TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Quan niệm về chữ “trung” trong văn học<br />
nhà Nho Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX<br />
Notion of “faithfulness” in literature by Confucian scholars in Southern Vietnam<br />
during the late nineteenth century<br />
<br />
NCS N uy n N ọc Phú<br />
r n i học ồng Tháp<br />
<br />
Nguyen Ngoc Phu, Ph.D. student<br />
The University of Dong Thap<br />
<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển tron bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX -<br />
một iai đo n có sự chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ “trung” ể hiểu hơn về quan niệm này,<br />
bài viết luận iải quan niệm về chữ “trung” tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý t ởn ái quốc và<br />
chữ “trung” - nhìn từ óc độ nhận thức, vận dụn nhữn iá trị tích cực đối với thực ti n<br />
Từ khóa: quan niệm, trung, văn học nhà nho, Nam Bộ.<br />
Abstract<br />
Southern-Vietnamese Confucian literature was developed in the late nineteenth century, during which<br />
the notion of “faithfulness” had chan ed si nificantly his article discusses the notion of “faithfulness”<br />
in comparison between the traditional Confucian virtues of bein “faithful to Kin , devoted to country”<br />
and the practical perception and application of “faithfulness” in the historical context of Southern<br />
Vietnam during the late nineteenth century.<br />
Keywords: notion, faithfulness, Confucian literature, Southern Vietnam.<br />
<br />
<br />
<br />
1. Mở đầu thuẫn Cho nên, chữ “trung” luôn vận<br />
“Trung” là khái niệm đ o đức, xuất hành cùn với sự thay đổi của xã hội Khi<br />
hiện tron các tác phẩm kinh điển của Nho bàn về chữ “trung”, Nho iáo nhấn m nh<br />
iáo và th n đ ợc dùn để chỉ lý t ởn đến n uyên tắc chính trị, là quy ph m luân<br />
trun quân th i phon kiến Chữ “trung” lý trị quốc và xử thế của con n i Nói<br />
mặc dù đã đ ợc hình thành từ rất lâu cách khác, chữ trun đ ợc hiểu là đ n<br />
nh n việc bàn luận về nó vẫn khôn hề lối, n uyên tắc đ o đức mà con n i phải<br />
man tính chất l c điệu, bởi lẽ, tron có bổn phận iữ ìn, đó là nhân sinh quan,<br />
nhữn mối quan hệ iữa bề tôi với vua, bề quan niệm sốn phải tuân theo Chữ trun<br />
tôi với nhân dân luôn nảy sinh nhữn mâu thể hiện t t ởn chỉ đ o tron việc trị<br />
<br />
<br />
114<br />
quốc và phản ánh t t ởn của iai cấp quân đ ợc đặc biệt coi trọn , khôn ít<br />
phon kiến c m quyền Vì thế, văn học nhà n i đặt hai chữ “trung quân” lên hàng<br />
nho là bộ phận cơ bản và quan trọn tron đ u nh n một số nhà nho yêu n ớc nửa<br />
văn học Việt Nam th i trun đ i, bộ phận cuối thế kỷ XIX đ i hỏi phải coi trọn chữ<br />
văn học này hiện c n đặt ra nhiều vấn đề “trung” nh n phải trun với n ớc, vì<br />
c n tìm hiểu, n hiên cứu ây là iai đo n iúp vua chủ yếu để iúp n ớc, iúp dân<br />
văn học mà Nam Bộ đã rơi vào vòng thuộc Quan niệm này khôn bị rơi vào n n “ngu<br />
địa của thực dân Pháp, nhân dân ta phải trung”, vì thế chỉ trun với vua khi vua<br />
chịu sự xâm lăn của ph ơn ây và sốn biết thi hành nhân n hĩa, tức phải biết lo<br />
tron bi kịch của chế độ thực dân nửa cho dân, cho n ớc Có thể nói, t t ởn<br />
phon kiến ron iai đo n này có biết trun quân tích cực của các nhà nho ắn<br />
bao anh hùng vì trun với n ớc đã xả thân với l n yêu n ớc th ơn dân nên tron<br />
để đấu tranh iữ n ớc, thể hiện thái độ thơ văn của họ thể hiện rõ ý thức, trách<br />
c ơn quyết bất hợp tác đối với kẻ thù và nhiệm của mình đối với đất n ớc, phải<br />
hết l n vì đất n ớc quê h ơn Ở iai luôn ìn iữ “đạo trung”.<br />
đo n tr ớc, nhân dân tập họp chun quanh Sán tác của các nhà nho Nam Bộ nửa<br />
chính quyền, t o nên bức t n thành sau thế kỷ XIX cũn chịu sự chi phối bởi<br />
chốn n o i xâm C n iai đo n này có sự quan niệm Khổn M nh, biểu hiện ra thành<br />
chuyển biến lớn tron quan niệm về chữ luân th n đ o lý nên đã vận dụn các<br />
trun của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế khái niệm, ph m trù, nhữn chuẩn mực của<br />
kỷ XIX ron đó có nhiều quan niệm, Nho iáo nhằm đáp ứn yêu c u của th i<br />
nhữn t t ởn phản ánh th i thế và quan đ i Cho nên, tron bối cảnh triều N uy n<br />
niệm về chữ trun đ ợc đặt ra đối với các suy von thì nhữn chuẩn mực ấy n ày<br />
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX càn tỏ ra bất lực tron việc định h ớn<br />
Quan niệm này có sự chuyển biến, thay đổi hành vi con n i Vì vậy, quan niệm về<br />
tr ớc khi thực dân Pháp xâm l ợc Do lợi chữ “trung” đ ợc hiểu và thực thi khác<br />
ích của qu n chún nhân dân khôn đ ợc nhau, có n i kh kh iữ lấy “ngu<br />
đảm bảo trọn vẹn, quan niệm trun mâu trung”, có khi muốn thoát khỏi quan niệm<br />
thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc Nhữn trung quân và cũn có kẻ lợi dụn chữ<br />
nỗi niềm này đ ợc thể hiện qua sán tác “trung” để m u lợi riên hoặc biện minh<br />
thơ văn của các nhà nho Nam Bộ nửa cuối cho sự hèn nhát của mình ron bối cảnh<br />
thế kỷ XIX Phân tích, luận iải về sự ấy, các nhà nho theo quan điểm chính<br />
chuyển biến tron quan niệm trun của văn thốn thì cố ắn phục h n l i nhữn iá<br />
học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX trị đ o đức của Nho iáo và cụ thể hóa<br />
có ý n hĩa rất quan trọn , iúp cho chún thêm một số ph m trù đ o đức theo cách<br />
ta hiểu sâu sắc hơn về quan niệm, t t ởn riên của mình nhằm để củn cố chế độ<br />
của các nhà nho Nam Bộ nửa cuối thế kỷ độc quyền, kéo dài sự tồn t i của v ơn<br />
XIX và thể hiện truyền thốn yêu n ớc quý triều phon kiến ừ thực tế đó, có nhữn<br />
báu của ôn cha ta nhà nho thực hiện đ o trun một cách thụ<br />
t u t m u độn nh n cũn có tr n hợp tiếp thu<br />
t ở t u u yếu tố nhân bản của quan niệm trun (quân<br />
ron th i phon kiến t t ởn trun minh, th n trun ) cùn với sự ảnh h ởn<br />
<br />
115<br />
tinh th n yêu n ớc nên các nhà nho Nam “Ngọc Quan mạn đạo lao đầu bút/ Bạch<br />
Bộ có nhữn b ớc tiến tron quan niệm thủ trường kham báo quốc ân” (Dùng ngòi<br />
“trung quân” và quyết định ia nhập vào bút luận bàn đến việc ra biên ải/ ub c<br />
phon trào khán Pháp B ớc tiến đó thể vẫn c n có thể báo đáp ơn n ớc) (Đăng<br />
hiện từ quan niệm trun quân thu n túy của Bảo Định đồn) L n yêu n ớc của Phan<br />
Nho iáo san quan niệm trun với đất hanh Giản lúc nào cũn ắn với tình<br />
n ớc, với nhân dân th ơn yêu dân n hèo nên ôn luôn n hĩ<br />
Phan hanh Giản là một con n i về nhân dân, quan tâm đến nỗi khổ của dân<br />
chính trực, nhân n hĩa - một cái tôi trữ tình tr ớc thiên tai khắc n hiệt, ôn khôn n ủ<br />
iàu cảm xúc nên thơ văn của ôn phản đ ợc khi thấy nhân dân đói khổ Nỗi niềm<br />
ánh chân thực nhân cách, t t ởn của một của Phan hanh Giản n ày càn nặn thêm<br />
nhà nho yêu n ớc chính thốn Sán tác khi tuổi tác phải đối mặt với sự phức t p<br />
của ôn thể hiện nỗi niềm mất n ớc, một bi của th i cuộc và khôn sao iải quyết đ ợc<br />
kịch của vị đ i th n suốt đ i lận đận tron khiến ôn cảm thấy xót xa: “Lăm trả ơn<br />
v n trói buộc của hai chữ “trung quân”. vua đền nợ nước/ Đành cam gánh nặng<br />
Ôn bị trói buộc bởi đ n lối “chủ hòa” ruổi đường xa/ Lên ghềnh, xuống thác<br />
của triều đình với tâm tr n đ y mâu thuẫn thương con trẻ/ Vượt biển, trèo non cám<br />
và bế tắc tron việc thực thi nhiệm vụ phận già/ Cũng tưởng một lời an bốn cõi/<br />
chính trị ở chốn quan tr n Ôn là vị Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!” (Việc nước<br />
quan thanh liêm, đ o đức, mọi sự n hĩ suy không thành) [7, tr.264]. Mấy ai hiểu đ ợc<br />
đều vì dân, vì n ớc: “Lo nỗi nước kia cơn một nhà nho yêu n ớc đã khôn tiếc m n<br />
phiến biến/ Thương bề dân nọ cuộc giao sốn của mình để bày tỏ sự tận trun v i<br />
chinh” [5, tr 851] a thấy cuộc đ i Phan triều đình? Cái chết của Phan hanh Giản<br />
hanh Giản có nhiều điểm t ơn đồn với là cái chết của l n quả cảm, khôn tham<br />
ăn Quốc Phiên ở Hồ Nam, run Quốc. sốn sợ chết và khôn hề nhu nh ợc Nhà<br />
Phan hanh Giản và ăn Quốc Phiên có thơ yêu n ớc N uy n ình Chiểu đã đánh<br />
t m vóc lớn, có ảnh h ởn t m quốc ia iá Phan hanh Giản rất cao: “Lịch sử tam<br />
nh n bị đánh iá một cách n hiêm n ặt triều độc khiết thân” (Một n i từn trải<br />
tron th i ian dài, nh n họ vẫn tồn t i ba triều vua duy nhất c n tron s ch) [9,<br />
tron l n n i dân mỗi n ớc vì sự chính tr 39] Ôn mất đi nh n nhân dân Nam<br />
trực, nhân n hĩa, hết l n vì n ớc, vì dân Bộ vẫn tôn th ôn , có nhữn đánh iá cao<br />
ron cuộc đ i làm quan, Phan hanh và xóa cho ôn tội oan “bán nước”.<br />
Giản cảm thấy thẹn vì ch a làm đ ợc ì ron sán tác của N uy n hôn thể<br />
cho quê h ơn , ôn ắn sức trau dồi, tu hiện cảnh đói khổ của nôn dân, ta th n<br />
d ỡn đ o đức và luôn băn khoăn về ánh ặp tron thơ ôn nỗi lo lắn về tình hình<br />
nặn nợ n ớc, ơn vua mà n hĩ đến sự báo đất n ớc, nỗi quan tâm lo lắn đến cảnh<br />
đáp ron bài Trú trực, ôn bày tỏ: “Quốc khổ của n i dân vì chiến tranh Xuất<br />
ân hà tự sùng thâm báo/ Độc ỷ nguy lan phát từ lập tr n yêu dân thắm thiết và có<br />
tọa tịch dương” [5, tr 353] Ơn của vua cái nhìn đún đắn đối với qu n chún c n<br />
khôn biết làm thế nào để đền đáp cho lao thôn qua nhữn án thơ đ y n ớc mắt<br />
xứn đán , n ồi một mình tựa lan can d ới nh n ở một số chỗ cũn tỏ ra ch a mất<br />
ánh chiều tà mà n ẫm n hĩ về mình: hết l n tin t ởn ở vua ron bài Trọng<br />
<br />
116<br />
đông tiểu tập thị Phạm Qúy Hữu Doanh xuất hiện nhằm bày tỏ nỗi uất hận và kêu<br />
điền sứ ( hán 11 nhân buổi họp mặt nhỏ ọi cùn nhau hy sinh vì chính n hĩa<br />
viết đ a ôn Ph m Qúy Hữu Doanh điền ron thơ điếu Phan n , N uy n<br />
sứ) ửi ôn Doanh điền sứ khi nhắc cơn ình Chiểu bày tỏ l i lẽ cảm th ơn hết<br />
bão tố h thành Phiên An do quân Pháp sức bi trán : “Làm người trung nghĩa đáng<br />
ây chiến, tác iả viết: “Các tu nỗ lực báo bia son/ Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng<br />
minh chủ” (Mọi n i đều phải cố ắn mòn/ Cơm áo đền bồi ơn đất nước/ Râu<br />
báo đáp minh chúa) [5, tr 110] Họa bài thơ mày giữ vẹn phận tôi con/ Tinh thần hai<br />
Vân Lộc Nguyễn Tư Giản, ông có câu: chữ phao sương tuyết/ Khí phách ngàn thu<br />
“Kim tịch bất giác thần phi vũ/ Công kim rỡ núi non” [2, tr.55]. N uy n Duy Cun<br />
hữu đạo tá minh chủ” (Bất iác đêm nay là một nhà nho đất Quản N ãi, khi biết<br />
tinh th n bay múa, ôn hay ặp đ i hữu sắp bị xử tử vẫn khôn hề nao nún : “Ninh<br />
đ o ra iúp vua anh minh) [5, tr 159] Mặc vi trung nghĩa quỷ/ Bất vi tàm phụ nhân”<br />
dù đó là nhữn câu thơ th n đ ợc viết ( hà làm ma có hồn trun vía n hĩa/<br />
theo lối khuôn sáo, côn thức, nh n xét Không làm n i đeo mặt n ựa đ u trâu)<br />
cho cùn tác iả vẫn tin nhà vua sán suốt, [2, tr.78]. inh th n bất khuất của Phan<br />
nếu đ ợc bề tôi hiền ra iúp thì việc trị Văn t, Lê Cao Dõn khiến nhà vua (sau<br />
n ớc sẽ v ợt khỏi cơn n uy Vì iữ đ o đã thỏa hiệp đ u hàn ) phải ca n ợi:<br />
trun quân nên ôn luôn luôn tỏ ra vân “Tiếng trung nghĩa của Nam kỳ/ Không<br />
lệnh vua, đan lúc chốn Pháp N uy n phải ngày nay mới có/ Xem tờ tấu thật<br />
hôn r i miền ôn khói lửa san Vĩnh đáng khen/ Khen đó, lại khóc đó!/… Lời<br />
Lon nhận chức đốc học thơ lặp lại dài dòng/ Chỉ sợ còn điều thiếu<br />
Văn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế sót/ Thương thay hai đấng nam nhi!/ Danh<br />
kỷ XIX chịu sự ảnh h ởn của t t ởn tiết ngàn năm duy trì” (Lê hực dịch)<br />
“trung quân”, nh n chữ “trung” đã mất [2, tr.32] ứn tr ớc nhữn vấn đề của<br />
hết ý n hĩa, chữ “trung quân” mâu thuẫn th i cuộc nên một số nhà nho n hiên về<br />
với chữ “ái quốc” Vì vua đã khôn minh t t ởn yêu n ớc nh n họ vẫn ch a thể<br />
thì th n khó mà có thể iữ l n trun , nên r i khỏi chữ “trung quân” C n N uy n<br />
có nhữn nhà nho chốn l i vua, nhân dân ình Chiểu thì cũn đã bộc lộ quan điểm<br />
cũn chốn l i vua Nh n l i có một số về vấn đề trun hiếu của mình: “Hai chữ<br />
tr n hợp, nhà nho cộn tác với Pháp để cương thường dằn cả nước/ Một câu trung<br />
h ởn danh lợi mà bán rẻ l ơn tâm cho hiếu vững muôn nhà” [9, tr.280], “Còn<br />
iặc, tiêu biểu nh ôn họ n : “Ở đời đánh giặc mất cũng đánh giặc…; sống thờ<br />
há dễ quên đời đặng/ Tính thiệt so hơn vua, thác cũng thờ vua” [10, tr.29], “Quan<br />
cũng gọi là” [4, tr 167] Về tr n hợp này Phan thác trọn chữ trung thần” [10, tr.42].<br />
thì nhân dân côn kích rất dữ dội vì một bề ron sán tác N uy n Hữu Huân cũn thể<br />
tôi trun khôn thể th hai vua, nên đứn hiện rõ tinh th n trun n hĩa: “Thiên phố<br />
tr ớc bài toán của lịch sử dân tộc thì có hoàn nhân trung nghĩa hậu/ Phân phân<br />
n i rút lui về thành lập đội quân chốn Nam Bắc đảo huyền sầu” (Sau buổi n i<br />
iặc, có khi ch y về ph n đất c n l i của trun về tựu n hĩa/ Bắc Nam d i đổi chúng<br />
triều đình để ẩn náu ch th i Vì vậy, tron dân s u) [11, tr 79], nh n cũn có khi l i<br />
hoàn cảnh đó có nhiều thơ văn yêu n ớc đề cao N uy n Hữu Huân trên lập tr n<br />
<br />
117<br />
trun quân của nho iáo: “Tằng tương tam chiết trung, đặng chữ hiếu trung, một<br />
xích tuyết quân cừu” (Vun kiếm vì vua đường hiếu trung, chuộng đường trung<br />
quyết trả thù) [11, tr 80] C n một số n i hiếu, tấm lòng trung, một câu trung hiếu<br />
l i ca n ợi chữ trun của N uy n Hữu bỏ đi không màng, chữ hạ chữ trung rõ<br />
Huân từ ý thức “công dân”: “Bi tai quốc ràng, mang chữ bất trung, thần tử dự phần<br />
thế nguy huyền phát/ Tử nhĩ tam nhi sỉ hiếu trung,…” Chữ “hiếu” của N uy n<br />
khấu đầu” (Buồn thay, thế n ớc nh treo ình Chiểu ắn liền với chữ “trung”: “lấy<br />
tóc/ Chết vậy! thân trai thẹn cúi đ u) [11, trung hiếu làm đầu, đường trung hiếu, tận<br />
tr.80]. trung, trọn chữ trung, bậc trung,…” Bậc<br />
ừ đó, xét trên tinh th n yêu n ớc thì trun này phải lo cho dân, th ơn dân nếu<br />
nhữn ý kiến đánh iá, nhận định về chữ khôn thì N uy n ình Chiểu mãnh liệt<br />
trung tron mối quan hệ với lý t ởn trun phê phán: “ghét cay ghét đắng, trang dẹp<br />
quân của nho iáo c n man nhiều h n chế loạn rày đâu vắng, trông tin nhạn, bặt<br />
và c n có nhiều nhận định khác nhau tiếng hồng, biết ai thiên tử biết ai thần,<br />
Nhữn h n chế, khác biệt ấy thể hiện tính chẳng nghe thiên tử chiếu, quyết đánh cả<br />
chất và đặc điểm vùn Nam Bộ tron bối triều lẫn Tây,…” Hồ Huân N hiệp với<br />
cảnh thuộc địa nửa phon kiến N uy n tinh th n yêu n ớc cao cả hiên n an ,<br />
Hữu Huân đã thể hiện ý thức trun quân khoan thai rửa mặt, sửa khăn áo un dun<br />
của một nhà nho, mặc dù tinh th n và ý chí đọc bốn câu thơ tr ớc i bị địch hành<br />
khôn đủ để chiến thắn nh n tinh th n quyết: “Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi/<br />
dân tộc đã óp ph n nuôi d ỡn l n căm Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi” [1,<br />
thù iặc của ôn : “Việc lớn không thành, tr 26] Vì trun hiếu mà chết oanh liệt đã<br />
báo chúa cũng đành liều một chết” [11, làm cho quân địch hết sức kinh n c, đồn<br />
tr 64] Nhữn tâm sự này thể hiện một khát bào vô cùn xúc độn đối với chiến sĩ anh<br />
vọn cứu n ớc, tinh th n bất khuất, ý chí hùng.<br />
chiến đấu kiên c n của nhà nho tr ớc kẻ Trong Dương Từ - Hà Mậu, N uy n<br />
thù: “Ngọn cờ phá lỗ bao giờ thấy/ Thiên ình Chiểu đề cao quan niệm c ơn<br />
hạ người đều ngóng cổ trông” (Thuật th n nhằm củn cố khối đ i đoàn kết<br />
hoài) [11, tr.102], “Bậc trung nghĩa, từ dân tộc và cũn muốn nhắc nhở mọi n i<br />
xưa mấy kẻ/ Muốn lập công mà dễ thành tr ớc sau vẫn một l n với đất n ớc,<br />
công” (Khúc hát hò khoan) [11, tr.96], “Vũ khôn n hiên n ã, khôn ch y theo iặc,<br />
trụ còn xem tiết nghĩa lưu” (Điếu Trần đồn th i cũn đề cao chữ trun : “Làm tôi<br />
Xuân Hòa) [11, tr.106], “Con hiếu tôi mang chữ bất trung/ Đứng trong trời đất<br />
trung danh mãi rạng… Lòng trung nửa chẳng dung người nào” [9, tr.346].<br />
điểm, tháng năm lưu” (Trung nghĩa vịnh - N uy n ình Chiểu cho rằn bề tôi phải<br />
Khuyết danh) [11, tr.163-164]. trun , chữ trun ở đây đ ợc đặt tron mối<br />
ron thơ văn của N uy n ình Chiểu quan hệ với vua và vua đó phải biết lo cho<br />
có nhắc đến vấn đề “trung hiếu”: “trung nhân dân, lo cho đất n ớc ron lúc đất<br />
hiếu vững muôn nhà, trung hiếu làm đầu, n ớc ch a lâm n uy thì ở truyện Lục Vân<br />
lấy mình báo chúa, cám niềm thần tử hết iên, N uy n ình Chiểu khôn phản đối<br />
lòng trung ái, tận trung, trọn chữ trung chế độ quân chủ nói chun nh n khi mối<br />
thần, kẻ ứa gan trung, đều tài bậc trung, quan hệ vua tôi mất hết ý n hĩa, khôn c n<br />
<br />
118<br />
iá trị nữa thì quan niệm về chữ trun của t u t m u<br />
ôn có sự thay đổi và đ ợc biểu hiện qua t ở á u c<br />
bài văn tế khóc r ơn ịnh, bộc lộ rõ Nho iáo khôn c n iữ vai tr quan<br />
ràn quan điểm của mình đối với vua chúa trọn nh tr ớc nữa thì vấn đề đặt ra cho<br />
bán n ớc: “Bởi lòng chúng chẳng nghe các nhà nho lúc này là bề tôi có nhất thiết<br />
thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền” phải trun thành nữa khôn ? Khi đức vua<br />
[10, tr.35]. đi n ợc l i quyền lợi của dân tộc, tron<br />
Quan niệm về chữ trun của N uy n tr n hợp đó thì bề tôi phải làm sao đây?<br />
ình Chiểu và N uy n Hữu Huân man Một số nhà nho khôn r i bỏ triều đình,<br />
một nội dun mới là sự trun thành tuyệt một số nhà nho đã đặt yêu n ớc lên trên<br />
đối với ổ Quốc, ắn chặt với nhân dân, vua, khôn tuân lệnh vua, khi vua khôn<br />
thể hiện nhất quán tron suy n hĩ và hành tận trun với n ớc thì bề tôi khôn bắt<br />
độn ron Hịch Trương Định, N uy n buộc phải trun với vua N uy n ình<br />
Hữu Huân kêu ọi tha thiết về bổn phận Chiểu một th i kỳ từn thất vọn rất nhiều<br />
con dân đối với đất n ớc đan lâm n uy vì ở vua và triều đình nhà N uy n: “Xe ngựa<br />
n n n o i xâm, khôn c n ồn ánh nào lao xao giữa cõi trần/ Biết ai thiên tử biết<br />
nặn hơn nhữn thứ thiên liên ấy: “Hai ai thần” [10, tr 149] Phan Văn rị ay ắt<br />
vai nặng trĩu, gánh chi bằng gánh cang hơn, ôn đ i: “Trảm càn đức chi đầu, ẩm<br />
thường/ Tấc dạ trung lương, gồng chi gồng càn đức chi huyết, phanh càn đức chi thi,<br />
xã tắc” Ôn đã khôn xem trọn quan thực càn đức chi nhục” (Chém đầu càn<br />
niệm trun quân khi mà vua chúa đã đ u đức, uống huyết càn đức, xẻ thây càn đức,<br />
hàn tr ớc b ớc n oặt của lịch sử dân tộc, ăn thịt càn đức) Khi ứn khẩu dọc đ n ,<br />
vận độn qu n chún quyết tâm khởi n hĩa ôn tỏ ra hết sức coi th n con rồn là<br />
đánh đuổi quân xâm l ợc thực dân Pháp và biểu t ợn của nhà vua: “Đứng lại làm chi<br />
cũn luôn thể hiện sự trách móc, quy trách cho mất công, Vừa đi vừa đái vẽ nên<br />
nhiệm đối với nhà vua: “Trong dò hàng rồng…”. C n vua nh ồn Khánh thì văn<br />
giặc chưa xong giá/ Ngoài ngóng tin triều học yêu n ớc th n tỏ thái độ phê phán<br />
đã bặt tâm” [1, tr.173]. Khi thể hiện “sĩ ay ắt: “Hàm Nghi mới thực vua trung/<br />
khí Nam trung”, Bùi Hữu N hĩa luôn v ch Còn như Đồng Khánh là ông vua xẳng”<br />
mặt bọn quan trên h i dân, khôn đem l i [6, tr.63].<br />
lợi ích cho qu n chún nhân dân, họ xuất ó là nỗi niềm, tấm l n trun của<br />
hiện với bộ mặt tiểu nhân, làm tay sai cho nhữn nhà nho yêu n ớc, hết l n vì nhân<br />
iặc, phản bội l i iốn n i: “Lá xanh tơ dân, vì nền độc lập tự do của dân tộc<br />
liễu nhành thưa thớt/ Bông bạc dường mai N uy n ình Chiểu thì đề cao r ơn<br />
nhụy sượng sần… Rường soi cột trổ chưa ịnh dám chốn l i chiếu chỉ nhà vua:<br />
nên mặt/ Cao lớn làm chi bần hỡi bần!” “Giúp đời dốc trọn trang nam tử; Ngay<br />
(Cây bần) [1, tr.204]. C n N uy n hôn chúa nào lo tiếng nghịch thần… Bởi lòng<br />
thì phê phán bọn xu nịnh, đê hèn đắc th i, chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón<br />
đắc thế nh cỏ d i khôn trồn mà cứ mọc: ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân<br />
“Cỏ loạn không giồng thềm mọc khắp/ phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một<br />
Hoa rơi vừa quét, chái liền sa” (Gửi bạn) vai khổn ngoại…” [10, tr.30-35]. Các nhà<br />
[1, tr.290]. nho Nam Bộ đã trở thành nhữn tác iả có<br />
<br />
119<br />
t m vóc lớn với nhữn án thơ văn đ y Lạc, Nhiêu Tâm hay Trần Thới Hanh, Hồ<br />
nhiệt huyết thể hiện tấm l n trun với Bửu Ngoạn cam phận làm dân vong quốc<br />
n ớc, với dân Các nhà nho th i kỳ này đã mà gửi hồn vào những vần châm biếm...<br />
kế thừa truyền thốn oanh liệt n àn đ i Trần Hữu Thường, Nguyễn Văn Thới muốn<br />
của dân tộc, đã cùn nhân dân Nam Kỳ khư khư một mực vì đạo nghĩa luân<br />
chiến đấu n oan c n để bảo vệ quê thường... Trần Kim Phụng, Sương Nguyệt<br />
h ơn xứ sở, thể hiện l n yêu n ớc sâu Anh, Trần Ngọc Lầu, Tạ Quốc Bửu, Lê<br />
sắc của mình Nhữn nhà nho trun th i Lương Tri, Nguyễn Công Minh... với nhiều<br />
kỳ đ u nh ặn Huy rứ, N uy n ình khuynh hướng khác nhau, tả tình, tả cảnh,<br />
Chiểu cho đến các sĩ phu yêu n ớc, các nghĩ ngợi vẩn vơ, khóc than vô cớ...”<br />
nhà nho C n V ơn … ất cả họ đều bộc [4, tr.320].<br />
lộ nỗi đau đớn xót xa tr ớc bi kịch mất Có nhữn sĩ phu yêu n ớc chân chính<br />
n ớc ừ bi kịch đó, họ khôn thể làm th i kì này vừa làm thơ, làm văn, vừa trực<br />
khác n oài con đ n ở ẩn, đó là sự lựa tiếp lãnh đ o nhân dân chốn iặc ó là<br />
chọn bất đắc dĩ của một số nhà nho cuối Phan Văn t, ỗ rình ho i, N uy n<br />
mùa của chế độ phon kiến Hơn bao i Hữu Huân, Hồ Huân N hiệp, r n hiện<br />
hết, quan niệm trun tron th i kỳ này Chánh, Ph m Văn N hị, Có n i khôn<br />
đ ợc đặt ra rất quyết liệt và là chỗ dựa tinh có cơ hội hoặc điều kiện tham ia đấu<br />
th n lớn nhất cho các nhà nho yêu n ớc. tranh trực tiếp, đã dùn n i bút của mình<br />
Một nhà nho yêu n ớc đánh iặc để để ca n ợi cuộc khán chiến, đề cao n hĩa<br />
ìn iữ ian sơn, nếu khôn làm đ ợc thì cử anh hùn của các lãnh tụ n hĩa quân, và<br />
phải chọn cái chết nh Phan hanh Giản, qua đó mà khích lệ, cổ vũ nhân dân tích<br />
Hoàn Diệu để đền ơn vua hoặc rút về ở ẩn cực chốn iặc Có khi dùn bút pháp đã<br />
để ch th i Họ nhận thức rằn , khôn có ít nhiều nhân tố hiện thực để tố cáo sự<br />
iúp đ ợc vua thì phải tìm cách lui về ở ẩn, thối nát của xã hội, sự n ột n t của chế<br />
không làm tai sai cho iặc, họ tìm nơi vắn độ ó là Ph m Văn N hị (1805 - 1880)<br />
vẻ làm b n với thiên nhiên, iải s u bằn với Nghĩa Trai thi văn tập, Miên hẩm<br />
chén r ợu âm tr n của họ là tâm tr n (1819 - 1870) với Thương Sơn thi tập,<br />
man đ y tính bi kịch của kẻ sĩ bất lực Có N uy n ình Chiểu (1822 - 1888) với<br />
khi họ bị truy nã phải bỏ trốn, có khi họ nhữn bài thơ chữ Hán, N uy n hôn<br />
chủ độn bỏ ch y cho khỏi man tiến (1827 - 1894) với Ngọa du sào thi văn tập,<br />
nhục vì phải hàn ây, có khi họ khôn r n Bích San (1840 - 1877) với Mai<br />
chịu ra làm việc cho triều đình nh Hồ Nham thi thảo, Hoàn Văn H e (1848 -<br />
Huân N hiệp viện lẽ c n mẹ ià, Phan Văn 1885) với Hạc nhân tùng ngôn,... Tiêu<br />
t ra Huế nhận một chức quan nh n khi biểu là nhà nho Phan hanh Giản (1796 -<br />
đến kinh đô l i bỏ về Một số nhà nho chấp 1867) với Lương khê thi thảo đã thể hiện<br />
nhận hợp tác với chính quyền thực dân, nhữn nỗi niềm trăn trở, lo lắn cho vận<br />
một số thì phó mặc cho th i thế, một số thì mệnh của dân tộc tr ớc âm m u xâm l ợc<br />
tìm đ n tránh né để iữ khí tiết và một của bọn thực dân Pháp Với tấm l n vì<br />
số thua keo n y y keo khác, họ cố chí để dân, vì n ớc, ôn cũn luôn trăn trở và<br />
phục thù ất cả các nhà nho ấy đều có ít mon muốn chấn h n đất n ớc tr ớc sự<br />
nhiều t t ởn bộc lộ qua thơ văn “Học xâm lăn của n o i ban Bởi thế, Phan<br />
<br />
120<br />
hanh Giản là một bậc trun th n với một phú của r ơn Hán Siêu và đặc biệt tron<br />
tấm ơn về đ o đức, một phẩm chất cao Bình Ngô đại cáo của N uy n rãi.. ến<br />
đẹp, suốt cuộc đ i dốc hết sức lực xây cả cái hơi nón của thơ ca dân gian yêu<br />
dựn đất n ớc, mon đất n ớc thoát khỏi n ớc đ ơn th i, tiến dội của một Hịch<br />
sự l c hậu uy nhiên, t t ởn này l i đánh Pháp, một Hịch Lãnh Cồ chẳn h n<br />
khôn đ ợc xem trọn làm ôn phải man ó là sự hào hùn của nhữn tâm hồn<br />
nặn nhữn nỗi niềm tr ớc th i cuộc: “Từ dũn cảm, sự l c quan tin t ởn vào nhữn<br />
ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu bản lĩnh kiên c n khi đất n ớc chốn<br />
phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào mau thức n o i xâm<br />
dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [7, 4. Chữ trung - nhìn từ góc độ nhận thức,<br />
tr 178] Nỗi niềm u uất này đã đ ợc nhân vận dụng những giá trị tích cực đối với<br />
dân thấu hiểu và mến mộ ôn , đến hàn thực tiễn<br />
trăm năm sau phẩm chất của Phan Thanh N uyên lý đ o đức của Nho iáo là<br />
Giản vẫn đ ợc n i đ i sau xem trọn luân th n , luân là n ũ luân, là năm mối<br />
Khi 3 tỉnh miền ôn rơi vào tay iặc rồi quan hệ: quân th n, phụ tử, phu phụ, môn<br />
tiếp đến 3 tỉnh miền ây, Phan hanh Giản đệ, bằn hữu ron năm quan hệ đó, hai<br />
càn u uất hơn khi phải thừa hành một mối quan hệ đ u là quan trọn nhất, đ ợc<br />
đ n lối sai l m của triều đình phon t ợn tr n bằn hai chữ “trung - hiếu” và<br />
kiến, mà n i đứn đ u chính là vua ự đ ợc ọi là đ o quân th n (vua - cha mẹ)<br />
ức Với tấm l n yêu n ớc th ơn dân Vào đ i vua r n hái ôn, l n trun<br />
nh n đứn tr ớc th i cuộc ôn khôn thể quân đã đ ợc quy định tron điều lệ nên<br />
làm trái với t t ởn trun quân của đ o th n dân phải thề: “Làm tôi hết trung, làm<br />
nho, ôn nhận thấy mình có tội với dân với quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh<br />
n ớc và đã kết li u đ i mình để bày tỏ nỗi giết chết” [3, tr.439]. “Điều đó cho thấy<br />
l n với n i đ i sau Vì thế nỗi l n và triều đình phong kiến đã đẩy ý nghĩa trung<br />
phẩm chất của ôn càn đ ợc nêu cao, một quân từ một cách hành xử trong hành đạo<br />
con n i luôn có lẽ sốn , luôn nêu cao sự của người quân tử lên thành luật vua, phép<br />
chính trực và nhân n hĩa. nước, lấy hình phạt cao nhất để răn đe. Nó<br />
Các triều đ i phon kiến đã có nhữn vừa làm tăng sự uy nghi của vua vừa làm<br />
đón óp to lớn tron việc củn cố, xây cho đạo lý trung quân mang màu sắc<br />
dựn nền độc lập dân tộc n ớc nhà và óp thiêng liêng. Trung quân không còn đơn<br />
ph n quan trọn vào sự phát triển của đất giản chỉ là một hành vi ứng xử với người<br />
n ớc Nh n lịch sử dân tộc đã có nhữn trên mà còn là bổn phận cao nhất của một<br />
thay đổi khi triều đ i phon kiến nửa sau kẻ bề tôi với vị vua - Trung quân” [8,<br />
thế kỷ XIX khôn đảm bảo sự iữ vữn tr 43] Ở N uy n ình Chiểu cũn thể hiện<br />
nền độc lập của quốc ia d ới đ n lối trị rõ quan điểm: “Trai thời trung hiếu làm<br />
n ớc cũ ron hoàn cảnh ấy, khôn thể đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình”<br />
nào tìm thấy đ ợc ý chí quật c n , tinh [9, tr 93] ừ triết lý đó, vua chúa phon<br />
th n tự hào dân tộc nh đã từn thấy tron kiến cổ vũ cho chữ hiếu cũn nhằm để cổ<br />
thơ của Lý h n Kiệt, r n Quan Khải, vũ cho chữ trun , hiếu với cha mẹ để trun<br />
Ph m N ũ Lão, tron Hịch tướng sĩ của với vua<br />
r n Quốc uấn, tron Bạch Đằng giang ron đ o làm tôi, Khổn ử đề cao<br />
<br />
121<br />
chữ trun , nhấn m nh đến l n biết ơn, sự trun thành đối với vua nh : Dã ợn ,<br />
phục tùn , tinh th n phục vụ của bề tôi đối Yết Kiêu đã lều chết để bảo vệ r n H n<br />
với vua và quốc ia heo ôn , n i làm o, Lê Lai đã chết thay cho Lê Lợi… Và<br />
quan tr ớc hết phải là n i có đức, có thái sau này là nhữn anh hùn luôn trun với<br />
độ ứn xử đún ở mọi lúc, mọi nơi M nh n ớc đ ợc hiện diện tron nhữn sán tác<br />
ử cũn đã phê phán nhữn kẻ làm quan của các nhà nho, đặc biệt là iai đo n nửa<br />
mà khôn đún danh phận của mình: “Khi cuối thế kỷ XIX Khi triều đ i phon kiến<br />
ra làm quan rồi, thì phải trung với vua, hết khôn c n đảm đ ơn đ ợc sứ mệnh iải<br />
lòng hết sức thờ vua, nhưng cũng không vì phón dân tộc, tron nội bộ triều đình có<br />
vậy mà biến mình thành kẻ “ngu trung”. nhữn kẻ n u trun , phản độn , bán n ớc<br />
Người làm tôi trung còn là người biết can (Lê Chiêu hốn c u cứu nhà hanh,<br />
gián vua, khi vua làm điều trái đạo, không N uy n Ánh c u cứu thực dân Pháp) thì<br />
những thế, còn có thể phế truất ngôi vua, nhân dân ta l i càn quyết tâm vùn dậy<br />
khi thấy vua là kẻ vô đạo” ừ đó, khái chốn l i chế độ phon kiến Bởi vì, tron<br />
niệm “trung quân” xuất hiện t t ởn chủ đ o của các nhà nho là yêu<br />
Khi quyền lợi của vua thốn nhất với n ớc, họ quan niệm vua đến rồi l i đi, triều<br />
quyền lợi dân tộc thì quan niệm về trun đ i dựn lên rồi l i đổ, chỉ đất n ớc của<br />
đồn th i là trun với n ớc, mỗi bên đều nhân dân là c n mãi Do vậy, chữ “trung”<br />
phải có trách nhiệm với nhau: “Quân sử đã đi vào nhận thức của con n i một<br />
thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Nhà vua cách tự nhiên và đã trở thành chuẩn iá trị<br />
sai khiến bề tôi thì dùn l , bề tôi phụn sự của chế độ phon kiến Nhân dân ta đã tiếp<br />
nhà vua thì iữ đ o trun ) Khổn ử nhận chữ trun ở một nhận thức mới, t<br />
khôn chủ tr ơn “ngu trung”, khôn bắt bỏ đi nội dun cũ của Nho iáo là trun với<br />
buộc bề tôi phải phục tùn bề trên một vua và đ a vào đó nội dun mới là trun<br />
cách vô điều kiện nh quan niệm về chữ với n ớc Khi xác định nội dun chữ trun ,<br />
trun của các nhà nho sau này Quan niệm nhân dân ta đã đặt nội dun ấy tron sự<br />
về chữ trun khôn phải là trun một cách phù hợp với yêu c u, n uyện vọn của<br />
tuyệt đối, khi vua khôn ra vua thì th n dân nhân dân, phù hợp với nhiệm vụ đấu tranh<br />
khôn nhất thiết phải trun Khi đ i sốn iải phón đất n ớc Lấy chữ “trung” làm<br />
nhân dân yên bình, ấm no thì bề tôi tuyệt nền tản để t o nên sức m nh iúp nhân<br />
đối phục tùn vua, trun thành với vua vô dân ta v ợt qua mọi khó khăn, đánh thắn<br />
điều kiện Khi mà đ i sốn xã hội có nhiều mọi kẻ thù xâm l ợc và xây dựn xã hội<br />
biến đổi thì quan niệm về chữ trun ắn n ày càn tốt đẹp<br />
liền với l n yêu n ớc, ắn với lợi ích của Giá trị cốt lõi của đ o đức truyền<br />
dân tộc nên tron từn iai đo n lịch sử thì thốn dân tộc là l n trun thành đối với<br />
quan niệm này cũn có nhữn biến đổi phù ổ Quốc, bởi tron th i phon kiến, việc<br />
hợp với l n yêu n ớc của nhân dân ta trun với n ớc cũn là trun với vua, tuy<br />
ron th i kỳ dựn n ớc, quan hệ vua nhiên trun với vua phải có điều kiện và<br />
tôi là quan hệ quân th n cùn chun lý điều kiện ấy phải là trun với đất n ớc<br />
t ởn yêu n ớc, chốn n o i xâm để bảo t ởn đ o đức truyền thốn của dân tộc ta<br />
vệ nền độc lập cho dân tộc Cho nên đã có đặt n ớc cao hơn vua, vì ph m trù trun<br />
nhiều tấm ơn tiêu biểu thể hiện l n đ ợc xác lập trên cơ sở chủ n hĩa yêu n ớc<br />
<br />
122<br />
ắn bó chặt chẽ với l n th ơn dân, l n thực hiện đún việc, đún phận sự của<br />
nhân ái của dân tộc N ày nay chún ta c n mình làm cho xã hội ổn định và phát triển<br />
phải kế thừa nhữn tinh hoa t t ởn đ o Nhữn quan niệm này của Nho iáo cho<br />
đức truyền thốn của dân tộc, t o nên sức đến nay vẫn c n n uyên iá trị và có ý<br />
m nh tinh th n vĩ đ i cho nhân dân ta làm n hĩa xã hội thực sự của nó ron điều<br />
nên cuộc cách m n thán ám thành côn , kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con<br />
đánh đuổi thực dân Pháp và Mỹ xâm l ợc n i với con n i càn đ ợc mở rộn ,<br />
để iành độc lập và thốn nhất đất n ớc khi xã hội đan có một số biểu hiện xuốn<br />
Chún ta phải thực hiện đ o đức Cách cấp về mặt lý t ởn , đ o đức thì t t ởn<br />
m n trun với n ớc, hiếu với dân, xây về trun , về n hĩa tron các mối quan hệ<br />
dựn một xã hội n ày càn iàu đẹp của Nho iáo l i càn có ý n hĩa quan<br />
Hiện nay, trun với n ớc là trung trọn , óp ph n điều chỉnh hành vi của mỗi<br />
thành với lợi ích của quốc ia, với sự con n i để xây dựn xã hội n ày càn<br />
n hiệp xây dựn và bảo vệ ổ Quốc Quan tốt đẹp hơn<br />
niệm về chữ trun yêu c u phải có l n Dân tộc ta có một l n yêu n ớc nồn<br />
yêu n ớc th ơn n i, tự hào về truyền nàn, đó là một truyền thốn quý báu nên<br />
thốn vẻ van của dân tộc, đó là bổn phận, tron tình hình mới d ới sự ảnh h ởn của<br />
trách nhiệm đối với ổ Quốc Vì thế, con nhiều t t ởn nên việc iáo dục l n yêu<br />
n i phải có ý thức n hị lực v ơn lên để n ớc tron điều kiện hội nhập là rất c n<br />
v ợt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàn thiết ron bối cảnh đó, côn tác iáo dục<br />
hy sinh vì ổ Quốc và đặc biệt tron quá thế hệ trẻ nhất là iáo dục l n yêu n ớc,<br />
trình xây dựn đất n ớc phải th n xuyên l n tự hào dân tộc là vấn đề có ý n hĩa<br />
nân cao tinh th n của chữ trun đặc biệt quan trọn đối với sự phát triển<br />
ể hi nhớ côn lao chiến đấu chốn của đất n ớc Văn học nhà nho yêu n ớc<br />
iặc iữ n ớc của các anh hùng, nhân dân Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX là một bộ<br />
đã xây dựn đền th t ởn niệm các nhân phận quan trọn của văn học dân tộc,<br />
vật vì trun vì n hĩa Hiện nay tron dân chiếm vị trí quan trọn tron ch ơn trình<br />
ian c n l u truyền bài thơ ca n ợi nhữn iáo dục phổ thôn , đặc biệt với nhữn tác<br />
con n i trun n hĩa: “Vì nước quên phẩm văn học thể hiện l n yêu n ớc,<br />
mình bởi chữ trung/ Thương dân chi sá chốn n o i xâm và thể hiện tính dân tộc<br />
chốn sình bùn/ Mấy năm Đồng Tháp danh sâu sắc<br />
vang dội/ Cọp rống ngoài truông, cáo hãi 5 Kết uậ<br />
hùng/ Hai thước im lìm nơi thạch động/ Khi thực dân Pháp tiến hành xâm l ợc<br />
Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung/ Nỗi thì nhữn t t ởn , quan niệm trun với<br />
lòng nghĩ đến nhiều năm trước/ Hương lửa dân, với n ớc ở các sĩ phu yêu n ớc đã<br />
đều không cảnh lạnh lùng” (Khuyết danh). từn b ớc đ ợc thể hiện, cho thấy nhữn<br />
Với Nho iáo, chữ trun đ ợc đặt ra biến chuyển lớn tron quan niệm trun của<br />
tron quan hệ với lý t ởn trun quân, lý các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX<br />
t ởn ái quốc, chữ trun cũn đ ợc đặt ra Quan niệm trun đ ợc đặt ra và quan niệm<br />
với chính bản thân mình để tu thân và trở này có sự chuyển biến, thay đổi khi lợi ích<br />
thành n i quân tử N oài ra, c n đặt ra của qu n chún nhân dân khôn đ ợc đảm<br />
tron quan hệ với n i khác, mỗi n i bảo trọn vẹn run với vua thì l i mâu<br />
<br />
123<br />
thuẫn với tình yêu đối với đất n ớc, quân Nxb Văn học, Hà Nội<br />
đã khôn minh thì th n khó mà có thể iữ 3. Cau Huy Giu dịch (1971), Đại Việt sử ký toàn<br />
l n trun Nhữn nỗi niềm này đ ợc thể thư, ập 2, Nxb Văn hóa hôn tin, Hà Nội<br />
hiện qua nhữn sán tác thơ văn của các 4. N uy n Văn H u (2012), Văn học miền Nam<br />
nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Bên lục tỉnh - Văn học Hán Nôm thời kháng Pháp và<br />
c nh đó cũn có nhiều nhà nho n hiên về thuộc Pháp, ập 3, NXB rẻ, P Hồ Chí Minh.<br />
t t ởn yêu n ớc nh n họ cũn ch a thể 5. Phan hị Minh L , Ch ơn hâu (2005), Thơ<br />
văn Phan Thanh Giản, Nxb Hội Nhà văn<br />
quên hẳn chữ trun quân N oài một số<br />
n i chấp nhận hợp tác với chính quyền 6. N uy n Lộc (1976), Lịch sử văn học Việt<br />
Nam nửa cuối thế kỷ XIX ( ái bản có bổ sun<br />
thực dân, có nhữn nhà nho khôn iúp<br />
và sửa chữa), Nxb i học và run học<br />
đ ợc vua thì tìm cách lui về ở ẩn, chứ chuyên n hiệp, Hà Nội<br />
khôn chịu làm tai sai cho iặc Bên c nh 7. N uy n Duy Oanh (1974), Chân dung Phan<br />
đó, ta thấy một số nhà nho phó mặc cho Thanh Giản, ủ sách Sử học, Nxb Bộ Văn<br />
th i thế, một số tìm đ n tránh né để iữ hóa - Giáo dục và hanh niên (miền Nam)<br />
khí tiết và một số thua keo n y y keo 8. N uy n hị Kim Ph ợn (2013), “Chữ run<br />
khác để cố chí phục thù Dù yêu n ớc tron ca dao dân ca n i Việt”, p chí<br />
th ơn dân nh n đứn tr ớc th i cuộc Khoa học Xã hội hành phố Hồ Chí Minh, (7),<br />
các nhà nho khôn sao làm trái đ ợc với t tr.43.<br />
t ởn trun quân của đ o nho Nỗi l n 9. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n<br />
day dứt của họ đã đ ợc phản chiếu tron h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn<br />
các án thơ văn, đến bây i vẫn c n làm tập, ập 1, Nxb i học và run học chuyên<br />
n hiệp, Hà Nội<br />
lay độn tâm hồn n i đọc<br />
10. Ca Văn hỉnh, N uy n Sĩ Lâm, N uy n<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO h ch Gian (1982), Nguyễn Đình Chiểu toàn<br />
1. Bảo ịnh Gian (1995), Những ngôi sao sáng tập, ập 2, Nxb i học và run học chuyên<br />
trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ n hiệp, Hà Nội<br />
XIX, iểu luận - In l n thứ 2 có bổ sun , Nxb 11. Pham hiều (chủ biên), Cao ự hanh, Lê<br />
Văn học Minh ức (1986), Nguyễn Hữu Huân nhà yêu<br />
2. Bảo ịnh Gian , Ca Văn hỉnh (1977), Thơ nước kiên cường, nhà thơ bất khuất, Nxb<br />
văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, hành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 04/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăn : 20/11/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
124<br />