intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Tô Nhiễm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" tập trung phân tích tính cấp thiết của quản trị nguồn nhân lực số theo chủ trương của Đảng, thực tiễn quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nguồn nhân lực số trong thời gian tới nhằm góp phần xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm về chất lượng, có năng lực cạnh tranh với nguồn nhân lực các quốc gia trên thế giới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

  1. QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC SỐ TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Nguyễn Thị Kim Nhung* Khoa Nhà nước – Pháp luật, Trường Chính trị thành phố Cần Thơ * Tác giả liên hệ: nhungtctct@gmail.com TÓM TẮT Ngày nay, chuyển đổi số không còn là sự lựa chọn mà là việc làm cấp thiết phải tiến hành ngay để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển một cách bền vững, giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này thì nguồn nhân lực số đóng vai trò quyết định. Do vậy, bài viết tập trung phân tích tính cấp thiết của quản trị nguồn nhân lực số theo chủ trương của Đảng, thực tiễn quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam hiện nay và đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nguồn nhân lực số trong thời gian tới nhằm góp phần xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm về chất lượng, có năng lực cạnh tranh với nguồn nhân lực các quốc gia trên thế giới. Từ khóa: nguồn nhân lực số, quản trị, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 1. Đặt vấn đề Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xác định phát triển kinh tế số là trụ cột, nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia và đề ra mục tiêu cụ thể vào năm 2025 kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm 20% GDP, tăng lên 30% vào năm 2030 và đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao [1, t2, tr.327]. Để thực hiện thành công mục tiêu trên, bài viết tập trung nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan, góp phần thúc đẩy nguồn nhân lực số tăng về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu đặt ra hiên nay. 2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để thực hiện cho nghiên cứu này; theo đó, nguồn dữ liệu thu thập và xử lý dữ liệu, phạm vi thu thập được thực hiện như sau: Nguồn dữ liệu thu thập và xử lý dữ liệu: Bài viết dựa trên chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực số trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0) để làm cơ sở phân tích, đối chiếu thực tiễn nhằm khẳng định tầm quan trọng của quản trị nguồn nhân lực số, phân tích nhu cầu cũng như những thách thức đặt ra khi đất nước Việt Nam thiếu hụt nguồn nhân lực số cho sự phát triển kinh tế -xã hội. Ngoài ra, tác giả còn thu thập dữ liệu và thông tin có liên quan đến vấn đề nghiên cứu bằng cách dựa vào sự sẵn có của các kết quả nghiên cứu và tài liệu mới nhất ở dạng in hoặc điện tử, các báo cáo, bài nghiên cứu khoa học đã được công bố để tiến hành phân tích, so sánh làm cơ sở đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nguồn nhân lực ở giai đoạn tiếp theo. Phạm vi thu thập thông tin: Trong khoảng thời gian từ năm 2021 đến năm 2023 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Quan điểm của Đảng về tầm quan trọng của quản trị nguồn nhân lực số Trong văn bản quy phạm pháp luật, cụm từ “nguồn nhân lực số” và “quản trị nguồn nhân lực số” hiện chưa được giải thích cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, chủ trương của Đảng là đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhằm chủ động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0) và hội nhập kinh tế quốc tế. Làm thế nào để đào tạo đội ngũ nhân lực số có khả năng làm việc trong môi trường đòi hỏi sự sáng tạo nhằm thích ứng với những thay đổi không ngừng của khoa học và công nghệ. Do vậy, nguồn nhân lực số được hiểu là nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng làm chủ các thiết bị công nghệ số, được đào tạo bài bản về công nghệ thông tin và kiến thức về chuyển đổi số. Từ đó có năng lực xử lý công việc một cách độc lập và mang lại hiệu quả cao nhất. Còn quản trị nguồn nhân lực số là một trong những chức năng cơ bản và quan trọng trong công tác quản trị, vì quản trị tốt nguồn nhân lực số sẽ góp phần: 158
  2. Một là, quản trị tốt sẽ giúp Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương xác định được số lượng và chất lượng nguồn nhân lực số hiện có của đất nước đạt được những tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật nào so với thị trường lao động chung trên thế giới, kỹ năng nào cần trang bị thêm; đồng thời, hoạch định nguồn nhân lực số trong tương lai, từ đó ban hành chính pháp luật đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách, môi trường làm việc, điều kiện làm việc một cách phù hợp hơn. Điển hình như, giai đoạn 2021-2030, Đảng ta đặt ra chủ trương đào tạo con người theo hướng chuẩn của công dân toàn cầu: “có đạo đức, có ý thức trách nhiệm, khi làm việc phải tuân thủ tốt kỷ luật, kỷ cương, trang bị đầy đủ kỹ năng về ngoại ngữ, về công nghệ thông tin, công nghệ số, khả năng sáng tạo và thích ứng nhanh trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế” [1, t1, tr.232-233]. Từ chủ trương trên đã đặt ra nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm cung cấp kiến thức và kỹ năng về công nghệ số; đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, cả người dân về tính cấp thiết của việc tận dụng công nghệ số để phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Đặc biệt trong thời gian tới cần đào tạo, bồi dưỡng tối thiểu 1.000 chuyên gia về chuyển đổi số cho tất cả các ngành, các lĩnh vực và cho 63 tỉnh thành trong cả nước [5]. Các chuyên gia này sẽ là lực lượng nồng cốt, lan tỏa kiến thức và kinh nghiệm chuyển đổi số cho đội ngũ kế cận trong cơ quan, đơn vị, địa phương. Hai là, lợi ích thứ hai mà công tác quản trị tốt nguồn nhân lực số mang lại là không chỉ cho khu vực công mà còn khu vực tư có đầy đủ nguồn nhân lực số, đáp ứng nhu cầu cho thị trường lao động. Ở khu vực công, trong từng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều đặt ra yêu cầu xem con người là trung tâm, là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Do vậy, chú trọng phát triển nhân tố con người được xem là điều kiện tiên quyết mang lại thành công trong chiến lược xây dựng chính phủ điện tử và chính phủ số, chủ động thích ứng được cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ở khu vực tư, nếu doanh nghiệp nào có đủ đội ngũ nhân viên trình độ cao thì có năng lực ứng dụng công nghệ số làm thay đổi phương thức làm việc và sản xuất nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí nhưng mang lại hiệu quả kinh tế, lợi ích tối đa cho doanh nghiệp, nhất là nâng cao lợi thế cạnh tranh giữa cộng đồng doanh nghiệp cùng lĩnh vực trong và ngoài nước; hơn thế nữa, quản trị tốt nguồn nhân lực số sẽ giúp người quản lý nắm được tình hình hoạt động kinh doanh kịp thời. từ đó, hoạch định được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lâu dài trong chiến lược phát triển doanh nghiệp trong từng giai đoạn nhất định. Thứ ba, lợi ích thứ ba mà quản trị tốt nguồn nhân lực số mang lại là góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh trên thị trường lao động giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Từ đó, giải quyết được việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Theo thống kê cho thấy hiện Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng theo Nghị quyết số 21- NQ/TW Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ngày 25 tháng 10 năm 2017 về Công tác dân số trong tình hình mới. Tận dụng được lợi thế này sẽ sớm đưa đất nước phát triển nhanh chóng, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đặc biệt, thực hiện thành công Đề án về phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số của Thủ tướng Chính phủ [5]: “đến năm 2030 đào tạo được 20.000 kỹ sư, cử nhân chuyên ngành công nghệ số, có khả năng thích ứng trước làn sóng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Blockchain, điện toán đám mây…” giúp người lao động chủ động ứng phó với sự thay đổi ngày càng nhanh chóng của thị trường lao động trên thế giới, nhất là cơ hội và khả năng làm việc trong môi trường tốt hơn, thu nhập cao và ổn định hơn. 3.2. Thực tiễn công tác quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam thời gian qua * Mặt đạt được: Thứ nhất, nhận thức về chuyển đổi số và quản trị nguồn nhân lực số được nâng lên rõ rệt, thể hiện trong rất nhiều Nghị quyết, Nghị quyết chuyên đề, Quyết định, Chỉ thị…cho thấy sự quyết tâm vào cuộc của toàn hệ thống chính trị. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII có đến 21 lần nhắc lại cụm từ “chuyển đổi số” [1, t1, tr46, 208, 214]. Thêm vào đó, việc thành lập ban chỉ đạo về chuyển đổi số đã có sự chuyển biến tích cực, 22/22 bộ, ngành và 63/63 địa phương đều thành lập ban chỉ đạo về chuyển đổi số, 100% bộ, ngành, địa phương đã kiện toàn Ban chỉ đạo chuyển đổi số do người đứng đầu làm Trưởng ban [6]. Với quyết tâm chính trị nêu trên thể hiện sự tiên phong ứng dụng công nghệ mới để thay đổi cách thức quản lý, điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, đổi mới hoạt động sản xuất kinh hoanh của doanh nghiệp và thói quen của người dân, góp phần thực hiện thành công chủ trương phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, từng bước vươn xa, sánh vai cùng các quốc gia phát triển trên thế giới. 159
  3. Thứ hai, các cơ sở giáo dục đào tạo hiện đang đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao để thực hiện chuyển đổi số. Hầu hết các trường Đại học và Cao Đẳng tại Việt Nam đều có chuyên ngành đào tạo liên quan đến công nghệ số như quản trị cơ sở dữ liệu, quản trị mạng, kỹ sư phần mềm, an toàn thông tin,… Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành ngày càng tăng, mỗi năm các trường đã đạo tạo được 50.000 sinh viên ngành cử nhân máy tính và công nghệ thông tin [3]. Riêng, đối với hỗ trợ doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Quyết định 12/QĐ-BKHĐT ngày 7 tháng 01 năm 2021 nhằm đảm bảo 100% doanh nghiệp đều đủ nguồn nhân lực cho công cuộc chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025. Thứ ba, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt việc thống kê số lượng người trong độ tuổi tuổi lao động, nhu cầu thị trường lao động trong nước và nước ngoài để xây dựng giải pháp tổng thể, mang tầm quốc gia cũng như quy mô từng lĩnh vực nhằm cụ thể hóa mục tiêu phát triển kinh tế số. Tính đến ngày 15 tháng 4 năm 2023, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi của nước ta là 67,5%; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191 quốc gia [4]. Như vậy có thể thấy, thực hiện tốt một trong ba chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đó là nguồn nhân lực số thì mục tiêu chuyển đổi số sẽ đạt hiệu quả cao. * Một vài khó khăn trong quản trị nguồn nhân lực số: Bên cạnh những mặt đạt được thì quản trị nguồn nhân lực số cũng có những khó khăn nhất định, điển hình như: Công tác dự báo nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và nguồn nhân lực số nói riêng tại Việt Nam vẫn còn chậm nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã đề cập những hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực như “nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển”. Mặc dù chủ trương đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đã được đề cập khá sớm từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Thêm vào đó, dự kiến nhu cầu nguồn nhân lực chuyên ngành về công nghệ số đến năm 2025 là rất lớn, khoảng 700.000 người, nhưng hiện tại hiện chỉ có 530.000 người, chiếm 1,1% trong tổng số 51 triệu lao động cả nước. Tỉ lệ này tương đối thấp so với một số quốc gia như Mỹ (4%), Hàn Quốc (2,5%), Ấn Độ (1,78%) [2]. Thêm vào đó, quy định pháp lý về chế độ chính sách đối với nguồn nhân lực số chưa hoàn thiện, chưa tạo được động lực thu hút những người thật sự tài giỏi vào khu vực công, nhất là nguồn nhân lực chuyên trách chuyển đổi số, an toàn, an ninh mạng. Mặc khác cũng chưa hạn chế được tình trạng dịch chuyển nguồn nhân lực số qua các nước lân cận có mức lương cao. Dẫn đến thiếu hụt lao động giỏi làm việc trong nước. Không những thế khu vực công hiện nay đang ứng phó với “làn sóng nghỉ việc” ngày càng tăng. Bình quân một năm có khoảng 15.820 người nghỉ việc, chuyển việc, số lượng nghỉ việc ở Trung ương chiếm 18%, ở địa phương chiếm 82% [8]. Ngoài ra, nền tảng số trong hầu hết các lĩnh vực như giáo dục và đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe, văn hóa và xã hội còn thiếu [7]. Đồng thời, hạ tầng số quốc gia hiện nay chưa hoàn thiện, đây là yếu ảnh hưởng đến thành công trong phát triển kinh số. Theo đánh giá việc triển khai Nghị quyết 17/NQ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 03 năm 2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử đến năm 2025 cho thấy việc kết nối và chia sẻ dữ liệu số, cơ sở dữ liệu quốc gia và hệ thống thông tin giữa các bộ, ngành, địa phương còn chậm…Điều này dẫn đến sự khó khăn trong hoạch định số lượng cũng như khó khăn trong khâu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực số. 4. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện và kết luận 4.1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nguồn nhân lực số trong giai đoạn tiếp theo Công tác quản trị nguồn nhân lực số được thực hiện một cách hiệu quả, khắc phục những khó khăn, hạn chế thời gian qua thì thiết nghĩ trong thời gian tới cần thực hiện giải pháp cụ thể sau: Một là, cơ quan quản lý nhà nước cần chủ động nghiên cứu, dự đoán trước xu thế và yêu cầu của thị trường lao động trong nước và nước ngoài để xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực số trong từng giai đoạn nhất định. Trong đó, cần xác định rõ mục tiêu cần đạt được, những cơ chế, chính sách cần gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế số; phát triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực số phải đảm bảo không chồng chéo hay trùng lắp ở các bộ, ngành. Từng tỉnh, thành cần thống kê nguồn nhân lực số hiện tại, nhu cầu nguồn nhân lực số ở giai đoạn tiếp theo, xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng phù hợp, tránh tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực số như thời gian qua. 160
  4. Hai là, sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách để thu hút, trọng dụng nhân tài lĩnh vực khoa học – công nghệ để đạt mục tiêu 30% vào năm 2025 và 60% vào năm 2030, đến năm 2050 đạt tỷ lệ 100% [5]. Nâng cao chỉ số cạnh tranh nhân tài toàn cầu, tăng dần tỷ số về “thu hút nhân tài”, “giữ chân nhân tài”, các tài năng trẻ và triển vọng tài năng lĩnh vực khoa học – công nghệ theo Quyết định số 889/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, xây dựng Kế hoạch hợp tác đào tạo nguồn nhân lực số với các quốc gia có thế mạnh về công nghệ thông tin như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc… Ba là, tiếp tục rà soát, sửa đổi và bổ sung nhằm tạo sự thống nhất trong chính sách pháp luật, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các cơ sở giáo dục hoạch định chiến lược, nội dung chương trình giảng dạy, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên, giảng viên đủ năng lực đáp ứng nhu cầu đặt ra theo tinh thần của Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đảm bảo sau khi tốt nghiệp nguồn nhân lực số đủ năng lực về trình độ chuyên môn, về kỹ năng và thái độ làm việc đúng đắn, đóng góp vào vận hành thành công nền kinh tế số. Bốn là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện hạ tầng số, nền tảng số quốc gia, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm thống nhất trong việc triển khai, kết nối, chia sẻ dữ liệu số giữa các bộ, ngành, địa phương. Ngoài ra, nâng mức xử phạt hành chính và hình sự về tội phạm liên quan đến công nghệ cao, những tội phạm mới phát sinh trong môi trường giao dịch điện tử, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân. Năm là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức của Nhân dân về tính cấp thiết chuyển đổi số, nguồn nhân lực số; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn các kỹ năng sử dụng nền tảng số, sử dụng các dịch vụ công trực tuyến nhằm góp phần thành công Chương trình cải cách tổng thể nhà nước giai đoạn 2021 theo Nghị quyết số 76/NQ- CP ngày 15 tháng 7 năm 2021. 4.2. Kết luận Tóm lại, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Việc quản trị nguồn nhân lực số tại Việt Nam hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cần phải có tầm nhìn, chiến lược tổng thể và dài hạn để có những quyết sách đúng đắn, phù hợp nhằm tận dụng được thời cơ và vượt qua những khó khăn, hạn chế và thách thức đang đặt ra… từ đó đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và từng địa phương nói riêng. Thiết nghĩ, cơ quan quản lý nhà nước cần chủ động đón đầu xu thế và yêu cầu của thị trường lao động trong từng giai đoạn nhất định nhằm sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách để thu hút, trọng dụng nhân tài lĩnh vực khoa học – công nghệ. Đồng thời, tiếp tục rà soát, sửa đổi và bổ sung nhằm tạo sự thống nhất trong chính sách pháp luật và đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện hạ tầng số, nền tảng số quốc gia. Thêm vào đó, cần hoạch định kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ nguồn nhân lực số “tinh hoa” đủ năng lực phục vụ cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước Ngoài ra, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức của Nhân dân về tính cấp thiết chuyển đổi số, nguồn nhân lực số./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2. Nguyễn Nhâm (2023), Phát triển nhanh nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 13 tháng 11 năm 2023; https://dangcongsan.vn/khoa-hoc/phat-trien-nhanh-nguon-nhan-luc-cho-chuyen-doi-so- 652065.html 3. Nhật Hạ (2022), Việt Nam đang thiếu 150 nghình nhân lực công nghệ thông tin; https://theleader.vn/viet-nam- dang-thieu-150-nghin-nhan-luc-cong-nghe-thong-tin-1652865622064.htm 4. Thanh Mai (2023), Phát huy lợi thế của thời kỳ cơ cấu dân số vàng, Báo điện tử Nhân dân ngày 23 tháng 4 năm 2023 5. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án nâng cao nhận thức phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số 6. Việt Đức (2022), Chuyển đổi số là động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, https://ttdn.vn/tin-tuc-su-kien/thoi-su- chinh-tri/chuyen-doi-so-la-dong-luc-thuc-day-doi-moi-sang-tao-61127 161
  5. 7. Vũ Phương Nhi (2022), Tránh đầu tư dàn trải, lãng phí trong chuyển đổi số; https://baochinhphu.vn/tranh-dau-tu- dan-trai-lang-phi-trong-chuyen-doi-so-102230128170539397.htm 8. Vũ Linh (2022), Thấy gì từ “làn sóng” công chức, viên chức nghỉ việc?; https://dangcongsan.vn/ban-doc/y-kien- ban-doc/thay-gi-tu-lan-song-cong-chuc-vien-chuc-nghi-viec-624065.html 162
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2