intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan niệm về vũ trụ trong Ngũ kinh Moses

Chia sẻ: ViMoskva2711 ViMoskva2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

37
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này phân tích các quan niệm về sự tạo dựng vũ trụ, về bổn phận của con người đối với vũ trụ của Ngũ kinh Moses.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan niệm về vũ trụ trong Ngũ kinh Moses

TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 26/2018 91<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> QUAN NIỆM VỀ VŨ TRỤ TRONG NGŨ KINH MOSES<br /> <br /> Nguyễn Thị Thủy<br /> Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> <br /> Tóm tắt: Kinh thánh là một bộ sách quan trọng nhất của Kitô giáo. Bộ sách này được tập<br /> hợp của nhiều cuốn sách khác nhau và được chia làm hai phần: Cựu uớc và Tân ước.<br /> Năm cuốn sách đầu tiên của Cựu ước là Ngũ kinh, hay được gọi là Ngũ kinh Moses.<br /> Trong đó, nổi bật là: quan niệm về vũ trụ trong Ngũ kinh Moses, quan niệm này có giá trị<br /> tham khảo về một dạng thế giới quan trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Bài viết này phân<br /> tích các quan niệm về sự tạo dựng vũ trụ, về bổn phận của con người đối với vũ trụ của<br /> Ngũ kinh Moses.<br /> Từ khóa: Kinh thánh, Ngũ kinh Moses, vũ trụ, sự tạo dựng vũ trụ, bổn phận của con<br /> người đối với vũ trụ.<br /> <br /> Nhận bài ngày 25.7.2018; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 20.10.2018<br /> Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Thủy; Email: thuytrietnv@gmail.com<br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU<br /> <br /> Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, để trả lời cho câu hỏi nguồn gốc của vũ trụ,<br /> con người đã dùng nhiều cách khác nhau như: nghiên cứu khảo cổ, nghiên cứu vật lý lượng<br /> tử, nghiên cứu sinh học vi sinh, nghiên cứ hóa học, gửi các tín hiệu vô tuyến, phóng các<br /> tàu thăm dò ra ngoài trái đất. Nhưng tất cả các câu trả lời mang tính giả thuyết từ những<br /> phương tiện hiện đại của chủ nghĩa thực chứng cũng không làm thỏa mãn tư duy logic và<br /> trái tim biết yêu của con người. Đối với những nhà khoa học xã hội và nhân văn, nghiên<br /> cứu những quan niệm được ghi chép từ cổ xưa về nguồn gốc vũ trụ là để tham khảo về một<br /> cách lí giải cho câu hỏi trên. Trong đó, nghiên cứu tư tưởng về vũ trụ trong Ngũ kinh<br /> Moses là một công trình đáng chú ý và cần thiết, có giá trị tham khảo về một dạng thế giới<br /> quan trong lịch sử tư tưởng nhân loại.<br /> <br /> 2. NỘI DUNG<br /> <br /> 2.1. Quan niệm về sự sáng tạo vũ trụ<br /> Trong quan niệm về vũ trụ, có ít nhất là bốn quan điểm khác nhau trong ngành vũ trụ<br /> học (cosmology). Thuyết thứ nhất cho rằng, vũ trụ này có một khởi điểm, bắt đầu bằng một<br /> sự bùng nổ vĩ đại (big bang) từ một hạt nhân nguyên thủy. Tuy nhiên, sự phát nổ đó không<br /> 92 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br /> <br /> <br /> có tính cách vô hạn. Nói cách khác, theo thuyết thứ nhất, vũ trụ này có cùng tận. Sự tận<br /> cùng được diễn tả như là “big crunch”. Thuyết thứ hai thì cho rằng, vũ trụ này có một khởi<br /> điểm (big bang) nhưng với sự phát triển vô hạn định. Thuyết thứ ba thì cho rằng, vũ trụ này<br /> không phải chỉ có một khởi điểm mà có nhiều khởi điểm và cùng tận tiếp nối nhau. Thuyết<br /> thứ tư thì cho rằng, vũ trụ này ở trong trạng thái bền vững, chẳng có bùng nổ cũng chẳng<br /> có cùng tận. Ngày nay, chủ trương thứ tư coi như đã bị bác bỏ, vì nó trái ngược với những<br /> quan sát của vật lý học thiên văn (astrophysics) và vũ trụ học (cosmology). Còn ba thuyết<br /> trước, tuy với những dạng thức khác biệt, nhưng đều chấp nhận rằng vũ trụ này có một<br /> khởi điểm (big bang).<br /> Qua lịch sử Kitô giáo, việc cho rằng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ đã có hai khuynh<br /> hướng tư tưởng đối lập nhau. Một trào lưu là thuyết phiếm thần luận (pantheism), đồng hóa<br /> Thiên Chúa với vũ trụ. Một trào lưu khác là thuyết nhị nguyên luận (dualism), đặt vũ trụ<br /> vật chất ra khỏi tầm kiểm soát của Thiên Chúa. Theo thuyết thứ hai, vật chất tự bản chất là<br /> xấu xa cho nên không thể nào do chính Thiên Chúa tốt lành đã làm ra, mà là do một<br /> thần khác.<br /> Đối lại với hai trào lưu trên, Kitô giáo chính thống cho rằng vũ trụ do Thiên Chúa sáng<br /> tạo ra, song vũ trụ này không phải là Thiên Chúa, Thiên Chúa khác biệt với vũ trụ, cũng<br /> tựa như người sáng tạo thì khác với sản phẩm được sáng tạo. Kitô giáo quan niệm vũ trụ<br /> được tạo dựng trong thời gian nhất định. Điều này có nghĩa là theo quan niệm của Kitô<br /> giáo, vũ trụ có khởi điểm chứ không hằng hữu; khởi điểm của vũ trụ cũng là khởi điểm của<br /> thời gian và của lịch sử. Quan điểm của Kitô giáo khác với quan điểm của nhiều tôn giáo<br /> cổ truyền xem vũ trụ như bánh xe quay tròn, xong chu kỳ này lại tiếp sang chu kỳ khác.<br /> Còn quan điểm về lịch sử của Kitô giáo thì cho rằng, lịch sử là một quá trình tiến tới, từ<br /> quá khứ đến hiện tại, chứ không phải là thụt lùi, hay quay vòng. Cũng theo các nhà thần<br /> học Kitô giáo, về phương diện chú giải Kinh thánh, không thể phân tích các chương đầu<br /> của sách Sáng thế với những dụng cụ áp dụng cho các bản văn sử học hay các ngành khoa<br /> học ngày nay, vì sách Sáng thế mang một thể văn riêng biệt. Những định luật vật lý là<br /> những phát biểu của nhà khoa học dựa trên sự quan sát các hiện tượng, chứ các hiện tượng<br /> không nhất thiết phải tuân theo một định luật do nhà khoa học đặt ra. Các nhà chú giải cho<br /> rằng có nhiều đường lối khác nhau để giải thích một hiện tượng. Vì vậy mà mỗi nhà khoa<br /> học cũng có mỗi quan điểm triết học khác nhau khi phân tích thực tại.<br /> Theo quan niệm của Ngũ kinh Moses, Thiên Chúa là đấng tối cao nhất, sáng tạo nên<br /> trời đất và muôn loài từ hư không. Theo sách Sáng thế ký kể lại rằng: Thiên Chúa tạo dựng<br /> vũ trụ trong vòng năm ngày:<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 26/2018 93<br /> <br /> Ngày thứ nhất: Sự sáng<br /> Ngày thứ hai: Khoảng không<br /> Ngày thứ ba: Đất và Cây<br /> Ngày thứ tư: Mặt trời, mặt trăng, ngôi sao<br /> Ngày thứ năm: Sự sống của loài vật<br /> Cùng ngày thứ sáu, đỉnh cao của tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa dựng nên con người. Để<br /> nói lên vị trí đặc biệt của con người trong công trình tạo dựng.<br /> Theo đó: vũ trụ được sáng tạo theo hai đợt, mỗi đợt ba ngày. Đợt đầu tiên là các công<br /> trình, khu vực mang tính cố định như: sáng/ tối, biển/ đất, nước phía trên/ nước phía dưới.<br /> Đợt thứ hai là các công trình di động mang tính trang trí: mặt trời/ mặt trăng/ các vì sao,<br /> cá/chim, thú vật/ loài người. Những điều kể trên cho thấy thế giới được xác lập theo một<br /> trật tự thời gian, khác biệt, cấp bậc (vũ trụ vật chất có trước để trên đó xuất hiện sự sống<br /> sinh vật để con người được cai quản). Trật tự của thế giới được xác lập có liên quan tới<br /> nhau như những bộ phận không thể tách rời. Mặt trời, mặt trăng được tạo ra để soi sáng,<br /> phân chia, ấn định thời gian. Nhờ đó, con người mới có thể sắp xếp đời sống của mình theo<br /> kỷ luật thời gian, ngày lễ, ngủ nghỉ…<br /> Như vậy, Theo Kinh thánh (chủ yếu được nói đến trong kinh Sáng thế), Thiên Chúa<br /> sáng tạo ra thiên nhiên, vạn vật, từ bầu trời, ánh sáng đến sự sống của đất trời.<br /> Theo các nhà chủ giải Kinh thánh thì việc trình thuật trong sách Sáng thế chỉ là một lối<br /> nói ẩn dụ, tượng trưng chứ không phải hoàn toàn theo nghĩa đen như thế. Nghĩa là việc<br /> sáng tạo vũ trụ và vạn vật là một quá trình từ không gian, thời gian, ánh sáng, bóng tối, đất,<br /> nước, sinh vật, động vật và đỉnh cao cuối cùng là con người. Vì vậy, các nhà thần học Kitô<br /> giáo hiện nay không xem học thuyết tiến hóa là đối lập với quan điểm sáng tạo của Kitô<br /> giáo. Các nhà thần học cho rằng, tiến hóa thực chất là một quá trình sáng tạo của Thiên<br /> Chúa không ngừng với vũ trụ này.<br /> Kitô giáo quan niệm vũ trụ và vạn vật là do Chúa sáng tạo nên, mọi loài mọi vật được<br /> sáng tạo theo tuần tự từ thấp đến cao. Chúa không chỉ sáng tạo vũ trụ, muôn vật, muôn loài<br /> và con người mà còn chi phối vũ trụ từng giây từng phút, từ khởi thủy cho đến mãi muôn<br /> đời. Vũ trụ này có khởi đầu và sẽ có kết thúc. Như vậy, về bản thể luận, vũ trụ quan Kitô<br /> giáo thể hiện rõ tính chất duy tâm khách quan, tôn giáo.<br /> Như vậy, theo Ngũ kinh Moses: công cuộc tạo dựng vũ trụ của Thiên Chúa được diễn<br /> ra một cách trọn vẹn. Song nhiều câu hỏi được đặt ra: đó có phải là huyền thoại, là ngụ<br /> ngôn hoặc là sự kết hợp các tài liệu hay là ý tưởng của một cá nhân nào đó, về nguồn gốc<br /> của mọi vật hay không?. Qua nhiều nghiên cứu của các học giả, họ đều công nhận Kinh<br /> thánh là một tường thuật thẳng thắn, giản dị về hoạt động của Thiên Chúa trong việc tạo<br /> 94 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br /> <br /> <br /> dựng thế gian và con người. Câu chuyện “Khởi nguyên” đó mang diễn tiến cho sự chuẩn bị<br /> vũ trụ, một thế giới sẵn sàng cho loài người.Như vậy, quan niệm về vũ trụ trong Ngũ kinh<br /> Moses đã khẳng định được sự tạo dựng của vũ trụ thông qua một Đấng tối thượng là Thiên<br /> Chúa, do đó, theo Ngũ kinh Moses: con người cần có những bổn phận và trách nhiệm của<br /> mình đối vỡi vũ trụ - nơi con người sinh sống và tồn tại. Bên cạnh đó, nếu như Phật giáo<br /> cho rằng: sự sống đi theo đường vòng tròn khép kín với bốn chu trình: sinh, trụ, dị, diệt rồi<br /> lại quay vòng luân hồi đó, thì theo Kitô giáo: sự sống tồn tại và phát triển theo con đường<br /> thẳng: bắt đầu từ buổi đầu tạo dựng và điểm cuối tại ngày tận thế.<br /> <br /> 2.2. Quan niệm về bổn phận của con người đối với vũ trụ<br /> Theo Ngũ kinh Moses, Thiên Chúa đã tạo dựng trái đất và vũ trụ trong sáu ngày và<br /> thổi sinh khí vào chúng. Mỗi một công trình sáng tạo, trong bản chất riêng của mình, đều<br /> phản ánh sự tốt đẹp riêng của nó. Chính vì vậy ở đây đòi hỏi con người phải tôn trọng từng<br /> công trình sáng tạo, tránh không được sử dụng các sự vật một cách vô trật tự. Do đó, Kinh<br /> thánh dường như nhắc nhở con người phải biết trân trọng, hàm ơn công lao sáng tạo vũ trụ<br /> của Đấng sáng tạo và đòi hỏi con người phải có những bổn phận của mình đối với công<br /> trình sáng tạo vũ trụ ấy.<br /> Sau khi vũ trụ được hình thành, trật tự và sự hài hòa của thế giới đó là do sự đa dạng<br /> của các sự vật và sự đa dạng của các liên hệ giữa chúng với nhau và con người đã dần<br /> khám phá ra các mối liên hệ ấy như là các định luật của thiên nhiên. Vẻ đẹp này của vũ trụ<br /> phản chiếu nên vẻ đẹp của Đấng sáng tạo. Vẻ đẹp này gợi lên nơi trí tuệ và ý chí con người<br /> sự tôn kính và quy phục. Từ đó đỏi hỏi bản thân con người phải biết trân trọng và gìn giữ<br /> những vẻ đẹp ấy.<br /> Sau khi vũ trụ được tạo dựng, theo Ngũ kinh Moses: Thiên Chúa giao cho con người<br /> làm chủ đất đai, thiết lập trật tự mới của thế giới. Như vậy, với quyền năng được ban cho<br /> làm chủ cai quản mặt đất và vạn vật, con người đã được giao cho trọng trách to lớn. Con<br /> người không chỉ có trách nhiệm với chính bản thân con người: “sinh sôi đầy mặt đất” mà<br /> đồng thời con người cũng được làm chủ mọi vạn vật trong vũ trụ. Quyền “làm chủ” trần<br /> gian mà Thiên Chúa đã ban cho con người ngay từ lúc đầu, được thực hiện trước tiên nơi<br /> chính con người, là việc làm chủ chính bản thân mình. Con người còn nguyên vẹn và có<br /> trật tự trong chính bản thân, vì còn tự do đối với ba thứ dục vọng khiến con người quy<br /> phục các lạc thú của giác quan, sự ham mê của cải trần thế và ngược lại những lệnh truyền<br /> của lý trí [30, tr.122]. Bên cạnh đó, ta thấy: dấu chỉ của sự thân thiện của con người với<br /> Thiên Chúa là việc Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng. Con người sống ở đó<br /> để: “cày cấy và canh tác đất đai” [St 2,15]. Điều đó khẳng định được vị trí và vai trò hết<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 26/2018 95<br /> <br /> sức to lớn của con người trong vũ trụ, đòi hỏi con người phải “làm chủ” như thế nào để gìn<br /> giữ, nuôi dưỡng không chỉ chính bản thân con người mà còn là các thụ tạo của vũ trụ mà<br /> đã được sáng tạo, tồn tại song song cùng với cuộc sống của con người, nuôi dưỡng bản<br /> thân con người.<br /> Trong Đệ nhị luật có nói về bổn phận của con người được thể hiện:<br /> Đối với sản phẩm đầu mùa [Đnl 26,2] “khi anh em được Thiên Chúa ban cho anh em<br /> làm gia nghiệp, khi anh em chiếm hữu và đất ở đó, thì hãy lấy một phần mọi nông sản đầu<br /> mùa thu hoạch được từ miền đất mà Thiên Chúa ban cho. Anh em hãy để những thứ đó<br /> vào giỏ rồi đi đến nơi Đức Chúa, chọn danh người dự”. Điều đó thể hiện được lòng biết ơn<br /> đối với người đã sáng tạo ra chính bản thân mình và cho mình sinh sống. Con người có bổn<br /> phận dâng những lễ vật mà con người canh tác được để hướng đến Thiên Chúa, đấng sáng<br /> tạo ra vạn vật hay chính là thể hiện lòng kính trọng, sự biết ơn hướng đến nguồn cội đã tạo<br /> ra con người và cho con người làm chủ vạn vật như ngày nay. Đây cũng là lời răn dạy lí lẽ,<br /> lối sống cho con người, để từ đó con người có trách nhiệm với bản thân mình, với công<br /> việc của mình cũng như với những người đã sáng tạo ra mình.<br /> Trong thuế thập phân ba năm một lần [Đnl 26,3] nghĩa là “năm thứ ba, tức năm nộp<br /> thuế thập phân, sau khi anh em đã trích ra mười phần hoa lợi mà đem cho thầy Lê vi, người<br /> ngoại kiều và cô nhi quả phụ, và họ đã được ăn uống no nê trong các thành của anh em thì<br /> anh em đến thưa trước tôn nhan Đức Chúa” [Đnl 26,3]. Điều này thể hiện được bổn phận<br /> của con người có trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội. Của cải sau khi được sản xuất ra<br /> con người đem chia cho các thầy Lê vi, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ, họ còn mang<br /> đến Thiên Chúa để tưởng nhớ lại công ơn nguồn cội của mình. Đây chính là trách nhiệm,<br /> nghĩa vụ cũng như bổn phận của con người. Con người yêu thương lẫn nhau, người lao<br /> động chia một phần của cải của mình cho những người không thể lao động trong xã hội.<br /> Thể hiện tình đoàn kết, tương thân tương ái lẫn nhau, qua đó cũng giáo dục, răn dạy con<br /> người về đạo đức, lối sống của con người. Bên cạnh đó, lề luật của Ngũ kinh Moses đó<br /> cũng thể hiện được lòng biết ơn nguồn cội đối với tổ tiên, Người tạo dựng nên bản thân<br /> con người, cho con người làm chủ đất đai, vũ trụ để “canh tác”, trồng trọt duy trì cuộc sống<br /> của mình. “Thuế thập phân ba năm một lần” ở đây thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như<br /> đạo đức hướng tới nguồn cội và yêu thương lẫn nhau của con người.<br /> Như vậy, ta thấy: tất cả những lề luật, những sự căn dặn con người của Kinh thánh đều<br /> thể hiện ra những giá trị tốt đẹp hướng tới xây dựng đạo đức, phẩm chất con người. Con<br /> người biết ơn nguồn cội của mình, biết ơn được sự sáng tạo ra vũ trụ của Thiên Chúa để từ<br /> đó trân trọng và xây dựng đạo đức lối sống của mình. Bổn phận của con người đối với vũ<br /> trụ ở đây được thể hiện khi con người được giao phó cho trọng trách làm chủ vũ trụ, làm<br /> 96 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br /> <br /> <br /> chủ bản thân mình, Để từ đó con người hình thành nhân cách, đạo đức của mình để xây<br /> dựng đời tốt đẹp hơn.<br /> <br /> 3. KẾT LUẬN<br /> <br /> Ngũ kinh Moses là quan niệm về sự tạo dựng vũ trụ của Thiên Chúa trong vòng sáu<br /> ngày. Nếu như Phật giáo cho rằng sự sống đi theo một vòng tròn khép kín: sinh trụ dị diệt<br /> thì Kinh thánh của Kitô giáo đã khẳng định sự ra đời và phát triển của vũ trụ đi theo một<br /> con đường thẳng, bắt đầu sự tạo dựng của Thiên Chúa ở điểm khởi đầu đến điểm kết thúc<br /> là ngày tận thế, ngày xét lại cho con người, ngày sẽ quyết định con người được lên thiên<br /> đàng hay xuống hỏa ngục. Cùng với đó, quan niệm về vũ trụ trong Ngũ kinh Moses đã nói<br /> lên trách nhiệm và bổn phận của người đối với vũ trụ để từ đó con người điều chỉnh hành<br /> vi, bảo vệ môi trường sống của mình. Đó là quan niệm ít nhiều có điểm tương đồng với<br /> khoa học.Tuy nhiên, đó vẫn là quan điểm duy tâm tôn giáo, chứa đựng trong đó nhiều<br /> nghịch lí đòi hỏi phải giải quyết bằng những thành tựu của khoa học hiện đại.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Các văn bản pháp luật quan hệ đến tín ngưỡng tôn giáo, -<br /> Nxb Tôn giáo, Hà Nội<br /> 2. John Hayes (2008), Nhập môn Kinh thánh, (Nguyễn Kiên Trường dịch), - Nxb Tôn giáo, Hà<br /> Nội.<br /> 3. Hồ Chí Minh, Về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, - Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.<br /> 4. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước - Lời Chúa cho mọi<br /> người, - Nxb Tôn giáo, Hà Nội.<br /> 5. Nhóm Phiên dịch các giờ kinh Phụng Vụ (1999) Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước,-<br /> Nxb TP Hồ Chí Minh.<br /> 6. Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), (2006), Giải nghĩa Kinh Thánh: I-II Côrintô, - Nxb<br /> Tôn giáo, Hà Nội.<br /> 7. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2011), Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, - Nxb Tôn<br /> giáo.<br /> 8. Lm.Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, O.P, (2005), Tìm hiểu Ngũ Thư.<br /> 9. Đỗ Minh Hợp (chủ biên), (2005), Tôn giáo lý luận xưa và nay, - Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ<br /> Chí Minh.<br /> 10. Đỗ Minh Hợp (chủ biên), (2006), Tôn giáo học nhập môn, - Nxb Tôn giáo, Hà Nội.<br /> 11. Http://tsthdm.blogspot.com/2013/02/quan-niem-kinh-thanh-ve-con-nguoi.html.<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 26/2018 97<br /> <br /> <br /> <br /> THE CONCEPT OF UNIVERSE IN MOSES PENTECOST<br /> <br /> Abstract: The Bible is the most important book of Christianity. This book is a collection<br /> of many different books and is divided into two parts: The Old Testament and the New<br /> Testament. The first five books of The Old Testament are the Old Pentecost, also known<br /> as the Moses Pentecost. Particularly, the notion of universe in the Moses Pentecost is of<br /> great importance which is worth referring to a number of kinds of worldview in the<br /> history of human. This paper analyzes the notions of universe creation and human’s<br /> responsibility to universe in the Moses Pentecost.<br /> Keywords: Bible, Moses, universe, universe creation, human’s responsibility to universe.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2