cho người dân mua các mặt hàng thiết yếu.
Nhưng có thể nói hiện nay chợ truyền thống vẫn là nơi người dân đến tham
gia mua-bán, trao đổi nhiều nhất và sự tồn tại mạng lưới chợ truyền thống
cũng chính là sự hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của loại hình kinh
doanh mới, trong đó có các chợ đêm, siêu thị, siêu thị nhỏ và trung tâm
thương mại. Trong đó, chợ truyền thống được xây dựng từ nhiều chục năm
trước đây theo quy hoạch phù hợp với điều kiện KT-XH; bên cạnh đó, còn có
các chợ phiên (chợ mai, chợ đêm, chợ họp vào ngày thứ bảy, chủ nhật…).
Đòi hỏi công tác quản lý trật tự chợ phải được chú trọng, UBND thành
phố sắp xếp, củng cố lại Ban quản lý Chợ Hội An để quản lý điều hành hoạt
động chợ Hội An và tham mưu cho UBND thành phố trên lĩnh vực quản lý
Nhà nước ở các chợ, điều động 01 đ/c Thành ủy viên về trực tiếp làm trưởng
Ban quản lý chợ. Đồng thời UBND thành phố ban hành các Quyết định số:
418/QĐ-UBND, ngày 22/02/2016 thành lập tổ trật tự chợ trực thường xuyên
lập lại trật tự các hộ buôn bán lấn chiếm lòng đường, vỉa hè. Quyết định số:
1989/QĐ-UBND, ngày 15/10/2019 về việc kiện toàn nhân sự tổ công tác lập
lại trật tự kinh doanh tại chợ Hội An và các tuyến đường chung quanh chợ.
Ban hành các thông báo số 78/TB-UBND, ngày 22/02/2016 của
UBND thành phố Hội An về nội dung cuộc họp giải quyết vấn đề trật tự tại
khu vực chợ Hội An. Thông báo số 462/TB-UBND, ngày 06/6/2017 và số
550/TB-UBND, ngày 27/6/2017 của UBND thành phố Hội An về nội dung
51
cuộc họp để giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác quản lý chợ và khu
vực xung quanh chợ Hội An.
2.2.3. Thực trạng công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi
phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về lĩnh vực trật tự đô thị
Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về lĩnh vực TTĐT
tại Hội An đã dần đi vào nề nếp, được thực hiện khá thường xuyên theo
chương trình, kế hoạch từ đầu năm.
Nhiều năm qua, để kịp thời ngăn chặn việc xây dựng, sửa chữa-cải tạo
nhà ở, di tích không xin phép, sửa chữa khác của các tổ chức, công dân
không đúng quy chế của UBND Thành phố ban hành, các cơ quan chuyên
môn như Đội kiểm tra Quy tắc, Phòng quản lý Đô thị, Trung tâm quản lý bảo
tồn di sản thành phố và các địa phương đã kiểm tra tiến hành lập biên bản
theo Luật xử lý vi phạm hành chính, Nghị định 81/2013/NĐ-CP, Nghị định
121/2013/NĐ-CP, Thông tư 02/2014/TT-BXD và địa phương lập biên bản
ngừng thi công theo Nghị định 180/2007/NĐ-CP, và tham mưu cho UBND
thành phố ban hành Quyết định xử phạt hành chính theo đúng trình tự, thủ
tục.
Qua 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020, đã kiểm tra 6182/10.119 giấy
phép xây dựng với 10.695 lượt, phát hiện 94 trường hợp xây dựng sai phép,
101 trường hợp xây dựng không phép, 32 trường hợp cơi nới lấn chiếm đất
công cụ thể:
52
Bảng 2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự đô
thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Trường hợp vi phạm
Kiểm tra Lượt Năm giấy phép kiểm tra Không Lấn chiếm xây dựng Sai phép phép đất công
2016 1568/2528 2.609 32 20 03
2017 1311/2286 1.743 25 14 04
2018 1271/2028 2.373 15 13 04
2019 1349/1964 2.555 13 41 07
2020 683/1313 1.415 09 13 14
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Phòng Quản lý đô thị Thành phố Hội
An từ năm 2016 đến năm 2020
UBND thành phố ban hành Quyết định xử phạt VPHC trên lĩnh vực
xây dựng với số tiền 2.522.250.000 đồng, đồng thời áp dụng biện pháp buộc
khắc phục hậu quả đối với 56 trường hợp vi phạm.
Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra về trật tự chợ trên địa bàn Hội
An cũng đã được UBND thành phố tăng cường chú trọng, thông qua thành
lập tổ công tác thanh tra, kiểm tra đã duy trì thực hiện thường xuyên nhiệm
vụ quản lý, chấn chỉnh trật tự chợ Hội An.
Với đặc thù là đô thị du lịch Hội An có hệ thống sông ngòi bao quanh
với các tuyến giao thông đường thủy, các bến thuyền Cửa Đại, Bạch Đằng,
Cù Lao Chàm. Nên hàng ngày, hàng tuần lực lượng CSGT đều cử lực lượng
kiểm tra về chất lượng, an toàn các phương tiện, nhắc nhở, tuyên truyền về
53
Luật Giao thông, đã xử lý hơn 150 vụ việc tàu thuyền chở khách không mặc
áo phao, chở quá số lượng người quy định…
Tuy vậy, điểm bất cập hiện nay trong công tác giám sát, kiểm tra, thanh
tra tại thành phố Hội An, đó là:
Việc phối hợp của các cơ quan chức năng trong công tác kiểm tra, xử
lý vi phạm trong các lĩnh vực còn chậm, thiếu kiên quyết.
Công tác thanh tra, kiểm tra có lúc có nơi vẫn còn lỏng lẻo; việc xử lý
vi phạm cũng còn thiếu quyết liệt. Nhất là trong lĩnh vực quản lý trật tự xây
dựng đối với các trường hợp xây dựng không phép, sai giấy phép…; và các
trường hợp kinh doanh buôn bán hàng rong lấn chiếm vỉa hè, lòng đường.
2.3. Đánh giá thực trạng của công tác quản lý nhà nước về trật tự
đô thị trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Đánh giá về quy định của pháp luật quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Qua gần 10 năm thực hiện Quy chế quản lý Quyết định số 777/QĐ-
UBND, ngày 15/3/2011 của UBND tỉnh Quảng Nam là văn bản hành chính
của tỉnh quy định riêng đối với quy hoạch và kiến trúc đô thị thành phố Hội
An đã góp phần vào gìn giữ nét kiến trúc, không gian đô thị đặc thù của
thành phố Hội An trong thời gian qua cũng như mở rộng không gian đô thị
của thành phố góp phần tích cực vào công tác QLNN về trật tự đô thị hiệu
quả hơn.
Tuy nhiên, Quyết định số 777/QĐ-UBND, ngày 15/3/2011 của UBND
tỉnh Quảng Nam chỉ là quyết định hành chính trong công tác quản lý của cơ
quan hành chính Nhà nước, chưa có VBQPPHÁP LUậT điều chỉnh trên lĩnh
vực này của UBND tỉnh, nên hiệu quả chưa cao.
Tính chủ động trong việc rà soát, ban hành văn bản QLNN trong lĩnh
vực trật tự đô thị chưa cao, số lượng văn bản quá ít so với yêu cầu thực tiễn,
54
chủ yếu là các văn bản hành chính thông thường (công văn, thông báo, kết
luận, kế hoạch…) dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị còn nhiều bất cập nhưng
chưa được điều chỉnh, bổ sung. Việc điều chỉnh Quy hoạch chung về xây
dựng đô thị đến năm 2035 và tầm nhìn đến 2050 còn chậm và chưa được cấp
thẩm quyền phê duyệt để làm cơ sở cho việc quản lý định hướng xây dựng
Thành phố Sinh thái-Văn hóa-Du lịch. Từ đó, ảnh hưởng đến việc hoạch định
quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố.
Đánh giá về tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên
địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Hội An là một trong số các đô thị đặc thù của Việt Nam, với một “di
sản sống” là khu đô thị cổ có người ở và một khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Hiện Hội An có diện tích hơn 60km2 với khoảng 10 vạn dân. Xác định yêu
cầu phát triển thành phố theo hướng vừa giữ gìn cẩn trọng khu phố cổ vừa
mở rộng liên hoàn các khu đô thị mới, đảm bảo phát huy bản sắc riêng và yếu
tố hiện đại bền vững, nhiều năm qua Hội An đã tăng cường công tác quản lý
từ khâu quy hoạch, ban hành quy chế, tổ chức quản lý, vận động nhân dân
thực hiện để giải quyết các vấn đề bức xúc về đô thị. Qua đó đã đem lại
những kết quả đáng phấn khởi về quản lý và phát triển đô thị.
Thực tiễn cho thấy, vai trò, hiệu quả quản lý của Nhà nước cùng trình
độ, nhận thức và thái độ tuân thủ pháp luật của nhân dân trong công tác xây
dựng, kiến trúc là những yếu tố mang tính quyết định đối với sự phát triển đô
thị của Hội An. Hiện nay không gian thành phố đã được mở rộng so với
trước, từ chỗ chỉ có 10 xã, phường đến nay đã tăng lên 13 đơn vị gồm 9
phường và 4 xã với hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội được quan tâm
đầu tư; diện mạo đô thị, nông thôn và hải đảo ngày càng khởi sắc.
55
Công tác quản lý nhà nước về đô thị, về xây dựng nhìn chung vẫn còn
nhiều mặt tồn tại hạn chế, yếu kém chậm khắc phục. Công tác quản lý xây
dựng vẫn còn xảy ra tình trạng nhiều trường hợp xây dựng không phép, sai
phép; công tác tham mưu, cấp giấy phép xây dựng, sửa chữa nhà ở vẫn còn
chậm trễ. Việc phối hợp trong công tác kiểm tra xây dựng còn chậm, chưa
thường xuyên; công tác thẩm định hồ sơ thiết kế một số công trình chưa đảm
bảo quy định; công tác tham mưu triển khai thực hiện một số dự án quy
hoạch còn kéo dài làm ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế của người dân.
Công tác thanh tra, kiểm tra đôi lúc đôi nơi còn lỏng lẻo, xử lý vi phạm
và buộc khắc phục hậu quả chưa nghiêm, thiếu quyết liệt. Nhất là trong lĩnh
vực quản lý trật tự xây dựng đối với các trường hợp xây dựng không phép,
sai giấy phép…; và các trường hợp kinh doanh buôn bán hàng rong lấn chiếm
vỉa hè, lòng đường.
Việc phân công, phân cấp nhiệm vụ quản lý còn chồng chéo, công tác
phối hợp quản lý của các cơ quan chức năng thiếu chặt chẽ, đồng bộ…dẫn
đến trì trệ, đùn đẩy trách nhiệm khi có sự việc xãy ra. Một bộ phận cán bộ,
công chức chưa thực hiến tốt đạo đức công vụ, chưa thể hiện tốt vai trò, trách
nhiệm với công việc được giao.
Công tác quản lý, tham mưu về giao thông vận tải còn hạn chế chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển; cơ sở hạ tầng và giao thông chưa được đầu
tư đồng bộ, còn nhiều bất cập, việc kiểm tra đôn đốc các công trình hạ tầng
kỹ thuật chưa được tiến hành thường xuyên. Giao thông đường thủy vẫn còn
nhiều mặt hạn chế và chưa được khai thác tốt để phục vụ phát triển kinh tế.
Việc lập lại trật tự vỉa hè, lòng đường được các cấp chính quyền cũng
như các ngành của thành phố tổ chức triển khai quyết liệt, hằng tuần UBND
thành phố đều tổ chức giao ban trật tự vào chiều thứ sáu với các xã, phường,
các cơ quan chuyên môn có liên quan để nắm bắt và chỉ đạo công việc rất
56
quyết liệt. Nhưng thực tế, do nhu cầu cuộc sống của một bộ phận nhân dân
khó khăn từ các nơi khác đến và nhân dân ở thành phố mưu sinh bằng các
nghề buôn bán hàng rong kiếm sống nên việc chấp hành của người dân chưa
nghiêm, các lực lượng đẩy đuổi nơi này thì họ đến nơi khác, khi lực lượng đi
khỏi họ lại quay trở lại, gây khó khăn trong việc quản lý của các cơ quan
chức năng và chính quyền địa phương các xã, phường bởi lực lượng ít, địa
bàn rộng lại phân tán, phụ trách nhiều lĩnh vực, nhiều nơi. Trong quá trình xử
lý vi phạm chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng trên lĩnh vực
trật tự đô thị, lòng lề đương mà việc xử lý vi phạm được áp dụng theo Nghị
định 100/2019/NĐ-CP, ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính Phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường
sắt.
2.3.1. Ưu điểm
Trong thời gian qua, cùng với quá trình phát triển KT-XH, tốc độ gia
tăng dân số cơ học, quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa diễn ra nhanh
chóng, kéo theo quá trình đô thị hóa của thành phố Hội An ngày càng nhanh,
thành phố tập trung thực hiện mở rộng không gian đô thị, giải tỏa đền bù,
chỉnh trang các khu phố. Đồng thời cũng xác định công tác QLNN về trật tự
đô thị là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển KT-XH, đảm bảo trật tự an toàn xã
hội của thành phố.
Nhận thức về trách nhiệm của các cơ quan, các địa phương QLNN về
trật tự đô thị ngày càng rõ nét, chú trọng hơn; thể hiện vai trò của từng tổ
chức trong việc thực thi công vụ.
Các cơ quan tham mưu, giúp việc cho UBND thành phố ngày càng
tinh gọn, chuyên môn hóa; có nhiều tiến bộ về cải cách hành chính trong
quản lý trật tự đô thị, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và cá nhân người
trực tiếp thực thi nhiệm vụ được nâng lên.
57
Xây dựng được một số mô hình hay như đội thuyền bơi tự quản,
nghiệp đoàn xích lô du lịch, đội xe thồ (xe ôm) tự quản, tuyến đường văn
minh của chi hội đoàn thể, thu phố tự quản đã phát huy hiệu quả tích cực huy
động được sức mạnh của cộng đồng trong thực hiện, quản lý, giám sát trật tự
đô thị, góp phần giảm tải công việc cho các cơ quan quản lý.
Công tác thanh tra, kiểm tra dần đi vào nề nếp thực hiện thường xuyên
theo chương trình, kế hoạch đầu năm phù hợp với từng địa phương, từng lĩnh
vực, thời gian. Từ đó kịp thời phát hiện xử lý, chấn chỉnh những vi phạm
pháp luật của các tổ chức, cá nhân.
Nhờ vậy, công tác QLNN về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội
An ngày càng đi vào nề nếp và hiệu quả. Trật tự an toàn xã hội được giữ
vững, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân ngày càng cao, hạn chế được
tình trạng vi phạm pháp luật trong nhân dân về trật tự đô thị.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, thì công tác QLNN về trật tự đô thị
trên địa bàn thành phố vẫn còn những tồn tại hạn chế, bất cấp cần nhanh
chóng khắc phục để đảm bảo trật tự đô thị, đó là:
Một là, việc rà soát, đánh giá, bổ sung, ban hành các VBQPPL về lĩnh
vực trật tự đô thị của thành phố trong thời gian qua quá ít, chưa kịp thời, chất
lượng chưa cao. Chậm điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể, chưa xây
dựng được quy hoạch chi tiết của thành phố dẫn đến dễ phá vỡ cảnh quan dô
thị của thành phố.
Hai là, công tác quản lý trật tự đô thị có mặt còn lỏng lẻo, thiếu quyết
liệt trong đó, tình trạng lấn chiếm lòng lề đường để kinh doanh, buôn bán,
tình trạng vi phạm trật tự xây dựng xảy ra nhiều nhất là xây dựng trái phép,
sai phép.
58
Ba là, việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn thiếu kiên quyết và
triệt để, hiệu quả chưa cao.
Bốn là, sự phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực thi công
vụ giữa các cơ quan, địa phương thiếu nhịp nhàng, đồng bộ.
2.3.3. Nguyên nhân
* Nguyên nhân ưu điểm:
Về khách quan, thành phố Hội An có vị trí địa lý thuận lợi, diện tích
nhỏ, nằm ở vị trí đất liền cuối cùng của dòng sông Thu Bồn có sự chia cách
tương đối với các huyện, thị khác.
Quá trình phát triển kinh tế của thành phố luôn có sự hợp tác giữa các
vùng miền trong nước và quốc tế, nhất là trên lĩnh vực du lịch, dịch vụ và
giao thoa văn hóa đã hình thành nên “cái nết” riêng có của con người Hội An
“Nhân tình, thuần hậu”.
Về chủ quan, Thành ủy, UBND thành phố luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo sâu sát. Thông qua việc ban hành các văn bản chỉ đạo cụ thể, tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các cơ quan, đơn vị đồng thời tổ chức
giao ban trực báo vào sáng thứ hai hằng tuần đối với lãnh đạo các địa phương
đơn vị báo cáo với Ban Thường vụ Thành ủy tình hình địa phương, trong đó
phản ảnh trật tự đô thị ở từng địa phương và chiều thứ sáu hằng tuần UBND
thành phố tổ chức giao ban trật tự đô thị, các cơ quan, địa phương có liên
quan tham dự báo cáo tình hình và nhận sự chỉ đạo trực tiếp từ lãnh đạo
UBND thành phố qua đó kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh, vướn mắc
trong công tác QLNN về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố.
Tính chủ động, tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ của đa số
cán bộ, công chức, sự phối hợp tuyên truyền, vận động có hiệu quả của Mặt
trận và các đoàn thể, sự đồng thuận cao của nhân dân đã phát huy được sức
mạnh của cộng đồng trong quản lý trật tự đô thị.
59
* Nguyên nhân khuyết điểm
- Về khách quan
Một là, Tính thống nhất của các VBQPPHÁP LUậT liên quan đến
quản lý trật tự đô thị chưa cao, còn chồng chéo, xung đột giữa các cơ quan
quản lý gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật khi xử lý.
Hại là, Thành phố nơi thường xuyên bị tác động bởi thiên tai trong
mùa mưa, bão, là “rốn lũ” thiệt hại nặng nề nên công tác quản lý trật tự đô thị
gặp rất nhiều khó khăn.
Ba là, Tình trạng người dân ở các địa phương khác đến kinh doanh,
buôn bán hàng rong, lấn chiếm vỉa hè phát sinh nhiều vấn đề xã hội gây khó
khăn trong công tác quản lý.
- Về chủ quan
Một là, Một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm
trong thực thi công vụ, chưa kịp thời tham mưu các văn bản QLNN về trật tự
đô thị. Mặt khác, nhận thức và trình độ, kỹ năng của cán bộ, nhất là cán bộ cơ
sở còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Hai là, Việc “phân quyền” giữa các cơ quan quản lý chưa rõ ràng dẫn
đến chồng chéo trong quản lý và thực thi công vụ. Công tác phối hợp triển
khai thực hiện nhiệm vụ thiếu chặt chẽ, đồng bộ, còn đùn đẩy trách nhiệm
giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương; việc xử lý vi phạm còn thiếu kiên
quyết dẫn đến hiệu quả quản lý trật tự đô thị ở một số lĩnh vực chưa cao.
Ba là, Việc kiểm tra, giám sát thực thi công vụ đôi lúc vẫn còn lỏng
lẽo, dẫn đến tình trạng xử lý vi phạm kéo dài, thiếu kiên quyết, triệt để.
Bốn là, Ý thức của người dân trong việc tự giác chấp hành các quy
định của các Nhà nước và các cấp chính quyền về Quản lý Nhà nước về trật
tự đô thị chưa cao.
60
Tiểu kết chương 2
Qua nghiên cứu thực trạng công tác QLNN về trật tự đô thị trong thời
gian qua trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam có thể rút ra kết
luận sau:
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay, thành phố đã ban hành nhiều
văn bản thông thường để chỉ đạo, điều hành, QLNN về lĩnh vực trật tự đô thị.
Tuy nhiên, các văn bản pháp luật về quản lý trật tự đô thị của thành phố Hội
An từ năm 2015 đến nay vẫn chưa nhiều để làm cơ sở cho việc tổ chức triển
khai thực hiện, thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm; văn bản pháp luật
QLNN về trật tự đô thị vẫn chưa chặt chẽ, còn thiếu đồng bộ, bộc lộ nhiều
bất cập; việc phân công, phân cấp quản lý còn chồng chéo nhiệm vụ ở một số
cơ quan dẫn đến thiếu sự phối hợp nhịp nhàn, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết
công các vụ việc vi phạm thiếu quyết liệt, hiệu quả đạt thấp.
Quá trình phát triển KT-XH của thành phố và quá trình đô thị hóa diễn
ra nhanh chóng, phát sinh nhiều vấn đề mới nhưng công tác dự báo tình hình,
tham mưu các văn bản pháp luật để quản lý trật tự đô thị thiếu kịp thời. Đội
ngũ cán bộ, công chức có sự luân chuyển nhiều, chưa chủ động trong công
việc đã ảnh hưởng đến quản lý, điều hành của chính quyền thành phố. Công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn thiếu kịp thời, triệt để.
Để công tác QLNN về trật tự đô thị trong thời gian đến đạt được hiệu
quả cao thì các cấp, các ngành, các cơ quan QLNN trên các lĩnh vực phải
nghiêm túc nhìn nhận những tồn tại, hạn chế, nhanh chóng khắc phục những
nguyên nhân hạn chế yếu kém, nghiên cứu, tiếp thu những cái mới, những cái
hay trong mô hình quản lý đô thị, nhất là trong lĩnh vực trật tự đô thị của các
địa phương khác trong nước, cũng như ở nước ngoài để góp phần xây dựng
thành phố Hội An phát triển bền vững, xứng đáng là đô thị sinh thái-Văn hóa
61
và là trung tâm của “con đường di sản văn hóa thế giới Huế-Hội An-Mỹ
Sơn”.
Nghiên cứu thực trạng QLNN về trật tự đô thị, cùng việc đánh giá thực
trạng và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém của thực trạng
QLNN từ thực tiễn thành phố Hội An, Quảng Nam sẽ là cơ sở để nghiên cứu
tiếp ở chương 3
62
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM
3.1. Quan điểm về đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự
đô thị trên địa bàn thành phố Hội An
Mục tiêu phát triển đô thị thành phố Hội An đến năm 2030
Tiếp tục xây dựng thành phố Hội An từ đô thị loại 3 lên đô thị loại 2,
theo hướng vừa phải giữ gìn khu phố cổ vừa phải đầu tư mở rộng liên hoàn
các khu đô thị sinh thái mới; các đô thị biển, các khu vực ngoại ô đảm bảo sự
phát triển bền vững; trong đó tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, đặc
biệt là hạ tầng giao thông để tạo bước đột phá cho các lĩnh vực khác phát
triển đồng thời chú trọng cảnh quan môi trường. Không ngừng nâng cao năng
lực quản lý quy hoạch, xây dựng, quản lý nhà, giao thông vận tải, kinh doanh
thương mại...góp phần xây dựng thành phố Hội An thân thiện, an toàn, phát
triển bền vững theo định hướng “Sinh thái-Văn hóa-Du lịch”.
3.1.1. Quan điểm định hướng để đổi mới hệ thống pháp luật nhằm
đảm bảo hiệu quả thực hiện quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Tập trung quán triệt chủ trương của Đảng ta tại Đại hội XIII về định
hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, trong đó có nội dung: Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động
lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Hoàn thiện đồng bộ
hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách… Quản lý phát triển xã hội có hiệu
quả, nghiêm minh, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương; giữ vững an ninh chính
trị và an ninh xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an
63
ninh mạng, an ninh kinh tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; lấy bảo vệ
môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu xây dựng môi
trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh…
Trên cơ sở quán triệt chủ trương của Đảng tại Đại hội XIII liên quan
đến lĩnh vực QLNN về trật tự đô thị và pháp luật hiện hành, yêu cầu các cấp
ở địa phương - trong đó, có chính quyền thành phố Hội An cần chủ động
tham mưu cho UBND tỉnh Quảng Nam ban hành VBQPPL về Quy chế về
quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị; cơ chế quản lý trật tự đô thị đặc thù trên
địa bàn thành phố Hội An.
Thành ủy Thành phố Hội An, cần căn cứ điều kiện đặc điểm và đặc
trưng của đô thị Hội An để chủ động đề xuất chủ trương quan điểm chỉ đạo
nhằm mở đường cho UBND thành phố cụ thể hóa thành các văn bản quy
phạm pháp luật để mở đường thuận lợi cho công tác QLNN về trật tự đô thị.
3.1.2. Quan điểm về đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy để đảm
bảo hiệu quả thực hiện quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Xây dựng bộ máy QLNN theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả.
Thực hiện phân công, phân cấp rạch ròi từng cơ quan, đơn vị, địa phương,
người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương chịu trách nhiệm QLNN về
trật tự đô thị trên địa bàn, lĩnh vực mình phụ trách; giữ vững kỷ cương, kỷ
luật, nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương, cơ quan chức năng. Nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công
chức trong thực hiện nhiệm vụ.
Tăng cường QLNN về trật tự đô thị phải hướng đến phục vụ và đáp
ứng nhu cầu xã hội về trật tự đô thị, hướng đến khắc phục những tồn tại, hạn
chế, yếu kém trong QLNN về trật tự đô thị; nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt
động của các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan đơn vị. Phát huy dân
chủ, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
64
3.2. Giải pháp đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự đô thị
trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
3.2.1. Đẩy mạnh rà soát để tăng cường chất lượng các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan lĩnh vực trật tự đô thị
Hoàn thành điều chỉnh Quy hoạch chung 1/2000 của thành phố Hội An
đến năm 2035 tầm nhìn đến năm 2050.
Xây dựng quy hoạch chi tiết 1/500 của thành phố, quy hoạch giao
thông, quy hoạch ngầm hạ tầng kỹ thuật. Trong đó, thành phố Hội An có khu
đô thị cổ là một di tích quốc gia đặc biệt, được UNESCO công nhận là một di
sản văn hóa thế giới cần có quy hoạch kiến trúc, không gian đô thị có tính
chất đặc thù để quản lý khu phố cổ đạt hiệu quả hơn, nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa di sản. Đảm bảo cho công tác quản lý, bảo tồn, tu bổ
các di tích lịch sử -văn hóa, các công trình dân dụng khác, công trình hạ tầng
kỹ thuật, cảnh quan khu vực, cây xanh và các yếu tố môi trường trong khu
phố cổ.
Thay thế quyết định hành chính số 777/QĐ-UBND, ngày 15/3/2011
của UBND tỉnh Quảng Nam bằng một văn bản quy phạm pháp luật về quản
lý quy hoạch, kiến trúc đô thị của thành phố Hội An cho phù hợp với quy
hoạch chung thành phố và thực tiễn đặt ra.
Bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý trật tự đô thị như:
Quản lý về buôn bán hàng rong phải quy định rõ ràng về các chế tài áp dụng
khi cá nhân vi phạm các quy định đã đề ra và các mức xử phạt, biện pháp,
chế tài cưỡng chế hành chính, tịch thu phương tiện buôn bán và đình chỉ hoạt
động, không cho buôn bán ...
65
3.2.2. Đẩy mạnh cải cách hành chính và đổi mới quản lý theo mô
hình đô thị thông minh để đảm bảo hiệu quả thực hiện quản lý nhà nước
về trật tự đô thị
3.2.2.1. Về phía cơ quan quản lý
Đối với UBND thành phố Hội An thực hiện quyền thống nhất quản lý
nhà nước về trật tự đô thị, chịu trách nhiệm trước UBND Tỉnh và HĐND
Thành phố. Phân cấp, phân công quản lý cụ thể cho từng cơ quan, xã, phường
quản lý trên từng lĩnh vực.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cần tập trung xây dựng đề án xây dựng
đô thị thông minh nhằm quản lý qua hệ thống phần mềm công nghệ thông tin.
Giao cho một cơ quan trực tiếp chủ trì tham mưu quản lý. Với đô thị thông
minh thông qua hệ thống camera an ninh, có thể giám sát các hoạt động xã
hội, du lịch, kể cả các thủ tục cải cách hành chính…Tuy nhiên, đây là một dự
án phức tạp cần trình độ kỹ thuật và nguồn kinh phí lớn, đòi hỏi sự tham gia
của nhiều ban, ngành, đơn vị, tổ chức… hành trình xây dựng mô hình đô thị
thông minh là con đường dài, nhưng cũng là mục tiêu phải hướng đến. Do
đó, thành phố cần bố trí ngân sách thường xuyên, tập trung vào các vấn đề
cấp thiết của Hội An như quản lý quy hoạch, quản lý di sản, quản lý du lịch
và quản trị hành chính,..cùng với đó sẽ tăng cường phối hợp chặt chẽ với
doanh nghiệp, người dân nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Hội An trở
thành đô thị di sản thông minh trong tương lai.
Thực tế, đô thị thông minh về cơ bản chính là mô hình thành phố ứng
dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để quản lý, điều hành; qua đó giúp
nâng cao đời sống người dân, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền,
sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên…Vì vậy, bên
cạnh xây dựng cơ sở dữ liệu, thành phố Hội An cần phải đầu tư công nghệ,
66
thiết bị thiết bị hạ tầng kỹ thuật, camera quan sát quản lý giao thông; nâng
cấp hệ thống wifi công cộng; xây dựng thông tin dữ liệu về cơ sở y tế, trường
học; thông tin các điểm tham quan, di tích, mua sắm, ăn uống, giải trí; xây
dựng dịch vụ quản lý và giám sát an ninh trật tự; quan trắc cảnh báo môi
trường…
Để điều hành hoạt động, một mạng lưới cảm biến và thiết bị kiểm soát
sẽ cung cấp những thông số liên quan phục vụ cho công tác quản lý, giúp cải
thiện khả năng chẩn đoán và ra quyết định. Đặc biệt, phát triển ứng dụng du
lịch thông minh hỗ trợ du khách. Du khách có thể tải các dữ liệu thông qua
mã QR để tiếp cận những thông tin về điểm tham quan, các khu vui chơi, giải
trí, mua sắm… khu vực xung quanh vị trí mình.
Mặc dù hiện vẫn chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về cách thức
triển khai đô thị thông minh, nhưng một yêu cầu quan trọng của đô thị thông
minh là hệ thống hạ tầng phải được khớp nối đồng bộ, áp dụng công nghệ
tiên tiến, nhất là phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại.
Thực hiện tốt việc xây dựng quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết
của thành phố, đồng thời công khai bản đồ quy hoạch chi tiết tại trụ sở
UBND các phường và những nơi công cộng, nơi người dân dễ nhìn thấy làm
căn cứ trong quản lý nhà nước về trật tự đô thị.
Hoàn thiện chính sách quy hoạch, phát triển kinh doanh, thương mại
đảm bảo sự phát triển hài hòa, giải quyết tốt các vấn đề buôn bán hàng rong,
lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh trong
hoạt động kinh doanh, thương mại.
Tập trung cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá là điều
kiện tiên quyết cho việc nâng cao hiệu quả QLNN nói chung trật tự đô thị nói
riêng. Cắt giảm các thủ tục rườm rà, phức tạp gây nhiều ách tắc gây trở ngại
67
khó khăn cho người dân. Nội dung cải cách thủ tục hành chính cần phải các
nội dung sau:
Đơn giản hoá các bộ phận trong bộ máy quản lý theo hướng tinh gọn,
thực hiện chế độ hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, giảm bớt các thủ tục
và các đầu mối trung gian, có sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan quản
lý nhà nước liên thông từ trung ương đến địa phương và các cơ quan quản lý
chuyên ngành.
Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, tránh tình trạng gây
sách nhiễu đối với người dân khi giải quyết các thủ tục hành chính. Các thủ
tục về hồ sơ đơn giản, quá trình giải quyết đúng quy trình, đúng thời gian quy
định; nếu chậm trễ phải thực hiện thư xin lỗi.
Phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi ngành như:
Phòng quản lý đô thị, Phòng VHTT-TT, Trung tâm quản lý bảo tồn di sản,
Đội kiểm tra quy tắc, UBND các xã, phường tránh chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ và xây dựng quy chế phối hợp giải quyết các vụ việc phát sinh
trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện pháp luật cũng như công tác quản
lý của từng cơ quan, đơn vị như:
Đối với Phòng Quản lý đô thị chịu trách nhiệm trước HĐND và
UBND Thành phố về việc thực hiện chức năng tham mưu và các nhiệm vụ
quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng, giao thông vận tải và kiến trúc được
giao. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc tại phòng Quản lý đô thị
thành phố; trang bị, cung cấp các phần mềm quản lý về công tác quản lý theo
chức năng nhiệm vụ.
UBND xã, phường thường xuyên tuyên truyền, thực hiện các kế hoạch
công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng, quản lý trật tự đô thị theo kế
68
hoạch của UBND Thành phố nhằm nâng cao ý thức và tuân thủ theo các quy
định công tác quản lý trật tự đô thị.
Phòng văn hóa thông tin-tuyên truyền thực hiện chức năng tham mưu
chịu trách nhiệm quản lý trên lĩnh vực văn hóa thông tin, tuyên truyền, biển
quảng cáo, văn minh thương mại…
Trung tâm quản lý bảo tồn di sản chịu trách nhiệm tham mưu trong
công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử, văn hóa.
Đội kiểm tra quy tắc thực hiện chức năng quản lý nhà nước thông qua
việc kiểm tra trật tự văn minh đô thị.
Ban quản lý chợ Hội An thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt
động chợ đảm bảo trật tự kinh doanh, thương mại trong chợ.
UBND các xã, phường chịu trách nhiệm và thực hiện quản lý nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực trong địa giới hành chính mình phụ trách; có trách
nhiệm phối hợp chặc chẽ với các cơ quan chức năng của thành phố trong
công tác quản lý nhà nước về trật tự xã hội.
3.2.2.2. Đối với phía cơ quan thực hiện:
Để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH, cùng với tốc độ tăng dân số
của thành phố, với chức năng là cơ quan tham mưu, giúp việc quản lý nhà
nước về quy hoạch, xây dựng và kiến trúc, giao thông vận tải. Phòng Quản lý
đô thị chịu cần khẩn trương hoàn thành quy hoạch phát triển hạ tầng và quy
hoạch chi tiết phục vụ cho việc xây dựng và quản lý đô thị, đặc biệt là quy
hoạch các khu đô thị mới và khu dân cư đảm bảo cho việc sử dụng đất đúng
quy hoạch đã được phê duyệt. Song song đó, cần đẩy nhanh việc kết hợp xây
dựng đô thị thông minh rà soát lại quy hoạch và thực hiện công tác quản lý
nhà nước, công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát triển đô thị. Mục tiêu và
nhiệm vụ của quy hoạch đô thị là để định hướng phát triển thành phố trong
69
tương lai, phát triển về mặt không gian, kiến trúc, cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật
của từng khu vực.
Việc xây dựng đô thị, trật tự đô thị trong thời gian tới cần phải giải
quyết tốt các vấn đề sau:
Một là, tập trung giải quyết vấn đề hạn chế, tồn tại trong các khu dân
cư về cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh và những vấn đề mới phát sinh trong
QLNN về đô thị và trật tự đô thị như: chợ tự phát, tình trạng buôn bán lấn
chiếm lòng, lề đường, những người bán rong,...
Xây dựng các mô hình quản lý kinh doanh tự quản, có nội quy, quy
chế và chế tài mạnh mẽ đảm bảo theo pháp luật, mọi người dân tham gia hoạt
động kinh doanh, buôn bán hưởng được quyền lợi cao và thực hiện nghĩa vụ
của mình góp phần giữ gìn an ninh trât tự, văn minh thương mại, vệ sinh môi
trường, vệ sinh an toàn thực phẩm ...Hạn chế được tình trạng cò mồi, buôn
bán chèo kéo khách, bán hàng rong vi phạm trật tự vỉa hè, nếp sống văn minh
đô thị.
Đầu tư nâng cấp chợ đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
về giao thông, cấp thoát nước, cung cấp điện, phòng cháy chữa cháy và các
dịch vụ hỗ trợ, đồng thời phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Cần
sắp xếp, bố trí chợ theo hướng chuyên doanh theo từng phân khu, từng mặt
hàng đảm bảo trật tự, mỹ quan, văn minh.
Chợ phải quy hoạch gần đường giao thông, bến xe, bến tàu, bảo đảm
lưu thông hàng hoá tới chợ; đồng thời đảm bảo đầy đủ các cơ sở hạ tầng kỹ
thuật trong chợ có gắn với khu vực bên ngoài như: giao thông, bãi đổ xe vận
chuyển hàng hoá ra vào chợ…giải quyết tốt vệ sinh môi trường trong chợ
cũng như khu vực xung quanh.
70
Hoạt động kinh doanh đối với chợ không đơn thuần là vấn đề kinh tế
mà còn là vấn đề xã hội, liên quan tới văn hóa ứng xử của người dân thành
phố, ANTT, TTATGT, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường và phòng
cháy, chữa cháy.
Để góp phần giải quyết tình trạng chợ tự phát lấn chiếm lòng lề đường,
vỉa hè. Khuyến khích đầu tư xây dựng, nâng cấp sửa chữa chợ, có các chính
sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ cho các hộ dân buôn bán ở các “chợ
tự phát” vào chợ để kinh doanh, buôn bán. Giải tỏa chợ tự phát lấn chiếm
lòng, lề đường là một trong những nội dung quan trọng của việc duy trì trật
tự, kỷ cương đô thị và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước. Áp dụng cơ
chế quản lý thông qua đăng ký kinh doanh và các quy định hiện hành, các hộ
kinh doanh phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nếu không có thì cơ
quan chức năng sẽ xử lý theo quy định hiện hành. Xử lý các vi phạm của
người mua hàng, như dừng xe ở lề đường gây cản trở giao thông.
Hai là, hoàn thiện xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển thành phố và
quy hoạch chi tiết, quy hoạch tiểu vùng, đồng thời thực hiện công khai thông
tin quy hoạch cho người dân được biết và thực hiện. Có cơ chế hữu hiệu để
người dân tham gia giám sát và tích cực thực hiện việc gìn giữ không gian
kiến trúc, cảnh quan đô thị nơi họ sinh sống.
Quy hoạch phải gắn liền với việc dự báo về xu hướng phát triển KT-
XH nên phải lồng ghép các mục tiêu KT-XH vào trong các đồ án thay vì chỉ
tập trung vào việc tạo dựng hình ảnh bề ngoài của đô thị. Việc không dự báo
chính xác xu hướng phát triển KT-XH trong quá trình lập quy hoạch xây
dựng đô thị sẽ làm cho việc đầu tư phát triển mang tính chắp vá, làm mất đi
cảnh quan đô thị.
Thống nhất cơ quan làm quy hoạch để tránh sự quy hoạch chắp vá,
chồng chéo; để làm cho quy hoạch phù hợp với sự phát triển đô thị trước mắt
71
và lâu dài. Đối với các dự án phát triển khu đô thị mới và dự án nhà ở, các
hạng mục công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội của dự án phải phù hợp để kết
nối với mạng lưới hạ tầng của thành phố và của khu vực xung quanh.
Quy hoạch phải tính đến đảm các kiến trúc hài hoà tính hiện đại với
tính lịch sử văn hóa. Việc phát triển phải tính đến các phương án bảo tồn các
di tích lịch sử, các công trình văn hóa, nghệ thuật của thành phố, Tăng tỷ lệ
đất công viên cây xanh, điều kiện môi trường, hướng con người về với thiên
nhiên theo hướng xây dựng đô thị sinh thái; đồng thời phải đảm bảo chiến
lược trong việc bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ quy hoạch, tránh tình
trạng xây dựng không theo quy hoạch. Áp dụng các biện pháp xử lý kiên
quyết các vi phạm quy hoạch, kiên quyết cưỡng chế, buộc khôi phục lại hiện
trạng khi xây dựng sai quy hoạch được duyệt, tránh tình trạng “xin-cho”.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về xây
dựng, kiến trúc từ thành phố đến các xã, phường đảm bảo đúng định hướng,
mục tiêu đặt ra. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội cán bộ
chuyên ngành giao thông, xây dựng, kiến trúc. Cán bộ tác nghiệp bắt buộc
phải là người có chuyên môn sâu và có phẩm chất tốt; thường xuyên chú
trọng bồi dưỡng về chuyên môn, kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn và nâng
cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện công vụ.
Triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp
luật, quy định về quy hoạch, xây dựng, kiến trúc. Công khai các quy hoạch đã
được phê duyệt; công bố các quy chế, quy định về quản lý xây dựng, kiến
trúc để nhân dân, tổ chức biết.
Thành phố thường xuyên tổng kết thực tiễn, tổ chức các hội thảo
chuyên đề sâu về quy hoạch, kiến trúc và quản lý nhà nước về trật tự đô thị
để nâng cao nhận thức cho đội ngũ quản lý từ thành phố đến các xã, phường.
72
Hướng dẫn nhân dân về thẩm mỹ kiến trúc nhằm giữ gìn và làm đẹp thêm
cảnh quan đô thị, cảnh quan sinh thái.
Phòng văn hóa thông tin-tuyên truyền thực hiện chức năng tham mưu
chịu trách nhiệm quản lý trên lĩnh vực văn hóa thông tin, tuyên truyền, biển
quảng cáo… Đẩy mạnh tuyên truyền nhân dân thực hiện có hiệu quả Đề án
xây dựng con người Hội An nhân tình thuần hậu. Thường xuyên tuyên truyền
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; mỗi người dân đều phải có ý thức
chung trong việc bảo vệ mỹ quan đô thị và trật tự đô thị. Không vì mục đích
cá nhân mà cố tình làm sai luật. Công tác tuyên truyền vận động thường
xuyên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuyên truyền cũng là hình thức khơi
dậy ý thức tự giác từ phía người dân tuân thủ pháp luật.
Mọi người dân đều có trách nhiệm giám sát, điều này là rất cần thiết, vì
quản lý cộng đồng và quản lý nhà nước kết hợp sẽ rất hiệu quả.
Nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo tính chuyên
nghiệp của cán bộ công chức. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ
năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp tiếp xúc với dân để tuyên truyền
cho người dân hiểu và tuân theo quy định của pháp luật. Công chức được
giao việc tham mưu hoặc thực hiện nhiệm vụ không làm tròn nhiệm vụ, vi
phạm các nguyên tắc quản lý sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật cán bộ, công chức
và các quy định có liên quan; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường vật chất
theo quy định của pháp luật.
Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý các hoạt động kinh doanh, thương
mại không đúng quy định nhất là những trường hợp bán hàng rong, buôn bán
không đúng nơi quy định, lấn chiếm vỉa hè, lòng đường. Thực hiện việc sắp
xếp các ngành, nghề kinh doanh; mặt hàng buôn bán hàng rong, vỉa hè như:
Các ngành, nghề kinh doanh được phép kinh doanh theo quy định có
thể tổ chức kinh doanh trong Khu phố cổ như: Hàng lưu niệm, áo quần may
73
sẳn, da giày, túi sách, hàng thủ công mỹ nghệ, khuyến khích duy trì kinh
doanh các mặt hàng truyền thống, các gánh hàng rong truyền thống lâu đời
tiếp tục hoạt động nhưng đảm bảo không ảnh hưởng xấu và làm giảm giá trị
Khu phố cổ. Thực hiện đầy đủ, đảm bảo các quy định về sử dụng, tu bổ, tôn
tạo di tích; kinh doanh đúng ngành, nghề đăng ký; thực hiện đúng quy định
về đảm bảo an toàn phòng, chống cháy, nổ; vệ sinh môi trường, an toàn thực
phẩm. Niêm yết công khai, rõ ràng giá hàng hóa, dịch vụ trong địa điểm kinh
doanh. Khuyến khích chủ cơ sở kinh doanh, nhân viên giao dịch, bán hàng
mặc trang phục truyền thống hoặc đồng phục của cửa hàng đảm bảo gọn
gàng, lịch sự; thái độ giao tiếp nhã nhặn, văn minh.
Bằng các biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền, vận động kết hợp với kiểm
tra, xử phạt vi phạm nghiêm minh, từ đó tạo được sự chuyển biến trong ý
thức của người dân về việc chấp hành, tuân thủ các quy định về nếp sống văn
minh đô thị.
Đội kiểm tra quy tắc thực hiện chức năng kiểm tra, phát hiện và phối
hợp xử lý các vi phạm trong lĩnh vực xây dựng, sửa chữa nhà ở, công trình
dân dụng, hạ tầng đô thị; các đối tượng hành nghề môi giới, chèo kéo bu bám
khách trên địa bàn thành phố. Phối hợp với các ngành, địa phương liên quan
trong việc kiểm tra và xử lý các vi phạm về đất đai, vệ sinh môi trường, mỹ
quan, cảnh quan đô thị; kiểm tra các lĩnh vực văn hóa, văn minh du lịch,
thương mại dịch vụ và phòng chống các tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự công
cộng, trật tự và an toàn xã hội và tham mưu UBND Thành phố có những biện
pháp xử lý theo đúng thẩm quyền luật định.
Hướng dẫn, giải thích, nhắc nhở các tổ chức và công dân chấp hành
các quy định của Nhà nước về quản lý, trật tự xây dựng, văn minh đô thị trên
địa bàn Thành phố.
74
Thường xuyên kiểm tra, phát hiện các hành vi vi phạm trên các lĩnh
vực được giao theo chức năng, nhiệm vụ; khi phát hiện sai phạm được quyền
lập biên bản VPHC và báo cáo với UBND Thành phố đề xuất xử lý đối với
các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm.
Đội có trách nhiệm phối hợp cùng các phòng ban chuyên môn, UBND
xã, phường và lực lượng công an tổ chức thực hiện các quyết định xử phạt,
cưỡng chế hành chính của các cấp có thẩm quyền về việc buộc khôi phục
nguyên hiện trạng ban đầu do hành vi VPHC gây ra, tháo dỡ công trình xây
dựng vi phạm và các công trình phải di chuyển để giải phóng mặt bằng. Đội
có bộ phận chuyên trách nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội, trực tiếp tham
gia hướng dẫn, tuyên truyền, giải thích các tổ chức và công dân chấp hành
các quy định của Nhà nước về trật tự văn minh trong kinh doanh, dịch vụ, du
lịch, thương mại trên địa bàn thành phố, giải quyết nạn cò mồi, bu bám, chèo
kéo khách. Thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác trong quản lý đô thị, trật tự
an toàn xã hội do UBND thành phố giao.
UBND các xã, phường thực hiện những công việc quản lý đô thị được
phân cấp đồng thời thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của các
tổ chức và cá nhân trên địa bàn về công tác quản lý đô thị theo quy định của
pháp luật; có trách nhiệm phối hợp với Phòng quản lý đô thị và các ban
ngành liên quan để thực hiện công tác kiểm tra, phát hiện vi phạm trong quy
hoạch xây dựng đô thị, đình chỉ ngay hành vi vi phạm và xử lý vi phạm theo
thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước HĐND, UBND thành phố và HĐND
cùng cấp.
Chính quyền các xã, phường quản lý về trật tự đô thị cần tập trung các
nhiệm vụ như:
75
Một là, thực hiện tốt các quy định của pháp luật trong công tác quản lý
nhà nước về trật tự đô thị.
Hai là, thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân hưởng ứng
tham gia đảm bảo trật tự đô thị, TTATGT, không lấn chiếm lòng lề đường,
vỉa hè; tuyên truyền để nâng cao ý thức người dân góp phần vào đảm bảo trật
tự an toàn xã hội.
Ba là, kết hợp tốt việc thực hiện và tuyên truyền, công tác quản lý nhà
nước phải đạt hiệu quả; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước.chú trọng công
tác kiểm tra về trật tự đô thị trong phạm vi địa giới hành chính mình quản lý.
3.2.2.3. Về phía người dân
UBND thành phố cần tập trung nhóm giải pháp giải quyết việc làm,
nâng cao đời sống nhân dân, trong đó:
Phát triển các khu chợ phiên, chợ đêm phục vụ cho du khách tham
quan mua sắm để giải quyết công ăn, việc làm ổn định đời sống cho người
lao động, hạn chế được lấn chiếm vỉa hè kinh doanh, buôn bán cũng như tình
trạng cò mồi, chèo kéo khách, nâng giá...
Có chính sách hỗ trợ đối với người lao động tự do như: Tổ chức hệ
thống dịch vụ giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, thông tin thị trường lao
động ở thành phố. Tổ chức khảo sát tình hình lao động tự do tại khu vực nội
thành để hiểu rõ đặc điểm, hoàn cảnh, nguyện vọng, nhu cầu hỗ trợ về công
việc làm, hỗ trợ vốn hoặc đào tạo nghề cho người lao động chuyển đổi nghề
phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động.
Phối hợp với các cơ sở đào tạo trên địa bàn thành phố và vùng lân cận
như trường dạy nghề Bắc Quảng Nam, trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật-thủy
lợi miền trung mở các lớp đào tạo nghề và khuyến khích các thanh niên trẻ
theo học và giới thiệu việc làm ổn định. Có chính sách hỗ trợ vay vốn khởi
nghiệp với mức lãi suất thấp, thời hạn vay kéo dài, nhất là con em của những
76
người kinh doanh trên vỉa hè nhằm mục đích giữ cho họ không tiếp nối việc
buôn bán như của những gánh hàng rong.
77
Tiểu kết chương 3
Từ lý luận và thực tiễn, qua phân tích, đánh giá tác giả đưa ra mục tiêu
quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về trật tự đô thị, đồng thời đưa ra
các giải pháp về hoàn thiện pháp luật về trật tự đô thị cũng như tổ chức quản
lý trật tự đô thị của thành phố Hội An nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước và tình trạng vi phạm trật tự
đô thị trên địa bàn thành phố Hội An.
Xác định trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm
vụ và phối hợp thực hiện nhiệm vụ, nâng cao trách nhiệm của từng cơ quan,
tổ chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, quy định rõ chủ
thể là cơ quan, người đứng đầu cơ quan nào chịu trách nhiệm…); giữ vững
kỷ cương, kỷ luật hành chính trong thực thi công vụ, phát huy dân chủ và tính
tự quản trong nhân dân; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
nghiêm các vụ việc vi phạm về trật tự đô thị.
Để những mục tiêu, phương hướng đề ra sớm trở thành hiện thực, tác
giả đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo sự đồng
bộ, thống nhất và phối hợp thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong
quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Hội An.
78
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về trật tự đô thị là một bộ phận của quản lý nhà nước
nói chung, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với quy luật phát
triển của xã hội. Trên cơ sở đề tài và mục đích nghiên cứu quản lý nhà nước
về trật tự đô thị từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; tác giả tập
trung nghiên cứu phân tích một số vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng một
số nội dung trọng tâm, bức thiết của thành phố hiện nay như: vấn đề quản lý
quy hoạch đô thị, quản lý trật tự xây dựng, quản lý trật tự giao thông, trật tự
kinh doanh, thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy thành phố cũng đã có
nhiều cố gắng trong việc quản lý trật tự đô thị song vẫn còn bộc lộ nhiều tồn
tại, hạn chế cần khắc phục. Qua nghiên cứu tác giả đề xuất một số nhóm giải
pháp để hoàn thiện pháp luật và công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị,
góp phần ổn định trật tự đô thị và quá trình phát triển của thành phố.
Với tốc độ phát triển kinh tế -xã hội và quá trình đô thị hóa ở thành
phố Hội An ngày càng nhanh chóng, kéo theo nhiều vấn đề phát sinh mới, bất
cập trong công tác quản lý nên việc QLNN về trật tự đô thị đang đặc ra cho
các cơ quan nhà nước những vấn đề cần tập trung nghiên cứu giải quyết.
Thực tiễn đặc ra là phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực trật tự đô thị trên địa bàn thành phố là yêu cầu cần thiết và khách
quan.
Những giải pháp và kiến nghị mà luận văn đề xuất, kiến nghị hy vọng
các cơ quan chức năng và lãnh đạo thành phố sẽ nghiên cứu đưa vào áp dụng
trong quản lý trật tự đô thị của thành phố Hội An, góp phần xây dựng con
người Hội An nhân tình thuần hậu, nâng cao đời sống vật chất, đảm bảo cho
sự phát triển của thành phố Hội An trong thời gian đến theo định hướng đô
thị “Sinh thái-văn hóa-du lịch”.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Quản lý dự án và quỹ đất (2010), Báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và dự kiến cho kế
hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.
2. Lê Trọng Bình (2009), Bài giảng môn học “Pháp luật và quản lý đô thị",
trường Đại học kiến trúc Hà Nội
3. Bộ Công an (2013), Thông tư 11/2013/TT-BCA Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP, ngày 02/10/2010 và
nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
4. Bộ Xây dựng (2020), Nghị định 21/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
139/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật
liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công
trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý
sử dụng nhà và công sở
5. Bộ Xây dựng (2014), Thông tư số 02/2014/TT-BXD Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP
ngày 10 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai
thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng
kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở
6. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư 15/2016/TT-BXD hướng dẫn về cấp
giấy phép xây dựng.
7. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư 10/2016/TT-BXD quy định về cắm mốc
giới và quản lý mốc giới theo quy hoạch xây dựng
8. Bộ Xây dựng (2017), Nghị định 139/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến,
kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật
liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động
sản, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở
9. Bộ Xây dựng (2017), Thông tư 02/2017/TT-BXD hướng dẫn về quy
hoạch xây dựng nông thôn
10. Bộ Xây dựng (2018), Thông tư 03/2018/TT-BXD quy định chi tiết một
số điều Nghị định 139/2017/NĐ-CP
11. Bộ Xây dựng (2019), Thông tư 14/2019/TT-BXD về hướng dẫn xác
định và quản lý chỉ số giá xây dựng.
12. Bộ Xây dựng (2019), Thông tư 22/2019/TT-BXD về Ban hành quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng
13. Bộ Thương mại (1996), Thông tư 15-TM/CSTTTN ngày 16/10/1996,
hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ
14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Thông tư số 15/2019/TT-
BVHTTDL ngày 31/12/2019, Quy định chi tiết một số quy định về bảo
quản, phục hồi di tích.
15. Nguyễn Ngọc Châu (2012), “Quản lý đô thị”, Nhà xuất bản Xây dựng,
Hà Nội
16. Chính Phủ (2003), Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát
triển chợ.
17. Chính Phủ (2007), Nghị định 180/2007/NĐ-CP Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xây dựng về xử lý vi phạm trật
tự xây dựng đô thị.
18. Chính phủ (2009), Nghị định 42/2009/NĐ-CP, ngày 07/5/2009 về phân
loại đô thị.
19. Chính Phủ (2009), Nghị định 114/2009/NĐ-CP, ngày 23/12/2009 về sửa
đổi bổ sung một số điều phát triển chợ.
20. Chính Phủ (2013), Nghị định 81/2013/NĐ-CP, ngày 19/7/2013, Quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành
chính.
21. Chính Phủ (2013), Nghị định 121/2013/NĐ-CP, ngày 10 tháng 10 năm
2013, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng;
kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất kinh doanh vật liệu xây
dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà ở công
sở.
22. Chính Phủ (2013), Nghị định 171/2013/NĐ-CP, ngày 13 tháng 11 năm
2013, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ, đường sắt.
23. Chính phủ (2017), Nghị định số 109/2017/NĐ -CP ngày 21 tháng 9 năm
2017, Quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới ở Việt Nam.
24. Chính phủ (2018), Nghị định số 166/2018/NĐ-CP ngày 25/12/2018,
Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy
hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích- lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh.
25. Chính phủ (2019), Nghị định 72/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
37/2010/NĐ-CP về lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô
thị và Nghị định 44/2015/NĐ-CP hướng dẫn về quy hoạch xây dựng.
26. Chính Phủ (2019), Nghị định 100/2019/NĐ-CP, ngày 30 tháng 12 năm
2019 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ và đường sắt.
27. Chính Phủ (2020), Nghị định 97/2020/NĐ-CP, ngày 18/8/2017, Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7
năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
28. Võ Kim Cương (2014),Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi”, Nhà xuất
bản Xây dựng.
29. Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hội An lần thứ XVIII (2020), Văn
kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hội An lần thứ XVIII, nhiệm
kỳ 2020-2025.
30. Đội kiểm tra Quy tắc (2016-2020), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
hằng năm.
31. Nguyễn Đình Hương, ThS. Nguyễn Hữu Đoàn (2003), Giáo trình “Quản
lý đô thị”, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội-2003.
32. Phạm Hữu Khiển, PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh (2011) “Đại cương Quản
lý đô thị trong điều kiện toàn cầu hóa và phát triển bền vững”, Nhà xuất
bản Lao Động, Hà Nội.
33. Nguyễn Thế Nghĩa, TS. Tôn Nữ Quỳnh Trân (2020) “Phát triển đô thị
bền vững”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
34. Phòng quản lý đô thị thành phố Hội An (2020), Báo cáo chính trị đại hội
chi bộ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020-2025
35. Quốc Hội (2008), Luật số: 23/2008/QH12, Luật giao thông đường bộ.
36. Quốc Hội (2009) Luật số: 30/2009/QH12, Luật Quy hoạch đô thị.
37. Quốc Hội (2012), Luật số 15/2012/QH13, Luật xử lý vi phạm hành
chính.
38. Quốc hội (2014), Luật số 50/2014/QH14 Luật Xây dựng.
39. Quốc Hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương.
40. Quốc Hội (2020), Luật 62/2020/QH14, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật xây dựng.
41. Quốc Hội (2020), Luật số 67/2020/QH14, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. (có hiệu lực từ ngày
01/01/2022)
42. Văn Tân (1967), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà
Nội”.
43. UBND tỉnh Quảng Nam (2011) Quyết định số 777/QĐ-UBND, ngày
15/3/2011 về việc ban hành Quy chế quản lý quy hoạch và kiến trúc đô
thị thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
44. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Quyết định 4441/QĐ-UBND phê duyệt
Đề án ”Đổi mới nâng cao chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ An
ninh Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2016-2020.
45. UBND thành phố Hội An (2016), Đề án bố trí buôn bán hàng rong, vỉa
hè trong Khu phố cổ Hội An ban hành kèm theo Quyết định số
2858/QĐ-UBND ngày 12 tháng 12 năm 2016
46. UBND tỉnh Quảng Nam (2019), Quyết định số 08/2019/QĐ-UBND
ngày 02/5/2019 về ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam.
47. UBND tỉnh Quảng Nam (2020), Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND
ngày 22/4/2020, Quy định một số nội dung về cấp giấy phép trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam
48. UBND thành phố Hội An (2020), Báo cáo số 139/BC-UBND, ngày
04/9/2020 Tổng kết 05 năm thực hiện Đề án ”Đổi mới nâng cao chất
lượng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc trên địa bàn thành
phố Hội An, giai đoạn 2016-2020.
49. UBND thành phố Hội An (2016,2017,2018,2019,2020), Báo cáo tình
hình kinh tế-xã hội của UBND thành phố Hội An hằng năm.