intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản trị rủi ro các tập đoàn tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa

Chia sẻ: Tưởng Bách Xuyên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Quản trị rủi ro các tập đoàn tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa" phân tích quản trị rủi ro là một trong những vấn đề sống còn của các nhà lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong các tập đoàn tài chính, công tác quản trị rủi ro càng được coi trọng, bởi cơ cấu tổ chức - hoạt động phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu do hiện tượng sở hữu chéo dẫn đến thiếu rõ ràng giữa người trực tiếp sản xuất kinh doanh với người giám sát. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản trị rủi ro các tập đoàn tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa

  1. QUẢN TRỊ RỦI RO CÁC TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA Đàm Thị Thanh Huyền Quản trị tài chính - Tài chính Ngân hàng Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Quản trị rủi ro là một trong những vấn đề sống còn của các nhà lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong các tập đoàn tài chính, công tác quản trị rủi ro càng được coi trọng, bởi cơ cấu tổ chức - hoạt động phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu do hiện tượng sở hữu chéo dẫn đến thiếu rõ ràng giữa người trực tiếp sản xuất kinh doanh với người giám sát. Chính vì vậy vấn đề quản trị rủi ro rất cần thiết đối với các tập đoàn tài chính Từ khóa: quản trị rủi ro, tập đoàn tài chính Abstract Risk management is one of the vital issues of leadership, corporate governance, especially in the context of globalization. In financial groups, risk management is concerned because of their complex operation structure. The cause is mainly due to the phenomenon of cross ownership leads to a lack of clarity between the direct producer with the supervisor. Therefore, risk management is essential for financial groups Key word: risk management, financial group 1. Đặt vấn đề Trên thế giới hiện nay, các tập đoàn tài chính đã trở thành một bộ phận quan trọng trong lĩnh vực tài chính. Các tập đoàn này là sự kết hợp giữa ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm trong một tổ chức. Mức độ liên ngành đã được thúc đẩy bởi xu hướng toàn cầu hóa, xóa bỏ các trung gian và bãi bỏ nhiều quy định. Sự kết hợp giữa các lĩnh vực hoạt động khác nhau, đặc biệt là giữa ngân hàng và bảo hiểm trong một tổ chức đã tạo ra thách thức mới cho cả hai trong công tác quản trị rủi ro. Tập đoàn tài chính là một nhóm các công ty liên kết với nhau để hoạt động trong một lĩnh vực tài chính. Một cách hiểu khác về tập đoàn tài chính là một nhóm các công ty cùng tham gia vào các hoạt động tài chính nhưng hoạt động độc lập với nhau bởi các quy định của pháp luật. Nhóm G10 đã đưa ra định nghĩa về tập đoàn tài chính như sau: “Bất kỳ nhóm các công ty dưới sự kiểm soát chung có hoạt động độc quyền bao 399
  2. gồm hoạt động cung cấp các dịch vụ quan trọng thuộc ít nhất hai lĩnh vực tài chính khác nhau (ngân hàng, chúng khoán và bảo hiểm)”. Ở Việt Nam, tập đoàn tài chính có thể hiện diện dưới các hình thái sau đây: (i) Tập đoàn mà trong đó ngân hàng là công ty mẹ thành lập các công ty con, công ty liên doanh, liên kết để hoạt động sang các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi quản lý của cơ quan giám sát ngân hàng. (ii) Tập đoàn tài chính là một nhóm những công ty dưới sự kiểm soát của một công ty mẹ tiến hành hoạt động chủ yếu trong 3 lĩnh vực là bảo hiểm, ngân hàng và chứng khoán. (iii) Tập đoàn hoạt động đa ngành nghề: nghĩa là lĩnh vực kinh doanh của tập đoàn này gồm cả lĩnh vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán) và lĩnh vực phi tài chính (xây dựng, thương mại, đóng tàu,..). Hiện tại ở Việt Nam, mô hình (i) đã và đang tồn tại rất phổ biến ví dụ như Vietcombank, BIDV, Agribank, Vietinbank, ACB,… Mô hình (ii) điển hình là tập đoàn tài chính Bảo Việt. Mô hình (iii) tồn tại một cách không chính thức nhưng tương đối phổ biến ví dụ như Tập đoàn Đại Dương, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (trong đó có PG Bank là thành viên của tập đoàn),… Mặc dù, các tập đoàn ngân hàng này chưa được thừa nhận về mặt pháp lý tại Việt Nam (chưa có tư cách pháp nhân), tuy nhiên, bản chất và hình thái hoạt động của những nhóm công ty này (ngân hàng mẹ và các công ty trực thuộc, công ty liên doanh, liên kết hoặc công ty mẹ kiểm soát công ty con là ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán) chính là hoạt động của tập đoàn ngân hàng. Trong công tác quản trị rủi ro ở các tập đoàn tài chính giả định rủi ro được đo lường đầy đủ. Nhưng trên thực tế vẫn còn sự khác nhau giữa đặc điểm hoạt động của ngân hàng và bảo hiểm trong các tập đoàn tài chính. Sự khác biệt này đã chi phối đến rủi ro đặc trưng mà các công ty phải đối mặt. Đối với các ngân hàng thì rủi ro tập trung chủ yếu ở rủi ro tín dụng, tiếp sau đó là việc phải đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và rủi ro hoạt động. Còn các công ty bảo hiểm, tập trung chủ yếu vào các rủi ro bảo hiểm, sau đó là sự xuất hiện những rủi ro về phía tài sản của họ. Để có thể quản trị tốt rủi ro ở toàn bộ tập đoàn tài chính, sự khác biệt trong ngành nghề kinh doanh của từng công ty cần được xác định và nếu có thể, nên nhất quán tất cả các rủi ro liên quan. 2. Phương pháp nghiên cứu Nhằm cung cấp thông tin về quản trị rủi ro tại các tập đoàn tài chính tại Việt Nam, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp dữ liệu thứ cấp từ các tập đoàn, kết hợp việc phỏng vấn chuyên gia ở các tập đoàn lớn; qua đó khái quát về các nhân tố 400
  3. ảnh hưởng đến quản trị rủi ro; từ đó đề xuất ra các biện pháp pháp quản trị rủi ro tại các tập đoàn tài chính 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tại các tập đoàn tài chính Theo Stephen Wagner, chuyên gia hàng đầu về quản trị rủi ro: “Hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro, nhưng cũng nhiều cơ hội để trụ vững và phát triển cho người biết nắm bắt”. Hay nói cách khác rủi ro là một sản phẩm phụ tất yếu của mọi hoạt động. Các tổ chức không thể loại trừ hoàn toàn các rủi ro. Rủi ro của doanh nghiệp (DN) là thiệt hại do những nhân tố khó kiểm soát, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu của DN (mục tiêu lợi nhuận, thị phần, thương hiệu, văn hóa DN, an sinh xã hội…). Quản trị rủi ro là tổng thể những giải pháp mà bộ máy quản trị DN cần phải tiến hành nhằm phát hiện, phòng ngừa hoặc làm giảm các thiệt hại khi có rủi ro. Như vậy, rủi ro gắn liền với lợi ích. Trong kinh doanh, thường thì rủi ro cao sẽ mang lại lợi ích cao, tuy nhiên trong một số trường hợp rủi ro cao sẽ không mang lại lợi ích thậm trí còn thua lỗ, phá sản. Quản trị rủi ro không chỉ bảo vệ tài sản mà còn giúp gia tăng giá trị và đem lại cơ hội cho DN phát triển. Việc xác định các rủi ro, đo lường, định lượng mỗi rủi ro một cách chính xác và toàn diện trên cơ sở liên tục điều chỉnh và phản ánh những thay đổi đó trong các quyết định quản lý là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các nhà quản lý các cấp. Các DN không thể loại trừ hoàn toàn các rủi ro mà cần phải tìm hiểu các rủi ro mà họ phải đối mặt, sau đó cần xác định khả năng tự quản lý rủi ro trong nội bộ DN và thiết lập các giải pháp phòng ngừa tối ưu để hạn chế các rủi ro cao hơn, ngăn ngừa và giảm thiểu các tổn thất nghiêm trọng, nâng cao hiệu quả hoạt động và tiết kiệm chi phí. Việc xác định rủi ro phải phân tích dự đoán các nhân tố từ trong DN (internal) hay các nhân tố bên ngoài DN (external). Cụ thể các nhân tố bên ngoài như môi trường kinh doanh,dòng chảy thông tin, các quy định của pháp luật về thuế, phí, hải quan, lao động…; các dự báo về tốc độ tăng trưởng phát triển của ngành, nhu cầu, thu nhập bình quân đầu người, GDP…; yếu tố chính trị; sự biến động về giá, tỷ giá…. Các nhân tố bên trong như chi phí phá sản, các quy trình, quy định nội bộ trong DN, đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong DN… Sau đây ta đi phân tích một số nhân tố chính ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro của doanh nghiệp là: Dòng chảy của thông tin; các loại thuế; chi phí phá sản; những vấn đề phát sinh từ việc ký kết hợp đồng giữa các công ty và các nhà đầu tư; và những sai lệch do công tác quản lý không hoàn hảo được ký kết giữa nhà quản lý và cổ đông. Thứ nhất, nhân tố đầu tiên hết sức quan trọng là tại sao những nhà quản lý của một công ty thích đầu tư vào một hệ thống quản trị rủi ro mang tính toàn cầu, đó là vì 401
  4. dòng chảy thông tin của một hệ thống như vậy là có thể giúp cho các nhà quản lý quản trị được rủi ro của các công ty mình, cho phép nhà quản trị đưa ra những quyết định tốt hơn về vấn đề đầu tư trong điều kiện khan hiếm về vốn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu. Thứ hai, là nếu hệ thống thuế tiến bộ, đó là một sự khuyến khích để giảm tối đa số thuế thu nhập phải nộp ( theo quan điểm của 2 nhà khoa học Smith và Stulz - năm 1985). Quản trị rủi ro có thể làm giảm gánh nặng về thuế. Khi thu nhập ổn định cũng đồng nghĩa với việc khả năng vay nợ của một công ty sẽ tăng lên, vì khả năng phá sản sẽ được giảm đi và từ đó các chủ nợ sẽ yêu cầu bảo hiểm rủi ro thấp đi. Khi lãi suất thanh toán được khấu trừ, điều này vừa giúp cho việc tăng lá chắn thuế và cũng giữ được nguồn cung cấp về nợ cho cho các công ty có nhu cầu vay vốn. Thứ ba, sự tồn tại của chi phí phá sản: Kỳ vọng cuả ban quản trị về nguy cơ phá sản sẽ kết hợp với những khoản chi phí, điều này sẽ dẫn đến thiếu vốn cho hoạt động đầu tư. Quản trị rủi ro sẽ làm giảm sự biến động của thu nhập, từ đó dẫn tới chi phí phá sản thấp hơn dự kiến so với những khoản chi phí thực tế đầu tư vào đó. Thứ tư, là thông tin không đối xứng khi ký kết hợp đồng giữa các công ty với các nhà đầu tư sẽ làm phát sinh những vấn đề trước hoặc khi ký kết hợp đồng. Trước khi ký kết hợp đồng, một công ty nói chung sẽ có thông tin về chất lượng tín dụng của thị trường, nếu sự bất đối xứng về thông tin được khắc phục sẽ giúp cho một công ty lựa chọn được dự án đầu tư có hiệu quả nhất mà không phải là thực hiện tất cả các dự án có giá trị hiện tại dòng dương (theo Myers và Majluf năm 1984). Điều đó cũng tương tự như cuộc chạy đua giữa các cổ đông cũ và mới, nếu đo lường chính xác độ rủi ro và lợi nhuận thì có thể thuyết phục nhà đầu tư tài chính bỏ vốn vào công ty. Thứ năm, những quyết định về đầu tư có thể bị sai lệch và việc quản trị rủi ro lúc này rất hữu ích, đó là vì sự bất đối xứng về thông tin giữa một bên là các nhà quản lý công ty và một bên là chủ sở hữu công ty. Đó là sự khó khăn cho các chủ sở hữu để đánh giá khả năng hoặc nỗ lực các nhà quản lý. Quản trị rủi ro chính xác và minh bạch sẽ dễ dàng hơn cho các cổ đông trong việc đánh giá công tác quản lý công ty. Cân nhắc thuế, chi phí phá sản và các hình thức khác nhau của thông tin bất đối xứng có thể tạo ra hành vi bảo hiểm rủi ro để tăng thêm giá trị cho các bên liên quan. Vì vậy công tác quản trị rủi ro sẽ hạn chế những biến động này mà không làm giảm giá trị của các bên liên quan. 4. Biện pháp quản trị rủi ro trong các tập đoàn tài chính Do đặc điểm mô hình tổ chức, sự phức tạp phạm vi hoạt động…nên các tập đoàn tài chính phải đối diện với nhiều rủi ro. Rủi ro này có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nhưng 402
  5. cũng có thể không xảy ra, chúng có thể xảy ra riêng lẻ đối với từng doanh nghiệp trong tập đoàn, nhưng đôi khi một vài rủi ro có thể đồng thời xảy ra. Mức độ tác động của các rủi ro cũng không giống nhau trong những không gian và thời gian khác nhau, trong những doanh nghiệp khác nhau. Trong số các loại rủi ro có những rủi ro hoàn toàn thuộc về khách quan nhưng cũng có rủi ro đến từ yếu tố chủ quan của doanh nghiệp. Song tất cả các rủi ro đều có một điểm chung là dẫn đến thiệt hại về tài chính cho tập đoàn. Để quản trị rủi ro trong các tập đoàn tài chính hiệu quả, cần phải có một số biện pháp sau: Thứ nhất, nhận dạng rủi ro. Một chính sách quản trị rủi ro hiệu quả cần phải nhận diện đầy đủ các nguy cơ rủi ro có thể đến với tập đoàn. Dựa vào các nhân tố đã phân tích ở trên ta có thể nhận dạng rủi ro cho từng doanh nghiệp rồi tổng hợp cho cả tập đoàn. Việc nhận diện rủi ro cần được tiến hành liên tục trong suốt quá trình triển khai kế hoạch, phương án kinh doanh của tập đoàn. Rủi ro mà các tập đoàn tài chính đối diện không hoàn toàn giống nhau về loại hình thức và mức độ tác động. Song phương pháp nhận diện rủi ro thì về cơ bản là không khác nhau. Việc nhận diện rủi ro không đơn giản là nêu tên loại rủi ro mà cần phải mô tả và lượng hóa được rủi ro. Cụ thể phải chỉ rõ khi triển khai kế hoạch tập đoàn tài chính phải đối diện với những loại rủi ro nào, do nhân tố nào tác động. Phải lượng hóa được khả năng thiệt hại rủi ro gây ra theo nhiều kịch bản khác nhau. Thứ hai, đo lường rủi ro thường được sử dụng trong các ngành nghề kinh doanh khác nhau trong một tổ chức tài chính. Đó là việc sử dụng mô hình Value at risk (Var) rất phổ biến ở các ngân hàng. Nội dung mô hình như sau: - Xác định kỳ vọng toán của thu nhập đầu tư (ER) - Xác định phương sai, độ lệch chuẩn của thu nhập đầu tư - Dò tìm sai lệch so với thu nhập đầu tư mục tiêu (BR) - Ước lượng khả năng thua lỗ - Xác định Value at Risk Var lần đầu tiên được giới thiệu trên sàn giao dịch của các ngân hàng đầu tư nhưng hiện nay đang được sử dụng rất rộng rãi trong các lĩnh vực khác. Tùy thuộc vào loại rủi ro được đo lường, các nhà quản trị có thể sử dụng các phương pháp Var (Value at risk), Earning - at risk, hoặc các phương pháp khác để đánh giá mức độ rủi ro. Các phương pháp đo lường được tiếp cận từ những công ty riêng biệt sau đó mới tổng hợp cho cả tập đoàn và ảnh hưởng của nó trên các tập đoàn tài chính như là một sự tổng thể đã được mô hình hóa riêng. Từ việc phương pháp đo lường đã được thiết 403
  6. kế với các nền tảng khác nhau như vậy, đến đo lường rủi ro chung của cả tập đoàn là một thách thức lớn. Bên cạnh đó việc đo lường một cách chính xác các loại rủi ro không những giúp các công ty đưa ra các quyết định hợp lý mà còn có thể tổng hợp tất cả các rủi ro có liên quan đối với tập đoàn. Vì vậy đối với việc đo lường rủi ro các tập đoàn tài chính phải làm theo những những bước sau: đầu tiên giai đoạn đánh giá được cần phân loại rủi ro theo từng lĩnh vực. Thứ hai là phải xác định một cách chính xác lợi nhuận đạt được của công ty, đó là điều cần thiết đối với việc đo lường rủi ro. Thứ ba, một tần suất hợp lý để tính toán vốn kinh tế là gì? Lý thuyết cho chúng ta biết rằng đối với mỗi một khoản đầu tư cá nhân, một công ty cần tính toán tất cả các thông số liên quan đến khoản đầu tư đó, vì các mục đích thực tế thì điều này là không khả thi vì các thông số thường được xác định theo định kỳ. Cuối cùng, trong nhiều lĩnh vực có nguy cơ rủi ro thì các phương pháp đo lường mới liên tục phát triển, vậy thì việc lựa chọn được phương pháp đo lường phù hợp cũng là vô cùng quan trọng. Thứ ba, kiểm soát rủi ro. Cần xây dựng được một quy trình kiểm soát rủi ro trong tập đoàn tài chính mà trước hết cần thiết lập mục tiêu kiểm soát tài chính của tập đoàn theo đó mục tiêu kiểm soát là những mốc mà các hoạt động tài chính của tập đoàn cần đạt được. Các mục tiêu này thường là các chỉ tiêu phản ánh về mặt định tính hay định lượng. Tuy nhiên, cần lượng hóa các tiêu chuẩn định lượng như tổng doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư... Đồng thời, thiết lập được các hệ thống giám sát, đánh giá hoạt động tài chính cũng như dự báo và kiểm soát được rủi ro các hoạt động tài chính để có các biện pháp ứng phó linh hoạt. Thiết lập hệ thống thông tin quản trị thông suốt và hệ thống giám sát hữu hiệu từ các bộ phận sản xuất kinh doanh đến ban giám đốc, hội đồng quản trị và cơ quan chuyên trách chủ sở hữu; thiết lập hệ thống giám sát nội bộ hữu hiệu, gồm giám sát tài chính, giám sát hoạt động kinh doanh và giám sát, đánh giá rủi ro theo sát các nguyên tắc và thông lệ quản trị tốt đã được quốc tế thừa nhận. Quy trình kiểm soát tài chính cần chỉ rõ đơn vị đầu mối thực hiện kiểm soát tài chính cũng như các đơn vị, tổ chức tham gia phối hợp kiểm soát tài chính trong tập đoàn kinh tế. Quy trình cần nêu rõ trách nhiệm của từng chủ thể thực hiện kiểm soát trong tập đoàn. Cần lưu ý rằng kiểm soát tài chính là kiểm soát sự luân chuyển và sự sinh sôi đồng vốn, hay nói cách khác là tính hiệu quả của vốn đầu tư vào công ty con chứ không phải kiểm soát công việc của giám đốc các công ty con. Đặc biệt, hoạt động kiểm soát muốn đạt hiệu quả, người được giao trọng trách kiểm soát phải hội tụ được một số phẩm chất quan trọng như: Phải am hiểu ngành, nghề. Ví dụ, kiểm soát tuân thủ thì phải am hiểu về luật lệ, kiểm soát về tài chính thì phải có chuyên môn kế toán - tài chính hoặc công ty hoạt động về dầu khí thì phải có 404
  7. kiến thức về lĩnh vực dầu khí…; Phải có linh cảm nghề nghiệp, phát hiện ra sai sót. Phải khách quan (tôn trọng sự thật). Muốn khách quan thì cần phải độc lập (về kinh tế, quan hệ, công việc…). 5. Kết luận Hiện nay hệ thống quản trị rủi ro của hầu hết các công ty được xây dựng trên mô hình mô - đun, điều quan trọng là phải có một sự phân loại bao gồm tất cả các loại rủi ro, từ đó có một mô - đun cho mỗi bộ phận có nguy cơ rủi ro sẽ được phát triển. Việc tồn tại cách phân loại như vậy sẽ khiến cho tất cả các loại rủi ro trong các ngân hàng cũng như các lĩnh vực bảo hiểm được. Khi nhà quản trị có một cái nhìn đầy đủ về những rủi ro có thể gặp phải, đó là cơ sở để xây dựng chương trình quản trị rủi ro. Mục tiêu quản trị rủi ro có thể đạt được bằng ba cách sau: Một công ty có thể điều chỉnh các hoạt động riêng rẽ hoặc cả quá trình; công ty có thể điều chỉnh cơ cấu vốn của mình và cuối cùng là tự bảo hiểm trực tiếp (sử dụng một công cụ tài chính hoặc hợp đồng bảo hiểm), những hoạt động này không loại trừ lẫn nhau mà chính là bổ sung cho nhau. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Minh Kiều (2009), Quản trị rủi ro tài chính, NXB Thống kê. 2. Jaqueline jeynes (2002), Risk management 10 principles. 3. Giải pháp áp dụng việc giám sát hợp nhất đối với an toàn hoạt động của các Tập đoàn tài chính tại Việt Nam. 4. < http://www.nfsc.gov.vn/en/dinh-che-tai-chinh/tap-doan-tai-chinh> 405
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2